Drei Frauen: Người phụ nữ Bồ Đào Nha
Truyện thứ hai trong tập Drei Frauen (1924) của Robert Musil.
Người phụ nữ Bồ Đào Nha
- Robert Musil
Trong một vài chứng từ họ tên là delle Catene và trong những cái khác là những người đàn ông von Ketten; họ đến từ phía Bắc và đã dừng chân trước thềm vùng đất phương Nam; họ dùng thân thế Đức hoặc xứ Wales, tùy theo lợi ích đem lại, và cảm thấy chẳng thuộc về nơi nào cả ngoài chính bản thân.
Tòa thành của họ nằm vuông góc trên một khu rừng gần như trơ trọi dọc theo con đường rộng bắc qua ngọn Brenner hướng về nước Ý, giữa Brixen và Trient; một dòng sông nhỏ năm trăm feet dưới chân họ chảy siết gầm lên thật to khiến cho người ta chẳng thể nghe tiếng chuông nhà thờ trong cùng một khoảng không chừng nào người ta còn cúi cái đầu ra khỏi cửa sổ. Không một thanh âm nào của thế giới lấn được từ bên ngoài vào trong lâu đài của nhà Catene, xuyên qua được cái ầm ĩ hoang dại của bức màn treo phía trước; dẫu thế một con mắt dính chặt chống lại sự vùng vẫy đã xuyên qua kháng cự này và đầy ngạc nhiên loạng choạng tiến vào sự hoàn chỉnh sâu xa của một bao quát.
Tất cả đàn ông nhà von Ketten đều được xem là sắc lạnh và chăm chú, chẳng một lợi thế nào thoát được khỏi họ trong bán kính rộng. Và họ cũng ác như con dao ngay lập tức cắt sâu xuống. Họ chưa từng đỏ tía trước cơn giận hay ửng hồng vì vui thú mà họ tối sầm trong cơn giận dữ và trong niềm vui thì họ tỏa rạng như vàng, thật đẹp và thật hiếm. Người nào trong số họ, dẫu cho là ai trong suốt nhiều năm và hằng trăm năm, cũng đặc biệt giống nhau ở điểm họ sớm có những đường chỉ trắng trên lông thân người và râu màu nâu của họ và chết trước năm sáu mươi tuổi; cũng cả trong việc rằng dường sức mạnh khủng khiếp đôi khi họ chỉ ra hoàn toàn chẳng có sức chứa và nguồn gốc trong thân thể cao lớn vừa phải và dong dỏng của họ, mà từ đôi mắt và vầng trán của họ, thế nhưng những lời đồn đại này là từ các láng giềng và đầy tớ đã bị làm cho nhụt chí. Họ nhận những gì họ có thể mang đi và hành xử ngay thẳng hoặc quyết liệt hoặc khôn ngoan tùy theo tình thế, nhưng luôn luôn yên ắng và lối định mệnh; cuộc đời ngắn ngủi của họ đã không có sự hối hả và kết thúc nhanh chóng chẳng để lại gì ngay khi họ đã làm trọn phần của mình.
Có một tục lệ trong gia tộc nhà Ketten rằng họ không kết thông gia với các quý tộc trú ngụ ở gần họ; họ mang những phụ nữ của họ về từ xa và mang về những người phụ nữ giàu có để không bị hạn chế bất cứ gì hết trong lựa chọn đồng minh và kẻ thù của họ. Herr von Ketten, người mười hai năm trước cưới người phụ nữ Bồ Đào Nha xinh đẹp, khi ấy đang ở trong độ tuổi ba mươi của ông. Đám cưới đã diễn ra ở phương xa, và người phụ nữ rất trẻ nhìn nơi chôn nhau cắt rốn của mình lùi xa trong lúc đoàn leng keng của những người đưa tiễn và quân lính, ngựa, các hầu gái, lừa và chó bước qua ranh giới khu vực của vùng Catene; thời gian trôi qua tựa đám cưới chớp nhoáng kéo dài một năm dài. Bởi tất tật đàn ông nhà Ketten đều là những hiệp sĩ sáng chói, chỉ rằng họ bộc lộ điều đó trong duy nhất một năm của cuộc đời mình, là khi họ tự do; vợ của họ đều đẹp, bởi họ muốn có những đứa con trai xinh đẹp, và với họ đã hoàn toàn không thể khác được, ở nơi xa lạ, nơi họ chẳng có quyền hạn gì nhiều như ở quê hương, để mà giành lấy những phụ nữ như thế; chính họ cũng chẳng biết họ bộc lộ bản thân trong một năm này như thế, như họ đích thực là, hay trong tất tật những năm khác. Một người đưa thư với tin báo quan trọng tiến lại gần người đang gần về tới; những tấm áo choàng và cờ hoa sặc sỡ của đoàn rước vẫn còn như một con bướm khổng lồ, tuy vậy Herr von Ketten đã thay đổi rồi. Khi đã lại đuổi kịp, ông tiếp tục cưỡi ngựa bên cạnh vợ mình, như thể ông chẳng muốn sự vội vã tác động lên mình, dẫu thế gương mặt ông đã trở nên xa lạ như một bức tường mây. Tòa lâu đài bất chợt xuất hiện trước họ ở một đoạn rẽ ngang của con đường, chỉ còn cách một phần tư giờ nữa, bằng một khó nhọc ông đã chấm dứt sự im lặng.
