Thực tại của trẻ con
Stevenson tìm thấy nơi các hòn đảo bầu không khí mới để chống chọi bệnh tật, nhưng ông còn chống chọi lại một bầu không khí khác; trong quyển sách về Stevenson, G. K. Chesterton nhận xét rằng Stevenson trước hết là một phản ứng kháng cự lại một thứ Pessimism đang hoành hành như bệnh dịch. Bầu không khí ngột ngạt ấy dẫn người ta đến chỗ, chẳng hạn, tham gia một câu lạc bộ tự sát (đây cũng là chủ đề chung một loạt truyện ngắn của Stevenson). Thế giới của Stevenson liên quan nhiều đến đồ chơi hơn là cố làm hài lòng người đọc bằng cảnh máu me, tội phạm, súng, gươm và đầu lâu, hay bầu khí có vẻ u ám khiến người ta từng xem ông là cái bóng của Edgar Allan Poe; nhưng đó không phải là một thế giới của mục nát và phân hủy, mà tất cả đều tương phản mạnh như tranh khắc, hay sắc cạnh nổi bật như các hình nhân cắt giấy.
Hai tiểu luận dưới đây cho thấy tư thế ấy của Stevenson: một người trở về với tuổi thơ của mình. Những gì trong mắt người lớn, khi quan sát đám trẻ con, chỉ là những trò chơi thì đối với chúng ấy là cả một thực tại khác. Có thể nói rằng Stevenson sống trong nhà hát đồ chơi của mình, và không tìm thấy gì vững chắc hơn ảo tưởng trẻ thơ ấy. Đó không phải là hư vô, hay bi quan, mà chắc chắn như các thỏi màu trong hộp màu, như hình dạng bất biến của các nhân vật phẳng lỳ của trò kịch giấy, và niềm vui ở đó cũng là thực, như một đứa trẻ sung sướng khi biết chắc mình có một cái đèn không ai thấy.
I
Các cậu bé tụ tập vào mỗi mùa thu quanh một làng chài phía đông nọ, ở đó chúng được nếm trọn vẻ huy hoàng của sự tồn tại. Nơi này dường được tạo ra có chủ đích để phục vụ cho sự giải trí của các quý ông trẻ tuổi. Một hoặc hai dãy nhà, hầu hết màu đỏ và nhiều căn trong số đó lợp ngói; một lượng lớn cây xanh tốt chụm lại quanh nhà xứ và nghĩa trang, và biến phố chính thành một lối đi rợp bóng mát; rất nhiều những khu vườn nhỏ rực rỡ hoa hơn thường lệ; những cái lưới đang được hong khô, và các bà vợ ngư dân cãi nhau nơi sân sau nhà; mùi cá, mùi thoang thoảng của rong biển; những làn gió cát thổi qua các góc phố; các cửa hiệu bày bán bóng golf và kẹo mút trong chai; một hiệu khác bán xì gà penny pickwicks (loại xì gà đặc biệt) và tờ London Journal, thân thuộc với tôi bởi các bức ảnh giật gân của nó, và vài cuốn tiểu thuyết, được yêu mến bởi những cái tên đầy khơi gợi của chúng: những thứ ấy, theo như trí nhớ tôi, là các thành phần của thị trấn. Bạn có thể hình dung ra những thứ này nằm trên một dải đất hẹp giữa hai vịnh cát, và bao quanh lưa thưa các căn biệt thự đủ cho các cậu bé ở trọ với cha mẹ nuôi của chúng, nhưng không đủ (chưa đủ) để đặc trưng hóa khung cảnh: một nơi trú ẩn trong những tảng đá phía trước: ở trước mặt nó, một dãy các đảo nhỏ màu xám: bên trái, những bãi bờ và dải cát vô tận, một vùng hoang vu đầy hang hốc, rộn ràng đám thỏ thậm thụt và chim mòng biển bay vút lên: bên phải, một dãy lởm chởm vách đá chĩa ra biển, các mỏm đá gồ ghề nối tiếp nhau; các tàn tích của một pháo đài hùng vĩ và cổ xưa bên bờ vực sự tàn lụi; các vịnh nhỏ ở giữa – lúc thì trông thật quyến rũ dưới ánh mặt trời tĩnh lặng, lúc lại rít lên trong gió và gào thét tiếng sóng xô tung tóe; các hang động và hốc đá kín gió thoảng mùi cỏ xạ hương và mùi gỗ phương nam, không khí rìa vách đá trong lành và nồng mùi biển – ở trước tất tật những thứ ấy, rặng Bass Rock, nghiêng xuống biển như một người tắm do dự, sóng vỗ trắng xóa chung quanh, đám ngỗng biển bay lượn quanh đỉnh như một quầng khói lớn lấp lánh. Dải bờ biển tuyệt diệu này, ngoài ra, còn thiêng liêng với kẻ cướp xác tàu đắm; và trên rặng Bass, trong trí tưởng tượng, vẫn tung bay màu cờ của Vua James; và trong lỗ tai kẻ tưởng tượng các mái vòm của Tantallon vẫn vang lên tiếng móng ngựa sắt, và vọng lại mệnh lệnh của Bell-the-Cat.
