Thomas Mann: Nghĩ chiến tranh
Tháng Tám năm 1914 khi quân đội Đức tiến hành xâm lược Bỉ - một đất nước trung lập lúc ấy, cũng trong ngày hôm ấy, cuộc chiến giữa Anh và Đức bùng nổ. Tại thời điểm đó, Thomas Mann, một người đàn ông ba mươi chín tuổi, đang là một tác giả được nhắc đến với những lời có cánh từ thành công của tác phẩm đầu tay Buddenbrooks (1901). Là một người được trọng vọng không ít trong vòng tròn văn hóa tại Munich nơi ông sinh sống, Mann tham gia các buổi hòa nhạc, đọc Goethe, làm bạn với các nhà soạn nhạc, cho con cái đi học tại Volksschule và chưa từng tỏ ra hứng thú với chuyện chính trị. Ông là hiện thân của con người thành thị theo định nghĩa của ông - một burgher đúng nghĩa.
Năm 1914 đã thay đổi mọi thứ, từ một người chẳng bao giờ đả động đến các câu chuyện chính trị, Mann trở thành người biện hộ cho nước Đức cứng rắn và gây kích động trên khắp châu Âu bằng việc viết báo và diễn thuyết. Có thể thấy trong suốt hai thập kỷ sau đó, ông dường như tạm gác lại sự nghiệp văn chương và cống hiến toàn bộ trí lực để bảo vệ nước Đức trước cuộc tổng tấn công dữ dội từ những lý tưởng xa lạ của các nước phương Tây khác, khi họ đặt nền dân chủ là trọng tâm và mục tiêu hướng đến.
Chính vào năm 1914, Mann từ bỏ thái độ lạnh nhạt với chuyện chính sự trước đó của mình, ông nhiệt tình đáp trả chiến tranh, dẫu những quan điểm của ông giờ đây rất khó để được đọc và đánh giá khách quan, khi lịch sử đã diễn tiến theo một cách không ai ngờ. Nhưng vào thời điểm ấy, các quan điểm của Mann có thể được nhìn nhận là hoàn toàn thông thường. Trong ba tháng đỉnh điểm kể từ lúc chiến tranh nổ ra, Mann co đăng bài báo chính trị đầu tiên, mang tên “Những suy nghĩ về thời chiến”. Bài báo nhanh chóng khuấy đảo văn đàn thế giới, thậm chí nhiều người hoài nghi về con người Mann, không biết ông có còn là người đã xuất bản cuốn tiểu thuyết đầu tay được cả châu Âu đón nhận, Buddenbrooks, hay không.
Bài báo được cho là không khác gì một tuyên bố phát động chiến tranh, và được chính gọi là: Cuộc chiến của “Văn hóa” chống lại sự giả tạo của “Văn minh”. Trong cách biểu đạt của người Đức, Văn minh đại diện lý trí, sự hoài nghi, chủ nghĩa nhân đạo, nền dân chủ, và sự cấp tiến; trong khi đó, Văn hóa là sự nguyên thủy, hấp thụ năng lượng từ phần đen tối trong bản tính con người và tạo ra những cảm nhận sâu sắc vĩ đại hơn, và vì thế tạo nên nghệ thuật vĩ đại hơn. Những gì các nước châu Âu khác (Pháp và Anh) mong muốn thì Mann cho là phá hủy văn hóa Đức và biến nó thành một quốc giả tư bản bị thuần hóa, dân chủ hóa, suy đồi của tầng lớp tiểu bourgeois tầm thường.
Những suy nghĩ về thời chiến
- Thomas Mann
Báo chí ngày nay rất hay dùng các từ “văn hóa” và “văn minh” không chính xác và tùy tiện. Đôi khi chúng còn được đối xử [dùng] tương đương nhau, đôi khi như thể cùng nằm trong một trường nghĩa. Và không thể hoàn toàn phân định từ nào trong hai từ đó - văn hóa hay văn minh - thì vượt trội hơn cái còn lại. Còn đây là cách tôi hiểu về chúng.
Văn minh và văn hóa không chỉ không giống nhau, chúng đối lập. Chúng nằm trong số rất nhiều các cách diễn đạt của sự mâu thuẫn vĩnh cửu giữa tinh thần và tự nhiên. Không ai phủ nhận rằng Mexico có một nền văn hóa khi nó được người châu Âu khám phá. Nhưng ai có thể chứng minh rằng đó là một sự văn minh? Văn hóa thường chỉ là sự hoang dại mỹ miều, chứ không phải cái đối lập của sự man rợ. Trong số tất cả các dân tộc cổ đại, có lẽ chỉ người Trung Quốc đã thực sự có văn minh. Văn hóa đại diện sự thống nhất, phong cách, hình thức, thái độ, khẩu vị - nói ngắn gọn, một sự tổ chức cụ thể cho trí tuệ và tinh thần của thế giới, dẫu cho nó có mạo hiểm, dị thường, hoang dã, tàn bạo và khủng khiếp. Văn hóa có thể bao gồm sự tiên tri, phép thuật, sự ái nhi của một người đàn ông trưởng thành đối với các bé trai, các vị thần chiến binh, sự hiến tế của loài người, các giáo phái hoang dâm, các toà án dị giáo, những kẻ dị giáo bị thiêu sống, những căn bệnh quái dị, các cuộc xét xử phù thủy, sự ưa chuộng việc đầu độc, và những điều đáng kinh tởm sặc sỡ khác. Văn minh, mặt khác, bao gồm lý trí, sự khai sáng, tiết chế, giáo dục đạo đức, sự hoài nghi - nói cách khác, tinh thần. Tinh thần thì văn minh và có tính cách thành thị - và là kẻ thù chí cốt của các xung động và dục vọng. Mâu thuẫn chỉ nằm ở vẻ bề ngoài khi cho rằng nó [sự văn minh] có thù địch với thiên tài.
Thiên tài, đặc biệt là tài năng nghệ thuật, có thể có tinh thần và tham vọng để sở hữu nó [tinh thần]. Thiên tài có thể tin rằng tinh thần mang lại phẩm giá và dùng nó để tỏa sáng và có một ảnh hưởng. Điều này không hề thay đổi sự thể thiên tài hoàn toàn thuộc về phía bên kia, rằng nó là sự tỏa ra của một thế giới sâu hơn, tối hơn, sục sôi, và sự hiển dung và thuần hóa của nó thông qua biểu hiện (style) mà ta gọi là văn hóa. Pha trộn thiên tài với khía cạnh tinh thần, trí tuệ, khoái cảm, thậm chí với sự sắc sảo (wit) là một điều thuộc hiện đại. Chúng ta đều bị cám dỗ làm điều đó, song nó vẫn là một sai lầm. Turgenev từng sắc sảo bày tỏ sự không liên quan của tinh thần đối với nghệ thuật khi ông nhờ một biên tập viên trả lời bản thảo của một tác giả nghiệp dư rằng: “Anh có nhiều tinh thần nhưng chẳng có tài năng. Và văn chương chỉ chấp nhận tài năng.”