Ông muốn vợ mình quay người và trở về nhà. Đoàn người đứng lại. Người phụ nữ Bồ Đào Nha khẩn thiết và cương quyết để bà tiếp tục đi; sau khi nghe nguyên do hẳn vẫn còn thời gian để quay lại.
Các Giám mục vùng Trient là những người hùng mạnh, và tòa án đế quốc đứng về phía họ: từ thời ông cố của mình gia tộc Ketten đã ở trong một cuộc tranh giành với họ vì một miếng đất, và chuyện đó đã sớm trở thành một vụ kiện, rồi từ những đòi hỏi và phản kháng mà các xung đột đổ máu cứ lớn thêm, thế nhưng lần nào cũng là các Herren von Ketten buộc phải nhượng bộ các thắng thế của đối thủ. Ánh mắt thông thường không một lợi thế nào thoát được đã chờ đợi vô nghĩa ở đây, chỉ để nắm lấy chúng; người cha truyền lại nhiệm vụ cho người con trai, và lòng tự tôn của họ tiếp tục đợi chờ trong kế thừa dòng giống để không trở thành mềm yếu.
Và chính Herr von Ketten này là người đã có một thắng thế. Ông hoảng hốt về việc ông gần như suýt chút nữa bỏ lỡ nó. Một phe phái quý tộc hùng mạnh đã ngả sang phía chống lại giám mục, đã được quyết định rằng ông ấy sẽ bị tấn công và bắt giam, và Ketten, như người ta có thể đoán trước, sẽ quay trở lại và là quân cờ quyết định trong cuộc chơi này. Ketten, đã vắng mặt hằng năm trời, chẳng hay biết thế lực thuộc giám mục ra sao; thế nhưng ông biết đấy là một phép thử xấu xa kéo dài hằng năm xuất khởi từ vị thế lung lay, và rằng người ta sẽ chẳng thể nào tin bất cứ ai cho đến kết cục cay đắng cả nếu không thành công trong việc ngay từ đầu đánh úp Trient. Ông gầm gừ người vợ xinh đẹp của mình vì nàng đã suýt chút nữa khiến ông bỏ lỡ dịp này. Ông, người đang kéo cương ngựa quay lại đi cạnh nàng, như luôn luôn thế; rất thích nàng, nàng với ông cũng thật đầy bí ẩn như rất nhiều chiếc vòng ngọc trai nàng sở hữu vạy. Tựa như những hạt đậu, người ta có thể nghiền nát chúng như thế khi họ đặt nó lên trong lòng bàn tay xương xẩu, ông nghĩ khi cưỡi ngựa cạnh bên nàng, thế nhưng những vật đó nằm chắc chắn không sao nắm bắt nổi ở trong đó cơ mà. Thế rồi điều mê hoặc từ tin báo mới này được dọn gọn ghẽ sang một bên như những giấc mơ xác ướp của mùa đông khi những ngày mặt trời sáng tỏ trần trụi đầu tiên lại ở đây. Những năm tháng khi vợ và con mờ đi trong xa lạ đã chất chồng trước mắt.
Trong khi ấy ngựa đã đến chân bức tường chắn trước tòa thành, và người phụ nữ Bồ Đào Nha, ngay khi nàng nghe được tất tật, đã nói rằng nàng muốn ở lại. Lâu dài dựng dốc đứng. Đây và đó những cái cây bé nhỏ còng queo nằm sát mỏm đá nhô ra như những cọng tóc rời rạc. Dãy Waldberg cứ chồi lên và hạ xuống như thế khiến người ta, một người chỉ biết những cơn sóng đại dương, hoàn toàn chẳng muốn miêu tả sự xấu xí này. Không khí đã đầy vị của cái lạnh tăng lên, và tất tật đã như thể người ta cưỡi ngựa đi vào một cái nồi khổng lồ bị nứt chứa một màu xanh lục lạ lẫm. Trong các khu rừng có hươu, gấu, lợn rừng, chó sói và có thể cả sóc. Xa xa đằng sau là nơi những con dê núi và đại bàng làm nhà. Các khe núi chẳng thể giải thích nổi đem lại chỗ trú cho những con rồng. Khu rừng rộng và sâu hằng tuần dài, chỉ những chuyến đi của thú hoang xuyên qua đó, và trên kia nơi ngọn núi đặt trên khu rừng, ở đó khởi sự đế chế của hồn ma. Quỷ dữ ngụ ở đó cùng giông bão và mây mù; con đường của một người con của chúa chưa từng dẫn lên đây, và nếu xảy ra bởi sự bất cẩn thì sẽ có những kinh nghiệm truyền lại mà những cô hầu gái kể cho nhau nghe bằng giọng thật khẽ trong căn buồng mùa đông, trong lúc đám gia nhân im lặng lối xu nịnh và so vai, bởi rằng cuộc đời người đàn ông thật nguy hiểm và những cuộc phiêu lưu như thế có thể rơi vào bất cứ ai. Hơn tất thảy, điều người phụ nữ Bồ Đào Nha đã nghe thấy hiện lên với cô thế nhưng như một điều hết sức lạ lùng: giống như còn chưa