Chẳng có gì phá hỏng các ngày của bạn, nếu bạn là một cậu bé đi nghỉ hè ở vùng ấy, chỉ trừ sự ngượng ngùng của vui thú. Bạn có thể chơi golf nếu muốn; nhưng dường tôi biết có việc còn thú hơn. Bạn có thể ẩn mình trong Lối đi Quý bà, một thung lũng nhỏ không ánh mặt trời của cây cơm cháy, rêu phủ kín bởi hơi ẩm và xanh mướt như cỏ, rải rác đây đó bên bờ suối các bức tường không mái che, những ngôi nhà lạnh lẽo của ẩn sĩ. Để chuẩn bị cho cuộc sống, và đặc biệt là để học nghệ thuật nhả khói, ngay cả các cậu bé cũng thường lui tới đó; và bạn hẳn từng trông thấy một mẩu thuốc lá nhỏ xíu, được chia đều thật trung thực bằng một con dao cùn, rải rác khắp thung lũng với các tay học nghề này. Một lần nữa, bạn có thể tham gia các cuộc đi câu của chúng tôi, ở đó chúng tôi ngồi sát vào nhau chật ních như đám ngỗng biển, một nhóm những người đi câu nhỏ tuổi, trai lẫn gái, tung dây câu qua đầu nhau, đến nỗi dây nhợ rối tung và mất sạch cá và tố cáo nhau inh ỏi – inh ỏi hệt như đám ngỗng. Quả thực, nếu tất cả chỉ có thế, bạn hẳn có thể đi câu thường xuyên; nhưng dẫu câu cá là một thú vui tuyệt diệu, cá mòi lại chẳng hề được xem là món ngon trên bàn ăn; và đó là điều đáng trân trọng khi một cậu bé ăn hết tất tật những gì câu được. Hoặc thêm lần nữa, bạn trèo lên ngọn Law, nơi xương hàm cá voi sừng sững như một cột mốc giữa tiếng gió rì rầm, và chiêm ngưỡng khuôn mặt của nhiều vùng đất, khói và chóp tháp của nhiều thị trấn, cùng cánh buồm của những con tàu đằng xa. Bạn có thể tắm, lúc thì trong những cơn gió mạnh của ngày thời tiết đẹp, mà ta gọi đầy cảm động là mùa hè của chúng ta, lúc thì trong một cơn gió cuộn, cát táp vào da thịt trần trụi, quần áo tung bay đập phần phật sau những tảng đá che chở, bọt của những con sóng lớn hất bạn ngã chúi đầu trước khi chúng nhấn chìm đầu gối bạn. Hoặc bạn có thể khám phá những tảng đá ngầm, nhất là lúc triều xuống vào mùa xuân, dịp duy nhất các ngọn đồi lộ ra tận gốc; đi theo người dẫn đường của tôi từ nhóm này sang nhóm khác, mò mẫm trong mớ trơn tuột rối mù ấy để tìm xác tàu đắm, lội qua các vũng nước theo dấu các sinh vật gớm guốc của biển, và luôn để mắt phía sau trông chừng bước hành quân của thủy triều và lối rút lui lúc nào cũng bị đe dọa của bạn. Và rồi bạn có thể giống như Crusoe, tức là có những bữa ăn tùy cơ ứng biến ngoài trời: có thể phải khoét một ngôi nhà dưới rìa bờ cát, nhóm lửa bằng đồ dùng đi biển, và nướng táo ở đó – nếu chúng thực sự là táo, bởi đôi khi tôi cho rằng người bán hàng hẳn đã lừa chúng tôi bằng một loại quả kém chất lượng và hoàn toàn địa phương nào đó có khả năng sẽ phân rã, khi hơ vào lửa, thành cát, khói và I ốt; hoặc có lẽ đi đến Tantallon, bạn có thể ăn trưa với bánh sandwich và nhìn thấy ảo ảnh trên bãi đầy cỏ mọc, trong khi gió rì rầm trong những tháp canh đổ nát; hoặc leo dọc theo bờ biển, ăn quả anh đào dại (loại dở nhất, tôi phải nói vậy, trong toàn cõi Cơ đốc giáo) ngay trên cành một cây anh đào dại liều lĩnh đã cắm rễ dưới một vách đá, ở đó nó bị lay động bởi gió đông lạnh, và bạc màu sau những trận bão có muối, và trở nên lạc loài giữa vẻ ảm đạm khắp chung quanh thành thử việc ăn quả của nó cũng đã là một điều phiêu lưu.
Có những ký ức buồn lẫn lộn giữa rất nhiều những kỷ niệm vui thú. Về bà vợ ngư dân, chẳng hạn, người đã cắt cổ mình ở vịnh Canty; và về việc tôi đã chạy cùng những đứa trẻ khác lên đỉnh đồi Quadrant, và nhìn thấy một đội những người im lặng có vũ khí hộ tống một chiếc xe thồ, và trên xe, trói vào một cái ghế, cổ họng băng bó, miếng băng đẫm máu – thật khủng khiếp! – chính là bà vợ ngư dân kia, người mà từ đó về sau đã ám ảnh tâm trí tôi, và thậm chí đến tận hôm nay (khi tôi nhớ lại cảnh ấy) vẫn làm tối sầm ánh sáng ban ngày. Bà ta bị giam trong nhà tù cũ nhỏ trên phố lớn; nhưng liệu bà ta có chết ở đó không, với nỗi khiếp sợ khôn ngoan về điều tệ nhất, tôi chưa bao giờ hỏi. Bà ta đã uống say; đó chỉ là một bi kịch tệ hại; và dường thật lạ và khó tin rằng, sau ngần ấy năm, kẻ điên tội lỗi khốn khổ ấy vẫn bị đóng chặt vào xe thồ trong quyển sổ giấy vụn ký ức tôi. Tôi cũng sẽ không dễ dàng quên một căn nhà nọ ở khu Quadrant nơi một vị khách đã chết, và một bà già vẫn tiếp tục ở lại đó một mình với xác chết; không quên cả việc cái mụ già vốn nuôi lòng căm ghét với chính tôi cùng với một trong các anh em họ của tôi ấy, vào cái giờ khiếp hãi lúc trời nhập nhoạng tối, khi chúng tôi đang trèo lên tường rào khu vườn, đã mở ra một cửa sổ của căn nhà chết chóc kia và nguyền rủa chúng tôi bằng một giọng the thé với một tuyển chọn ngôn ngữ đầy thâm hiểm. Hai thằng nhãi con mặt trắng bệch chạy thục mạng vào hẻm sau cái kinh nghiệm nhớ đời ấy! Nhưng tôi nhớ lại với một cảm xúc bất xác quyết, vừa sợ hãi vừa hân hoan, sự huyên náo của những cơn bão dữ dội kỳ xuân phân; những cơn gió giật dữ tợn, mưa bịt kín mọi kẽ hở; những con thuyền với buồm thu gọn tốc thẳng về cửa cảng, nơi hiểm nguy rình rập, bởi rất khó để đi tiếp khi gió thổi từ hướng đông tới; Các bà vợ tụm lại với những khăn choàng bay phấp phới ở đầu cầu tàu, nơi (nếu số phận chống lại họ) họ có thể nhìn thấy con tàu và chồng con họ – toàn bộ tài sản và toàn bộ gia đình họ – bị nhận chìm ngay trước mắt; và (điều mà tôi chỉ thấy một lần duy nhất) một đám đông hàng xóm ép một kẻ bất hạnh trong số đó về nhà, và bà ta gào thét và vùng vẫy giữa đám đông, một dáng hình hầu chẳng còn là người, một Mænad bi thảm.
