favorites
Shopping Cart
Search
Vitanova
Prev
Đông 2025
Next

Thomas Mann đọc Tay điệp viên

29/12/2025 23:44

Joseph Conrad, một nhà văn dường như đã ngả hoàn toàn về phương Tây, ở nước Đức thời kỳ giữa hai cuộc thế chiến với tâm thế kiêng dè chọn phe sẽ được đón nhận như thế nào? Tất nhiên là một sự khó khăn tất yếu. Thế nhưng, Joseph Conrad có lẽ “ăn may” ở đất nước vốn dĩ là quê hương tinh thần thứ hai của một lớp lớn văn nghệ sĩ này; trong đó công trạng lớn nhất thuộc về NXB của Samuel Fischer, người có đầu óc chính trị cởi mở, nơi đã cho in liên tục các tác phẩm của Conrad, trải từ đầu Thế chiến thứ nhất cho đến thời kỳ Cộng hòa Weimer, ngay cả những tác phẩm mang nặng tính chính trị. Một điều đặc biệt có thể nhận ra bằng cách liệt kê thuần túy thứ tự xuất hiện của Joseph Conrad ở Đức: Tên mọi trên tàu Narcisssus A Set of Six cùng một năm 1912, Dưới mắt phương Tây năm 1913 và tổng bộ Conrad được thực hiện trong khoảng 1926-39. Sang thời kỳ Đức Quốc xã, trong bầu không khí kiểm duyệt văn hóa và kiểm soát ý thức hà khắc, Conrad bị Wilhelm Stapel tấn công dữ dội, cho ông là một âm mưu liên kết giữa thế giới Do Thái và Bolshevik nằm xâm nhập và chiếm đoạt đời sống văn hóa Đức. Trong bối cảnh như vậy, Joseph Roth vẫn là một độc giả nhiệt thành của Conrad; chính ông đã giới thiệu Conrad với một nhà báo, dẫn đến sự xuất hiện những bài luận về Conrad trên tờ nhật báo chống Đức Quốc xã Frankfurter Zeitung.

Đối với Thomas Mann, Joseph Conrad còn đóng vai trò sâu sắc hơn. Sự khám phá ra Conrad đầu thập niên 1920 đã cung cấp cho Mann một trường hợp mà ông gọi là “hiếm hoi” để được nói cho điều gì đó về ngôn ngữ văn chương vừa và tham chiếu chính trị, một nhân tố giúp Mann định hình lại thế giới quan của mình trong bối cảnh Cộng hòa Weimar hỗn loạn. Tay điệp viên, một tiểu thuyết đậm đặc tính chính trị viết bởi một người Xla-vơ bài Nga (Mann cả quyết sự bài Nga của Conrad), cho Mann nhìn thấy ở Conrad sự phản chiếu một cuộc hành trình tinh thần: từ một “phương Đông” bí ẩn, hỗn độn (đại diện bởi nước Nga Sa hoàng và sau này là Bolshevik, cũng như những mặt tối trong tâm hồn Đức) đến một “phương Tây” minh triết, dù không hoàn hảo, nơi đề cao lý trí, tự do cá nhân và sự điều độ. Sự chọn lựa của Conrad chứng minh rằng việc từ bỏ căn tính bản địa vì một nền văn hóa khác không phải là sự phản bội, mà có thể là một hành động tự do sáng tạo, dẫn đến những thành tựu văn hóa được toàn thế giới ngưỡng mộ. Điều này giúp Mann biện minh cho sự ủng hộ của ông đối với các giá trị phương Tây (dân chủ, nhân văn) trong một nước Đức vốn còn nhiều hoài nghi. Mann đặc biệt ám ảnh bởi ranh giới mong manh giữa văn minh và man rợ, giữa lý trí và dục vọng, thứ sẽ thể hiện rất rõ ràng trong Chết ở Venice, vốn là chủ đề trong Heart of Darkness. Conrad, qua con mắt của Mann, đã đạt đến phong cách hài-dị - phong cách duy nhất của thời hiện đại, nơi bi kịch và hài kịch hòa lẫn, và cái cao cả chỉ có thể hiện ra qua vẻ ngoài méo mó. Đây chính là cách thức để diễn đạt một thế giới đã mất đi trung tâm và sự chắc chắn. Có lẽ vì thế mà Thomas Mann gọi Joseph Conrad là người tiên phong đích thực cho tiểu thuyết hiện đại.

Sau đây là Lời tựa Thomas Mann viết cho Der Geheimagent, bản dịch tiếng Đức của Tay điệp viên, do Ernst Wolfgang Freissler thực hiện, và được xuất bản năm 1926, cuốn đầu tiên trong tủ Conrad của nhà xuất bản danh tiếng nhất nhì Đức bấy giờ là S. Fischer Verlag.