Nghệ thuật, cũng như mọi nền văn hoá, là sự biến đổi của cái hoang dã (the daemonic). Phép tắc của nó còn nghiêm khắc hơn điều tương tự từ các hành vi xã hội có giáo dục, sự hiểu biết của nó sâu sắc hơn sự khai sáng, sự độc lập và vô trách nhiệm của nó tự do hơn sự hoài nghi. Kiến thức của nó không không phải khoa học, mà là tính dục và sự thần bí. Bởi vì như mọi thứ tự nhiên khác, yếu tính của tính dục là sự thần bí.
Goethe, người có những nghiên cứu tự nhiên được Helmholtz gọi là “những trực giác khoa học”, cảm nhận được trận động đất Messina vào ban đêm trong phòng ngủ của ông tại Weimar bằng những phương tiện tự nhiên huyền bí mà không ai biết rõ là gì. “Nghe này, Goethe đang phát cuồng,” các quý cô trong triều đình phản hồi khi nghe ông ấy tuyên bố về hiểu biết bí ẩn của mình và cố gắng trình bày nó như thể một sự quan sát và suy luận. Song tin tức về thảm họa đến sau vài ngày. Người Đức hoang dã nhất và người con tinh tế nhất của tự nhiên đã thờ ơ nhận tin tức về cuộc Cách mạng Pháp, điều ấy không chỉ phát xuất từ một ý thức về trật tự, mà đặc biệt bởi vì nó hoàn toàn là một công trình của cái tinh thần văn minh.
Còn nghệ thuật? Nó là vấn đề của văn minh hay văn hóa? Chúng ta trả lời không chút do dự: Nghệ thuật cách xa tiến bộ và sự khai sáng và những tiện nghi của một xã hội có trật tự, và thẳng thắn không đoái hoài gì đến tiến trình văn minh. Nghệ thuật của nhân loại hoàn toàn phi chính trị và sự phát triển của nó độc lập với các quốc gia và các xã hội. Nghệ thuật không chào đón sự cuồng tín và mê tín, nhưng cũng không ngăn cản chúng trở nên thịnh vượng. Và chắc chắn rằng nghệ thuật quen thuộc với các dục vọng và tự nhiên, hơn là lý trí và tinh thần. Tính cách mạng của nó chỉ mang nghĩa cơ bản, không mang ý nghĩa của tiến bộ lịch sử. Nghệ thuật bảo tồn và định hình, nó không tan rã. Người ta vinh danh nó bằng cách nối nó vào tôn giáo và tình dục. Cũng nên nối nó vào một sinh lực khác nguyên thủy và nền tảng, cái đang một lần nữa rúng động châu lục và trái tim của chúng ta: Tôi đang nói đến chiến tranh.
Chẳng phải nghệ thuật và chiến tranh liên hệ gián tiếp với nhau sao? Tôi đã luôn luôn cho rằng không phải người nghệ sĩ tồi tệ nhất mới nhận ra mình trong hình ảnh người lính. Nguyên tắc hàng đầu ngày nay trong chiến tranh - sự tổ chức - rốt cuộc, cũng là nguyên tắc cốt lõi đầu tiên của nghệ thuật. Sự kết hợp của lòng nhiệt thành và trật tự; suy nghĩ có hệ thống; sự phát triển của các nguyên tắc chiến lược, trong khi, có thể nói là “duy trì chuỗi cung ứng”; sự vững chắc, chính xác, cẩn trọng; dũng cảm, bền bỉ trước gian truân và đánh bại khi phải đối mặt với các chất liệu ngoan cố - đây là những phẩm chất có trong cả quân sự và nghệ thuật. Cũng như sự coi thường an ninh (nỗi lo chính yếu của người thành thị), thói quen luôn luôn trong trạng thái cảnh giác với đời sống, thói tự phê phán tàn nhẫn, chủ nghĩa triệt để về đạo đức, và sự tận hiến cả thể xác lẫn linh hồn cho một lý tưởng cực đoan, mà nếu không có những điều đó thì chẳng có gì có vẻ đáng làm. Và tất cả như một biểu hiện của sự trau dồi, và danh dự, và một ý nghĩa cho tất tật những thứ đẹp đẽ và lấp lánh. Nghệ thuật đã được gọi rất đúng là một cuộc chiến, một cuộc vật lộn khắc nghiệt. Từ “Dienst” trong tiếng Đức, mang nghĩa là nghĩa vụ còn chính xác hơn ở đây. Nghĩa vụ của người nghệ sĩ hẳn phải có sự liên quan rất gần đến một người lính hơn là tới một giáo sĩ. Sự đối lập của nghệ sĩ và công dân thị thành trở nên phổ biến qua văn chương còn được gọi là một tàn dư lãng mạn, tôi nghĩ điều này không đúng cho lắm. Tôi không định so sánh dân thị thành và người Gypsy1, mà tôi muốn đặt đối trọng với quân nhân.
Trái tim của các nhà thơ liền bùng cháy khi chiến tranh nổ ra! Và họ đã nghĩ rằng họ yêu hòa bình - thực sự yêu nó, mỗi người đều có sự nhân đạo của mình, một số thì như đám nông dân, số khác thì vì sự nhu mì và nền giáo dục Đức. Giờ đây họ hát về chiến tranh như thể đang trong một cuộc thi, ca ngợi nó như thể chẳng có gì tốt đẹp hơn, đẹp đẽ hơn, hay hạnh phúc hơn có thể xảy đến với họ và với những người được họ lên tiếng thay cho, và một ác cảm tuyệt vọng, áp đảo cuối cùng đã nổi dậy chống lại họ. Ngay cả những kẻ nổi tiếng và thành công nhất cũng cảm thấy biết ơn chiến tranh và chào đón nó không kém phần nhiệt thành so với những linh hồn tốt đẹp, kẻ đã bắt đầu bài hát chiến tranh của mình với tiếng reo hò, “Tôi cảm thấy được sinh ra lần nữa”!
Để diễn giải hành vi của các nhà thơ, ngay cả trong những trường hợp không đáng nói, đơn thuần là sự tò mò, thích khám phá, hay sự hăng hái đầy cảm xúc đều có thể xem là quá sơ sài, vô căn cứ. Họ chưa bao giờ cổ vũ những nhà yêu nước hay “những kẻ theo chủ nghĩa đế quốc”, chỉ vì họ hiếm khi bày tỏ thẳng thắn về chính trị, ngay cả với bản thân họ. Trận chiến ngay lập tức mang lại những điều kỳ diệu và nghịch lý cho đất nước, bao gồm sự hợp tác thân thiết như anh em giữa Đảng Xã Hội Dân Chủ và chính quyền quân sự, tới mức mà một tác giả theo đường lối triệt để phấn khích thốt lên, “Dưới chính quyền quân sự độc tài, nước Đức đã được tự do!” Cuối cùng, không một cái gì từ những điều này chứng tỏ mình là chất liệu dành cho các nhà thơ. Mặc dù họ không phải là những người quan tâm đến chính trị, họ luôn luôn là những nhà đạo đức. Chính trị là vấn đề của lý trí, dân chủ và văn minh; đạo đức thì quan tâm đến văn hóa và linh hồn.