Đó là những điều tôi nhớ lại đầy chú tâm; nhưng điều mà ký ức tôi nán lại nhiều nhất, tôi đã giấu nhẹm suốt bấy lâu. Đó là một môn thể thao đặc trưng của nơi ấy, và thực sự chỉ kéo dài khoảng một tuần trong kỳ nghỉ hai tháng của tôi. Có lẽ nó vẫn còn thịnh hành ở xứ bản địa ấy; bởi những cậu bé và trò tiêu khiển của chúng bị chi phối bởi các lực định kỳ không thể hiểu được với con người; bởi thế mà con quay và viên bi lại xuất hiện đúng mùa, đều đặn như mặt trời và mặt trăng; và thứ nghệ thuật vô hại của trò ném xương đã chứng kiến sự sụp đổ của đế chế La Mã cũng như sự trỗi dậy của Hợp Chúng Quốc. Có thể nó vẫn còn hưng thịnh ở xứ bản địa của nó, nhưng chẳng còn như thế ở nơi nào khác, tôi tin chắc như vậy; bởi tôi đã thử giới thiệu nó ở Tweedside, và đã thất bại thảm thương; sức hấp dẫn của nó hoàn toàn mang tính địa phương, giống như một loại vang bản địa không thể xuất khẩu.
Vào cuối tháng Chín, khi năm học mới đang đến gần và các đêm hầu đen kịt, chúng tôi bắt đầu xộc ra khỏi các căn biệt thự của mình, mỗi đứa mang theo một cái đèn mắt bò bằng thiếc. Thứ này nổi tiếng đến nỗi đã tạo ra một lối mòn trong hoạt động thương mại nước Anh; và các chủ hiệu tạp hóa, cứ đến mùa, bắt đầu trang hoàng cửa sổ của họ với loại đèn đặc thù của chúng tôi. Chúng tôi đeo đèn ở hông bằng một dây đai cricket, và trùm lên mình, bởi tính khắc nghiệt của trò chơi, một cái áo khoác có khuy cài. Cái đèn bốc lên mùi gớm ghiếc của thiếc bị phòng rộp; nó không bao giờ cháy đúng cách, dù lúc nào cũng làm bỏng ngón tay chúng tôi; nó hầu như vô tích sự; niềm vui nó mang lại thuần là tưởng tượng; và dẫu vậy một cậu bé đeo đèn mắt bò dưới áo khoác chẳng cần thêm gì nữa. Các ngư dân treo đèn quanh thuyền của họ, và chính ở họ, tôi cho là vậy, mà chúng tôi đã học được trò ấy; nhưng đèn của họ không có mắt bò, còn chúng tôi cũng không hề chơi trò làm ngư dân. Cảnh sát thì đeo đèn của họ ở thắt lưng, và chúng tôi rõ ràng đã bắt chước họ ở điểm này; tuy nhiên chúng tôi cũng chẳng giả vờ làm cảnh sát. Sự thực thì kẻ trộm có lẽ mới là thứ ám lấy ý nghĩ của chúng tôi; và chúng tôi chắc chắn đã hướng mắt về các thời đã qua khi đèn lồng còn phổ biến, và hướng về vài cuốn truyện mà ở đó chúng được tìm thấy xuất hiện rất nhiều. Nhưng xét cho cùng, niềm vui của việc này là có thực; và được làm một cậu bé mang cái đèn mắt bò dưới áo khoác đã là quá đủ với chúng tôi.
Khi hai thằng nhãi con như thế gặp nhau, sẽ có một câu hỏi lo âu “Có mang theo đèn không?” và một câu trả lời làm hài lòng “Có!” Đó là khẩu hiệu, và cũng vô cùng cần thiết; bởi vì, theo một luật rằng phải cố giữ kín vinh quang của mình, không được để ai nhận ra một người mang đèn, trừ phi (giống như chồn hôi) nhận ra bởi cái mùi. Bốn hoặc năm đứa đôi khi sẽ leo vào khoang dưới của một thuyền buồm mười người, chẳng có gì ngoài các thanh ván ngang trên đầu chúng – vì cabin thường bị khóa, hoặc sẽ chọn một cái hố nào đó trên bãi cát biển nơi gió có thể rít lên trên đầu. Ở đó những cái áo khoác sẽ được tháo cúc để lộ ra đèn mắt bò; và trong ánh sáng lập lòe lay động, dưới bầu trời đêm bao la gió lộng, hớn hở bởi hơi nóng phả ra từ thứ đồ thiếc đang nung, các quý ông trẻ tuổi may mắn ấy sẽ co rúm nép vào nhau trên bãi cát lạnh hoặc trong tàu đánh cá sàn đáy cáu bẩn, và cùng nhau thích thú những chuyện trò chẳng mấy phù hợp. Khổ thân tôi chưa, chẳng thể nào đưa ra vài mẩu minh họa – một vài trong số những điều trông thấy trước của đám trẻ ấy về cuộc sống, hay những câu hỏi sâu sắc trước những nguyên tắc cơ bản về con người và tự nhiên, chúng thật nồng nhiệt và thật ngây thơ, chúng thật quá sức ngớ ngẩn, thật trẻ trung lãng mạn. Nhưng các chuyện trò ấy, dẫu sao đi nữa, cũng chỉ là gia vị; và bản thân các cuộc tụ họp này chỉ là những điều ngẫu nhiên trong sự nghiệp của người mang đèn. Tinh chất của điều sung sướng này là được đi một mình trong đêm đen; khóa kéo chặt, khuy cài kín; không một tia sáng nào thoát ra ngoài, dù là để soi bước chân đi hay để phô bày vinh quang của bạn: chỉ là một cái cột đen sẫm trong đêm; và trong suốt lúc ấy, sâu thẳm trong trái tim xuẩn ngốc của bạn, biết rằng bạn có một cái đèn mắt bò đeo bên hông, và hớn hở hát vang vì biết như thế.
II
Người ta bảo rằng một nhà thơ đã chết yểu trong lòng kẻ lãnh đạm nhất. Có thể lập luận, đúng hơn, rằng thi sĩ (phần nào tầm thường) này trong hầu hết mọi trường hợp đều còn sống, và là gia vị của cuộc sống kẻ sở hữu anh ta. Đánh giá kia chẳng hề thỏa đáng trước sự đa dạng và tính trẻ con khôn dò của trí tưởng tượng con người. Cuộc sống của anh ta bề ngoài có thể chỉ trông như một đống bùn thô kệch; nhưng hẳn có cả một căn phòng dát vàng ở trung tâm của nó, nơi anh ta sung sướng cư ngụ; và dù lối anh ta đi tối tăm cách mấy đối với kẻ quan sát, anh ta sẽ luôn có thứ gì đó giống như một cái đèn mắt bò mang bên hông.