 

 

Trước đây, tôi từng có dịp bàn về một trường hợp tương tự: khi tôi viết lời tựa cho một ấn bản Peter Schlemil, tác phẩm xuất sắc nhất của một nhà văn Đức mang quốc tịch Pháp, và là một trong những tác phẩm được trân quý và yêu thích nhất trong nền văn học Đức. Giờ đây, ở con người Anh Quốc có gốc gác Ba Lan này, ta được thấy lại một phiên bản Chamisso hiện đại, chỉ có điều lần này chúng ta chỉ là những người dịch, chứ không phải những nét duyên dân tộc của chúng ta được tán tụng! Thế nhưng điều đó không nên làm giảm niềm thích thú của chúng ta trước hiện tượng hiếm có và tuyệt mỹ này; ngược lại, chúng ta càng nên buông mình theo sức quyến rũ của nó với sự thưởng ngoạn không vẩn đục tị hiềm - như chính độc giả ngoại quốc từng chiêm ngưỡng kiệt tác mang tính hiện tượng bằng tiếng Đức của Chamisso. Trường hợp cá nhân thuộc dân tộc này lại say mê hình thái sinh hoạt của dân tộc khác, trường hợp di cư có chủ đích và rõ ràng, hoàn toàn hoà nhập tư chất và trí tuệ của mình vào một không gian khác, như thế tự nhiên đã đặt sai chỗ từ đầu và con người đang dùng trí tuệ để sửa sai - những trường hợp như vậy có vẻ xuất hiện với một quy luật nhất định trong lịch sử văn hóa nói chung và lịch sử văn chương nói riêng. Những cá nhân mà sự tôn kính mạnh hòa lẫn với chút hoài nghi mỉa mai, thứ có thể ít lành mạnh hơn nhưng, xét về mặt nhân văn, không thiếu phần cao quý, sẽ không bị thúc đẩy để chế nhạo hiện tượng này như sự dị biệt quái gở đối với yếu tố hiển nhiên là thiêng liêng đó. Trái lại, họ sẽ ghi nhận nó, với sự cảm thông và hài lòng, như một trường hợp vượt thoát khỏi những giới hạn dân tộc nhưng không chỉ không lâm vào tình trạng mất hình dạng và chết tinh thần mà lại còn tạo ra một thành tựu văn hóa được toàn thế giới trọng vọng.

Ngày nay thật khó mà nói một người Pháp dựa trên căn cớ gì mà chọn nước Đức làm quê hương tinh thần của mình. Từng có thời, một thời lãng mạn hơn, điều đó có thể xảy ra nhờ tình yêu thi ca. Nước ta từng là vùng đất của thi nhân và các nhà tư tưởng; là một nhà thơ và viết thơ bằng tiếng Đức, trên một phương diện nào đó, từng là một điều giống nhau. Ai thấy mình bị thi ca lôi cuốn đều đồng thời thấy mình bị nước Đức hấp dẫn - Chamisso trở thành một người Đức để làm một nhà thơ Đức. Nhưng trường hợp của Conrad về bản chất thì lại khác; các dân tộc đã đổi thay, thời đại cũng thay đổi. Một người Ba Lan chắc chắn không muốn trở thành người Anh để làm một nhà thơ Anh. Theo những gì tôi được biết, ý tưởng đó rất xa vời đối với ông. Ông trở thành người Anh để làm thủy thủ, bằng tình yêu mãnh liệt đến khó cưỡng của ông đối với biển. Tại điểm hai, trường hợp Conrad và Chamisso lại có điểm tương đồng: để trở thành một thủy thủ, Conrad thậm chí có thể làm “một người Nga, một người Pháp hay một người Phổ”, ông sẵn sàng gia nhập bất kỳ lực lượng hải quân nào trong số đó, và như vậy, hẳn việc nước Anh và nghề đi biển hòa làm một trong Conrad cũng giống nước Đức với thi ca hòa làm một trong tác giả của Peter Schelemil thần thánh ngày xưa. Ở cả hai trường hợp, chúng ta đều thấy một sự chuyển đổi quốc tịch được thúc đẩy bởi niềm say mê với mối quan tâm chính hay nghề nghiệp chủ đạo của một dân tộc khác, cái nghề mà theo cách nói thông tục đã khiến dân tộc đó tỏa sáng trong mắt người ngoài. Sự tình cờ của thời đại đã khiến động cơ của Conrad về bản chất ít mang tính trí tuệ hơn so với Chamisso.

Nhưng sau mọi sự, sẽ khá cổ lỗ và hão huyền nếu định nghĩa khái niệm “trí tuệ” một cách hẹp hòi đến mức đồng hóa nó với khái niệm “văn chương”. Tình yêu biển của người con Ba Lan này, thứ ông cho là một tính cách Anh, hẳn phải luôn luôn gắn liền với sự cảm thông sâu sắc đối với bản chất Anh đích thực, với khí chất và thái độ sống của người Anh, với âm điệu tiếng Anh và tinh thần của ngôn ngữ ấy; một niềm đam mê như vậy không thể hình dung nếu thiếu đi các yếu tố trí tuệ và ngôn ngữ. Về cốt lõi, khó mà nói “thi chất” trong sự chuyển hóa của Conrad và của Chamisso cái nào hơn cái nào. Thêm vào đó - sau khi đã trở thành một thủy thủ Anh - chắc chắn khó có khả năng ông chuyển sang làm một nhà văn Anh nếu sáng tạo không phải là một động lực nguyên sơ trong bản thể ông; nếu toàn bộ hành trình kỳ lạ của ông, nơi vì chính sự lựa chọn kỳ bí nơi ông mà đưa ông rời xa các níu néo tự nhiên và bước vào một bầu không khí ngoại lai, không tự thân nó vốn dĩ đã là cuộc hải hành của một kẻ mộng mơ và một thi sĩ.

Chính tình yêu biển, yêu những kỳ phiêu lưu trên đại dương của ông, là thứ tình yêu đậm chất thi sĩ; về biển, về cuộc sống trên biển và cùng với biển, hầu như chỉ về điều đó mà thôi, ông đã viết, ngay cả khi đã rời biển về với đất liền vững chãi; ông viết bằng tiếng Anh, ngôn ngữ kinh điển của những người đi biển - một thứ tiếng Anh, ít nhất là dưới con mắt một người ngoại quốc, khó có thể chuẩn mực hơn, và ngày nay danh tiếng của ông ở châu Âu chính là danh tiếng của một đại văn hào người Anh.