Hãy nhớ lại sự khởi đầu của cuộc chiến, những ngày đầu tiên không thể nào quên ấy, khi một điều gì đó thực sự vĩ đại xảy ra, điều không ai còn nghĩ là có thể! Chúng ta đã không còn tin vào chiến tranh; suy nghĩ chính trị của chúng ta không có khả năng nhận ra sự cần thiết của một thảm họa châu Âu. Là những sinh vật đạo đức, mặc dù ta đã thấy tai họa đến gần - hơn cả thế, chúng ta thậm chí ở một mức độ nào đó còn mong cho chúng xảy đến. Sâu thẳm trong trái tim chúng ta, ta cảm thấy rằng thế giới, cái thế giới của chúng ta, không thể tiếp tục theo cái cách mà nó đang diễn ra.
Ta đã quen với cái thế giới của hoà bình và cung cách lố lăng. Trên thực tế, chúng ta đã biết điều này rõ hơn cả những kẻ, mặc cho sự vĩ đại của cá nhân họ, đã mang sứ mệnh kinh hoàng của việc châm ngòi chiến tranh. Chúng ta phải chịu đựng thế giới này với toàn bộ tâm trí và linh hồn của mình sâu sắc hơn những kẻ đó. Một thế giới tệ hại kinh hoàng không còn tồn tại - hoặc sẽ không tồn tại một khi cơn bão đã qua! Chẳng phải nơi đó nhung nhúc những thứ ký sinh tinh thần như lũ dòi bọ hay sao? Chẳng phải nơi đó cũng đang sôi sục và bốc mùi thối nát của sự văn minh hay sao? Giá mà nó chỉ vô chính phủ, không có đường lối hay niềm tin, hay là thương mại hóa tàn nhẫn, thì mọi thứ đã có khả năng được giải quyết. Nhưng chính sự phản kháng và kháng lại độc tố trong nội tại chỉ làm trọn vẹn hơn sự gớm ghiếc của chính nó [thế giới]. Một phản ứng và phục hồi đạo đức đã được chuẩn bị. Một ý chí mới để khước từ những gì đã bị khước từ, từ chối cảm thông với vực thẳm. Một ý chí cho sự thẳng thắn, trung thực, và sự toàn vẹn muốn được thành hình. Tạo điều kiện cho những kẻ nhân cơ hội chớp lấy thời cơ và xem đó là thời thượng. Đạo đức đã trở thành một thể loại trò chơi cho các lực lượng suy đồi. Phẩm giá trở thành một điệu bộ đơn thuần, một lời sáo rỗng và một sự bất khả. Kẻ xấu giờ đây được cho là tốt trên danh nghĩa tinh thần, và - một điều đáng ghê tởm - người tốt được xem là xấu bởi vì sự bất an và bối rối của họ. Có quá đáng không nếu nói rằng chẳng còn một nguyên tắc thực tại, không còn một ý chí muốn lên án? Rằng thực tế chẳng còn ai biết mình cần phải làm gì? Những điều từng là danh dự với họ chỉ là một trò lừa bịp, trưởng giả? Đối với sự vô liêm sỉ, thì ít nhất nó cũng cho thấy tài năng. Nó thậm chí còn giả bộ là hình thức bẩn thỉu của sự hào phòng, tự đắc vô ích trong sự tán thưởng của những kẻ chỉ có một nỗi bận tâm duy nhất: không bỏ lỡ cơ hội. Bằng cách nào mà nghệ sĩ - người lính trong người nghệ sĩ ấy - không tạ ơn Chúa vì sự sụp đổ của cái thế giới hòa bình mà anh ta đã chán ngấy, chỉ chán ngấy thôi?
Chiến tranh! Nó như một sự tự gột rửa, một sự giả phóng, và một hy vọng lớn lao. Nó là tất cả những gì các nhà thơ có thể nói đến. Đế quốc, hay là sự kiểm soát kinh tế, thậm chí là chiến thắng thì có ý nghĩa gì với họ? Những chiến thắng của chúng ta, những thắng lợi của nước Đức có thể mang tới nước mắt và khiến ta mất ngủ vì niềm hạnh phúc tột độ. Nhưng hãy nhận ra rằng những điều đó không phải điều mà các nhà thơ ca ngợi. Vì vậy vẫn chẳng có bài hát chiến thắng nào. Điều gây cảm hứng cho các nhà thơ nằm ở bản thân cuộc chiến, như một sự thăm viếng và nhu cầu đạo đức. Sự thống nhất sức mạnh và nhiệt huyết của quốc gia trong sự chuẩn bị cho thử thách vĩ đại nhất chưa từng được thấy trước đây. Nó thể hiện một sự sẵn sàng triệt để cho cái thử thách chưa từng có trong lịch sử. Toàn bộ sự căm ghét nội tại mà sự thoải mái của hòa bình đã đầu độc chúng ta giờ đang ở đâu? Một phi lai của những bất hạnh được sẻ chia xuất hiện. “Chúng ta bị bao vây và tách ra khỏi những nguyên liệu thô, và nhân dân sẽ không có công việc lẫn bánh mì, vì thế chúng ta sẽ tự đánh thuế. Chúng ta sẽ lấy hai phần ba - không, chín phần mười! - từ tài sản của những người giàu có nhất. Ta sẽ tự nguyện tạo ra một Công Xã Đức (German Commune) có trật tự để cho nước Đức có thể tồn tại.” Đấy là điều ít nhất mà ta có thể làm. Và khi có những quyết định đầu tiên, khi những lá cờ được giương lên, những quả pháo nổ được châm ngòi, và khi quân đội nhân dân oai hùng tiến tới các cánh cổng của Paris - chẳng phải trong bầu không khí ấy có thứ gì đó như là sự thất vọng hay vỡ mộng ư? Chẳng phải như thể tất tật đều quá dễ dàng, như thể sự suy sụp tinh thần của đám kẻ thù kia đã lấy cắp đi những giấc mộng đẹp nhất của chúng ta đấy sao?