Khó mà tìm được một sự nghiệp nào ảm đạm hơn sự nghiệp của Dancer, cái lão bủn xỉn, được mô tả trong “Old Bailey Reports,” [hồ sơ được xuất bản ghi lại các phiên tòa, hình phạt của tòa án Old Bailey ở London] một nạn nhân của những sự ngược đãi nhỏ mọn nhất, là trò cười của khu phố, bị gia nhân phản bội, nhà của ông ta bị bao vây bởi đám học trò tinh quái, còn bản thân ông ta thì nghiến răng tức giận và tuyệt vọng mà tìm đến pháp luật để chống lại những khó chịu vặt vãnh ấy. Thoạt tiên bạn sẽ kinh ngạc khi thấy có kẻ lại tự nguyện kéo dài một cuộc sống thiếu vắng quyến rũ và phẩm giá đến vậy; và rồi bạn nhớ lại rằng nếu ông ta lựa chọn, nếu ông ta thôi không làm một kẻ bủn xỉn nữa, ông ta hẳn có thể thoát khỏi các phiên tòa này ngay lập tức, và có thể xây cho mình một tòa lâu đài và được cả một đoàn kỵ binh hộ tống đến đó. Vì tình yêu dành cho những thú vui bí hiểm hơn, mà chúng ta chẳng thể nào biết được, thứ, có lẽ ta nên ghen tỵ, khiến con người ấy sẵn lòng từ bỏ cả an nhàn lẫn suy xét. “Ông ta thấy tâm trí mình là cả một vương quốc”; và quả thật, khi đào sâu vào tâm trí ấy, thoạt nhìn dường chỉ là một đống rác, chúng ta sẽ tìm thấy vài viên ngọc vô giá. Bởi Dancer hẳn phải có lòng yêu quyền lực và sự khinh miệt khi sử dụng nó, một phẩm chất tự thân nó cao quý; sự khinh miệt đầy vui thú, một phần quan trọng của cái thường được gọi là trí tuệ; sự khinh miệt cái kết thúc không thể tránh khỏi, phẩm chất cao quý nhất của nhân loại; coi thường ý kiến kẻ khác, lại một yếu tố của đức hạnh; và sau rốt, một lương tâm giống như cái của bạn và của tôi, rên rỉ như một con chó ghẻ, bịp bợm như một tên lừa đảo, nhưng vẫn hướng đến (chính xác hoặc gần đó) một tiêu chuẩn nào đó theo thói thường. Đây là bức chân dung cỡ nhỏ mà có lẽ Hawthorne đã khắc họa thích đáng; nhưng kể cả Hawthorne nữa, bởi ông là người tính tình hiền lành, cũng không có khả năng tạo ra cho chúng ta nhịp đập gấp gáp của kẻ keo kiệt, cái sinh lực cáu bẳn trong nỗi khoái trá của hắn, vòng ôm rộng đầy tham vọng của hắn đang bám chặt lấy cái hắn không biết: không biết thỏa mãn, điên cuồng, một vị thần cầm cây cào bùn. Như vậy, ít nhất, khi nhìn vào cõi lòng kẻ keo kiệt, người ta phát hiện ra nhà thơ đang sống trên đỉnh thủy triều cuộc sống, quả thực, với ngọn lửa thi ca rực cháy hơn nhiều những gì vẫn thấy trong các sử thi; và khi dõi theo kẻ ti tiện ấy quanh bếp lửa lạnh ngắt của hắn, đi qua đi lại trong căn nhà kém tiện nghi của hắn, người ta quan sát thấy bên trong hắn một ngọn lửa mừng sáng rực của niềm sung sướng. Và cũng tương tự như vậy nơi những người khác, những người không chỉ sống bằng mỗi miếng ăn, mà còn bởi một niềm vui nào đó được ấp ủ và có lẽ vô cùng kỳ lạ; những người trông bề ngoài hệt như người bán thịt, rất có thể trong thâm tâm họ là những Shakespeare, Napoleon, hay Beethoven; những người không có đức tính nào để cọ xát vào kẻ khác trong cuộc sống hoạt động, có lẽ, trong cuộc sống trầm tư, họ ngồi cùng các vị thánh. Chúng ta thấy họ trên phố, và chúng ta có thể đếm cúc áo họ; nhưng có trời biết họ tự hào vì điều gì trong lòng! Có trời biết kho báu của họ đặt ở đâu!
Có một ngụ ngôn chạm đến cốt lõi cuộc sống: câu chuyện về vị tu sĩ đi vào rừng, nghe thấy tiếng chim hót, chăm chú lắng nghe vài tiếng líu lo, và khi trở về thấy mình là một người lạ trước cổng tu viện; bởi ông đã đi vắng năm mươi năm, và trong tất tật các bạn đồng môn ở đó chỉ còn duy nhất một người còn sống để nhận ra ông. Không chỉ trong rừng mà loài chim làm say mê này mới hót vang, dù có lẽ nó sinh ra ở đó. Nó hót ở cả những nơi buồn thảm nhất. Gã keo kiệt nghe thấy nó và cười thầm, và các ngày chỉ còn là chốc lát. Chẳng cần thứ gì ngoài cái đèn bốc mùi khó chịu kia tôi đã chiêu hồn con chim ấy về trên bãi cát trần trụi. Tất cả cuộc sống trừ những hành động thuần túy máy móc đều được dệt nên từ hai sợi chỉ: tìm kiếm con chim ấy và nghe nó hót. Và chính điều này khiến cuộc sống khó mà đánh giá được, và niềm vui của mỗi khoảnh khắc thật không thể diễn tả. Và chỉ có sự hiểu biết về điều này, cùng với một ký ức về giờ phút may mắn khi con chim kia hót cho chúng ta nghe, mới khiến chúng ta tràn ngập niềm kinh ngạc khi lật từng trang sách của các nhà hiện thực chủ nghĩa. Ở đó, chắc chắn, chúng ta tìm thấy một bức tranh về cuộc sống trong chừng mực nó bao gồm bùn và sắt vụn, những ham muốn rẻ mạt và những nỗi sợ rẻ mạt, những gì ta vốn xấu hổ khi nhớ lại và những gì ta chẳng để ý là có quên mất không; nhưng về tiếng hót của con chim họa mi ngấu nghiến thời gian ấy chúng ta chẳng hề biết được gì.