Cách đây vài năm, khi tôi đến thăm La Hay, John Galsworthy trùng hợp có bài giảng “Conrad và Tolstoi” ở đó. Tôi hoàn toàn không biết người Galsworthy đặt ngang hàng với gã khổng lồ người Nga ấy là ai; và sự kinh ngạc của tôi càng tăng lên khi nghe bảo André Gide đã học tiếng Anh chỉ để đọc Conrad trong nguyên tác. Kể từ lúc đó, tôi đã đọc một số tác phẩm xuất sắc nhất của thiên tài kể chuyện này: câu chuyện đầy ma lực về một cơn bão đặt dưới nhan đề Tên mọi trên tàu Narcissus và một câu chuyện về sự tĩnh lặng mang tên The Shadow Line, cùng một số tác phẩm khác có bối cảnh được dời một phần hoặc toàn phần vào đất liền, chẳng hạn May, một tác phẩm được xử lý bằng sự phức tạp tinh vi và sự điêu luyện rỡ ràng, cũng như câu chuyện tội phạm ly kỳ quá đỗi có nhan đề Tay điệp viên. Tôi đã đọc đủ Conrad để cảm thấy mình có trách nhiệm mang chút gì đó về ông đến với công chúng Đức, dù họ có là người yêu biển hay không - và có lẽ chính những độc giả cả đời sống trong lục địa này, có lẽ chính là tác phẩm Tay điệp viên đáng nể này, bởi lẽ nếu bảo danh tiếng của Conrad chỉ gói gọn trong danh tiếng của một nhà văn viết truyện biển thì sẽ là quá hẹp. Tôi đồng ý với quan điểm cho rằng kinh nghiệm sâu kín và riêng tư nhất của con người này chính là biển cả, mối giao cảm đầy nguy ngập của ông với nguyên tố vĩ đại ấy; chắc chắn những thành tựu sáng tạo vĩ đại nhất của ông nằm trong địa hạt này. Nhưng tài năng khổng lồ, đậm chất Anh, đôi mắt sáng, vững vàng và hóm hỉnh, sự hăng hái trong cách ông kể chuyện, sức mạnh và tính chất lập dị nghiêm nghị của ông, vẫn hiện rõ khi tác giả dừng chân trên đất liền và mục kích những gì diễn ra ở đó, thấy nó, thấu suốt nó và trao cho nó hình hài và sự thực chất, như câu chuyện mà các bạn sắp được đọc đây, một câu chuyện ly kỳ, thậm chí hồi hộp này (như tôi nói, một “tiểu thuyết tội phạm”), đồng thời cũng là một tiểu thuyết chính trị, lịch sử của một âm mưu ngoại giao từ đại sứ quán và hệ quả bi thảm đối với những con người bị lôi vào trong guồng quay của nó. Đó là một câu chuyện bài Nga rõ ràng, một mặt thù địch Nga mãnh liệt và một mặt có tinh thần rất Anh. Ta cần đặt nó trong bối cảnh chính trị quy mô lớn, trong toàn bộ cuộc xung đột về hệ tư tưởng chính trị giữa Anh và Nga; tôi nghĩ có khả năng rằng cuộc xung đột này luôn cấu thành nền tảng - tôi sẽ không nói là động cơ - cho tình yêu mãnh liệt đối với nước Anh của con người Ba Lan này. Nếu không phải một người Ba Lan mà là một người Đức, giả thuyết trên lập tức thiếu tin cậy. Chúng ta là những nhà siêu hình học; dù hữu thức hay vô thức, chúng ta sẽ không bao giờ để chính trị có tác động lớn nhường vậy đến đời sống tinh thần của mình. Nhưng chúng ta đã bắt đầu cảm nhận được rằng có lẽ những dân tộc khác thì không vậy; và cảm nhận đó chính là nguồn gốc cho phỏng đoán của tôi rằng chủ nghĩa bài Nga của người Ba Lan đang tự biểu đạt ở Conrad, bằng tiếng Anh.

Đặc biệt hơn cả, trong hình tượng quý ngài Vladimir, bí thư đại diện cho một thế lực ngoại quốc, quá đỗi ngoại quốc, ở London. Tội lỗi của toàn bộ sự vụ nằm ở cửa nhà ông ta. Ông ta là một người khá thanh lịch, mặc dù tác giả dường như đồng ý với lời mắng mỏ của một nhân vật nọ gọi ông ta là “một con lợn phía Bắc”. Với phong cách nhìn chung là tinh tế, ông ta để lộ trong cảm xúc mình một “lối nói hoa mỹ phần nào mang tính Đông phương” và một chất giọng dính cổ họng không chỉ không phải của người Anh mà còn không thuộc về Âu châu, thậm chí đi xa tới mang vẻ gì Trung Á. “Xuất thân từ những thế hệ bị áp bức bởi công cụ của quyền lực chuyên chế,” người ta nhận xét ông ấy, “ông ta, về mặt chủng tộc, quốc gia hay cá nhân chính ông, đều khiếp sợ cảnh sát. Ông ta sinh ra đã thế. Nhưng thứ tình cảm đó, hệt nỗi khiếp đảm phi lý ở một số người đối với chó mèo, không cản trở sự khinh miệt tột cùng của ông dành cho giới cảnh sát Anh.” “Sự cảnh giác của cảnh sát,” ông ta, hoặc một cấp dưới của ông ta nói thay, “và sự nghiêm khắc của các thẩm phán! Sự khoan dung xuề xòa của thủ tục tư pháp tại đất nước này, cũng như sự vắng mặt hoàn toàn của mọi biện pháp đàn áp, là một nỗi ô nhục đối với toàn châu Âu. Ngay bây giờ, điều cần thiết là phải gia tăng tình trạng bất ổn - thúc đẩy quá trình lên men chắc chắn đang ẩn tàng.” Nghĩa là, một hội nghị quốc tế sắp được tổ chức tại Milan để chống lại cách mạng xã hội. “Điều ta muốn là phải tiêm được một liều thuốc bổ cho hội nghị ở Milan,” ông ta lơ đãng nói. “Những thảo luận của nó về biện pháp mang tính quốc tế để đàn áp tội phạm chính trị dường như chẳng đi đến đâu. Nước Anh tụt hậu. Đất nước này, với sự tôn trọng sụt sùi với sự tự do cá nhân, đã trở nên lố bịch khủng khiếp… Phải siết nước Anh vào một khuôn khổ.”