Dẫu vậy đừng lo lắng! Chúng ta chỉ mới bắt đầu thôi và sẽ không bị tước đi bất kỳ phiên xét xử nào. Friederick Đại đế2, sau tất cả những hành động anh hùng của mình, trong lúc như sắp bị đánh bại trong Cuộc chiến Bảy Năm thì tình cờ gặp may, sự chuyển giao quyền lực tại Nga đã cứu thoát ông ta. Và nước Đức hôm nay chính là Friederick Đại Đế. Đây chính là cuộc chiến của ông ấy và chúng ta đang kết thúc nó, chúng ta phải chiến đấu lần nữa. Các thành viên liên minh đã có chút thay đổi, nhưng vẫn là châu Âu ấy liên minh trong sự căm ghét và khước từ việc chịu đựng chúng ta, vẫn khước từ chịu đựng ông ấy, đức vua. Với châu Âu đó, không còn nghi ngờ gì về việc nó cần được chứng tỏ một lần nữa, suốt hơn bảy năm, có lẽ việc loại bỏ ông ấy là bất khả thi. Cũng chính linh hồn của Friederick đã thức tỉnh trong chúng ta, với một tổ hợp những hành động bất khả chiến bại và sự kiên nhẫn tối đa, sự triệt để đạo đức khiến ông ấy trở nên đáng kinh tởm và ghê sợ đối với kẻ thù của mình, như một loài vật kỳ lạ và độc ác. Họ chẳng biết gì về bản tính không bị ràng buộc của ông ấy - làm sao mà họ biết được trong khi đối với họ xung đột không phải vấn đề của sống và chết? Và điều này mang lại lợi thế đạo đức cho ông ấy. Cũng chẳng có khả năng tin rằng ngày nay họ có thể hiểu được chiều sâu trong sự kiên định của người Đức - một số đã trở nên quá bourgeois, số khác thì thô lậu và nhàm chán. Nhưng hôm nay, Friederick đã trở nên mạnh đến mức mà người ta chiến đấu cho chính mạng sống của họ - và họ lấy ba chọi một. Đừng lo, chúng ta sẽ kiểm chứng! Chiến thắng của nước Đức sẽ là một nghịch lý vô song, thậm chí là một phép mầu, một chiến thắng của linh hồn trước nhiều người. Niềm tin vào thắng lợi ấy là phi lý. Rằng nước Đức sẽ giữ vững sự chắc chắn, bình tĩnh với niềm tin ấy, rằng đây là khởi đầu của một phép mầu, không bao giờ bị lãng quên vĩnh viễn. Nhưng trông đợi vào chiến thắng sẽ tước đi cảm nhận của chúng ta về trái ngọt đạo đức từ sự vật lộn vất vả. Theo lý lẽ thông thường (nhưng lại không đúng với chúng ta, những kẻ đã biết), tình cảnh của chúng ta tuyệt vọng hơn là hoàn cảnh đức vua từng trải qua. Chúng ta đang ở trong sự khốn khổ, thống khổ sâu sắc. Và chúng ta chào đón nó, bởi vì nó nâng đỡ chúng ta.
Friederick của vương quốc Phổ từng có một người bạn mà ông vừa khâm phục và khinh bỉ, và cũng là người vừa ngưỡng mộ và ghét cay ghét đắng nhà vua. Đó chính là Voltaire - tác giả, haut bourgeois, người con của thánh linh, cha đẻ của thời kỳ Sáng và toàn bộ sự văn minh phản anh hùng. Không còn sự nghi ngờ nào rằng nhà vua đã bị thu hút sâu sắc và lý trí triết học bị mê hoặc bởi những gì Voltaire viết về chiến tranh trong cuốn sách Những suy nghĩ về Bách khoa toàn thư (Questions sur l’Encyclopédie). Và sau đó ông tiến quân về phía Đông Đức (Saxony). Có lúc ông gọi Voltaire là Phoebus Apollo, lúc khác là một tên hề tốn kém trong triều đình.
Kể từ lúc tôi biết đến hai người đàn ông ấy, họ dường như đã trở thành hiện thân cho sự đối nghịch tôi đang viết ở đây. Voltaire và đức vua - đại diện cho lý trí và ác quỷ, tinh thần và thiên tài, ánh sáng khô và định mệnh mờ mịt, đạo đức bourgeois và bổn phận anh hùng. Voltaire và đức vua, một thường dân vĩ đại và một quân nhân vĩ đại, hiện tại và cho đến mãi về sau.
Chúng ta có trước mắt mình sự đối nghịch của các biểu tượng quốc gia trong hình hài là người Pháp vẫn đang thống trị và vị vua Đức - người có linh hồn hiện hữu trong tất cả chúng ta mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Và chúng ta có thể thấy sự đối nghịch ấy có ý nghĩa quốc gia và liên quan chân thật tới việc hiểu tâm lý của các dân tộc.
Chúng ta đang ở trong chiến tranh, và người Đức chúng ta ngay lập tức hiểu được những gì đang bị đe dọa: không hơn không kém đó là quyền tồn tại và hành động của chúng ta trong thế giới này. Đã khó khăn hơn một chút, những kẻ thù phương Tây của chúng ta tìm ra một công thức công kích phù hợp khiến cho lý tưởng của chúng có vẻ chính đáng trước thế giới và với lịch sử. Chúng ta hằng ngày nghe thấy những gì chiến tranh kêu gào và sỉ nhục? Cuộc chiến này, họ nói, là một cuộc vật lộn của văn minh chống lại - chính xác là chống lại cái gì chứ? Không hẳn là chống lại “sự man rợ”, nếu là thế thì sẽ không thực sự hiệu quả. Trong thời điểm sục sôi hiện tại, cũng có thể, nhưng không thể tiếp tục đi đường dài. Vì thế họ quyết định chọn “một cuộc vật lộn chống chủ nghĩa quân phiệt”.
Giờ đây, sự đối lập “nền văn minh và chủ nghĩa quân phiệt” hiển nhiên không phải là lý tưởng của cuộc chiến. Nó cũng chẳng thực sự chính xác và hợp lý, vì sự quân phiệt và văn minh (trong kích thước chính trị chính là dân chủ) không triệt tiêu lẫn nhau. Nước Pháp đang chứng minh, hay là đang muốn chứng minh điều này bằng chính quân đội dân chúng của mình. Còn quân đội Áo và Ý thì sao? Chưa kể đến hạm đội to lớn của Anh, nếu đấy không phải là quân phiệt thì là gì? Sự văn minh bị xúc phạm, tuy nhiên, có thể đáp trả rằng điều khiến sự quân phiệt của nước Đức khác xa chính là vì nó có quân đội giỏi nhất - và, hiện tại, có vẻ là cả hạm đội tốt nhất. Mặc dù vậy, nó có thể làm nhiễu loạn nguyên nhân và kết quả, hay có thể gọi nếu muốn, triệu chứng và căn bệnh. Tất tật các khẩu hiệu chính trị đều được chọn lựa, nông cạn, để phục vụ sự tiêu thụ phổ biến nhằm củng cố quyết tâm. Song khẩu hiệu “văn minh chống quân phiệt” thực ra hàm chứa một sự thật sâu xa hơn. Nó thể hiện sự khác biệt và lạ lùng của linh hồn Đức khi được so sánh với các quốc gia khác, và là điều nếu không thực sự là nguyên nhân của cuộc chiến, có lẽ đã góp phần khiến chiến tranh trở nên khả thi. Hãy cùng thử làm rõ cách thức của nó.