Trường hợp của các nhà văn viết tiểu thuyết lãng mạn ấy thật khó hiểu. Họ từng là những chàng trai và từng trẻ trung; họ từng nấn ná bên cửa sổ nhà người yêu, người mà lúc ấy rất có thể đang viết thư cho một kẻ khác; họ từng ngồi trước một tờ giấy, và cảm thấy mình chỉ là những khối tắc nghẽn thơ ca, không một dòng nào tuôn chảy; họ từng đi một mình vào rừng, họ từng đi dạo trong các thành phố và dưới vô số ngọn đèn; họ từng đi biển, họ từng căm ghét, họ từng sợ, họ từng khao khát đâm một người, và có lẽ đã làm rồi; mùi vị hoang dại của cuộc sống làm tê liệt vị giác họ. Hoặc, nếu bạn phủ nhận tất tật, một niềm vui cuối cùng họ đã nếm trọn vẹn – những quyển sách của họ kia là để chứng minh điều đó – niềm vui mãnh liệt của việc sáng tác văn chương thành công. Và thế mà họ lại lấp đầy địa cầu bằng những cuốn sách, sự khéo léo của chúng khiến tôi ngưỡng mộ đến tuyệt vọng, và sự giả dối khăng khăng của chúng trước tất tật những gì mà tôi cẩn thận gọi là sự tồn tại, khiến tôi tức giận đến tuyệt vọng. Nếu tôi chẳng còn hy vọng nào tốt hơn ngoài buộc phải nghĩ ngợi về những việc nhỏ mọn và tẻ ngắt, và chịu bị lay động bởi những nỗi sợ và hy vọng tầm thường mà với chúng họ vây xung quanh và thổi hồn vào các anh hùng của họ, tôi tuyên bố rằng tôi thà chết ngay bây giờ còn hơn. Nhưng chưa bao giờ có một khắc nào của tôi trôi qua lại buồn tẻ như thế; nếu tôi dành thời gian chờ đợi ở ga tàu, tôi hẳn sẽ có vài ý nghĩ rời rạc, có thể đếm được vài hạt ký ức, so với chúng thì một cuốn tiểu thuyết lãng mạn trong số kia chỉ là cặn bã.
Các nhà văn ấy hẳn sẽ phản bác (nếu tôi hiểu họ chính xác) rằng lối ấy rất đúng; rằng bản thân họ cùng với những người khác (mà họ gọi là) có cùng khí chất nghệ sĩ thì đều như vậy cả; rằng trong chuyện này chúng ta là ngoại lệ, và rõ ràng là nên xấu hổ vì bản thân chúng ta; nhưng tác phẩm của chúng ta chỉ được đề cập duy nhất đến (cái mà họ gọi là) người bình thường, kẻ vô cùng tẻ nhạt, và hoàn toàn thờ ơ với tất tật trừ những gì tầm thường nhất. Tôi chấp nhận điều này. Chúng ta chỉ có thể hiểu người khác qua chính bản thân mình. Khí chất nghệ sĩ (cái lối diễn đạt ôn dịch ấy!) không khiến chúng ta khác biệt với đồng loại, nếu không nó sẽ khiến chúng ta không có khả năng viết tiểu thuyết; và người bình thường (cái từ chết toi ấy!) cũng giống như bạn và tôi, hoặc không thì anh ta hẳn khác thường. Chính Whitman đã gán một nghĩa thiêng liêng kiểu Birmingham lên cái câu vừa rồi; nhưng Whitman hiểu rất rõ, và thể hiện một cách cao quý, rằng người bình thường tràn đầy niềm vui và đầy chất thơ của riêng mình. Và việc cứ mãi than vãn về sự tẻ ngắt của cuộc sống và sự thấp hèn của con người là một lời thú nhận ồn ào về sự bất tài; nó là một trong hai thứ: tiếng kêu gào của con mắt mù, tôi không thể thấy được
III
Bởi vì, để nhắc lại, căn nguyên niềm vui của một người thường khó mà biết được. Đôi khi nó có thể xoay quanh một vật dụng đơn thuần, như cái đèn; nó có thể ẩn giấu, giống như của Dancer, nơi những điều bí ẩn nằm sâu trong tâm lý. Nó có thể thích hợp với thất bại triền miên, và tìm thấy sự thi hành trong việc liên tục theo đuổi. Nó ít liên hệ với những thứ ở bên ngoài (như những gì người ta thấy trong sổ tay của anh ta) đến nỗi có thể chẳng chạm vào chúng được; và cuộc sống thực sự của con người, mà anh ta chấp nhận sống vì nó, hoàn toàn nằm trong trường tưởng tượng. Vị giáo sĩ, trong những giờ rảnh rỗi, có thể tham gia các trận chiến, người nông dân chèo thuyền, chủ ngân hàng gặt hái thành công nghệ thuật: tất tật đều sống một cuộc đời khác, làm một nghề khác với cái họ chọn; giống như người xây nhà của thi sĩ, kẻ, sau rốt, được bao phủ trong đá,
Dựng lại theo ý thích của mình.”
Trong một trường hợp như vậy thơ chìm đi mất. Người quan sát (linh hồn tội nghiệp, với tập tài liệu của anh ta!) hoàn toàn lạc lõng. Bởi nhìn vào con người kia chỉ tự chuốc lấy dối lừa. Chúng ta sẽ thấy thân cây nơi người ấy hút lấy chất dinh dưỡng; nhưng bản thân người ấy lại ở trên cao và lẫn giữa vòm cây lá, rì rào gió thổi và chim sơn ca làm tổ. Và thứ thực tại luận đích thực thuộc về các nhà thơ, kẻ leo lên theo người kia như một con sóc, và thoáng thấy thiên đường người ấy hằng sống.
Và, thực tại luận đích thực, luôn luôn và ở bất kỳ đâu, là thứ thực tại luận của các nhà thơ: để tìm ra nơi niềm vui ngự trị, và cất giọng vượt xa hơn cả tiếng hát.
Vì nếu bỏ lỡ niềm vui là bỏ lỡ tất cả. Trong niềm vui của các diễn viên có tồn tại nghĩa của bất kỳ hành động nào. Đó là lời giải thích, đó là lời biện hộ. Đối với kẻ không nắm được bí mật của những cái đèn mắt bò, cảnh tượng trên bãi cát kia hoàn toàn vô nghĩa. Và bởi vậy mà có sự phi thực đầy ám ảnh và vô cùng ma quái của những cuốn sách hiện thực. Bởi vậy mà có, khi chúng ta đọc các nhà văn hiện thực Anh, nỗi kinh ngạc đầy nghi hoặc khi chúng ta chứng kiến sự kiên định của vị anh hùng dưới thủy triều dâng cao của cái buồn tẻ, và cách anh ta chịu đựng mụ tình nhân gớm ghét, và nhẫn nại trước tràng huyên thiên của những ả ngẫn, và đứng vững trước toàn bộ cõi hoang vu chẳng có gì nổi bật của một cuộc tồn tại, thay vì tìm kiếm khuây khỏa trong nhậu nhẹt hay đi nước ngoài. Bởi vậy mà có chuyện ở Pháp, trong cái chợ bán thịt của nhục cảm tuổi trung niên, chúng ta ngạc nhiên đầy ghê tởm khi thấy người anh hùng lảng tránh, và dường chẳng hề bị cám dỗ, trước mọi mô tả về hành vi sai trái và ô nhục. Trong mỗi tác phẩm, chúng ta đều chẳng thấy chất thơ cá nhân, bầu không khí mê hoặc, cầu vồng lộng lẫy của trí tưởng tượng khoác lên những gì trần trụi và làm trở nên cao quý cái thấp kém; trong mỗi tác phẩm, cuộc sống đổ ập như bột nhão, thay vì bay lên như một quả bóng vào giữa các màu của hoàng hôn; mỗi tác phẩm đều xác thực, đều không thể nhận thức được; bởi không ai sống trong sự thật bên ngoài, giữa muối và axit, mà trong căn phòng ấm, huyền ảo của bộ não, với những ô của sổ vẽ và các bức tường đầy chuyện kể.