Sự châm biếm bài Xla-vơ này, dẫu có được khắc họa nhẹ nhàng tới đâu, từng câu từng chữ vẫn thể hiện niềm kiêu hãnh về sự tự do và nền văn minh Anh Quốc. Nước Nga bị căm ghét - giờ đây bị căm ghét bằng ngôn ngữ của nước Anh, nhưng nhiều khả năng đã khởi sự bằng tiếng Ba Lan - trong bản án phải gánh chịu tội lỗi cho mọi bi kịch của con người vốn là chủ đề của cuốn tiểu thuyết: cái chết của thằng nhóc Stevie, vụ mưu sát tên vô lại đáng thương Verloc và kết cục tự sát của vợ ông ta. Liệu Conrad, trong cuốn sách trinh thám-chính trị này, có đã tái hiện chất Anh nhiều hơn bất kỳ truyện biển nào ông đã viết không? Một Uỷ viên Cảnh sát Anh chính trực đã nói với ngài Vladimir: “Điều làm tôi hài lòng nhất trong vụ việc này là nó tạo thành một điểm tiên khởi tuyệt vời cho công việc mà tôi cảm thấy cần phải được thực hiện, đó là thanh lọc khỏi đất nước này tất tật những tên gián điệp chính trị ngoại quốc, những tay cảnh sát ngoại quốc và loại… loại… chó đó.” “Chó” là cách diễn đạt của ngài Vladimir, một kiểu diễn đạt đậm tính Đông phương, chính xác hơn là Trung Á, để nói bằng cái giọng dính cổ họng kỳ lạ mà các đặc vụ Xô-viết ngày nay cũng sử dụng thành thạo hệt như những kẻ đồng chức với ngài Vladimir trên thực tế. Tôi đề cập điều này chỉ để cho thấy rằng cuốn tiểu thuyết của chúng ta không hề trở nên lỗi thời bởi hành động chính của nó diễn ra dưới thời Sa hoàng, và rằng cuộc xung đột Đông-Tây tạo nên bối cảnh chính trị của nó đã không hề mất đi tính thời sự bởi một sự thay đổi chính quyền [ND: chế độ Nga hoàng sụp đổ và sự thành lập Liên Xô năm 1917].

Tại đây, xin đưa ra một phỏng đoán nữa: khuynh hướng thiên vị rõ ràng của phương Tây của nhà văn phi thường này, người đã nổi danh nhiều năm ở Anh, Pháp và Mỹ - liệu có thể được xem là nguyên nhân cho tầm ảnh hưởng hạn chế của ông ở một đất nước như của chúng ta, nơi đã có bản năng không ngả theo phía này hay phía kia? Đã có thời điểm dường như chúng ta đã chọn, dường như chúng ta, về mặt chính trị và văn hóa, đã ngả về phương Đông; và đó trùng với thời điểm khi tên tuổi Conrad đang lẫy lừng khắp thế giới phương Tây. Đối với chúng ta, con người có tài kể chuyện này lọt thỏm dưới cái bóng Dostoevsky, một cái bóng mà - chúng ta có thể thoải mái mà thú nhận - cho đến ngày nay vẫn khiến chúng ta cảm thấy có thể nuốt chửng tới ba hoặc bốn Conrad chứ đừng nói là một. Và rồi thời gian thay đổi mọi thứ; nhà tiên tri có thị kiến gây chấn động và có tính khải huyền ấy đã đánh mất phần nào quyền lực của mình trong tâm trí người Đức; chúng ta dò dẫm tìm đường từ phương Đông của Byzance-Kitô trở về lại Trung tâm, để một phần trong chúng ta thấm lại vào thế giới phương Tây nhân văn và tự do. Có lẽ chính sự kiện một nhà xuất bản hàng đầu hiện nay cho ra mắt một ấn bản tiếng Đức các tác phẩm chủ yếu của Conrad là bằng chứng cho thấy cơ hội thành công vững chắc hơn trong trái tim chúng ta.

