favorites
Shopping Cart
Search
Vitanova
Prev
Hạ 2025
Next

Trở thành

03/08/2025 10:17

Viết về vua Gia Long, Tạ Chí Đại Trường kể rằng thời trẻ Nguyễn Ánh đã học được tính nhẫn nhục; vua Gia Long, sử gia bình luận, là một Nguyễn Ánh được lập thành trong biến cố, vào buổi đầu loay hoay tồn tại đã phải trông đợi rất nhiều ở những người theo ông. Ở một chương khác, về những ngày đầu của triều đại nhà Nguyễn ở Gia Định, Tạ Chí Đại Trường kể lại cuộc giành giật linh hồn của Hoàng tử Cảnh: Nguyễn Ánh phải lạy thay con trước bàn thờ tổ tiên và cảm thấy ngượng với triều thần khi Hoàng tử Cảnh - sau bốn năm tuổi thơ sống bên cạnh Giám mục Bá Đa Lộc - ngoài Thiên Chúa nhất định không chịu lạy bất cứ ai đã qua đời; duy chỉ có bà Thái hậu hiểu rằng chẳng qua cậu chưa được giáo dục phong tục... Rốt cuộc bà Thái hậu đã đúng. Hai năm sau đó, sử gia kể, Cha Bá Đa Lộc hoảng hốt viết thư báo động về việc cậu Hoàng tử - ở giữa một triều định ngoại đạo, theo cái nhìn của giáo sĩ Công giáo, giữa các viên Thượng thư Satan phá hoại sự vô tội của cậu - đã trở về với khuôn khổ của dân tộc cậu. Sử gia đặc biệt nhìn thấy ở vua Gia Long một sự nhẫn nhục lớn trước thời cuộc, trước triều thần và trước cả dân tộc của mình. Không phải làm vua, mà trở thành vua mới là kinh nghiệm của ông; ông cũng hiểu rằng không thể áp đặt cho dân tộc này bất kỳ thần thánh nào không xuất phát từ bản thân nó, vốn còn đang trong quá trình loay hoay tìm cách tồn tại - cũng giống như chính bản thân ông. Nguyễn Huy Thiệp - trong thời đại không có vua nhà văn đã viết về các vị vua - cũng nhìn thấy ở vua Gia Long một hình ảnh lặp lại của Hoàng Đế Hán Cao Tổ Lưu Bang (trong Kiếm sắc, cặp Nguyễn Ánh-Đặng Phú Lân chính là sự lặp lại của Lưu Bang-Hàn Tín) và cũng để cho vị vua ấy mang một phẩm chất tương tự cách nhìn của Tạ Chí Đại Trường: chịu được nhục trước cả sứ mệnh đế vương của mình; nhà vua hiểu rằng số phận ngẫu nhiên giao cho mình đứng trên đỉnh cao nhất và không dám phá vỡ trật tự ấy; ở một truyện khác nhà văn lại để vua Gia Long thốt lên rằng sứ mệnh đế vương thật là sứ mệnh khốn nạn, chỉ được cao cả chứ không thể đê tiện. Ở Vàng lửa, khi kể chuyện vua Gia Long đi săn, Nguyễn Huy Thiệp cho thấy nhà vua ý thức rõ về sự trở thành của mình: vốn giỏi nhập vai mỗi khi ra trước công chúng, nhà vua ngồi rất thẳng trên lưng ngựa và trông rạng rỡ khác hẳn vẻ cau có thường ngày; nhưng quan trọng hơn, ông biết rõ người ta thả thú ra những nơi nào ông đi đến. Thể kỷ 20 chứng kiến sự kết thúc những nền quân chủ cuối cùng: nếu kết cục Thế chiến thứ hai, theo cách gián tiếp, dẫn đến việc chính thức chấm dứt triều Nguyễn, thì Thế chiến thứ nhất đã chấm dứt, một cách trực tiếp, triều đại nhà Habsburg trị vì Đế chế Áo-Hung. Nhưng trong cả hai trường hợp, cũng như ở bất kỳ cuộc suy tàn không thể tránh khỏi nào, dường như có thứ gì đó đã lơ lửng trong không khí (với triều Nguyễn mọi sự rõ ràng hơn một chút khi chính quyền bảo hộ đã can thiệp từ lâu); và cả hai trường hợp đều có các nhà văn miêu tả các vị vua đi săn: trong Hành khúc Radetzky của Joseph Roth, Hoàng đế Franz Joseph Đệ nhất - cũng đã già và thích giấu trí năng của mình đi dưới vẻ bên ngoài của sự đơn giản rất thích hợp cho một vị quân vương - biết một cách hoàn hảo rằng người ta dẫn con mồi đến trước tầm súng của mình.

Xuân của Bruno Schulz mở đầu với tình trạng thế giới bị bao trùm hoàn toàn bởi Franz Joseph Đệ nhất - lúc này đã trở thành một hình ảnh cứng nhắc. Đối với Schulz, sự thống trị ấy dường đóng kín mọi đường chân trời và khiến vạn vật bị cầm tù trong một tồn tại đồng dạng và hạn hẹp, không còn hy vọng nào cho ảo tưởng và tư tưởng lãng mạn. Nhưng Hoàng đế - người đảm bảo giữ nguyên sự đồng dạng buồn tẻ - rồi cũng không thể che khuất hoàn toàn quyền năng vô biên của Chúa - vị lãnh tụ dị giáo báng bổ Hoàng đế bằng cách hé lộ vô vàn khả năng khác của tồn tại. Nói cách khác, thời suy tàn của Đế chế, vốn được mong chờ từ lâu, đã đến.

Tuy nhiên không phải tất tật người Do Thái ở vùng Đông Galicia đều có chung tình cảm ấy. Galicia vốn là nơi đa dạng sắc tộc nhất trong các vùng lãnh thổ của Đế chế và luôn luôn xảy ra xung đột, chủ yếu giữa người Ba Lan và người Ruthenia ở phía Đông. Chưa kể đến những cuộc tàn sát người Do Thái Đông Âu, vốn luôn trung lập, ở vùng biên giới bởi người Ba Lan và Ruthenia ngay sau khi chế độ quân chủ vừa tan rã cuối Thế chiến thứ nhất, và trong khi một thời kỳ khủng bố và đàn áp người Do Thái vẫn đang diễn ra ở nước Nga láng giềng, phải thừa nhận rằng những người đồng hương của họ ở miền Đông Galicia, dưới sự cai trị của Franz Joseph Đệ nhất, đã được hưởng một thời kỳ tương đối yên bình. Trong Hành khúc Radetzky của Joseph Roth, Hoàng đế, vào những năm cuối của nền quân chủ, đã có một chuyến viếng thăm bất ngờ đến vùng biên giới của Đế chế để tham gia các ma nớp, bất chấp tình hình căng thẳng tại Wien mà những đảng phái gây ra và khái niệm Quốc gia khi ấy đã len lỏi vào các sắc tộc thiểu số vốn rất phức tạp trong Đế chế của ngài. Tại đây những người Do Thái đến gặp và quỳ rạp trước Hoàng đế, và chỉ riêng ngài mới hiểu được tiếng nói của họ. Sự thực đúng là người Do Thái Đông Âu vào thời đó phần lớn dành một sự tôn kính lớn cho vị Hoàng đế Áo, họ chưa bao giờ bị xua đuổi đồng loạt khỏi lãnh thổ của đế chế Áo-Hung, bất kể đó rất có thể là do sự cai trị đầy khiếm khuyết được vận hành tại một Đế đế chắp vá đã tạo ra các kẽ hở mà người Do Thái Đông Âu luôn biết cách sống len lỏi vào, và ở đó chính quyền không quá cứng nhắc như ở Phổ hay hà khắc với người Do Thái như ở Nga. Roth nhiều lần nói, trong các tiểu thuyết hoặc tiểu luận của mình, rằng khi con người vẫn còn quan trọng hơn quốc tịch thì nền quân chủ vẫn còn có thể trở thành tổ quốc cho tất cả mọi người.