Về sự giả tạo này chúng ta đã có một ví dụ mới đây từ một người hiểu biết hơn nhiều – Sức mạnh bóng tối của Tolstoi. Đây là một tác phẩm đầy sức mạnh và sự thật, nhưng lại hoàn toàn không thực. Bởi vì trước khi Mikita bị đẩy vào tình huống tồi tệ như vậy anh ta đã bị cám dỗ, và các cám dỗ thì phần nào đó đều tuyệt đẹp; và một tác phẩm chỉ tập trung vào cái xấu xa của tội mà chẳng hề hé lộ bất kỳ vẻ đẹp nào trong sự cám dỗ, nó mắc tội chống lại sự khiêm nhường của cuộc sống, và kể cả khi được viết bởi một Tolstoi, nó bị sa lầy vào kịch mê-lô. Các nông dân không được hiểu; họ nhìn cuộc sống của họ bằng các màu đẹp hơn; ngay cả cô gái điếc cũng được khoác thơ lên mình đối với Mikita, nếu không thì anh ta chẳng bao giờ yêu. Và bởi vậy, một lần nữa, ngay cả kịch mê-lô ở Old Bailey, nếu thiếu đi chút ánh sáng của thơ và vẻ rực rỡ của sự tồn tại, cũng trở nên không thể nhận thức được và bị xếp vào hàng chuyện cổ tích.
IV
Trong các tác phẩm cao quý hơn chúng ta bị lay động bởi những cảm xúc của cuộc sống; và cảm xúc này được gợi lên theo nhiều cách khác nhau. Chúng ta xúc động khi Levine lao động trên đồng, khi André chìm đắm trong cảm xúc, khi Richard Feverel và Lucy Desborough gặp nhau bên bờ sông, khi Antony, “chẳng khiếp nhược, cởi bỏ mũ sắt của mình,” khi Kent thương xót vô bờ bến vua Lear hấp hối, khi, trong Bị sỉ nhục và lăng mạ của Dostoevsky, người anh hùng không than vãn đã uống cạn chén khổ đau và đức hạnh của mình. Đó là những nốt nhạc làm say đắm trái tim vĩ đại của con người. Không chỉ tình yêu, những cánh đồng, khuôn mặt sáng bừng của hiểm nguy, mà cả sự hy sinh và cái chết và những đau khổ không đáng phải chịu được chấp nhận cách nhún nhường, đều chạm đến mạch thơ của chúng ta. Chúng ta thích nghĩ về chúng, chúng ta khao khát được thử, chúng ta nhún nhường hy vọng rằng mình cũng có thể trở thành anh hùng.
Chúng ta đã nghe thấy, có lẽ, quá nhiều những chuyện vặt vãnh. Đây là cánh cửa, đây là không khí trong lành. Itur in antiquam silvam.
Những từ này hẳn quen thuộc với tất tật những ai yêu thích Juvenile Drama của Skelt [Juvenile Drama: Trò chơi thịnh hành tại Anh vào thế kỷ 19, những sân khấu thu nhỏ với các hình cắt giấy các diễn viên và bối cảnh của các vở kịch nổi tiếng ở London, để giải trí tại nhà; Benjamin Skelt là một trong các nhà xuất bản lớn của trò chơi này]. Công trình kỷ niệm quốc gia đó, sau khi đổi thành của Park, Webb, Redington, và sau rốt là Pollock, giờ đây đã trở thành, hầu hết, một ký ức. Một số trụ cột của nó, giống như Stonehenge, vẫn tồn tại, còn lại thì đã hoàn toàn mất sạch. Có thể Bảo tàng sở hữu trọn bộ; và có lẽ Mr. Ionides, hay Nữ hoàng nhân từ, vô cùng tự hào về bộ sưu tập lớn của họ; nhưng đối với thường dân, chúng đã trở nên, giống như tranh Raphael, không thể với tới. Tôi từng sở hữu, vào những thời điểm khác nhau, các bộ Aladdin, Red Rover, Cậu bé mù, Cái rương sồi cũ, Wood Dæmon, Jack Sheppard, Ông chủ cối xay và thợ, Der Freischütz, Tay buôn lậu, Khu rừng ở Bondy, Robin Hood, Tay chèo thuyền, Richard Đệ nhất, Poll và Joe của tôi, Tiếng chuông Inchcape (bộ không hoàn chỉnh), và Jack ba ngón, nỗi kinh hoàng của Jamaica; và tôi đã hỗ trợ vài người khác trong việc minh họa cho các vở Cô hầu quán trọ và Trận Waterloo. Trong danh sách những cái tên gây xúc động này bạn sẽ thấy bằng chứng về một tuổi thơ hạnh phúc; và dẫu cho không đến một nửa trong số chúng vẫn còn được bán ở bất kỳ cửa hàng văn phòng phẩm nào, trong tâm trí những người từng là chủ nhân hạnh phúc của chúng tất tật đều còn tồn tại, những bức tranh sống động muôn hình, những vang vọng của quá khứ.