ai đi tới được chân của cầu vồng thì cũng chưa từng ai thành công trong việc nhìn qua bức tường đá khổng lồ; cứ luôn luôn có những bức tường mới phía sau; các khe rỗng đã doãi ra như chiếc khăn đầy sỏi đá, các hòn đá thì lớn như một ngôi nhà, và ngay cả sỏi mịn dưới chân cũng chẳng nhỏ hơn một cái đầu; đó là một thế giới thực ra chẳng là thế giới nào cả. Nàng đã tưởng tượng trong các giấc mơ vùng đất nơi xuất thân của người đàn ông nàng yêu, theo như con người của chính ông, và con người của người đàn ông này theo như những gì ông đã kể cho nàng nghe về quê hương của ông. Mỏi mệt một đại dương xanh thẳm nàng đã mong chờ một vùng đất, điều hoàn toàn chẳng được mong đợi đã như dây cung kéo căng; dẫu vậy khi thấy điều bí mật thì nàng thấy nó xấu xí hơn tất tật những mong chờ và những muốn bỏ chạy. Tòa thành như được ghép vào từ những cái chuồng gà. Đá chất thành chồng. Các bức tường lung lay ứa ra trên đó bùn vữa. Gỗ mục hoặc thân cây ẩm ướt. Các dụng cụ nông trại và chiến trận, dây xích chuồng trại và xe kéo. Thế nhưng nàng đã đứng tại đây rồi và nàng thuộc về đây, có thể những gì nàng nhìn thấy hoàn toàn chẳng xấu xí mà là một vẻ đẹp giống như tập tục của những người đàn ông này nàng trước hết sẽ phải làm quen.
Khi Herr von Ketten trông thấy vợ của ông cưỡi ngựa tiến lên ngọn núi ông đã không muốn cản nàng. Ông không cảm kích gì nàng, thế nhưng đã có một điều chẳng vượt ra khỏi mong muốn của ông lẫn thuận theo ông mà nó lôi kéo ông chệch ra hướng nào đó và im lặng chẳng sao cứu chữa nổi mà phía sau nàng tiến ngựa vào như một linh hồn khốn khổ lạc lối.
Hai ngày sau ông lại lên lưng ngựa.
Và mười một năm sau ông vẫn làm điều đó. Cuộc đảo chính chống lại Trient được chuẩn bị qua loa đã thất bại, đã ngay từ ban đầu lấy mất khỏi thế lực hiệp sĩ hơn một phần ba tùy tùng và hơn một nửa lòng gan dạ của họ. Herr von Ketten, bị thương khi rút quân, đã không ngay lập tức quay trở về; ông nấp mình hai ngày dài trong một cái lều nông dân, sau đó ông phi ngựa lên các lâu đài và thổi bùng lên cuộc nổi dậy. Ông đã đến quá muộn cho sự bàn bạc và chuẩn bị của sự việc, giờ sau trận đánh thất bại ông bám vào đó như một con chó bên tai con bò đực. Ông chỉ cho những người quyền lực khác thấy điều gì chờ đợi họ nếu thế lực của Giám mục phản kháng lại, ngay khi họ đã lần lượt quyết định thì người thất trận và khổ hạnh này đã nhắm tới đòi tiền bạc từ họ, kéo theo sự trợ giúp, trang bị và được bầu làm người cầm đầu quân lính của các quý tộc. Vết thương của ông ban đầu vẫn rỉ máu khiến ông cứ hai lần mỗi ngày phải thay băng; ông chẳng biết, trong lúc mình phi ngựa và kháng cự và cho mỗi một tuần ông đến nơi quá muộn mà có một ngày dừng chân, liệu ông khi ấy có nghĩ đến người phụ nữ Bồ Đào Nha huyền diệu hẳn đang sợ hãi kia không.
Năm ngày sau thông báo về vết thương ông mới đến bên nàng và ở lại chỉ một ngày. Nàng, chẳng hỏi gì, nhìn ông thăm dò, như người ta dõi theo vệt của một mũi tên xem nó có trúng đích không.
Ông dẫn theo người của mình, cho đến kẻ hầu cuối cùng có được, đặt tòa thành trong tình trạng phòng thủ, thiết lập trật tự và hạ lệnh. Ngày hôm đó là tiếng ồn của binh lính, tiếng ngựa hí, tiếng kéo các xà gỗ, tiếng kêu của sắt và đá. Ông lại rời đi trong đêm. Ông đã gần gũi và dịu dàng như một tạo vật cao quý người ta tôn sùng, thế nhưng cái nhìn của ông nhắm thẳng như phát ra từ một chiếc mũ giáp, cả khi ông chẳng hề đội một cái nào. Vào lúc diễn ra cuộc chia ly, người phụ nữ Bồ Đào Nha bị lấn áp bởi tính cách của một phụ nữ, đã xin ông ít nhất cho nàng rửa vết thương của ông và đặt lên đó một băng bó mới, thế nhưng ông không đồng ý; vội vã hơn mức cần thiết, ông tạm biệt nàng, mỉm cười trong cuộc chia ly, và khi ấy cả nàng cũng mỉm cười.