Không, Conrad còn xa mới đạt tới tầm vóc của Dostoevsky. Nhưng tình yêu của chúng ta đâu chỉ bị chi phối bởi tầm vóc? Nếu thế, thời đại chúng ta đang sống, vốn đến nay vẫn chỉ sản sinh ra những hình thức quá sức bé nhỏ và tuyệt đối không đáng kể so với thế kỷ 19, sẽ có ít quyền đòi hỏi tình cảm nơi chúng ta hơn - thực tế, chúng ta cũng không phải chưa từng tuyên bố rằng thế kỷ trước là sự vĩ đại chân xác, dù hầu hết đều là sự vĩ đại bất hạnh. Hãy thú nhận rằng các sản phẩm sinh ra trong thế kỷ của chúng ta thì kém anh hùng hơn nhiều so với thế kỷ 19, thậm chí xét về mặt tinh tế cũng không vượt trội được. Ở Wagner, ở Dostoevsky, thậm chí Bismarck, thế kỷ 19 hợp thành một sự phát triển khổng lồ bao chứa trong mình sự tinh tế tuyệt đích, được vận dụng bằng thứ kỹ thuật mang độ tinh xảo đến mức giáp ranh với sự bệnh hoạn và man rợ. Nhưng có lẽ chính sự giã từ đặc điểm này, một đặc điểm vừa bệnh tật vừa dã man này, một đặc điểm thuộc về châu Á, thực sự đã định hình cấu trúc nhỏ hơn cho thời đại của chúng ta, người ta hoàn toàn có thể khẳng định như vậy. Ít nhất chúng ta nhìn nhận nó như một thời đại đồng điệu và giàu tình nghĩa anh em hơn, khi đem ra đối sánh bởi tinh thần gia trưởng của ngày hôm qua. Có lẽ quy mô khiêm tốn hơn ở thời chúng ta xuất phát từ khát vọng của chúng ta nhằm hướng đến một nhân tính thuần khiết hơn, tươi sáng hơn, lành mạnh hơn, gần như có thể nói mang tính cách Hy Lạp hơn so với bóng tối đồ sộ của thế kỷ 19. Và chứng cuồng Anh của một Conrad dòng dõi Xla-vơ, sự khinh miệt ông dành cho những âm dính cổ họng Trung Á, có thể bắt nguồn từ chính những khát vọng, hoặc nhiệm vụ, của chúng ta.

Tôi sẽ không quên tính cả phong trào cách mạng thế giới, cũng như các lợi thế tinh thần ngày nay có được nhờ duy trì mối giao hảo với Đông phương. Mỗi người phương Tây có con mắt rộng mở đều ghen tị với Trung Âu về mặt địa lý thuần túy, vì những lợi thế mà địa hạt này chắc chắn phải từ bỏ nếu ngả rạp về phương Tây tư sản. Theo một nghĩa nào đó, chúng ta sẽ tính đến cả một hình phạt - ngay cả khi không thừa nhận rằng việc chọn tiếng Anh thay vì một ngôn ngữ thuộc về phần châu Âu Lục địa tự nó đã là một sự hạ thấp trình độ. Nhiều hình thức hơn, với nhiều giới hạn hơn - đó có phải là sự lựa chọn thay thế mà đứa con Xla-vơ ấy đối mặt khi đưa ra quyết định của mình? Không, cách đặt vấn đề như thế là không ổn. Những gì Conrad đã từ bỏ là lợi thế của sự man rợ, điều ông đã thực hiện với đôi mắt mở to. Những gì ông được đền bù là lý trí, sự điều độ, thái độ cởi mở, tự do trí tuệ và một khiếu hài hước đã được tính cách kiên cường của của Anglo-Saxon giữ cho tránh rơi vào tình trạng ủy mị và đặc điểm tư sản. Đó là một khiếu hài hước sắc sảo, phóng khoác, được tiếp sức phần nào bởi thứ tình cảm len lỏi đâu đó trong Tay điệp viên, rằng “thế giới chúng ta rốt cuộc cũng không phải vấn đề gì quá hệ trọng.” Ta thường ít thấy biểu hiện tôn kính của ông đối với ký ứng đau khổ, một đặc điểm của Cơ đốc Đông phương; khi ông nói về cái móc sắt một tay xà ích già túng bấn thò ra thay vì cánh tay thật, ông làm điều đó thật khô khan, thể hiện thái độ thưởng thức của ông đối với sự khắc nghiệt trong cuộc sống hơn là bày tỏ thái độ thương hại. Thường thấy, trong những chi tiết được cài cắm lặng lẽ, khiếu hài hước thổi vào một sự giải trí tươi mới: như khi ông mô tả chuyến đi xe ngựa và mặt kính của những ngôi nhà gần đó kêu lách cách và leng keng như sắp sập sau xe; hoặc chiếc đàn piano tự động, các phím đàn của nó dường như được chơi bởi một con ma thô tục và trơ trẽn, kẻ đã dừng bặt bài đàn của mình như thể đang giận lẫy. Tác giả không hề, dù chỉ thoáng qua, thay đổi giọng điệu khi mô tả một người đàn ông bị giết: “Giờ đây, ông Verloc không còn có vẻ gì như đang ngủ nữa, ông như đang nằm gập cổ lại và chăm chú nhìn xuống phía ngực trái của mình. Và khi Đồng chí Ossipon nhận ra cái chuôi dao, anh ta quay phắt khỏi cửa kính, nôn khan.” Cái cảnh đáng lý ra phải dữ dội cao trào kia hoàn toàn không om sòm. Cái nhìn hướng cảnh tưởng kinh hoàng kia rất rõ ràng, sinh động, ráo hoảnh, gần như đã đời; tinh thần của câu chuyện mang đậm chất Anh một cách ấn tượng, và đồng thời nó cực kỳ hiện đại, hậu-trung lưu. Bởi tôi cảm thấy, trên phương diện cơ bản và chung quy, đặc điểm nổi bật của nghệ thuật hiện đại là nó đã ngừng công nhận các phạm trù bi kịch và hài kịch, hoặc các kiểu phân chia giữa kịch, bi kịch và hài kịch. Nó nhìn cuộc sống như một bi hài kịch, để cho ra kết quả là cái kỳ dị và cái kỳ dị này trở thành phong cách chân thực nhất của nó - đến mức ngày nay đó là tư thế duy nhất mà cái cao cả có thể hiện diện, thật thế. Bởi sự kỳ dị là phong cách chống tư sản đích thực; và dù thế giới Anglo-Saxon có thể mang tính tư sản thế nào đi nữa, thì một sự thật là trong nghệ thuật, cái hài-dị luôn là điểm mạnh của nó.