Tôi tưởng tượng rằng, cho đến tận hôm nay (nhưng giờ thì đã tàn tạ làm sao!) vẫn còn một hiệu văn phòng phẩm nào đó ở một góc con đường rộng chỗ nối liền thành phố tuổi thơ của tôi với biển. Mỗi khi, vào mọi thứ Bảy, tụ tập đi ngắm các con tàu, chúng tôi băng qua góc phố ấy; và hồi ấy tôi yêu tàu thủy như người ta yêu rượu Burgundy hay yêu bình minh, chỉ mỗi việc đó cũng đủ để thánh hóa nơi này. Nhưng vẫn còn hơn thế nữa. Trong khung cửa sổ hiệu Leith Walk, quanh năm, người ta trưng bày ở đó một rạp hát đang hoạt động, với một cảnh “rừng,” một cảnh “chiến trận,” và vài “tên cướp đang chè chén” trên các tấm trượt; và bên dưới và xung quanh đó, quý giá hơn gấp mười lần đối với tôi! chính là các vở kịch, những xấp lãng mạn ấy, nằm lẫn lộn tựa vào nhau. Tôi đã nhiều lần nấn ná ở đó với cái túi rỗng không. Một hình người, chúng ta có thể nói vậy, có thể thấy rõ trong tấm bảng các nhân vật đầu tiên, râu rậm, tay cầm súc lục, hoặc đang rút ra từ lỗ tai hắn mũi tên dài một thước; tôi sẽ đánh vần cái tên: là Macaire, hay Long Tom Coffin, hay Grindoff, với trang phục thứ hai? Ôi, tôi khao khát được thấy phần còn lại quá đỗi! Tôi sẽ thắc mắc biết bao – nếu tên hắn vô tình bị che khuất – rằng hắn sẽ diễn trong vở nào, và truyền thuyết bất hủ nào đã lý giải cho tư thế và trang phục lạ lùng của hắn! Và rồi khi đã bước vào trong, tự xưng mình là một người có ý định mua, và, dưới sự giám sát chặt chẽ, được phép mở các gói kia ra và đọc ngấu nghiến đến nín thở các trang đầy những kẻ hung ác khua tay múa chân, những trận đánh kịch tính, những khu rừng rậm rạp, các cung điện và chiến hạm, những pháo đài kiên cố và các hầm ngục - đó là một niềm vui làm choáng váng. Cửa hiệu ấy, tối tăm và bốc mùi kinh thánh, là một hòn đá nam châm hút vào tất tật những ai mang cái tên của một đứa con trai. Chúng không thể đi ngang qua chỗ đó, cũng không thể, khi đã bước vào, đi khỏi đó. Đó là một nơi bị bao vây; những người bán hàng, giống như người Do Thái đang xây dựng lại Salem, đều mang nhiệm vụ kép. Họ giữ rịt lấy chúng tôi, cau mặt nhìn xuống chúng tôi, giật lấy từng vở kịch khỏi tay chúng tôi trước khi chúng tôi được trao cho một vở khác, và, nghe có vẻ hết sức khó tin, họ thường hỏi gặng ngay khi chúng tôi bước vào, như bọn cướp, rằng chúng tôi đem theo tiền hay đi tay không. Chính Mr. Smith già, mệt bã bởi sự do dự muôn thuở của tôi, có lần đã gạt đi những kho báu kia ngay trước mặt tôi, la tướng lên: “ta không tin, nhóc con, là cháu định mua bất cứ cái gì!” Đó là những con rồng trong khu vườn; nhưng vì những niềm vui thiên đường như thế mà chúng tôi hẳn phải đối mặt với chính nỗi kinh hoàng của Jamaica. Mỗi trang ngón tay chúng tôi lật giở là một cái liếc mắt chớp nhoáng vào câu chuyện bí ẩn, thích mê; cứ như thể đang đắm mình trong chất liệu thô của những quyển truyện. Tôi không biết có gì sánh được với chuyện ấy ngoại trừ thỉnh thoảng trong các giấc mơ, khi tôi có đặc quyền được đọc những câu chuyện phiêu lưu còn chưa được viết, rồi tôi tỉnh dậy và thấy thế giới hoàn toàn hư ảo. Vấn đề nan giải của con lừa của Buridan chẳng là gì so với sự không chắc chắn của cậu bé khi được vuốt ve và nấn ná và âu yếm những cái gói đầy sung sướng ấy; có một niềm vui thể chất trong việc nhìn ngắm và chạm vào chúng mà cậu sẽ kéo dài ra một cách đầy ganh tị; và khi cuối cùng việc đã xong, vở kịch đã được chọn, và người bán hàng thiếu kiên nhẫn kia đã nhét phần còn lại vào cái cặp xám, và cậu bé trở ra ngoài, hơi muộn cho bữa tối, những ngọn đèn bừng sáng trong buổi chiều đông phủ sắc lam, và Ông chủ cối xay, hay Red Rover, hay một vở kịch nào đó tương tự được cậu ôm chặt bên mình – bước chân cậu chạy đi mới vui làm sao, và cậu cười thật to trong nỗi hân hoan! Tôi vẫn còn nghe thấy tiếng cười ấy. Trong suốt những năm tháng đời mình, tôi có thể chỉ nhớ được một lần trở về nhà có thể so sánh với những lần như thế, và đó là vào cái đêm tôi mang về Nghìn lẻ một đêm trong cuốn sách cũ, dày cộp, chia hai cột với các hình minh họa. Tôi vừa mới bị hút vào câu chuyện về Người gù, tôi nhớ vậy, thì ông nội mục sư của tôi (người mà chúng tôi xem là khá cứng rắn) bước đến phía sau tôi. Tôi mờ mắt đi vì sợ chết khiếp. Nhưng thay vì ra lệnh dẹp cuốn sách đi, ông nói rằng ông ghen tị với tôi. A, có lẽ ông ghen tị thật!
Việc trả tiền mua và nửa giờ đầu tiên ở nhà, đó là tột điểm. Từ đó trở đi cơn hứng thú dần dần suy giảm. Câu chuyện cổ tích, như được trình bày trong kịch bản, hóa ra lại không xứng đáng với các cảnh và các nhân vật: chuyện cổ tích nào mà chẳng thế? Những đoạn như: “Xen 6. Nơi ẩn dật. Cảnh đêm. Đặt sau xen 1, hình số 2, đằng sau sân khấu và nơi ẩn dật, Hình 2, ngoài bối cảnh, R.H đứng nhìn nghiêng” – những đoạn như thế, tôi cho rằng, dù rất cụ thể, khó mà gọi là hay được. Thật vậy, về mặt văn chương, những vở kịch này chẳng hấp dẫn tôi lắm. Tôi quên cả cốt truyện sơ lược. Về vở Cậu bé mù, ngoài việc cậu ta là hoàng tử bị thương nặng nhất và có một lần, tôi nghĩ, bị bắt cóc, tôi chẳng biết gì thêm. Còn vở Cái rương gỗ sồi cũ, rốt cuộc nó nói về cái gì? Kẻ bị kết án kia (trang phục thứ nhất), đám cướp đông đảo kia, bà già cầm cây chổi kia, và nhà bếp tráng lệ trong màn thứ ba (có phải màn thứ ba không nhỉ?) – tất tật đều rơi vào một mớ hỗn độn, lờ mờ hiện lên trong đầu tôi, lẫn lộn và tan biến.