Cách đối thủ kháng cự cuộc tranh chấp này, trong chừng có thể, đã rất quyết liệt, và như ứng với người đàn ông quý tộc kiên quyết khoác tấm áo giám mục này, thế nhưng như tấm áo đàn bà từng dạy cho ông biết, trận chiến này cũng cả mưu mô, lén lút và dai dẳng. Sự giàu có và các tài sản bất tận chầm chậm gập lại tác động của chúng theo từng nấc, cho đến khoảnh khắc cuối cùng của những kẻ bị hiến tế muộn màng để kết nối với những người trợ giúp. Kiểu xung đột này tránh được các quyết định. Lăn xả vào ngay khi sự phản kháng dâng lên đỉnh điểm; xông lên nơi nó cảm thấy sự rệu rã của kẻ thù. Thế nên dẫn đến rằng đôi khi một tòa thành bị đốt rụi, và nếu không được giải vây kịp thời thì nó sẽ rơi vào cảnh giết chóc đẫm máu, đôi khi suốt hằng tuần liền đoàn quân nằm lại các địa điểm và chẳng gì hết xảy ra ngoài nông dân bị lấy mất một con bò hoặc một vài con gà bị chọc tiết. Từ nhiều tuần đã trở thành mùa hè và mùa đông, và từ những mùa trong năm đã thành hằng năm. Hai thế lực giằng co nhau, một bên hoang dại và hiếu chiến, thế nhưng lại quá yếu, bên kia giống như một thân thể chậm chạp, mềm mỏng, thế nhưng lại nặng nề tàn bạo và được cả thời gian cho mượn sức nặng.
Herr von Ketten hiểu rất rõ. Ông đã gắng sức để ngăn tinh thần hiệp sĩ bị nhụt chí và suy yếu khỏi việc dốc hết sức lực cuối cùng trong một cuộc tấn công được quyết định bất chợt. Ông rình đợi một đột ngột, một chuyển hướng, điều khó khả dĩ mà chỉ sự tình cờ mới có thể đưa đến. Cha của ông đã đợi và ông của ông nữa. Và khi người ta đã chờ đợi rất lâu thì cả điều hiếm hoi xảy ra cũng có thể xảy ra. Ông đã đợi mười một năm. Suốt mười một năm dài ông phi ngựa qua lại giữa nơi tại vị của các quý tộc và đoàn quân chiến đấu để giữ cuộc nổi dậy tỉnh táo, đã luôn giành lại được trong hàng trăm trận chiến danh hiệu của lòng dũng cảm bất chấp để tránh xa khỏi lời cáo buộc của chỉ huy cuộc chiến hèn nhát, đôi lúc cũng để dẫn đến những cuộc đụng độ đẫm máu lớn để châm ngòi cơn giận sùng sục của quân lính, dẫu thế ông cũng tránh một quyết định hệt như giám mục vậy. Nhiều lần ông đã bị thương nhẹ, nhưng chưa từng một lần ông ở lại nhà lâu hơn hai lần của mười hai giờ đồng hồ. Sự cọ xát và cuộc đời lang bạt đã choàng lên ông bằng một lớp vảy. Ông cũng sợ ở lại nhà lâu, giống như một người mỏi mệt không được phép ngồi xuống. Những con ngựa bồn chồn bị nắm chặt cương, tiếng cười đàn ông, ánh đuốc, những cái cột của một trạm dừng chân đốt lửa tựa một gốc cây từ bụi vàng giữa tán cây rừng lấp lánh sắc xanh lục, mùi mưa, tiếng chửi, những gã hiệp sĩ khoác lác, lũ chó khụt khịt bên vết thương, váy đàn bà vén cao lên và những gã nông dân hoảng sợ là sự tiêu khiển của ông trong những năm này. Ông ở giữa những điều ấy, vẫn dong dỏng và khỏe mạnh. Một vài sợi tóc trắng đã len lỏi vào mái tóc màu nâu của ông, khuôn mặt ông chẳng hề biết đến tuổi tác. Ông phải đáp những lời đùa tục tĩu và làm điều đó như một người đàn ông song hai mắt ông đã chuyển động rất ít. Ông biết can thiệp như một kẻ chăn bò khi kỷ cương lỏng lẻo; song ông không quát tháo, lời của ông thì thầm và ngắn gọn, các binh lính sợ ông, chưa bao giờ cơn giận có vẻ bắt tóm được ông cả, thế nhưng nó tỏa ra từ ông, và gương mặt ông tối sầm. Trong trận đánh thì ông quên mất mình, ở đó tất tật cử chỉ dữ dội gây thương sát thoát ra khỏi ông, ông trở thành cuồng đao và cuồng máu, chẳng biết điều ông làm, và cứ luôn luôn làm điều có lý. Quân lính bởi thế thần thánh hóa ông; các huyền thoại khởi sự được dựng lên rằng ông bởi lòng căm ghét với giám mục đã trao mình cho quỷ dữ và bí mật ghé thăm quỷ dữ trong hình hài một người phụ nữ xa lạ xinh đẹp ngụ tại tòa thành của ông.