Khách quan mà nói, tuyên bố rằng nước Đức không văn minh hay kém văn minh hơn Pháp và Anh quả thật là cực đoan và không thể biện hộ. Thủ tướng Anh gần đây thừa nhận một khoản nợ lịch sử với văn hóa Đức, trong khi khẳng định rằng gần đây nước Đức đã vượt trội chủ yếu trong việc sản xuất những vũ khí giết người. Nhưng bản thân ngài Asquith3 biết rằng đó là những lời nhảm nhí. Để khuấy động mọi thứ, ngài giả vờ cho rằng chất lượng công nghệ của quân đội Đức không hề liên quan đến sự vượt trội ở tình trạng chung của chúng ta. Ngài nói như thể bệnh viện, trường học công, viện khoa học, tàu hơi nước sang trọng, và tàu hỏa của chúng ta không đủ tốt so với súng thần công và ngư lôi của chúng ta. Ngài để lại ấn tượng rằng công nghệ quân đội của chúng ta đã kìm hãm các khả năng kỹ thuật khác hơn là ngẫm nghĩ về những thành tựu lớn hơn mà chúng ta có... Rốt cuộc “văn minh” có nghĩa gì nếu nó chỉ là một cụm từ trống rỗng? Hãy nhớ rằng, với tổ chức mới và chặt chẽ, bảo hiểm cho người lao động, các thể chế xã hội cấp tiến của mình, nước Đức trên thực tế là quốc gia hiện đại hơn nền cộng hòa tư sản tài phiệt thối nát (plutocratic bourgeois republic), mà thủ đô vẫn đang được sùng bái như Thánh Địa của sự văn minh. Chẳng phải phúc lợi xã hội quốc gia của chúng ta là một hình thức chính phủ phát triển hơn nghị viện chuyên cãi cọ - chính khi có vẻ như đang phấn khởi ăn mừng thì lại chỉ xào lại những lời sáo rỗng từ năm 1789, đấy sao? Chẳng phải cuộc cách mạng tư sản của cánh cực tả Pháp là một ngõ cụt, không để lại gì ngoài vô chính phủ và suy sụp, mà một dân tộc nên biết ơn vì đã thoát khỏi, đấy sao?
Một điều chắc chắn đúng là: người Đức không bị mê hoặc bởi cái từ “văn minh” nhiều như những người hàng xóm phương Tây của họ. Họ không tung hứng nó qua lại như người Pháp hay làm vì danh tiếng, cũng không bảo thủ như cách của người Anh. Người Đức vốn dĩ luôn luôn chuộng “văn hóa” như một thuật ngữ và khái niệm. Tại sao ư? Bởi vì nó hoàn toàn mang tính chất con người. “Văn minh” mang một cảm giác tỉnh táo và chính trị hơn khiến nó trở nên quan trọng và đáng kính với chúng ta nhưng lại không phải điều cao quý nhất. Đó là bởi vì dân tộc này nhìn vào bên trong, một quốc gia của siêu hình học, sư phạm, và âm nhạc, là một dân tộc thiên hướng về đạo đức hơn là chính trị. Nó bận tâm và ít hứng thú hơn những quốc gia khác trong tiến trình chính trị hướng tới dân chủ, dẫu là ở hình thức nghị viện hay cộng hòa. Tất tật những điều trên dẫn đến kết luận rằng những người Đức ấy là một dân tộc không cách mạng nổi bật, là những kẻ không hề cách mạng nhất. Và tại sao không! Như thể Luther và Kant đều không đáng kể tí nào so với cách mạng Pháp. Như thể giải phóng của cá thể trước Chúa và phê phán lý trí thuần không đại diện cho sự đột phá triệt để hơn là “Tuyên ngôn Nhân Quyền và Dân Quyền”. Ở chúng ta, sự đề cao đạo đức được liên kết với bản tính quân nhân trong tinh thần, trong khi, các nền văn hóa tinh tế hơn có xu hướng, ngay cả trong nghệ thuật, thể hiện các mo ran (morals) văn minh. Quân đội Đức quả thật là hình thức và biểu hiện đạo đức của nước Đức.
Linh hồn Đức thì quá sâu sắc để có thể coi văn minh là giá trị cao cả nhất. Nó nhận thấy sự băng hoại và mất trật tự của quá trình bourgeois hóa thật khủng khiếp và nực cười. Nó có khả năng phải gánh chịu nhiều hơn những gì người Pháp có vẻ đang trải qua từ các áp phe chung ở Paris (kể đến vụ Caillaux4 gần đây, kết thúc bằng một trò hề pháp lý dễ đoán). Và sự sâu sắc tương tự, ác cảm bản năng nảy sinh chống lại lý tưởng hòa bình của sự văn minh. Chẳng phải hòa bình là yếu tố cho sự suy thoái cộng đồng mà chính nó cảm thấy thích thú và đáng khinh bỉ sao? Linh hồn Đức hiếu chiến chính từ đạo đức, không phải sự ngạo mạn hay khát khao vinh quang hay chủ nghĩa đế quốc. Nietzsche, người cuối cùng trong số những nhà đạo đức vĩ đại người Đức (kẻ lầm tưởng tự gọi mình là vô đạo đức), chưa từng che giấu sự hiếu chiến, xu hướng quân phiệt của mình. Trí tuệ Đức đã đóng góp nhiều nhất cho sự biện hộ đạo đức của chiến tranh. Chỉ một nhà thơ người Đức - trong số rất nhiều người khác - có thể viết rằng:
Vì con người sẽ héo úa trong hòa bình,
Nhàn rỗi là chỗ chôn lòng dũng cảm.
Luật pháp làm bạn với kẻ yếu,
Nó mong muốn san bằng tất cả,
Và sung sướng khi cả thế giới này san bằng.
Nhưng chiến tranh triệu hồi sức mạnh,
Nâng tất tật lên thành những phi thường,
Sự dũng cảm cũng đem cho kẻ hèn nhát.