Không, khuynh hướng ngả về phương Tây của Conrad không phải là dấu hiệu cho sự đầu hàng của nghệ thuật hay trí tuệ trước thế giới quan tư sản. Ông đặt vào miệng ngài Vladimir một câu hỏi đầy hàm ý xã hội và phê phán khi để ngài ta hỏi: “Tôi cho là ông cũng đồng ý rằng tầng lớp trung lưu là ngu ngốc?” và khi ông Verloc trả lời “Họ đúng là thế thật,” chúng ta không nghi ngờ gì rằng tác giả chia sẻ quan điểm của hai người đàn ông này. Conrad là một nghệ sĩ và một tinh thần tự do quá lớn nên không thể bị kìm hãm bởi giáo điều trong chủ nghĩa xã hội của mình, hoặc để trở thành một người xã hội chủ nghĩa, ngoại trừ theo nghĩa tự do nhất và với tư cách là một đứa con của thời đại ông sống. Trong sách, chủ nghĩa Marx được đại diện bởi chứng độc tưởng Michaelis côi chút, “tông đồ giấy miễn xá”. Những nhà cách mạng của Conrad khó mà thuộc típ người đáng yêu; tâm lý học về những kẻ phản động của ông mang bản chất bi quan mạnh mẽ; và chủ nghĩa hoài nghi của ông đối với các xã hội không tưởng được tiết lộ trong mô tả về một kẻ nổi dậy về “một bệnh viện to lớn và đẹp đẽ với một khu vườn đầy hoa, nơi những người khỏe mạnh sẽ cống hiến hết mình để chăm sóc những người yếu đuối”, trong khi một kẻ khác, một tên khủng bố nhỏ bé đáng thương và là giáo sư về kíp nổ, lại mơ về một thế giới hoàn toàn khác, một thế giới như một lò mổ, nơi “kẻ yếu” bị đem tới tận diệt. Nhưng tất cả sự châm biếm này khó mà có có hàm ý tư sản nào. Có một sự mỉa mai rất đỗi vi tế trong đoạn văn kể về ông Verloc tốt bụng rằng chức năng của ông ta là bảo vệ xã hội, không phải cải thiện nó hay phán xét nó; sự mỉa mai trở thành một bức tranh châm biếm vĩ đại khi nó đề cập đến hành động chính của cuốn sách, vụ đánh bom nhằm kích động hội nghị Milan, và với đối tượng mà nó nhắm tới để đem lại hiệu quả cao nhất. “Dĩ nhiên, anh có thể gọi tên nghệ thuật. Thả một quả bom ở Bảo tàng Quốc gia thì ầm ĩ ra trò đấy. Nhưng chưa đủ nghiêm trọng. Nghệ thuật chưa bao giờ là cõi thiêng của dân chúng. Nhắm vào nó thì cũng chỉ như đập vỡ mấy khung cửa sổ nhà người khác; trong khi, nếu anh muốn chủ nhà thực sự đứng ngồi không yên, anh phải làm sao dỡ được cái nóc. Cho nổ bảo tàng thì cũng la hét kinh hãi ấy, dĩ nhiên, nhưng từ ai cơ chứ? Là lũ nghệ sĩ - lũ phê bình và đồng bọn - bọn tép riu. Ai mà quan tâm chúng nói gì. Nhưng ai cũng quan tâm tới tri thức-khoa học. Ngốc tới đâu mà kiếm được tiền thì đều cũng phải có lòng tin vào thứ đó. Chẳng mấy ai hiểu đâu, nhưng tất cả đều tin rằng nó quan trọng. Đó là cõi thiêng bất khả xâm phạm trong thời đại ta [...] nó sẽ đánh vào thói ích kỷ của giai cấp mà chúng ta muốn tác động. Người ta tin rằng, bằng một cách bí ẩn nào đó, khoa học là ngọn nguồn cho mọi sự thịnh vượng. Họ tin thế thật đấy […] Giết người thì nhan nhản mà. Phải nhắm vào một thể chế. Vụ tấn công phải nhắm vào tri thức-khoa học […] Anh nghĩ sao nếu ta nhắm vào ngành thiên văn học? […] Không thể có gì tốt hơn […] Cả thế giới sẽ nghe danh Greenwich. Đến những kẻ đánh giày ở hầm ga Charing Cross cũng sẽ hóng hớt được đôi chút về tin tức ấy. Thấy chưa? [...] Hãy thử nghĩ về gốc kinh tuyến. Anh không hiểu giới trung lưu như tôi đâu. Cảm xúc của chúng chai sạn cả rồi. Gốc kinh tuyến. Không đâu tuyệt hơn và không đâu dễ bằng, tôi dám cá.”