Điều lạ lùng là mặc dù có hai cái nhìn trái ngược về nền quân chủ Áo-Hung và sự cai trị của triều đại Habsburg, cũng như sẽ có hai số phận rất khác nhau - một người về sau được biết đến như một nhà báo và nhà văn Áo viết tiếng Đức trong khi người còn lại, không hề có chủ ý, được xem là nhà văn Ba Lan - Joseph Roth và Bruno Schulz, chỉ cách nhau hai tuổi, không sống xa nhau lắm. Họ cùng xuất thân từ các cộng đồng người Do Thái Đông Âu, cụ thể là ở vùng Đông Galicia; so với Lemberg thì Drohobych nằm ở phía Tây còn Brody nằm ở phía Đông, giáp biên giới Nga. Họ cũng đều có một quãng ngắn thời trẻ đi học tại Lemberg. Tại thành phố khi ấy chủ yếu dạy tiếng Ba Lan trong trường đại học này, Joseph Roth, vốn thành thạo việc nói và viết tiếng Đức dù lớn lên trong vùng sử dụng hỗn hợp cả tiếng Ukraina, Ba Lan và Yiddish, bỏ dở việc học và chuyển đến Wien để tiếp tục. Bruno Schulz thì chậm hơn, dù có anh trai phục vụ trong quân đội Đế chế và một vài người họ hàng khác đã đến Wien lập nghiệp từ lâu, rốt cuộc cũng đến Wien, nhưng theo lối tị nạn khi Thế chiến thứ nhất nổ ra ở Galicia, và còn phải đi vòng qua ngả Hungary. Schulz chủ yếu sống tại Wien nhờ trợ cấp dành cho người tị nạn chiến tranh và lui tới nơi dưỡng bệnh cho đến khi Đức và Áo-Hung đẩy lùi quân Nga khỏi vùng biên giới; sau một năm, ông trở về Drohobych, khi này cửa hiệu và căn nhà tập thể nơi gia đình ông sống ở quảng trường chợ đã bị quân Nga phá hủy, còn người cha thì đã qua đời. Schulz sẽ còn trở lại Wien những quãng ngắn sau này trước khi kết thúc trong trại tập trung ở quê hương.

Thế kỷ 20, ngay sau sự sụp đổ của những đế chế cuối cùng lại tiếp tục được thấy những chuyển dịch kỳ lạ nơi lãnh thổ các quốc gia. Sau khi Đế chế Áo-Hung tan rã năm 1918, vùng Đông Galicia, trong đó có Lemberg và những vùng xung quanh như Drobych và Brody, trở thành nước Cộng hòa Nhân dân Tây Ukraina; năm 1923 nó lại được quốc tế công nhận là một phần của nước Cộng hòa Ba Lan. Tiếp đó khu vực này trong Thế chiến thứ hai lần lượt bị chiếm đóng bởi Liên Xô, Đức, rồi lại Liên Xô, cuối cùng trở thành một phần chính thức của Ukraina.

Joseph Roth thì đã kịp trải qua vài tháng ở Wien trước chiến tranh, và đây là một kinh nghiệm quan trọng trong đời ông. Bất chấp nhiều xung đột sắc tộc và khiếm khuyết của nền quân chủ, thành phố này, dưới thời nhà Habsburg trị vì, có nghĩa là thế giới văn minh và là nơi đầy hứa hẹn đối với những người Do Thái Đông Âu giống như Roth, vốn trải qua thời thơ ấu giữa những thị trấn xám xịt và ngập bùn - chính là vùng biên giới phía đông Đế chế nơi thiếu úy Karl-Joseph Trotta đến đầu quân mà Roth đã miêu tả trong Hành khúc Radetzky. Roth khởi đầu là một nhà thơ, thần tượng nền văn hóa tiếng Đức, và ông tìm thấy ở Wien - nơi lần đầu ông được tiếp xúc trực tiếp với thế giới phương Tây, và khi ấy người dân của thành phố trung tâm Đế chế, chỉ vài tháng trước khi tai họa ập đến, vẫn còn đang tận hưởng cuộc sống trong hòa bình - một thời kỳ hoàng kim của văn chương nghệ thuật cùng với các lý tưởng cấp tiến đang thời kỳ nở rộ; ngoài ra, bất chấp sự xa cách mà Roth cảm thấy đối với người Áo hay Đức cũng như sự hẹp hòi của trường đại học ở Wien, rất nhiều cơ hội được mở ra một người Do Thái Đông Âu như Roth khi ở đó có một cộng đồng người Do Thái rất lớn, và một số lượng lớn những cá nhân tài năng ở Wien, trong các lĩnh vực báo chí, sân khấu và xuất bản, là người Do Thái. Wien đối với Roth dường như là một tổ quốc của tinh thần, và nước Áo sẽ là trung tâm của cả cuộc đời ông: đó là nơi ông hướng đến từ khi còn trẻ cho tới những năm lưu vong tại Pháp cuối đời. Sự suy tàn của đế chế - một sự suy tàn không thể ngăn cản của trật tự theo thời gian - sẽ được tiểu thuyết gia Joseph Roth khám phá sau này trong Hành khúc Radetzky với nhân vật thiếu úy Karl-Joseph Trotta có cùng thế hệ với Roth; nhưng ngay khi vừa nổ ra, chiến tranh lại giống như một tai họa bất chợt mà một quyền năng vô hình nào đó đã đẩy những người ở thế hệ của ông vào, đúng như những gì thiếu úy Karl-Joseph chỉ lờ mờ hiểu được, hơn là một kết cục mà các dấu hiệu đã xuất hiện từ lâu nhưng không thể được nhận thấy bởi nhà thơ Joseph Roth. Một tình thế lạ lùng mà thế hệ của Roth mới gặp phải, như ông nói trong một tiểu luận, chỉ có những người giống như Roth mới trải qua kinh nghiệm gặp phải tai họa sau khi vẫn luôn luôn tin vào một nền hòa bình tuyệt đối, chiến tranh ập đến với sự tàn phá chờ sẵn những người vừa được chuẩn bị xong để sống. Và khi mà các thế hệ trước đã tìm thấy sự ổn định nối tiếp giữa tuổi thơ, tuổi trưởng thành và tuổi già, riêng thế hệ của ông mọi kỳ vọng đều bất chợt đảo lộn.