Herr von Ketten khi lần đầu ông nghe thấy điều này đã chẳng phải không bận tâm, ông vẫn mỉm cười, song ông đã hoàn toàn vàng sậm lại bởi thích thú. Ông hay suy nghĩ khi ngồi bên đống lửa hoặc bên một bếp lò, và một ngày bị gạch đi mất, cũng như tấm da cứng ngắc lại mềm trở lại và tan vào hơi ấm. Ông nghĩ đến vị Giám mục ở Trient đang nằm trên tấm vải lanh thuần, được vây quanh bởi các giáo sĩ, một họa sĩ đang phụng sự khi người này đi vòng quanh ông như một con sói. Cả điều ấy ông cũng có thể có. Ông đã bổ nhiệm một thầy tu trong tòa thành để lo cho sự trò chuyện của các linh hồn, một người viết thư cho việc đọc thành lời, một hầu gái hài hước; một đầu bếp được mang về từ xa lắm, để đẩy đi nỗi nhớ nhà khỏi căn bếp, các đốc tờ từ xa tới đây và cả các học sinh người ta cũng tiếp đón để giành được họ trong cuộc chuyện trò đôi ba ngày của sự lơ đãng, những tấm thảm và vật liệu quý giá bằng chúng người ta phủ lên các bức tường đã tới; chỉ riêng ông lánh mình. Một năm dài ông đã nói những lời hay trong xa xôi và trong các chuyến đi, cuộc chơi và phỉnh nịnh, - bởi cũng như bất cứ vật gì được dựng hoàn chỉnh đều có linh hồn, dù là kim loại hay rượu vang mạnh, một con ngựa hay như một bệ phun nước, cả các xiềng xích cũng có linh hồn; - thế nhưng quê hương ông khi ấy nằm ở xa, bản thể thực của nơi ấy là một thứ người ta có thể phi ngựa hàng tuần liền mà chẳng tới được. Cả lúc này đây ông cũng có những lúc nói những lời chẳng suy nghĩ, thế nhưng chỉ chừng nào những con ngựa còn nghỉ trong chuồng của chúng; ông đến vào đêm và đi khỏi vào sáng hôm sau và đi như thế từ khi những thanh âm sáng sớm cho tới khi tạm biệt. Ông đáng tin như một món đồ người ta đã mang theo mình từ lâu. Nếu ngươi cười, nó cười theo, nếu ngươi đi, nó sẽ đi cùng, nếu tay ngươi chạm vào chính ngươi thì ngươi sẽ cảm nhận được nó: dẫu thế nếu ngươi một lần nhấc nó lên và nhìn kĩ, nó im lặng và ngoảnh đi. Giả như ông có một lần ở lại lâu hơn thì ông buộc trong thực tế phải như ông là. Dẫu vậy ông nhớ, ông chưa từng nói ông là thế này hoặc ông muốn trở thành thế kia, mà ông chỉ kể cho nàng về cuộc săn lùng, các cuộc phiêu lưu và những điều ông làm; và cả nàng, như những con người trẻ tuổi thường vẫn hay làm, chưa từng hỏi ông, ông nghĩ thế nào về điều này và điều kia, hoặc nói về chuyện nàng muốn sẽ thế nào khi nàng lớn tuổi thêm mà nàng chỉ im lặng hé mở như một bông hồng, thật đầy sức sống như trước đó nàng từng, và nàng đã đứng sẵn sàng trên bậc cầu thang nhà thờ, giống như bước lên một hòn đá từ đó người ta đu lên ngựa để bước vào một cuộc đời. Ông gần như không biết hai người con nàng sinh cho ông, thế nhưng cả hai người con trai này đều yêu người cha xa xôi mà danh tiếng của ông đã ngập tràn hai tai bé nhỏ chúng từ khi chúng biết nghe, đầy nhiệt thành. Lạ lùng thật kí ức vào buổi tối ngày người con thứ hai chào đời. Ở đó, khi ông đi tới có một chiếc váy mềm màu ghi sáng với những bông hoa màu ghi sẫm, bím tóc đen buộc lại trong đêm, và chiếc mũi xinh đẹp nhảy bổ vào màu vàng trơn của một quyển sách được thắp sáng với những ký họa đầy bí ẩn. Như một ma thuật. Một hình hài, ngồi trầm lắng, trong chiếc áo choàng rộng, với chiếc quần chảy xuống trong vô số dòng suối của nếp gấp, chỉ xõa ra và ngả vào chính nó; như một bệ phun nước; và một bệ phun nước có thể được xóa bỏ đi ngoài bởi ma thuật hoặc một điều kỳ diệu, và có thể hoàn toàn thoát ra khỏi bản thể gánh theo tròng trành của mình không? Ông muốn ôm người vợ và bất chợt va phải một cú đánh của phản kháng đầy ma thuật; đã không xảy ra như thế; dẫu vậy sự âu yếm chẳng phải còn ma quái hơn ư? Nàng nhìn ông, người đang bước khẽ vào như người ta nhận ra một chiếc áo khoác họ từng mặc trên người rất lâu và rất lâu rồi chẳng còn trông thấy, chiếc áo đó vẫn còn xa lạ một chút và người ta vẫn chui vào.