Những khai lộ chói chang của ngài Vladimir sấm truyền cho Verloc tội nghiệp chính là đỉnh cao châm biếm của cuốn sách. Đương nhiên, tác giả của nó không phải là loại sinh vật khinh thường khoa học. Nhưng mặt khác, ông cũng chẳng mấy thiết tha với một xã hội được xây dựng hoàn toàn dựa trên nó và rung động theo những mệnh lệnh của nó; và ông nói về “cái nhìn tự mãn đến mức không thể chịu nổi, nghẹt bứ một cách vô vọng, thứ chỉ có sự thân thuộc với khoa học mới có thể ban cho sự đần độn của những phàm nhân mắt thịt.” Sự coi thường nghệ thuật, coi thường những gì cấu nên các giá trị tinh thần, kết hợp với sự cả tin và tôn sùng vô hạn đối với khoa học thực dụng - chính những thứ đó, theo cảm quan của Conrad, mang nặng tính bourgeois. Nếu thái độ của ông đối với giai cấp vô sản không hoàn toàn chính thống, thì rõ ràng là bởi vì khoa học, ở phía bên kia của chủ nghĩa Marx, đã trở thành di sản và vật thờ của giai cấp vô sản; rồi sẽ không một ai phủ nhận rằng chủ nghĩa Bolshevik là một quan niệm hết sức khoa học của thế giới nữa.

Chẳng hạn, Đồng chí Ossipon, người có biệt danh “Bác sĩ”; từng là người hành nghề y không bằng cấp, giảng viên rày đây mai đó cho các công đoàn lao động về tương lai xã hội của vệ sinh, tác giả của một pamfơlê nhan đề “Những Thói Hư Nát mòn trong Tầng Lớp Trung lưu” - Đồng chí Ossipon là con người khoa học. “Điển hình cho dạng suy đồi này” là những gì hắn nói, với vẻ trịch thượng, về việc cậu bé Stevie vẽ những vòng tròn, cái hành động kỳ lạ ấy, được thực hiện với sự siêng năng đến vậy, một mớ hỗn độn vũ trụ có thể nói là thế, hay các nỗ lực của một nghệ thuật điên rồ để miêu tả điều không thể hình dung. Tất nhiên Đồng chí Ossipon ám chỉ đến dái tai và đến Lombroso. Và “Lombroso là đồ chó đẻ,” một kẻ thù còn lớn hơn của trật tự hiện hành đáp lời anh ta; và tác giả mô tả điều này như một “sự phỉ báng” mang tính đả phá. “Chú có gặp ai ngu như thế chưa? Hắn tin mọi phạm nhân đều là tù nhân. Nghe đơn giản quá, nhỉ? Thế còn những kẻ nhốt họ vào đó - ép họ ở trong đó thì sao? Chính xác. Những kẻ ép họ ở trong đó. Và còn nữa, tội ác là gì? Liệu hắn ta có biết, kẻ ngu thộn như chú đã tìm đường leo lên cái xã hội đầy rẫy những kẻ ngốc này bằng cách nhìn vào tai và răng của rất nhiều con người bất hạnh hay không? Răng và tai lột trần tội phạm ư? Thật ư? Thế còn luật pháp, thứ lột hắn còn trần trụi hơn, thì sao - cái thứ công cụ đánh dấu xinh xắn được tạo ra bởi những kẻ ăn quá no để bảo vệ mình khỏi những người quá đói đó, nó thì sao? Những nhát nung đỏ ấn vào làn da hèn hạ của họ - thì sao? Ngồi đây chú có ngửi thấy mùi da thô dày của dân đen đang cháy xèo xèo không? Tội phạm sinh ra từ đó chứ chẳng đâu, để rồi cái thằng cha Lombroso của chú viết những thứ đần độn về họ đấy.” Với tất cả sự “phỉ báng” này, tác giả có lẽ cảm thấy một mức độ đồng cảm nhất định, đáng kể là đằng khác. Nhưng cách nhìn và miêu tả cậu bé Stevie của chính ông cho thấy rằng sự phản đối của ông đối với thứ ngụy khoa học của Lombroso, như một sản phẩm tầm thường kiểu trung lưu, không dựa trên cơ sở xã hội, mà trên những cơ sở thâm sâu hơn, mang tính tôn giáo.

Stevie, như được tiết lộ trong chuyến đi xe ngựa và cuộc trò chuyện sau đó với chị gái Winnie, trong phạm vi mà “sự khác thường” của cậu cho phép người ta nói về một cuộc trò chuyện; cậu bé Stevie thiểu năng này, người dù vậy vẫn đáng yêu vượt lên trên và ngoài mọi giá trị trong cuộc sống, và người mà Winnie yêu thương đến mức đã trả thù cái chết của cậu bằng cách thức khủng khiếp nhất, hiến tế bản thân - Stevie rõ ràng là nhân vật xuất sắc nhất trong cuốn sách, và được hình dung với sự đồng cảm sống động và cảm động nhất. Ảnh hưởng Nga ở đây là khó chối cãi: không có Thằng Ngốc của Dostoevsky, Stevie hoàn toàn không thể hình dung được; chúng ta phải thừa nhận rằng nỗ lực của Dostoevsky trong việc trình bày điều thuần khiết và thiêng liêng nhất trong nhân tính chúng ta trên cơ sở bệnh lý là lớn lao vô song về khía cạnh phạm vi; thế nhưng ở đây chúng ta cũng có một nỗ lực để phong thánh cho cái thiểu năng lâm sàng. Sức mạnh rất đậm chất hiện đại của Conrad trong việc nhìn thấy cả hai mặt được thể hiện ở chỗ ông không bao giờ hạ thấp mặt bệnh lý của vấn đề hay lãng mạn nhắm mắt làm ngơ trước nó. Ông nhượng bộ một cách tự nhiên chủ nghĩa đối với khoa học bằng cách mô tả “tính khác thường” của Stevie như một đặc điểm gia đình; và trao ý nghĩa bệnh lý cho hành động của người chị bằng cách đề cập đến sự giống nhau đột ngột và nổi bật mà nàng thể hiện với em trai mình vào khoảnh khắc đó. Tuy nhiên, tâm lý học chi phối ở đây là một thứ hàm chứa ý nghĩa tôn giáo, thứ cho thấy ý kiến “khoa học” của Đồng chí Ossipon về Stevie thực chất là gì, từ góc nhìn con người: một thứ giáo dục giả hiệu rách rưới. Thật vậy, có một gợi ý tinh tế nhưng khó lầm lạc rằng nhận xét của Đồng chí Ossipon chính là thứ đã gieo vào tâm trí bị giày vò của Verloc mầm mống đầu tiên của ý tưởng rằng ông ta có thể sử dụng Stevie trong âm mưu chính trị mình đang ấp ủ; như vậy một lần nữa khoa học bị tấn công, một lần nữa bị kết tội từ quan điểm đậm tính người.