Nếu như Bruno Schulz đã tìm thấy cho mình nơi trú ẩn trong nghệ thuật, như Gombrowicz nói, Joseph Roth lại tìm thấy nó - dù đang ở trong thời đại của những tư tưởng cấp tiến, những dân tộc nhỏ cấu thành đế chế Áo-Hung đang tìm cách có được tiếng nói riêng với chủ nghĩa quốc gia đang thịnh hành, khoa học và kỹ thuật vẫn tiếp tục phát triển, công nhân đang đình công và đòi hỏi những quyền lợi con người - nơi nền quân chủ sắp kết thúc. Trong quyển tiểu sử Joseph Roth, David Bronsen đã dành một chương về thời kỳ ông gia nhập quân đội của đế chế trong Thế chiến thứ nhất. Thực hiện nghĩa vụ quân sự không phải là việc đương nhiên với Roth, theo như ghi nhận của Bronsen, bất chấp tình yêu từ sớm ông đã dành cho nước Áo; một mặt ông và các bạn vốn chuộng hòa bình, mặt khác, và về điều này họ phải cay đắng thừa nhận, quân đội của Đế chế khinh miệt họ, những người Do Thái và không đủ sức khỏe ra chiến trường. Nhiều lần Roth đã bị quân đội từ chối. Cuối cùng, sau hai năm, chiến tranh thì đã kéo dài và nỗi sốt ruột ngày càng tăng, trong khi các bạn đồng trang lứa đã đi lính, Roth cùng với người bạn nhà thơ của mình khi ấy quyết tâm gia nhập quân đội cho bằng được. Sau một vài sự nhờ vả họ được chỉ đến đơn vị dự bị đóng quân tại một thị trấn của Hungary để xin gia nhập, và lòng nhiệt thành của họ vẫn không hề lay chuyển khi, trước lời đề nghị giữ một vai trò ở hậu trường phù hợp với thể trạng yếu ớt thay vì ra ngoài mặt trận, cuối cùng họ được chấp nhận với những lý lẽ khăng khăng, rằng nơi duy nhất phù hợp cho các nhà thơ trong chiến tranh là phục vụ ở tiền tuyến, chỉ ở đó người ta mới học được về sự sống và cái chết...

Nhưng ở đây, điều quan trọng hơn cả mà Bronsen ghi nhận là xu hướng bịa đặt của Joseph Roth về cuộc sống quân ngũ và chức vụ sĩ quan mà ông thường kể với mọi người, với những bằng chứng cụ thể và thái độ không thể thành thực hơn. Cuộc sống quân ngũ rõ ràng không như mong đợi đối với những kẻ nhạy cảm, đó không gì khác ngoài cực hình: họ phải chịu áp lực của kỷ luật khắc nghiệt, những quát tháo và sỉ nhục, sự vụng về và thua kém mà họ không thể lảng tránh trước các đồng đội cứng rắn hơn. Nhưng những sự hà khắc này chỉ được biết qua những tìm hiểu gián tiếp của Bronsen vì chúng hoàn toàn không được Roth nhắc đến. Roth là một người bịa chuyện bẩm sinh, ông đã giăng ra cả một đám mây mờ những thông tin về mình. Khi đến Berlin ông đổi tên nơi xuất thân trong các loại giấy tờ, vì Schwaby hay Schwabendorf, tên thị trấn bên cạnh nơi ông sinh ra, giàu âm hưởng Đức hơn là Brody mà ông thấy gợi ngay đến vùng Galicia, nơi người Đức luôn nhắc đến kèm vẻ căm ghét hơn rõ rệt so với bất kỳ vùng nào khác; ông tạo ra lịch sử của mình như một đứa con ngoài giá thú; ông lập lờ về xuất thân của bà mẹ, vốn cũng sinh ra tại Brody, để bà trở thành một người Do Thái-Nga, hoặc Do Thái-Đông Slav; đặc biệt là người cha mà Roth chưa bao giờ gặp nhưng không phải là không biết chút tin tức nào đã được Roth thêu dệt thành rất nhiều hình thức khác nhau, đó thường là một người Áo, sĩ quan quân đội, viên chức hoặc lưu manh, đó là một bá tước Ba Lan hoặc một họa sĩ, đôi khi là một người Do Thái đã cải sang Công giáo, hoặc, với niềm tự hào rõ rệt, một người Do Thái chính thống Đông Âu (tức là giống như Mendel Singer của cuốn tiểu thuyết Job, cái nhìn của Roth phân biệt rõ ràng, người Do Thái phương Tây là những người đã di cư sang Tây Âu từ lâu và hầu hết đã đồng hóa, trong khi đó những người Do Thái phương Đông, chủ yếu ở vùng Galicia hoặc Nga, hầu hết là người Do Thái chính thống), trong khi sự thật thì cha của Roth là một người Do Thái bình thường ở Tây Galicia, và sự ra đời của Roth thì hợp thức theo luật Áo cũng như luật Do Thái. Những câu chuyện của Roth về quân đội và chiến tranh cũng mang hơi hướm bịa đặt tương tự như vậy, tuy có vẻ chân thành quyến luyến. Thay vì sự mỉa mai ghét bỏ như những bạn đồng ngũ khác, ông thường xuyên kể về các sĩ quan cấp trên như những nhân vật đẹp tuyệt phục vụ cho nền quân chủ; trong cuộc sống của quân nhân mà Roth kể lại trong các tiểu thuyết của ông, như Hành khúc Radetzky, người ta cũng khó mà tìm thấy một viên sĩ quan nào độc ác giữa những kẻ dường như lúc nào cũng vụng về trong bộ quân phục của họ. Trong khi đó những người được ông kể chuyện chỉ nhận thấy sự tự phụ thành thực của một người lính giỏi, một trung úy, và niềm say mê đối với bộ quân phục đúng theo nghĩa đen. Một bộ quân phục thì vô cùng quan trọng đối với chẳng hạn thiếu úy Karl-Joseph hay, phần nào đó kém quan trọng hơn nhưng rõ ràng là hoàn toàn khác biệt, bác sĩ Demant của Radetzky, trong bộ thường phục họ thoải mái để không là gì cả. Roth thường kể cụ thể về cuộc chiến mà các sư đoàn ông phục vụ, đôi khi ký tên dưới các bức thư với danh nghĩa cựu trung úy trong quân đội Áo-Hung, tuy nhiên rất có thể khi vừa viết thư rằng trận địa đang ở sát sạt bên cạnh, ông lại xuất hiện tại nhà hát ở Wien.

Việc tham gia chiến tranh rõ ràng đã không anh hùng như ông kể, và sự thật rằng trung úy tưởng tượng Joseph Roth đã xuất ngũ với tư cách một tình nguyện viên thì khó mà chấp nhận được với bản thân ông. Cấp bậc sĩ quan ấy như một cách để ông được đặt vào truyền thống của nền Quân chủ, bộ quân phục là một hình thức thật đơn giản, một sự trở thành, khiến bản thân Roth vững vàng hơn nhiều so với một nhà thơ Do Thái xuất thân miền Đông Galicia. Quân đội đối với Roth nghĩa là không cần phải phân vân nữa, ở đó gánh nặng ý thức về bản thân mà ông luôn luôn ghét bỏ được dỡ đi dễ dàng, và những gì được gọi là công lý, bổn phận, kẻ địch, mối nguy hiểm, lý tưởng, tổ quốc... tất cả đều chỉ phải mang một nghĩa.