(Schiller, The Bride of Messina, act 1, scene 8)
Và thế là, liệu có phải nước Đức đang tìm đến chiến tranh, liệu nó đã “sẽ” xảy ra? Không, nó đã không xảy ra. Những lợi ích thương mại vô đạo đức và tầm thường đã khởi xướng ra điều ấy bởi vì họ hiểu và chẳng cảm thấy gì về chiến tranh. Làm sao có thể trông đợi họ tôn kính trước những kinh hoàng thiêng liêng của chiến tranh? Chỉ mình người Đức chứng minh rằng một dân tộc có thể vừa hiếu chiến vừa kiên nhẫn trước bờ vực của sự sỉ nhục, thậm chí trước ngưỡng của sự tiêu vong. Kẻ quân nhân vì đạo đức không phải một con gà chiến với cái mào căng phồng, hay là một kẻ liều mạng nóng nảy. Một dân tộc có thực sự hung hăng hay chăng sẽ được bộc lộ khi chiến tranh trở thành số mệnh của họ và sẽ trở nên hoặc hùng mạnh hoặc bị bóp méo. Như chúng ta đã thấy, toàn bộ đức hạnh và vẻ đẹp của nước Đức hiện ra chỉ trong chiến tranh. Hòa bình không phải lúc nào cũng phù hợp với nó; người ta có thể dễ dàng quên mất nó [nước Đức] có thể đẹp đẽ tới nhường nào. Ai thực sự sợ hãi rằng cuộc đấu tranh lớn lao của nước Đức để khẳng định các quyền của mình sẽ băng hoại những mo ran và văn hóa của chính nó? Nước Đức sẽ hiện ra tự do hơn và tốt hơn trước đây. Thay vào đó, chúng ta không thấy rằng chiến tranh khiến cho các dân tộc vốn được coi là văn minh trở nên tầm thường và khốn khổ hơn sao? Sự đứng đắn của nước Anh giờ này đang ở đâu? Nó đã trở thành một kẻ dối trá đáng xấu hổ. Còn nước Pháp? Sự rộng lượng và nhân văn của nó đã mở đường cho sự lạm dụng và hung hãn cực đoan. Trái ngược với tinh thần quân nhân rằng chiến tranh là thiết yếu đối với đạo đức và sự trung thực, gần như là một hoạt động khoa học, với sự vô liêm sỉ hèn hạ mà người Pháp vung vãi khắp nơi “C’est la guerre!” [Chiến tranh là thế] Pháp ngay lập tức dùng đến “thủ đoạn cuối cùng”, với chiến thuật du kích gian xảo và việc xúc phạm đến những kẻ đang bị thương. Tôi không dựa vào những đồn đoán và cáo buộc mơ hồ, tôi đang nói đến những sự thật: việc sử dụng đạn cấm, danh sách các bác sĩ người Đức bị sát hại, các báo cáo chính thức của bác sĩ quân đội cấp cao người Đức, cho đến những sắc lệnh được chính ban chỉ huy Pháp ban hành, đe dọa trừng phạt khi cướp bóc tràn lan được phát hiện trong chính phạm vi của nó.
Sự tàn bạo vũ bão của các binh đoàn tương ứng với sự tàn bạo của ngôn ngữ và đời sống trí tuệ của công chúng, điều có lẽ là còn đáng xấu hổ hơn. Giới kiểm duyệt Pháp sẽ không chấp nhận một tờ báo với cái tên L’Humanité chê trách những tuyên bố cực đoan về tù nhân Đức được đăng trên tờ Le Matin5. Đành vậy! Nhưng ta đọc những tuyên bố về nước Đức từ các nhà trí thức quan trọng của Pháp, các chính khách hàng đầu, và các tác giả nổi tiếng, những kẻ điên rồ và bị đọa đến nỗi họ khiến ta phải kinh ngạc. Bọn họ dường như không có khả năng chịu đựng cuộc chiến thêm một phút nào nữa. Hãy nhìn điều gì đã xảy ra với nước Pháp chỉ trong sáu mươi ngày chiến tranh bùng ra! Liệu dân tộc có những gương mặt bỗng chốc gây ghê tởm có quyền phát động chiến tranh không? Người Pháp đã từng một lần là đám người hiếu chiến, không phải theo cách tương tự của người Đức nhưng theo một cách tài ba, hào hiệp, hiển hách, lão luyện (dù có vẻ không chính thống). Được tiếp lửa bởi những ý tưởng tuổi trẻ, dẫn dắt bởi chính hình tượng đã ám ảnh họ, họ từng có thời chế ngự cả thế giới. Quân đội Pháp ngày nay chỉ là một tư thế vô nghĩa. Việc họ đang ở sông Aisne trong khi mọi thứ đều đang bị đe dọa, ngoan cố biện hộ, chẳng chứng tỏ được rằng bản năng quân đội của họ còn sống sót, mà cho thấy các dấu hiệu ngược lại. Thật phi lý khi một nhà tư sản cộng hòa khăng khăng tin vào uy tín quân đội như người ta từng làm dưới thời đế chế. Logic hẳn phải thuyết phục những con người logic ấy rằng, trong trạng thái vật lý và tâm lý của nó, nó nên hứa sẽ từ bỏ chiến tranh và sống một cách hoàn toàn đúng với lý tưởng công dân của mình. Ai mà không coi trọng điều ấy? Chuyện đó thì phiền đến ai chứ? Chỉ có sự phù phiếm, chỉ có sự thể không thể chịu được và thay đổi được rằng nó đã bị nước Đức đáp trả, chỉ có nỗi ám ảnh (idée fixe) về việc trả thù ngăn cản sự từ bỏ ấy. Để thỏa mãn cơn khát trả thù, những kẻ kế thừa của cuộc Cách mạng Pháp thiết lập một liên minh với nhà nước cảnh sát lạc hậu của Áo. Và ngay lúc này khi đang ở giữa cuộc chiến tranh, nó trông đợi vào nước Nga, cài cắm hy vọng vào các chiến binh Cô-dắc như cách người ta vẫn làm với sự dẫn dắt của đấng thiêng liêng. Bởi vì họ biết, và đã biết từ lâu, họ không thể một mình đánh bại nước Đức. Nhưng sự trả thù nào mà còn cần đến sự hỗ trợ? Liệu nó có thỏa mãn được sự phù phiếm của bọn họ? Trong khi báo chí Pháp hằng ngày phấn khích về các binh đoàn ngoại quốc mà họ vẫn đang đón chờ tin tức từ khắp nơi trên thế giới, Georges Clemenceau6 phát biểu rằng danh dự có được từ việc bảo vệ nước Pháp phần lớn thuộc về người Pháp. Mặc dù đó chỉ là một quan điểm thiểu số. Nước Pháp vẫn sẽ tự hào và tự mãn và khước từ hòa bình, đánh cược vào một cơ hội không có khả năng xảy ra, rằng nước Nga sẽ đánh bại nước Đức. Đó có phải sự trả thù? Có phải là danh dự của một quân nhân? Không, không hề.