Toàn bộ những điều đó không mang tính chất bourgeois, nhưng cũng chẳng phải thứ chủ nghĩa vô sản chính thống tốt đẹp gì. Nó là chứng cứ cho sự khách quan không ràng buộc, vốn là công việc của nhà văn phi giai cấp, nếu không muốn nói rằng có lẽ chỉ là công việc của chỉ mình Conrad mà thôi; và khắp nơi trong các tác phẩm của Conrad, nó được bộc lộ trong nhiệm vụ giải phóng của mình. Trong sự phán xét về các giới tính, ông khách quan: nói về sự nhạy cảm có thể tồn tại trong bản chất nam tính bên cạnh sự tàn bạo gây bực mình; và nhận thấy rằng phụ nữ về tư chất thì xảo quyệt hơn đàn ông, và cũng tham lam và tàn nhẫn hơn nhiều so với các tiểu tiết. Ông cũng giữ khoảng cách và có tinh thần phê phán trong thái độ bộc lộ đối với các giai cấp và quần chúng, với tất tật những mâu thuẫn bề nổi và tạm thời trên thế giới. Sự châm biếm mà ông nhắm vào “sự nhàn rỗi hợp vô trùng” [ND: hygienic idleness, ý nói về một xã hội không tưởng mà các nhà xã hội chủ nghĩa nhắm tới, nơi con người được giải phóng khỏi lao động nặng nhọc, sống trong sự thư nhàn thanh thản, hợp vệ sinh và an toàn. Chữ ‘hygienic’ ở đây, ngoài nghĩa hợp vệ sinh đã phân tích, còn mang ý là vô trùng, nhân tạo, thiếu sức sống và phi thực] như một hình thức tồn tại là một tư tưởng xã hội chủ nghĩa khá tốt đẹp; nhưng ông cũng biết cách làm cho hình mẫu kẻ kích động có chất giọng khản đặc - như trong Tên mọi trên tàu Narcissus - trở nên ghê tởm trong tâm hồn độc giả; và ông nói về những kẻ khủng bố của mình rằng chúng chẳng tốt hơn tí nào so với những thế lực được huy động để chống lại chúng. “Ngưu tầm ngưu, mã tầm mã. Khủng bố hay cảnh sát thì cũng cùng một giuộc. Phục vụ cách mạng hay phục vụ pháp luật cũng chỉ là hai nước đi đối lập trong cùng một bàn cờ.” Đó không phải là sự thờ ơ vô tích sự của một kẻ quan sát dửng dưng với đối tượng mình quan sát. Đó là sự từ chối của một trí tuệ mang đầy tính dấn thân trong công cuộc treo thân mình lơ lửng một cách thảm thương giữa các mặt đối lập. “Lũ làm cách mạng các anh,” ông nói, hoặc để nhân vật của ông nói, “là nô lệ của chuẩn mực xã hội, thứ đáng ra phải run sợ trước các anh mới phải; các anh không khác gì đám cảnh sát đứng lên bảo vệ cho những chuẩn mực ấy cả, rặt một bầy nô lệ. Chẳng phải quá rõ ư, khi các anh cứ khăng khăng phải làm cách mạng cho nó. Nó chi phối suy nghĩ các anh, và dĩ nhiên, cả hành động nữa, thế nên, nghĩ hay làm các anh đều không bao giờ có thể dứt dạt cho được..”

Sự khách quan của Conrad có vẻ lạnh lùng; nhưng nó là một niềm say mê, một niềm say mê tự do. Nó là biểu hiện của chính tình yêu và say mê đã đưa chàng trai trẻ người Ba Lan ra khơi; và điều đó - như đã từng xảy ra trong trường hợp của Ivan Turgenev - không nghi ngờ gì là động cơ sâu xa nhất trong mối quan hệ văn hóa của ông với phương Tây. Tình yêu tự do này không thể bị nhầm lẫn với liberalism tư sản, bởi ông là một nghệ sĩ; và nó quá mạnh mẽ để được xếp vào loại chủ nghĩa duy mỹ. Mức độ thành công nghệ thuật của Conrad ở Đức sẽ được đo bằng tài năng của ông. Thông điệp trí tuệ của ông sẽ dành cho những ai trong chúng ta tin tưởng - trái ngược với quan điểm của đa số - rằng ý niệm về tự do ấy vẫn còn một chỗ đứng để điền vào ở châu Âu, một chỗ đứng chưa hề hết quan trọng.

Bùi Gia Bin dịch

favorites
Thêm vào giỏ hàng thành công