Ngược lại, danh sách các cuộc chiến, các dối trá chính trị, cơn thịnh nộ và giết chóc hiện ra với ông lại quen thuộc! Một hành động xảy ra bởi hành động khác đã xảy ra; Giám mục dự tính bằng những thỏi vàng của ngài, và người cầm đầu binh lính với thế lực đối kháng của quý tộc; sự ra lệnh là rõ ràng; cuộc đời này sáng như ban ngày và chắc nịch, cú xiên của một ngọn giáo dưới cổ áo sắt bị kéo lệch thật đơn giản như khi người ta trỏ bằng một ngón tay và có thể nói, chính nó đây. Cuộc đời kia thì lại xa lạ như mặt trăng. Herr von Ketten bí mật yêu cuộc đời này. Ông có không một thích thú nào trong trật tự, quyền thế và sự giàu có sinh sôi. Và liệu ông có tranh chấp ngay hằng năm trời về một tài sản lạ hoắc, ham muốn của ông không bám theo sự yên bình của chiến thắng mà khao khát tỏa ra từ tâm hồn; bạo lực của Catene nằm trên các vầng trán, các hành động câm lặng chỉ xuất khởi từ các vầng trán. Mỗi sáng khi ông leo lên yên ngựa ông lần nào cũng vẫn cảm thấy may mắn đã không từ bỏ, linh hồn của linh hồn ông; thế nhưng mỗi tôi khi ông xuống ngựa, sự vô nghĩa đầy bực bội của tất tật những gì vượt quá đã trải qua chẳng phải là hiếm lần sà xuống ông như thể ông đã gắng tất tật sức lực của mình một ngày dài để làm một thứ gì đó đẹp đẽ mà không thể thiếu tất tật những gắng gượng đó, thứ ông chẳng thể gọi tên. Giám mục, con người gian dối, có thể cầu nguyện Chúa nếu Ketten tấn công ông ta; Ketten chỉ có thể cưỡi ngựa qua những ruộng lúa nở hoa, cảm nhận dưới chân vó ngựa ngoan cố, hô biến sự thân thiện bằng bước ngựa sắt. Thế nhưng ông thấy tốt rằng đã có điều đó. Rằng ông có thể sống và chết mà không có thứ kia. Ông chối bỏ và đẩy đi một thứ lén lút hóa thành lửa, khi người ta nhìn vào thì nó đã biến mất hệt như khi người ta ngồi dậy và quay người, cứng đờ bởi những giấc mộng. Herr von Ketten một vài khi kéo căng những sợi chỉ dài rối bời khi ông nghĩ đến người ông đã tác động tất tật những điều này, Giám mục, và với ông đã như chỉ có thể là một điều diệu kỳ sắp đặt.
Vợ của ông mang theo gã hầu cận già cai quản tòa thành, và cùng hắn ta rẽ xuyên các khu rừng khi nàng không ngồi trước các bức tranh trong những quyển sách của mình. Khu rừng mở ra, thế nhưng tâm hồn nó thì lùi lại; nàng băng qua thân gỗ, leo qua những tảng đá, nhìn các vết chân thú, thế nhưng nàng mang về nhà không gì hơn ngoài những nỗi hoảng sợ nho nhỏ, những trở ngại đã vượt qua và lòng tò mò được thỏa mãn, tất tật chúng đã mất đi sức căng ngay khi người ta kéo chúng ra khỏi khu rừng, và ở ngay hình ảnh phản chiếu màu lục nàng đã nhận ra tức thì theo như các câu chuyện kể, trước khi nàng đến vùng đất này; chừng nào người ta không lấn lên thì nó sẽ tiếp tục đóng lại phía sau lưng. Nàng trông coi trật tự nơi tòa lâu đài tốt một cách hững hờ. Các con trai của nàng chẳng một ai từng nhìn thấy biển, đấy là các con của nàng ư? Đó là, như đôi khi hiện ra với nàng, là những con sói non. Có một lần người ta mang về cho nàng một con sói non từ khu rừng. Cả nó nàng cũng nuôi lớn. Giữa nó và những con chó to lớn ngự trị một sự nhường nhịn không mấy dễ chịu, một sự cho phép vắng trao đổi của các tín hiệu. Nếu nó đi qua sân của tòa thành thì chúng ngồi dậy và nhìn theo, thế nhưng không sủa và gầm gừ. Nó thì nhìn thẳng, cũng có cả khi liếc mắt, và gần như không đi chậm lại hay chắc chắn thêm con đường của nó để mà chẳng để bị để ý. Nó theo sau bà chủ của mình ở khắp mọi nơi; không một tín hiệu của tình yêu và lòng tin tưởng; nó nhiều khi nhìn nàng bằng đôi mắt dũng mãnh của nó, thế nhưng chúng chẳng nói điều gì. Nàng yêu con sói này bởi lẽ khao khát của nó, bộ lông màu nâu của nó, sự hoang dã câm lặng và tinh lực của đôi mắt làm nàng nhớ đến Herr von Ketten.