Tình cảm của Joseph Roth đối với Đế chế sau khi trở về từ chiến tranh đã lung lay ghê gớm. Những gì quan sát được, trước hết tại Wien, và thế chỗ cho những gì vào thời điểm ông lần đầu đến thành phố trước đây đã gây ra niềm hân hoan được trở thành con người của thế giới, đối với Roth, là bầu không khí của suy tàn và mất trật tự, nhấn mạnh thêm thất bại của cuộc chiến với những yếu kém về đủ mọi mặt bị bộc lộ; nhưng mặt khác các giá trị tinh thần cũ, đã được đóng khung, gặp phải cái chết đột ngột lại không mất đi ngay sức mạnh của chúng. Con người nói dối ấy lại rất thành thực khi nghi ngờ sự nối dài của những gì gọi là giá trị nhân văn của thời đại cũ - niềm tin của thời thơ ấu gặp phải xung đột với những gì vừa tận mắt chứng kiến; nhưng trong khi nhận ra rằng quá khứ không có khả năng tiếp nối và tất cả phải được làm mới hoàn toàn, Roth cũng không để cho mình bị cuốn đi quá xa bởi những ý tưởng dân chủ cấp tiến, chủ nghĩa hư vô, chủ nghĩa dân tộc cực đoan hay ý tưởng về một siêu quốc gia. Trước hết, sự tan rã của nền quân chủ ngay lập tức chạm vào Roth. Vùng Galicia tiếp tục sự trở thành của nó với cuộc giao tranh giữa người Ba Lan, chiếm giữ thành phố Lemberg, và người Ukraina, đây là nhà nước cộng hòa Tây Ukraina, bao vây thành phố đóng quân ở những vùng lân cận, trong đó có cả thị trấn Brody quê hương mà Roth vừa tìm cách trở về được từ Wien; để tránh tham gia cuộc chiến Roth bỏ trốn nhưng rồi lại bị quân đội nhà nước Tây Ukraina chiêu mộ một lần nữa tại Tiệp Khắc, rốt cuộc ông cũng trở lại được Wien sau khi đã trốn đi qua ngả Hungary. Chuyến đi vòng này về sau sẽ được Roth đưa vào Die Flucht ohne Ende, một trong số các tiểu thuyết viết vào thời đầu sự nghiệp, tức trước khi Job xuất hiện, và tất tật đều có bối cảnh chính là thế giới mới hiện ra trước mắt những con người trở về sau chiến tranh. Thế giới ấy hút lấy họ như trong một giấc mơ; và trong khi chỉ mơ hồ nhận ra sự mất trật tự kia dường che giấu bản tính của sự vật, giống như Gabriel Dan trong Hotel Savoy - một hình ảnh của thế giới - họ bị cuốn đi bởi các sự kiện tình cờ. Gabriel Dan nhận thấy rằng không ai hoàn toàn tự nguyện sống ở Hotel Savoy, nỗi bất hạnh buộc chặt họ vào đó. Hotel Savoy là một cột mốc trên con đường trở về thế nhưng nó lại thuyết phục được người ta là họ đã đến nơi rồi, nó trở thành đích đến của một ảo tưởng đáng mơ ước, con người chịu mất đi những khả năng của tồn tại - những cái va li bị khóa - để được sống ở đó hoặc được ở lại lâu hơn. Dù vậy, thoát khỏi khách sạn là điều không hề dễ, và bản thân Gabriel Dan, lúc nào cũng quyết tâm bỏ đi khỏi đó nhưng hết lần này đến lần khác quyết định ở lại cho đến khi khách sạn bốc cháy trong cuộc nổi loạn.

Liftboy trồi lên cửa sổ mái khi khách sạn của mình bốc cháy, rõ là ông ta muốn ở lại hơn là thoát ra ngoài: người thân thuộc nhất của tòa nhà hẳn biết rằng lối thoát duy nhất là mặt đất. Hotel Savoy chỉ có tám tầng và chưa thể gọi đó là một Skycraper đúng nghĩa; Skycraper đầu tiên của Đức sẽ xuất hiện một năm sau khi Hotel Savoy xuất bản (1923), còn ở Áo là mười năm sau đó (khi Roth viết bài báo về Skycraper thì tòa nhà đầu tiên đang được xây dựng). Các tòa nhà sẽ cứ thế cao mãi lên, tuy vậy một vài vấn đề cơ bản của chúng, cho đến tận bây giờ, vẫn không cách nào giải quyết được, chẳng hạn con người vẫn bị đè bởi một cái trần nhà luôn cố sao cho thấp hết mức có thể; càng lên cao thì càng nhỏ lại, trong khi cái lõi càng phải lớn lên và choán nhiều chỗ hơn là những gì nhìn ở ngoài hình thức của nó bày ra; và điều quan trọng nhất, trong những đài tưởng niệm con người ấy, giống như Hotel Savoy, mặt đất vẫn là lối thoát duy nhất: lên càng cao chỉ có nghĩa là khoảng cách để thoát ra càng lớn. Và trong khi có những tầm nhìn rộng nhất, không ai nhìn thấy gì nữa.

Bởi vì, Roth nói trong Der Antichrist, chúng ta đã bị mù, trong khi đó những thứ không thể được nhìn thấy được kia vẫn chỉ sống động qua những cái tên - những nhãn dán. Trong một bài báo khác, cũng trong loạt bài về thành phố Berlin đang trong quá trình xây dựng, Roth nói rằng ông không thể phân biệt được các tòa nhà với nhau, một sự nhầm lẫn trước đây không thể xảy ra: quán rượu thì lại trông giống lò thiêu, một ngôi đền cổ điển chắc chắn sẽ là một nhà hát nhỏ, đá cẩm thạch thì đương nhiên phải là thạch cao... những mặt tiền của thời hiện đại khiến ông bất an, và những hiểu biết cũ, ông phàn nàn, đã trở nên vô ích, vì khi tưởng rằng đến được nhà ga mong muốn người ta nhận ra đang ở trong một rạp chiếu phim. (Nhưng dẫu sao Roth cũng không còn sống để thấy những tòa nhà sẽ lại được làm cho giống nhau thêm nữa bởi các tấm kính lớn, một ý tưởng rất đẹp được nó trình bày: phản chiếu bầu trời, tuy nhiên đó là những bầu trời méo; ý tưởng ấy của Mies van der Rohe, những tòa nhà phủ kính, thoạt đầu không được chấp thuận bởi Đức Quốc Xã và ông đành phải tìm sang Mỹ.) Trước khi thực sự viết tiểu thuyết - những cuốn tiểu thuyết đầu tiên của Roth trình bày quan sát cùng với bầu không khí thời đại hơn là chú trọng vào các nhân vật, họ khiên cưỡng với những ý được đặt vào mình (tuy nhiên có lẽ chính bởi vậy mà lại xuất hiện những viễn kiến đảo ngược kỳ lạ với người đương thời) - Roth đã viết báo để kiếm sống. Vào thời điểm vừa trở về ấy, nhà báo Joseph Roth mang một tâm thế chung của những con người sau chiến tranh: mong muốn thấu hiểu thời đại của mình, muốn nhập lại vào đó khi mà trước mắt toàn là các tan hoang, những cơn sốt các hoạt động vô trật tự, cùng với ký ức chẳng mấy tươi đẹp về nền quân chủ đã lụi tàn. Những ghi nhận về thời đại mới của Roth được trình bày theo một lối viết vượt ra khỏi khuôn khổ của báo chí thông thường: trong các bài báo ấy - vốn không thực sự có một nội dung cụ thể và thay vào đó là những suy ngẫm trước sự vật - tác giả muốn đi sâu hơn những gì mà con mắt của một người quan sát bắt gặp và người ta không mấy khi thu được ở những bài báo ấy thông tin cần thiết cho một tường thuật khách quan với đầy đủ thông tin và số liệu. Phong cách ấy không hẳn là hoàn toàn mới lạ đối với các tờ báo; chẳng hạn Alfred Polgar với hình thức nhỏ mà Roth làm việc dưới quyền trong ban biên tập khi vừa bắt đầu sự nghiệp viết báo; và trước khi Roth đến Berlin thì ở đây từng có một Robert Walser viết về những thứ nhỏ nhặt của đời sống ở đó, các sketch của Walser, luôn luôn ngập ngừng và biến mất trước khi trở thành bất cứ thứ gì quá rõ ràng, phần nào có nét tương đồng với những bài báo của Roth. Joseph Roth từ chối là một người quan sát thuần túy viết ra những bản báo cáo về thực tại, và thật kỳ lạ là nhà báo có biệt tài bịa đặt ấy lại trung thực với tâm hồn mình trong khi mọi thứ xung quanh đều dao động: ông hiểu rằng không thể áp đặt một idée fixe ngay từ đầu cho những sự vật mà dáng vẻ bên ngoài lung lay gợi ra theo lối đáng ngờ, chuyển động của chúng chỉ có thể được nhận ra bởi một phản ứng diễn ra từ bên trong.