Tôi không thể phủ nhận rằng nỗi sung sướng đến cùng màu sắc rực rỡ; tôi cũng không thể quên được đứa trẻ ấy, tự nguyện khước từ niềm vui, rạp mình xuống “tô màu hai xu.” Màu đỏ thẫm (hãy nghe âm thanh của nó – đỏ thẫm! – tiếng kèn của xứ thần tiên không thể nào vui thích hơn với lỗ tai) – màu đỏ thẫm pha với màu lam Phổ nhất định tạo thành một màu tím mà, đặc biệt dùng để tô các áo choàng, Titian cũng không thể tạo ra được. Màu thứ hai đó pha với màu vàng nghệ, cái tên thật đáng ghét dẫu chất màu tuyệt đẹp, tạo ra một loại màu lục của rau mùi mà mãi đến giờ trái tim tôi vẫn còn nuối tiếc. Tôi cũng không thể nhớ lại mà không cảm thấy một chút xao xuyến hình ảnh của vũng màu mà tôi nhúng cọ vào. Vâng, có niềm vui trong việc vẽ màu. Nhưng khi mọi thứ đã được tô xong, chẳng cần phải chối làm gì, tất tật đều hỏng. Bạn có thể, thật vậy, dựng lên một hoặc hai cảnh để ngắm; nhưng cắt các hình nhân thì đơn giản là tội phạm thánh; cũng chẳng có đứa trẻ nào có thể chịu đựng được đến hai lần sự nhàm chán, phiền phức, và sự hết ảo tưởng kéo dài trước một buổi biểu diễn. Hai ngày sau khi mua mật đã bị hút cạn. Bố mẹ thường phàn nàn; họ nghĩ tôi đã chán trò chơi của mình. Không phải vậy: một người chẳng thể bị cho là chán bữa tối của mình khi anh ta chừa lại xương và bát đĩa; tôi đã nắm được tinh túy của nó và nói lời tạ ơn.
Rồi thì cũng đến lúc lật lại bìa sau của cuốn sách-kịch và xem xét vài dòng đầy hấp dẫn của những cái tên, nơi thơ, đối với đứa con thực thụ của Skelt, ngự trị đầy hạnh phúc và huy hoàng giống như Nữ Hoàng. Dù đã du hành khắp các vương quốc bằng vàng này, tôi vẫn chưa thấy, trên tấm bản đồ hay trong bảng tóm tắt ấy, những cái tên của El Dorados vẫn ám ảnh trong ký ức, mà vẫn chỉ là những cái tên. Hải đăng nổi
Bản thân cái tên Skelt dường đã luôn là một phần không thể thiếu tạo nên sức hút trong các tác phẩm của ông. Nếu là hoa hồng thì có lẽ đã khác, nhưng sức hấp dẫn của loại kịch giấy này đã giảm sút đáng kể khi Webb lẻn vào tiêu đề: một con chim cu khốn khổ, phô trương trong tổ của Skelt. Và giờ chúng ta đã đến với Pollock, dò đến những đáy vực còn sâu hơn. Thật vậy, cái tên Skelt dường có vẻ quá kịch tính và có mùi cướp biển, đến nỗi tôi sẽ mạnh dạn dùng nó để mô tả các phẩm chất này. Thế thì, tính Skelt là một phẩm chất của nhiều loại nghệ thuật. Thậm chí người ta còn có thể tìm thấy nó, phải nói vậy với lòng kính trọng, trong số các tác phẩm của tự nhiên. Vẻ kịch tính là tên gọi chung; nhưng đó là một tính chất kịch đã cũ, khép kín kiểu dân đảo, của nhà trồng được; không giống kiểu Pháp, mà là kiểu Anh nội địa; không thuộc thời nay, mà thoang thoảng hơi hướm của O. Smith, Fitzball, và thời hoàng kim của kịch mêlô: một mùi hương đặc biệt ám lên nó; truyền tải thông điệp chẳng quan trọng của nó bằng một tông giọng mang nét quyến rũ của thời cổ xưa còn rõ rệt. Tôi sẽ không nhấn mạnh vào nghệ thuật của những người tạo ra tác phẩm của Skelt. Các nhân vật tuyệt diệu từng làm rung động tâm hồn chúng ta với thái độ táo tợn, dàn vũ khí chết chóc và trang phục độc nhất vô nhị, ngày nay trông có vẻ nhợt nhạt; sự đối xử khắc nghiệt quá mức với các nữ anh hùng từng khiến tôi ấn tượng, giờ tôi phải kêu lên đau đớn; vẻ mặt cau có của kẻ ác không còn làm tôi rùng mình như một cây kèn trumpet nữa; và bản thân các xen, những phong cảnh đã từng là vô song ấy, giờ đây trông như thể sản phẩm của bàn tay kẻ học việc. Chúng ta tìm ra vô vàn lỗi; nhưng mặt khác nhà phê bình không thiên vị lại vui mừng nhận thấy hiện diện một sự đồng nhất tuyệt diệu của niềm vui thích; của những lời kêu gọi ngoa ngoắt thẳng thừng, mà người ta hẳn sẽ chết và bị chôn ngay nếu không hưởng ứng; của sự hào nhoáng sân khấu, cái đẹp hoa mĩ được làm sẵn, trần trụi, đem đến từ bên kia đại dương, một thứ không khớp với thực tại lạnh lẽo, nhưng lại thân thuộc biết bao với tâm trí!
Phong cảnh của Sleltdom – hoặc, liệu chúng ta có thể gọi như thế, vương quốc Transpontus? – có một đặc điểm nổi bật. Dẫu bối cảnh có là ở Ba Lan trong Cậu bé mù, hay Bohemia trong Ông chủ cối xay và thợ
Một lời khuyên: dường như B. Pollock, rồi sau đó J. Redington, ở số 73 Hoxton Street, không chỉ xuất bản hai mươi ba vở kịch cũ được yêu thích này, còn sở hữu những bản kẽm cần thiết và thể hiện một sự sẵn sàng đầy nhún nhường để phát hành thêm ba mươi ba vở nữa. Nếu bạn yêu nghệ thuật, sự ngớ ngẩn, hoặc đôi mắt sáng của trẻ con, mau mau đến chỗ Pollock, hay đến chỗ Clarke ở Garrick Street. Trong danh sách các vở sẽ được xuất bản của Pollock tôi đọc thấy hai vở hằng mong ước từ lâu: Xác tàu đắm và
Công Hiện dịch
Biện bạch cho người ngồi không