Thế rồi xảy đến khoảnh khắc người ta phải chờ đợi; Giám mục đổ bệnh và chết, tòa thánh vô chủ. Ketten bán tất cả những gì mang đi được, thế chấp các sở hữu nằm lại và trang bị từ tất tật các phương tiện một người chủ nhỏ bé, dành riêng cho ông: rồi ông thương lượng. Bị đặt trước lựa chọn phải tiếp tục tiến hành cuộc tranh chấp cũ chống lại thế lực mới được trang bị ngay khi người cầm đầu sắp tới có thể quyết định, hoặc tìm ra một kết thúc thuận lợi thì tòa thánh lựa chọn điều này, và đã chẳng thể có điều gì khác xảy ra ngoài xem Ketten, người ở đó như thế lực hùng mạnh và đe dọa cuối cùng đã nhận lấy phần lớn cho mình, còn tòa thánh thì gắn lối vô hại vào những kẻ yếu thế và hèn kém.
Thế là đã tìm thấy một kết thúc, thứ đã ở trong đời nối nghiệp thứ tư như một bức tường chắn người ta mỗi buổi sáng bên bữa ăn nhìn thấy hay không nhìn thấy ngay trước mặt: bỗng một lần nó vắng mất; cho đến nay tất tật đã như trong cuộc đời của tất cả người gia tộc Ketten, điều còn lại để thực hiện trong cuộc đời ngài Ketten này là hoàn thiện và sắp xếp, một việc tay chân khéo léo- và chẳng phải là một mục đích nam nhi.
Thế rồi, một con ruồi đã đốt ông, khi ông quay trở về nhà.
Bàn tay sưng lên tức thì, và ông trở nên rất mệt mỏi. Ông quay vào nhà khách của một ngôi làng nhỏ, nghèo khó, và trong lúc ông ngồi sau chiếc bàn gỗ nhớp bẩn thì một giấc ngủ ập vào ông. Ông đặt đầu xuống chỗ bẩn và khi ông tỉnh dậy vào gần tối thì ông bị sốt. Dẫu thế ông vẫn đi tiếp như thể ông đang vội vã vậy; nhưng mà ông không có sự vội vã nào cả. Ngày hôm sau khi ông muốn lên ngựa, ông đã ngã vì yếu sức. Cánh tay và bả vai sưng phồng, ông đã ấn chúng nhét vào bộ áo giáp và lại phải để cho tháo chúng ra; trong khi ông đứng và để điều này diễn ra, ông thấy một cơn rùng mình thấu xương ông chưa từng thấy bao giờ; các cơ của ông giật cục và nhảy múa đến mức ông không thể đưa tay này sang bên tay kia, và những mảnh sắt được mở ra một nửa rung lên như các tấm máng nước bị giật ra trong cơn bão. Ông cảm thấy nó lảo đảo, và cười bằng cái đầu cáu bẳn về sự lạch cạch này của mình; dẫu thế nơi hai chân, ông yếu như một thằng bé con vậy. Ông gửi đến vợ mình một người đưa tin, một người khác đến một thầy lang và một tới một bác sĩ có tiếng.
Vị thầy lang, người đầu tiên tới nơi, đã kê các băng bó nóng từ thảo dược và đề nghị được phép cắt đi. Ketten, lúc này nóng lòng hơn nhiều để trở về nhà, đã để vị thầy lang cắt cho đến khi rất sớm thôi ông chịu thêm nhiều vết thương mới hơn so với cái cũ ông từng có. Những cơn đau ông không được phép chống trả đã thật lạ lùng. Thế rồi ông nằm hai ngày liền trong những băng bó thảo dược thấm máu, để quấn từ đầu đến chân và về được tới nhà; cuộc hành trình này kéo dài ba ngày, thế nhưng sự chữa trị lối bạo lực hoàn toàn có thể dẫn tới cái chết này khi nó dùng hết tất tật sức tự vệ của cuộc đời đã dường chặn đứng lại căn bệnh: khi họ đến nơi, người bị nhiễm độc đã nằm trong một cơn sốt phừng phừng, thế nhưng mủ không còn lan ra nữa.
Cơn sốt như bề mặt cỏ cháy lan này kéo dài nhiều tuần. Người bệnh mỗi ngày đều tan thêm vào ngọn lửa của ông, thế nhưng cả những chất độc ác tính đã bị tan ra và bốc hơi trong đó. Chính vị bác sĩ nổi tiếng cũng chẳng biết gì để nói, và thêm vào đó chỉ có người phụ nữ Bồ Đào Nha mang thêm những ký hiệu bí mật đến cửa vào và bên giường. Vào một ngày khi từ Herr von Ketten chẳng còn gì ngoài một dáng hình của một nắm tro nóng và mềm thì cơn sốt bất chợt hạ xuống một nấc thấp và chỉ còn âm ỉ nhẹ.