Trước khi được viết ra, Roth nói, thế giới ta quan sát đã không còn như trước; trước khi kịp ghi lại một từ thì nghĩa của nó đã thay đổi. Nỗ lực nắm bắt thực tại, trong khi thường phớt lờ những dây xích và ròng rọc ẩn đằng sau vốn quyết định dáng vẻ thoáng chốc của bề ngoài, luôn bị đẩy trượt đi bởi sự gấp rút của các sự kiện, bởi nỗi háo hức trước sự dễ dàng đầy cơ bắp - hoặc ít nhất cũng được bảo đảm bởi nhiều máu và nước mắt - của những quan sát thuần túy sao chép và kịp thời hay những nhãn tên chỉ cần phải học thuộc, được tiếp sức bởi tiện nghi mà tiến bộ kỹ thuật mang lại. Trong Radetzky, Roth ghi nhận sự đảo ngược tác dụng của các bức ảnh: ảnh Hoàng Đế xuất hiện khắp nơi với ý muốn củng cố sự hiện diện của ngài, thoạt tiên nó đem lại một sự an ủi mơ hồ cho thiếu úy Karl-Joseph những ngày đầu binh nghiệp, nhưng khuôn mặt quen thuộc bị tầm thường hóa ấy rốt cuộc khóa chặt trí tưởng tượng của thần dân về ngài trong một khả năng duy nhất; trong khi đó bức tranh một họa sĩ vụng về vẽ ông nội của Karl-Joseph lại vẫn sống động trong tâm trí của người cháu thiếu úy mỗi khi anh ta cần phải lấy lại tinh thần. Rất dễ nghĩ rằng những người sống ở Áo có riêng một đặc quyền là viết về những tấm ảnh chụp và cái máy ảnh: Thomas Bernhard, thuộc vào thế hệ sau Joseph Roth, nói về cơn nghiện tầm thường gây ra bởi cái máy chụp, thứ bóp méo thực tại trong khi cố sức chụp lấy nó; một người Áo khác, Ingeborg Bachmann, cũng khởi đầu là một nhà thơ như Bernhard, trong Ba lối tới hồ đã để cho nhân vật chính của mình, một phóng viên ảnh chiến trường đầy năng lực và thành thực tin rằng mình và các đồng nghiệp đang làm điều đúng đắn - thức tỉnh thế giới, nhưng thực ra là quỵ lụy trước nó trên danh nghĩa phục vụ - với những bức ảnh họ gửi về từ chiến địa, gặp phải sự khinh miệt gây ngỡ ngàng, đối với công việc bất chấp tính mạng mà họ đang thực hiện, của một hậu duệ nhà Trotta - cú nháy mắt đến Joseph Roth - dường sống ở một thời đại khác, dù bản thân anh ta cũng không thể hiểu nổi thời của mình. Những cái máy ảnh, và máy quay cũng như máy ghi âm, cùng những hiểu biết chỉ có thể mỗi ngày một nhiều thêm về kỹ thuật và công dụng của chúng thúc đẩy ảo tưởng nắm bắt trọn vẹn thời đại. Nhưng sự thực là giờ đây tin tức - với sự trợ giúp của các phương tiện ngày càng đảm bảo tính xác thực và tức thời - đã đạt tới đỉnh cao suy tàn của nó, trừ phi ở đỉnh cao này nó còn có thể tự đặt cho mình một cái tên khác, không còn là tin tức nữa: nó tạo cho người ta một khoái cảm mỗi ngày có một cơn rùng mình đờ đẫn mới cho bữa sáng bởi thứ thời sự nó tạo ra, và như thế là đã ngược lại những hiểu biết của hôm qua, trong khi chắc chắn sẽ chẳng hề là nguyên nhân dẫn đến hiểu biết của ngày mai; vẻ căng thẳng giả vờ của chúng ở bất kỳ thời điểm nào cũng giống như thể thông báo thời điểm thế giới thay đổi, nhưng khi được gộp chung vào với nhau - chỉ cần một trí nhớ tầm thường nhưng trung thực - lại có thể trở thành một mớ lảm nhảm không đầu không cuối, như những câu không dấu chấm và chẳng có mục đích gì ngoài dọa cho sợ phát khiếp những kẻ mù và điếc.