Cũng không mấy quân nhân hay nam tính khi cứ đòi trả thù trong suốt nửa thế kỷ, khi cứ khao khát chiến tranh và cuối cùng đạt được điều ấy, rồi khi đối mặt với sự dữ dội thiêng liêng của các yếu tố tự nhiên và tiếng kêu thất thanh réo rắt, “Văn minh!” Messieurs biến Reims7 thành một pháo đài, các ngài đặt khẩu pháo của mình dưới bóng của nhà thờ, các ngài gửi trinh sát lên trên những toà tháp, và khi kẻ thù bắn họ, các ngài phát ra tiếng kêu gào giả giọng, “Văn minh! Điều đầu tiên, thưa ngài cao quý, nhà thờ Reims không có dính líu gì đến sự văn minh. Rốt cuộc nó là một công trình của văn hoá Ki-tô giáo, trái quả của sự cuồng tín và mê tín. Nhà thờ chắc hẳn đã khiến nền văn minh Jacobin của Pháp thấy bức bối khủng khiếp, hoặc ít nhất là một vấn đề của sự thờ ơ tột độ. Cuối cùng thì nó đúng là như thế. Người sĩ quan Công giáo bị buộc phải ra lệnh thả bom chắc hẳn có nhiều sự tôn kính cho thánh địa ấy đang chảy trong máu của anh ta hơn là những công dân cho rằng nó nên bị phá hủy cả mười lần rồi vì cái cớ chính trị. Tuy nhiên, tiếp đến là hành vi của các ngài làm tôi nhớ đến một trong những nhà đấu tranh nữ quyền8, người đã ném bom và khi bị bắt giam, hét lên rằng: “Phụ nữ đang bị tra tấn!” Không phải một chiến thuật ngu xuẩn, nhưng cùng chẳng vẻ vang gì. Hãy cùng làm rõ điều này: Liệu chúng tôi sẽ bị treo cổ hay không? Và chẳng phải nước Pháp thân mến rất nóng lòng muốn giúp đỡ? Đây chỉ là một chiêu trò đặt đối thủ vào vị thế của cái sai - một chiến thuật rất nữ tính khiến cho tất cả há hốc mồm. Trong mọi động tĩnh của chính phủ Pháp, mọi sắc lệnh, và mọi thông cáo có thể nghe ra sự phàn nàn, “Thật là một sự dã man hèn hạ khi chống lại nước Pháp!” Nhưng chẳng phải chính cái nước Pháp ấy đã dẫn quân đội của họ, những kẻ phấn khích mang sự hung hăng, vượt núi Vosges để đánh chúng tôi? Tinh tế và dễ mến, không còn nghi ngờ gì khi cái đất nước khả ái nhất ấy sẽ khai thác mọi quyền của phụ nữ để làm những gì mà cô ấy thích. Nhưng nếu chỉ cần bạn chạm vào nàng thôi, nước mắt sẽ rơi xuống từ đôi mắt xinh đẹp kia và cả châu Âu sẽ chấn động khi lòng nghĩa hiệp của họ bị xúc phạm. Biết làm gì đây? Bọn họ muốn khiến cho chúng ta không thể sống được - ấy vậy mà khi chúng ta ngoan cố khăng khăng sự thể rằng chúng ta có tồn tại, họ lại nói chúng ta cho thấy một sự thiếu thốn đáng buồn của tinh thần hiệp sĩ.
Thật kinh ngạc khi bất kỳ ai cũng kinh ngạc. Đối với những kẻ thù phương Tây của chúng ta, cuộc chiến này đang thực sự ép buộc nước Đức trở nên “văn minh”. Họ muốn dạy chúng ta một bài học, bình luận của George Bernard Shaw, rằng cuộc chiến nên phục vụ mục đích buộc người Đức phải từ bỏ chủ nghĩa quân phiệt “Potsdam” 9 của họ, giờ đây đã nổi tiếng. Robert Dell, một nhà báo người Anh có vẻ sống với một tinh thần Pháp, bày tỏ bản thân khá rõ rằng: nước Anh và nước Pháp, ông ấy viết, đang chiến đấu cho nền dân chủ chống lại bạo lực và chủ nghĩa quân phiệt. Ông viết tiếp rằng điều tốt đẹp nhất có thể hy vọng ngay lúc này chính là một thất bại của Đức sẽ khởi xướng lên một cuộc cách mạng lật đổ chế độ độc tài Hohenzollern. Một nước Đức dân chủ hóa sau đó có thể nhập cuộc vào một liên minh chống lại Nga. “Có lẽ khoảnh khắc ấy sẽ đến khi chúng ta buộc phải bảo vệ Đức chống lại Nga.” Kể từ trận Tannenberg, nước Đức rõ ràng đang bảo vệ châu Âu trước Nga mà không hề có sự hậu thuẫn từ người Pháp hay ngài Dell. Đây chính là cách mọi thứ trở nên rõ ràng, các bạn thân mến, và mọi cay đắng đều được kết thúc. Vấn đề là: Họ muốn làm chúng ta hạnh phúc. Họ muốn đem đến cho chúng ta những phước lành của phi quân sự hóa và dân chủ hóa và dùng bạo lực biến chúng là thành con người, và chúng ta kháng cự. Ai mà biết được điều này giả dối đến mức nào, ngu xuẩn ngạo mạn đến mức nào. Người Anh gợi ý rằng cách tiếp cận ấy chỉ duy trì chế độ Nga Hoàng, làm vững mạnh hơn chế độ quân đội của họ, và vì thế xen vào sự phát triển của dân tộc Nga. Điều này hoàn toàn đúng. Về phía Anh, chủ yếu là vấn đề của đạo đức giả. Tuy nhiên về phía Pháp, đó lại là về sự tự phụ, điều còn khó chịu đựng hơn nỗi ám ảnh hạn hẹp và kiên định của Anh quốc trong việc đóng vai người phán xử. Nước Pháp quá ngạo mạn, tự mãn đến vô vọng, dù rằng đang trong cảnh vô trị, suy dinh dưỡng, và lạc hậu, họ vẫn tự coi mình ngày hôm nay là người tiên phong, đại diện và là ngọn hải đăng của các ý tưởng nâng đỡ toàn nhân loại. Theo lập luận của người Pháp, một dân tộc được nâng cao tinh thần, trở nên cao quý, và tự do nếu họ được đại diện bởi một luật sư tham vọng và cai trị bởi một nghị viện thay vì một hoàng gia. Một tờ báo Tây Ban Nha chán ngấy với những bàn tán về sự man rợ của Đức gần đây đã so sánh số lượng trường học, cao đẳng, và đại học ở Đức, Pháp, và Anh. Sau đó họ đối chiếu ngân quỹ được dùng cho nghệ thuật và khoa học, và so sánh những con số đó với tỉ lệ người thất học và tội phạm tại mỗi quốc gia. Nước Đức cho thấy sự vượt trội trong mọi trường hợp. Điều này có nghĩa là gì? Nó có thể có nghĩa là nước Đức khó hiểu này tận hưởng sự rèn luyện hiện đại nhất và có đạo đức vững chãi nhất trong tất cả các quốc gia - dẫu cho tinh thần, hay đúng hơn là thiếu tinh thần, khiến nó vượt trội, vẫn giữ nguyên tình trạng man rợ. Một lần nữa theo Robert Dell, một người có sự pha trộn gượng gạo của người Anh ngạo mạn mang vẻ nhân đạo đạo đức giả cùng sự ngây thơ nữ tính kiểu Pháp, sau trận thua cuộc đầu tiên hoặc thứ hai, nước Đức sẽ bùng nổ cách mạng, lật đổ vương triều Hohenzollern, và trở thành một dân tộc lý trí và hợp lý hơn, không còn tất tật những bí ẩn và lạ lùng, từ giờ trở đi hướng đến một cộng đồng xã hội tốt đẹp và văn minh. Đó là quan điểm của ông ấy. Ông ấy nghiêm túc tin rằng nước Đức sẽ được cách mạng hóa và dân chủ hóa thông qua bại trận. Ông ấy không nhận ra sự tự do trong biểu hiện chính trị của chúng ta, tầng lớp thị dân đã khởi sự từ trước và chỉ có thể hoàn tất trong thời bình - nghĩa là, sau một chiến thắng của Đức, một hệ quả không thể tránh khỏi của lịch sử. Tự do trong biểu hiện chính trị của chúng ta sẽ không thể hoàn tất theo quan niệm của giới trí thức cánh tả Pháp, nó sẽ trỗi dậy từ những biến động của tinh thần Đức. Một sự bại trận của Đức sẽ chỉ khiến cho chúng ta và cả châu Âu thụt lùi. Thậm chí ngay cả sau sự thất bại đó, châu Âu vẫn phải đối phó với “chủ nghĩa quân phiệt” Đức cho đến khi nước Đức khôi phục lại vị trí của mình trước cuộc chiến. Chỉ có điều ngược lại, chỉ có một chiến thắng Đức mới có thể đảm bảo hòa bình cho châu Âu. Nhưng không ai nhận ra điều ấy. Họ hoàn toàn chỉ thấy trong cung cách Đức sự man rợ cần bị nghiền nát ra bằng bạo lục và bằng bất kỳ cách thức cần thiết nào. Họ cho rằng họ có quyền tấn công nước Đức bằng những binh đoàn người Kyrgyz và người Nhật, các chiến binh binh Gurkha và Hottentot - một sự xúc phạm đáng kinh ngạc chưa từng có. Điều kiện tiên quyết cho điều này là một sự thiếu hiểu biết gây chấn động về nước Đức được phản ánh qua mọi từ ngữ phát ra từ miệng Henri Bergson, Maurice Maeterlinck, Romain Rolland, Jean Richepun, Paul Deschanel, Stéphan Pichon, và Winston Churchill. Dẫu vậy, điều hèn hạ nhất là sự lật mặt trắng trợn của toàn bộ những lời ấy. Sự thiếu hiểu biết về quốc gia quan trọng nhất châu Âu ngày nay thật không thể chấp nhận được, thậm chí là một tội ác, và sẽ quay trở lại đeo bám họ. Tại sao chiến thắng Đức sau tất cả là điều không thể nghi ngờ? Bởi vì lịch sử không trao vương miện chiến thắng cho sự ngu sốt và sai lầm.