Các tiểu thuyết ban đầu của Roth như là để biện minh cho tình cảnh không thể hòa giải của tác giả với thời đại hỗn loạn những hiểu biết mới và những ý đã trở thành lý tưởng; lần theo trật tự ngầm của nó, rốt cuộc các nhân vật của ông nhận thấy mình bị văng ra khỏi thế giới đã trở nên vô nghĩa. (Ở đó thấp thoáng những người Do Thái - đây chính là một chủ đề lớn của Roth, hay đúng hơn, một mặc cảm dài lâu mà rốt cuộc ông đã nhìn thẳng vào - những người như Bloomfield-Blumenfeld, đã đồng hóa một phần nhưng, vẫn giống như tổ tiên người Do Thái phía Đông di cư của họ, xem tổ quốc là bất cứ đâu trên con đường họ đi qua nơi người chết của họ được chôn, và cơn biến động của thời đại với những lý tưởng và cách mạng cùng với tiến bộ kia có là gì qua khóe mắt họ; chính bởi sự thờ ơ đầy kiêu ngạo ấy - chứ không phải nhún nhường như vẻ bề ngoài - mà, trong Những người Do Thái lang thang, Roth nói rằng nếu có một cuộc tắm máu, và như thế là hoàn toàn dựa trên kinh nghiệm, thì chắc chắn những người Do Thái sẽ phải là đích nhắm đầu tiên). Những nghi vấn về Chúa và trật tự đôi khi khiến xuất hiện các ngoại lệ: trong tiểu thuyết đầu tiên Roth không thừa nhận, Das Spinnennetz (Mạng nhện), Theodor Lohse, một sản phẩm của thời đại, và cũng trở về từ thế chiến, nhưng thay vì dành cho thế giới không thể hiểu được ấy sự khinh miệt hoặc một cuộc nổi loạn vặt, Roth để cho anh ta đi tìm quyền lực và sự tự chủ bằng cách áp đặt lên nó một trật tự mới với các lý tưởng anh ta chọn nhưng rồi mắc kẹt ở đó; trong một cuốn tiểu thuyết khác, Rechts und links (Tả và hữu), lại diễn ra sự đảo lộn kỳ lạ của hai nhân vật bị thúc đẩy bởi nỗi sợ và cơn khát mà vơ lấy các lý tưởng: một người ban đầu vốn ủng hộ Đức Quốc xã cuối cùng lại làm việc cho một tờ báo Do Thái, trong khi người kia, từng hăng hái hoạt động phản chiến và ủng hộ hòa bình trong các nhóm cách mạng, sau chiến tranh lại trở thành một chủ ngân hàng. Job lại là cả một bước ngoặt lớn của Joseph Roth; chưa kể đến thành công về mặt thương mại, đây là khi mọi sự bỗng nhiên hoàn toàn lộn ngược so với những tiểu thuyết trước đó: nếu như ngay từ đầu chấp nhận một vị Chúa chi phối hết mọi sự thì thế giới đối với anh ta sẽ như thế nào? Mendel Singer được Roth tạo ra theo hình mẫu một người Do Thái phương Đông - không chấp nhận bất kỳ trung gian nào giữa con người với Chúa, và đi Mỹ cũng chẳng đổi tên, trong khi con trai của ông thì có một quốc tịch mới và đi lính cho tổ quốc mới - và trái ngược với các nhân vật trước đây của Roth, chẳng bao giờ đặt câu hỏi về trật tự của mọi thứ: ông đi dọc theo các bờ của sự đa dạng liên tục thay đổi. Chính cái vẻ dường như là quá điêu luyện ở đó, lối kể chuyện như cổ tích của Roth - chỉ việc để cho các sự việc liên tiếp xảy ra mà không cần đi sâu hơn để xem xét nguồn gốc sự xuất hiện của chúng cũng như phản ứng chúng gây ra - khiến những điều vô lý của thế giới, ấy là không tính đến phép mầu lạ lùng ở cuối truyện, lướt qua êm xuôi một cách đáng ngạc nhiên; như thế lại rất phù hợp với cái nhìn thế giới của một người Do Thái phía Đông (chủ đề chính trong người Do Thái lang thang của Roth) vốn tin rằng không gì có thể xảy ra với một người ngoài ý muốn của Chúa. Và bởi lòng tin tuyệt đối ấy mà Chúa đã, hết sức tự nhiên, bị quy trách nhiệm khi Mendel liên tiếp gặp phải các bất hạnh; rốt cuộc Job cũng đến chỗ giao với những tiểu thuyết trước đó của Roth, con người không thể hòa giải với thế giới, dù lội thẳng vào đó hay chỉ lướt qua bên lề với ý thức hướng về một Chúa duy nhất. Dẫu sao thì niềm tin ấy đã cứu chữa Mendel Singer, sự phản bội không diễn ra: cơ bắp ông vẫn kính sợ dù tâm trí ông nổi loạn. Có gì là ngạc nhiên khi ân sủng Chúa ban lại được đo bằng đau khổ ngài bắt ông phải chịu; có chăng thì bởi ý về sự trừng phạt được gán cho những cái chết không phải của bản thân Mendel Singer vốn trừu tượng trong khi Menuchim - ân sủng - lại xuất hiện bằng xương bằng thịt.

Nhưng câu hỏi về thế giới, sau khi đổi góc nhìn như thế, vẫn còn nguyên. Nếu như những gì trước đó, kể cả Job, đều diễn ra khi sự đắm của thế giới đã hoàn tất, thì Hành khúc Radetzky, viết ngay sau Job, lại đi vào chính bản thân sự đắm ấy trước khi nó hoàn thành. Hai phát súng đã mở ra và khép lại sự huy hoàng của ba đời nhà Trotta. Ông nội của thiếu úy Karl-Joseph Trotta - trở thành người hùng trận Solferino bởi lãnh viên đạn đầu tiên - từ giã binh nghiệp sau khi bất bình trước những gì mà sự thật về hành động của ông trở thành, một mánh khóe của triều đình hòng kéo dài thời đại, trong sách giáo khoa cho trẻ con. Con trai ông, ngài tỉnh trưởng, hết sức trung thành với triều đình và với nhà vua, đến mức có thể nói chính ông đã trở thành một Franz Joseph. Mọi sự dường như kết thúc ở Karl-Joseph với viên đạn thứ hai, nhưng thế hệ của anh đã ở pha rơi xuống của một chuyển động đã hết sức bật. Bởi mối liên hệ ám ảnh với bức tranh của người ông, cũng như giai điệu của hành khúc Radetzky bất tử của tuổi thơ, anh thấy mình trơn tuột trong một thế hệ xa lạ với chiến tranh vì đã quá lâu tồn tại trong hòa bình; nhưng bản thân anh cũng thuộc về thời đại mới ấy, một thời đại vốn chẳng thể đảm bảo được thứ gì ngay ngắn, sự đứt gãy với thế hệ trước là điều không thể tránh khỏi. Trong khi những người cùng thời hiển nhiên xem việc tập trung vào binh nghiệp là điều lố bịch, thiếu úy lại muốn tìm đến cái thực của chiến trường và quân đội bằng cách đi ra vùng rìa của Đế chế, và ở nơi thị trấn ngập bùn - vùng phía Đông Galicia quê hương của Roth - sự chìm đắm của thế giới càng hiện ra rõ ràng hơn. Những ý hình thành từ đầu triều đại giờ đây đã sống lâu hơn bản tính của chúng: những bộ quân phục đã lớn hơn con người mặc nó, truyền thống danh dự trở nên lố bịch khi được thực hành máy móc; thủ tục hành chính thay vì thực hiện chức năng của nó lại trở thành một khối chặn đứng người ta lại, và chỉ nhờ lòng tin phi thường vào Hoàng đế và danh dự dòng họ thì ngài tỉnh trưởng mới vượt qua được để đến gặp nhà vua. Cả nhà vua cũng đã ở cuối sự trở thành của mình. Trong nhà ngài đi líu ríu nhưng khi ra phố lại rất biết cách làm cho đùi cứng lưng thẳng, và ngài điềm nhiêm vui thú với khoảng cách ở rất xa ngay khi đang nói chuyện với kẻ hầu cận. Bằng cái nhìn vào sự trở thành của họ, cũng như của toàn bộ những gì được nhắc đến Hành khúc Radetzky, Joseph Roth kể lại cuộc đắm của thế giới.

Khi viết Hành khúc Radetzky Joseph Roth đang trải qua những năm cuối cùng của quãng 12 năm ở Berlin. Năm 1933, năm Adolf Hitler được bổ nhiệm làm thủ tướng, Roth sang Pháp và vĩnh viễn chia tay Berlin. Giữa Roth và Berlin là một mối quan hệ kỳ lạ: Berlin mở ra sự nghiệp cũng như khiến Roth nghi ngờ rồi đoạn tuyệt với những lý tưởng thời đại. Roth thấy ở đó trung tâm mới của thế giới, không gốc rễ văn hóa nhưng có mọi thứ mà các thành phố lớn khác có: một Berlin được tổ chức bài bản như là trung tâm của nền công nghiệp lạc thú và mọi tiện nghi của thế giới hiện đại, một kiểu xấu xí khác thường về diện mạo và đạo đức; tuy nhiên, nhiều lần định chấm dứt hẳn sự phụ thuộc vào nghề báo và muốn đến Paris tập trung viết tiểu thuyết, Roth vẫn bị hút trở lại Berlin. 20 năm trước thời điểm Roth đi khỏi Berlin cũng là lúc kết thúc quãng thời gian dài gắn bó của Robert Walser, người đã đem lại một cái nhìn mới vào đủ mọi ngóc ngách tầm thường của một Berlin hiện đại; ở chính giữa quãng ấy là một đoạn ngắn ngủi Franz Kafka sống tại thành phố này. Berlin có một sức hút kỳ lạ và - đúng như Roth đã thốt lên: không ai tự nguyện đến Berlin - bất hạnh giữ chân người ta lại thành phố, đó chính là một Hotel Savoy. 30 năm sau khi Roth vĩnh viễn đi khỏi Berlin, Witold Gombrowicz đến thành phố này, cụ thể là ở Tây Berlin vì khi này đã tồn tại bức tường ngăn cách, trong một chuyến lưu trú ngắn được tài trợ bởi quỹ Ford (trong dịp này Ford cũng mời Ingeborg Bachmann, người đầu tiên Gombrowicz kết bạn khi đến Berlin); đây cũng là lần đâu tiên nhà văn Ba Lan trở về châu Âu sau một thời gian dài di cư sang Argentina. Gombrowicz ở đó một năm và cũng sẽ sang Pháp, không bao giờ trở lại quê hương Ba Lan nữa.

Berlin đang thực hiện một bước tiến mới vào cõi vô định, Gombrowicz viết trong nhật ký; ở đây ngay cả tiếng hú của một con chó ngu xuẩn và khủng khiếp cũng hòa quyện với một ý chí mạnh mẽ hướng đến sự bình thường. Gombrowicz kể lại việc vô tình hoặc được mời dự vào các buổi đọc sách, ở đó người ta đọc lớn lên Ferdydurke bằng tiếng Đức ngay khi có mặt ông, điều này khiến ông khiếp hãi; chỉ hiểu lờ mờ tiếng Đức, ông nói chuyện với họ nhưng ông không hiểu còn họ lại có vẻ hiểu, như thể thực hiện chức năng của mình. Gombrowicz bắt gặp ở con người của Berlin - không đâu có những người trẻ tuổi tử tế, lịch thiệp và thực sự ngây thơ hơn ở đây, và dối trá hay ác ý đã bị tống cổ mãi mãi - và ở tài năng hiện thực hóa từ hư vô của họ một thứ gì đó thuộc về cá nhân, còn chưa hoàn thiện nhưng bị buộc phải tìm kiếm sự thể hiện trong những tập hợp con người bị thúc tiến lên, không còn bởi các hình thức chết mà tâm trí ám ảnh (các lý tưởng hay khẩu hiệu), cũng không bởi các thiên tài của dân tộc (chỉ còn nỗi sợ hãi đối với những gì cẩu thả), mà bởi các văn phòng, chuyên ngành, điện thoại, chức năng, công việc, nhu cầu cá nhân... tuy nhiên vẻ vững chắc ấy được đảm bảo bởi sự nghiêm túc của kỹ thuật và lao động Đức.

Gombrowicz sớm nhận ra một mùi quê hương ở Berlin. Sự chưa trở thành trong tương quan với những hình thức mà Gombrowicz nhận thấy ở thành phố ấy vốn là một mối quan tâm lâu dài của ông trong các tiểu thuyết cũng như trong nhật ký. Khác với Franz Kafka, nhật ký của Gombrowicz viết cùng một giọng với tiểu thuyết; ở đó người ta thấy Gombrowicz tuyên bố không thể chịu nổi Vở kịch con người, nhất là rất khó chịu với ý nghĩ rằng người ta ngưỡng mộ Balzac, đặc biệt là các phụ nữ, với cái ý có sẵn đã quyết định tình cảm của họ: đây là một nghệ sĩ thiên tài. Gombrowicz chán đờ trước các tập truyện của Bruno Schulz (trong một bài bình luận về Bruno Schulz - Gombrowicz giấu người bạn của mình vì sợ rằng ông ca ngợi tôi thì tôi ca ngợi ông - cụ thể là về Dưỡng đường đồng hồ cát, ông cho rằng Schulz đã bỏ ra thật lắm công sức vô nghĩa, bị trói buộc bởi phong cách ấy tác giả miệt mài bịa đặt ra những cuộc phiêu lưu và mô tả những sự kiện tưởng tượng như thể chúng có thật rồi lại phải cố vượt qua chúng để giành lấy quyền phát ngôn của mình), không sao mà đọc hết được một tiểu thuyết của Kafka (tôi bị lóa mắt bởi ánh mặt trời ẩn dụ, Gombrowicz bình luận Der Prozess trong nhật ký), cũng như không chịu nổi hầu hết những gì nơi dường ý nghĩ tạo ra một tác phẩm, dù trông thấy rõ hay chỉ thấp thoáng, đã đi trước tác phẩm. Ông nghi ngờ những hành động sáng tạo mà tác giả của nó dường cố nâng mình lên một tiêu chuẩn nào đó nằm bên ngoài anh ta - đã trở thành một hình thức và ở cao hơn - như thể muốn giấu đi vẻ vụng về của bản thân. Đối với Gombrowicz, trong khi một hình thức lúc nào cũng có vẻ thỏa hiệp thì một biểu hiện thoáng qua, tức thời và liên tục thay đổi, luôn luôn có vẻ thấp kém hơn những gì lẽ ra nó phải trở thành trong sự trông chờ của người khác, lại là thứ quan trọng nhất có thể dẫn đến một sự sáng tạo.

Tuy nhiên, Schulz lại là người hiểu ra từ rất sớm rằng Ferdydurke là một kiệt tác. Trong một bài bình luận khi cuốn tiểu thuyết vừa xuất bản, ông thấy rằng ở đó cái non nớt, cái chưa trở thành của con người tìm được sự giải thoát nơi những thứ văn hóa hạng hai, thiếu giáo dục và thô sơ, tức là một hình thức thứ (cũng với một cái nhìn tương tự như vậy, William Morris không nói về Art, mà là Lesser Art; ông sớm từ bỏ hội họa và kiến trúc mà tập trung vào những thứ nghệ thuật nhỏ hơn của trang trí). Schulz cũng lại nhìn thấy lớp vỏ giả tạo của một thứ hình thức thứ nơi bề ngoài các sự việc Kafka tạo ra. Trong đề tựa viết cho bản dịch tiếng Ba Lan của Der Prozess (Schulz dịch cùng, đúng hơn là hướng dẫn, vị hôn thê lúc bấy giờ là Józefina Szelińska) ông chỉ ra rằng thủ tục của Kafka là gắn vào thực tại của mình một thế thân - cái mặt trời ẩn dụ mà Gombrowicz than thở - hay là một thực tại thay thế, vốn chỉ là lớp màng mỏng tạo nên bởi cơ chế bên ngoài của tình huống và sự vật mà Kafka thuộc lòng. Cái công việc thủ tục ấy ở Kafka hay Schulz là điều Gombrowicz không thể chịu được. Tuy nhiên rất có thể họ đều nói về cùng một điều. Chỉ cần một ý chớm giành lấy được hình thức của nó, kể cả lời nói, nó đã khác hẳn, bởi bị tách ra khỏi những chuỗi nó vốn thuộc về, so với những gì nó biểu đạt khi chỉ mới tồn tại như một ý. Chính trong nhật ký của Kafka - nhưng Gombrowicz dường không xem đây là một tác phẩm nghiêm túc - người ta nhìn thấy sự ngập ngừng của việc để cho một hành động trở thành; ở đó, trong những đoạn đầu tiên khi mới bắt đầu, người viết, bên cạnh những lời bày tỏ về việc không thể viết, kể lại một tình huống nhỏ nhặt: trước một hành vi xấc xược ông tỏ ra với hai người khác, một cách vô tình nhưng đúng là xẵng, ông ngạc nhiên khi những người kia chẳng hề xem đó chỉ là biểu hiện của một tính cách, mà chính nó đã trở thành tính cách của ông.