Ai có thể phủ nhận rằng tình trạng Đức đang có vấn đề? Không hề dễ dàng khi là người Đức - không đủ ấm áp, có thể nói là như người Anh, huống chi là nổi bật và phấn khởi như người Pháp. Dân tộc Đức thấy khó khăn với chính mình và cảm thấy một chút nghi ngờ, gần như tới ngưỡng của sự kinh tởm. Tuy nhiên với mỗi cá nhân hay ở mỗi dân tộc, những đối tượng có giá trị nhất là những người phải trải qua thời kỳ khó khăn nhất. Bất kỳ ai mong rằng tính Đức sẽ đơn giản là biến mất khỏi trái đất đều nhân danh l’humanité, la raison, hay lời đạo đức giả trắng trợn committeth an inquity.
Quả thật: sự sâu sắc và phi lý hợp với linh hồn Đức, mà những người nông cạn hơn cảm thấy khó chịu, kỳ lạ, kinh tởm, thậm chí là man rợ. Chính “chủ nghĩa quân phiệt” Đức, thái độ bảo thủ đạo lý của họ, đạo đức quân nhân của họ, mà điều gì đó phi thường và anh hùng kháng cự lại việc chấp nhận tinh thần dân sự như là lý tưởng cao quý nhất của con người. Chỉ có kẻ ngu dốt hoàn toàn mới chối bỏ rằng người Đức rất được tu dưỡng. Tuy nhiên, người Đức không muốn đầu hàng trước tiến trình văn minh hóa và không có khẩu vị làm ầm ĩ lên về những thứ giả tạo và phù phiếm. Người Đức quả thật là dân tộc bí ẩn nhất châu Âu, dù cho là bởi nước Đức vốn dĩ khó hiểu, hay bởi vì sự lười biếng và cao ngạo đã khiến những người hàng xóm bourgeois của chúng ta từ chối những rắc rối để tìm hiểu về chúng ta. Tuy nhiên tri thức thì cần thiết; cuộc sống và lịch sử yêu cầu nó, và sẽ tiết lộ sự nghiêm trọng của việc phủ nhận tính cách tham vọng và không thay thế được của dân tộc này. Anh muốn tóm được chúng tôi, kìm hãm chúng tôi, tiêu diệt chúng tôi. Nhưng như anh đã phát hiện ra, nước Đức sẽ tự vệ sự sâu sắc và tự căm ghét bản thân mình như một con sư tử. Và anh sẽ bất ngờ khi nhận ra kết quả duy nhất từ việc tấn công chúng tôi là anh sẽ buộc phải tìm hiểu về chúng tôi.
Hoàng Hiền dịch
(từ bản dịch tiếng Anh của Cosima Mattner và Mark Lilla)
1 Người Gypsy: còn có tên gọi khác là người Digan, một dân tộc thuộc nhóm sắc tộc Ấn-Arya, đi di cư và sống thành cộng đồng tại nhiều quốc gia trên thế giới. Thường được nhắc đến với thái độ kỳ thị, khinh miệt, gây ra sự phân biệt đối xử giữa các sắc tộc.
2 Vua Friederick Đệ nhị của nước Phổ trị vì trong khoảng 1740-1786, người khiến cho nước Phổ trở thành một thế lực lớn trên bản đồ chính trị thế giới.
3 Herbert Henry Asquith (1852–1928) là Thủ tướng Vương quốc Anh trong giai đoạn đầu của Thế chiến thứ nhất, và là một trong những chính trị gia nổi bật của Liberal Party.
4 Vụ việc Caillaux là một scandal chính trị nổi tiếng ở Pháp đầu thế kỷ 20, liên quan đến Joseph Caillaux, Thủ tướng Pháp (Prime Minister), độc giả nên tìm đọc thêm.
5 L’Humanité: một tờ báo Pháp được thành lập năm 1904, là tờ báo của phong trào xã hội chủ nghĩa, sau trở thành cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng sản Pháp (Parti Communiste Français-PCF). Tờ Le Matin được thành lập năm 1884, theo khuynh hướng trung lập hoặc bảo thủ, đối lập với các báo cánh tả như L’Humanité.
6 Georges Clemenceau (1841-1929) là một chính trị gia và nhà báo nổi tiếng của Pháp, được mệnh danh là “Cha già của Chiến thắng” (Le Père la Victoire) vì vai trò lãnh đạo Pháp trong Thế chiến thứ nhất.
7 Ở đây Mann nhắc đến Reims mặt trận phía Tây của Pháp trong Thế chiến thứ nhất, nơi đây quân đội Đức và Pháp đã nhiều lần giao chiến. Song nó còn ngầm nói đến, Thánh đường Reims nơi các vua Pháp làm lễ đăng quang từ TK11 đến TK19.
8 Mann đang nhắc tới các vụ ném bom liên quan đến phong trào nữ quyền cực đoan (suffragette) ở Anh vào đầu thế kỷ 20.
9 Potsdam: nơi hoàng gia và các tướng lĩnh cao cấp cư trú, họp bàn về chiến lược, nghi lễ quân sự, và thể hiện quyền lực, đại diện cho hình ảnh của quân chủ Phổ cứng nhắc và tinh thần quân sự.