Karl Roßmann của Amerika ngay khi đến nơi đã bị ấn tượng bởi bức tượng Nữ thần Tự do với cánh tay cầm thanh kiếm, và anh để cho mình bị túm bởi cái ý về công lý khi đưa ra những lời khuyên cho người thợ đốt lò về việc thực thi nó - dù ông ta chỉ than thở với anh - đến mức sau đó Karl còn đứng ra bảo lãnh cho ông ta nhân danh lẽ phải; rốt cuộc cho đến khi mọi chuyện được dàn xếp và người thợ không phản kháng, anh vẫn không hiểu bản tính của sự việc, trong khi công lý còn nguyên trong đầu Karl. Giống như Franz Kafka, Joseph Roth cũng để cho nhân vật của mình sang Mỹ dù ông chưa từng đến đó, nhưng Mendel Singer không nhìn thấy mà nghe về bức tượng từ trước bởi một người Do Thái khác: đó là một bức tượng lớn, rỗng, có thể leo lên đầu, đuốc thắp sáng bằng điện, một trò khéo mà ở đó người ta rất biết cách tạo ra. Roth nhiều lần nhắc đến nước Mỹ không chỉ với tư cách điểm đến lý tưởng của những người Do Thái di cư hay quê hương của Skycraper và Hollywood - mà Roth xem là địa ngục của thời đại; trong Der Antichrist, nước Mỹ, cùng với chẳng hạn Liên Xô hiện ra cách gián tiếp như là một trong những quê hương của Antichrist ông chủ nghìn cái lưỡi - một thứ tinh thần của thời đại hứa hẹn những tín điều về nhân đạo, lý trí, tiện nghi, hiểu biết, về mọi thứ tốt đẹp và dễ dàng, khiến con người tin rằng thế giới đã ngừng lại và ở trên đỉnh vinh quang của nó. Nói cách khác, đó chính xác là sự phủ nhận tồn tại con người bằng cách chìa ra những cái bóng, theo cách nói của Roth, hay là tạo ra một thứ thế thân cho con người. Một thứ cụ thể hơn: quốc tịch; dường như với thứ giấy tờ ấy các nước chủ nhà của người Do Thái di cư có thêm lý do xác đáng để xua đuổi họ. Những người Do Thái di cư phương Đông rõ ràng chính là nhân chứng, từ rất sớm, cho sự chuyển dịch các lãnh thổ hay các lý tưởng quốc gia chủ nghĩa, cùng với chuyện họ bị hành hạ lâu dài bởi tất tật các thứ giấy tờ. (Và kể cả một thứ như căn cước, hay như cách nói đã thành quen, đi tìm căn cước, dường là một trò đùa hơn là một thứ gì thực sự nghiêm túc khi nghĩ đến sự đơn giản của một người Do Thái chính thống phương Đông không vướng bận với Zionism, những người dường có sức tạo ra một mặc cảm lớn cho những quốc gia nơi họ phải ở nhờ, đó là những tồn tại cơ bản của một con người, không tham gia nền công nghiệp, không đi nghĩa vụ, sống lèn vào các ngóc ngách còn sót lại vùng biên giới, giống như Mendel Singer; và một viên công chức, cảnh sát, chủ ngân hàng, những cuộc cách mạng... thì có là gì khi mà người Do Thái chỉ hướng duy nhất về Chúa của mình; đương nhiên sự thật thì, Roth viết trong người Do Thái lang thang, họ đã bác bỏ được câu nói rằng khi hai bên cãi nhau, bên thứ ba sẽ là bên chiến thắng, người Do Thái luôn là bên thứ ba và họ luôn thua cuộc).

Sự dịch chuyển từ các ý - những gì vốn luôn chưa trở thành, không hoàn thiện, và bởi vậy tương ứng với tồn tại con người - sang một hình thức, vốn luôn là khao khát không ngừng nghỉ của mọi tồn tại, được Joseph Roth nắm bắt ở giai đoạn cuối cùng khi thế giới, nơi ông đặt lòng tin từ sớm, cứ dần tàn lụi, và càng lúc quá trình càng được thúc nhanh lên. Tuy nhiên, những vấn đề gây ra bởi sự bí gán cho, hoặc bởi nỗi thúc ép giành lấy một hình thức, dù là bi kịch đối với một cá nhân, một dân tộc sống bên lề châu Âu, hay các nước Trung Âu, đã là một vấn đề được nghiêm túc suy tư từ những thời đại trước. Nhìn vào lịch sử của những cách tổ chức lao động của con người để giải thích cho hình thức của kiến trúc Gothic, John Ruskin, hay William Morris sau đó, đã nhấn mạnh vào việc sở dĩ những gì đẹp đẽ thời Trung cổ - trong đối sánh với thứ hàng hóa xấu xí tràn ngập khắp nơi, sản phẩm của nền công nghiệp - có thể được thực hiện là bởi sự không hoàn hảo nơi tâm hồn mỗi cá nhân đã được thừa nhận và ban cho một phẩm giá, điều này khác hẳn với thời kỳ nô lệ trước đó vốn đơn điệu và không có mấy sự đa dạng trong hình thức.

Cũng giống như thiếu úy Karl-Joseph, Joseph Roth về cuối đời sẽ trải qua một quãng nghiện rượu đến tuyệt vọng (người ta còn thấy rượu trong phòng của Roth sau khi ông qua đời) tại Paris - thành phố, theo Roth, vốn vui tươi hơn hẳn so với Berlin. Ở đây năm 1938 Roth sẽ biết đến Anschluss, cuộc sáp nhập của nước Áo vào Đức khiến ông suy sụp gần như hoàn toàn. Tuy nhiên sự mỉa mai của số phận còn tồn tại lâu hơn Joseph Roth, người về cuối đời đã luôn hướng về Công giáo trong khi không còn giữ vẻ xa cách với Do Thái giáo của mình như trước. Theo những gì David Bronsen ghi lại, ngay khi Roth vừa qua đời, quán Café de Tournon bên dưới căn hộ của ông trở thành hiện trường của một cuộc đối đầu giữa những người bạn thân nhất của Roth để quyết định xem ông sẽ được chôn cất theo nghi thức tôn giáo nào. Ý định ban đầu, bất chấp sự phản đối của những người bạn Do Thái, chôn cất Roth theo nghi thức Công giáo không được đồng ý, bởi không tìm được giấy tờ đảm bảo rằng Roth đã rửa tội; sau đó họ đành chôn ông tại khu riêng của nghĩa trang Công giáo nhưng không làm lễ trước bàn thờ. Trong khi buổi lễ diễn ra, những người Do Thái phương Đông từ Galicia đòi phải có một giáo sĩ Do Thái, một số người Do Thái đến gần cầu nguyện bằng tiếng Hebrew, trong khi những người quân chủ và cộng sản nhìn nhau căng thẳng, tất cả đều là bạn bè và người quen của Roth. Người được chỉ định đọc Kaddish (lời nguyện theo nghi thức Do Thái) sau khi nghi lễ Công giáo kết thúc đã nản lòng không làm gì, nhưng kỳ lạ hơn là cả Thập giá La tinh lẫn ngôi sao David đều không được khắc lên bia mộ.

 

Công Hiện

favorites
Thêm vào giỏ hàng thành công