Những cơn đau người ta chẳng kháng cự lại đã lạ lùng rồi, thì người bệnh đã hoàn toàn chẳng trải qua cái tiếp theo như một người đang ở trong đó. Ông ngủ nhiều và cũng không ở đây cả với hai mắt để mở; thế nhưng cả khi ý thức của ông quay trở lại thì thân thể chẳng một mong muốn, ấm nóng như trẻ con và vô thức này cũng chẳng phải của ông, và cả linh hồn yếu đuối được gợi dậy bởi một hơi thở này cũng không. Hẳn là ông đã tách rời ra và trong suốt cả thời gian này chỉ chờ đợi ở đâu đó liệu ông có buộc phải một lần quay trở lại hay không. Ông chưa bao giờ hay biết rằng cái chết lại an bình như thế; ông đã tiến gần cái chết với một phần của sự tồn tại của ông và đã tự xóa bỏ đi như một vết tích của người lang thang: Khi khung xương của ông còn nằm trên giường và chiếc giường còn ở đó, vợ của ông đã cúi người qua ông, và ông, từ một sự tò mò, nhằm thay đổi, ông đã quan sát các chuyển động trên khuôn mặt đầy chăm chú của nàng, tất tật thứ ông từng yêu, đã xa rồi. Herr von Ketten và người phụ nữ huyền hoặc vào đêm trăng của ông đã thoát ra khỏi ông và nhẹ nhàng tách ra: ông vẫn nhìn nàng, ông biết, bằng một vài cú nhảy vươn xa ông hẳn sẽ đuổi kịp nàng, chỉ là giờ đây ông không biết nữa, ông đã ở những bước nhảy đó chưa hay vẫn còn ở đây. Tất thảy thế nhưng nằm trong một bàn tay thiện lành khổng lồ thật nhẹ nhàng như một cán cân và đồng thời cũng cân đong tất tật mà chẳng cần nhiều to tát từ quyết định đó. Hẳn phải là Chúa. Ngài không nghi ngờ, nó cũng chẳng làm ngài kích động; ngài đợi và cũng chẳng đáp vào một nụ cười cúi ngang qua ngài, và những cả lời nói dịu dàng.
Rồi đến một ngày khi ông bất chợt biết rằng đó sẽ là ngày cuối cùng nếu ông không gom lại tất tật mong muốn để tiếp tục sống, và đó là ngày vào buổi tối cơn sốt đã hạ.
Khi ông cảm nhận được cấp bậc đầu tiên của sự hồi sức trong mình, ông hằng ngày để mình được khiêng tới nằm trên một khoảng xanh nho nhỏ phủ trên mỏm đá vươn ra không trung chẳng một bức tường ngáng trở. Bọc trong những chiếc khăn của mình, ông nằm đó trong ánh mặt trời. Ngủ, tỉnh, ông chẳng hay mình đã làm gì trong hai điều đó.
Một lần khi ông tỉnh giấc, con sói đã đứng đây. Ông nhìn vào nó trong đôi mắt sắc và chẳng thể động đậy. Ông không biết bao nhiêu thời gian đã trôi qua, rồi vợ của ông đứng bên cạnh ông, con sói bên chân nàng. Ông lại nhắm mắt như rằng ông hoàn toàn chưa tỉnh. Thế nhưng khi ông lại được khiêng lên giường của mình, ông gọi đưa đến cây cung. Ông đã yếu đến mức ông chẳng thể kéo nổi; ông ngỡ ngàng. Ông vẫy gã hầu lại gần, đưa cho hắn cây cung và hạ lệnh: con sói. Gã hầu lúng túng, thế nhưng ông trở nên tức giận như một đứa trẻ, và vào buổi tối bộ lông của con sói đã treo trong sân tòa thành. Khi người phụ nữ Bồ Đào Nha nhìn thấy nó, và vừa được hay biết từ gã hầu điều đã xảy ra, máu nàng ngừng chảy. Nàng bước đến bên giường của ông. Ở đó ông nằm trắng bệch như bức tường và lần đầu tiên nhìn lại vào mắt nàng. Nàng cười và nói: ta sẽ làm gọi người làm chiếc mũ từ bộ lông và đêm đến vắt máu cho chàng.
Sau đó ông đuổi đi gã thầy tu khi xưa từng nói: giám mục có thể cầu Chúa, điều đó nguy hiểm với ngài, và sau này cứ luôn đổ thêm những giọt dầu cuối cùng vào ông; thế nhưng chuyện này đã không xảy ra ngay tức thì, người phụ nữ Bồ Đào Nha chen vào giữa và cầu xin hãy rộng lượng cho gã thầy tu cho đến khi hắn ta tìm được nơi trú chân khác. Herr von Ketten thuận ý. Ông vẫn yếu và vẫn ngủ suốt trên khoảnh cỏ dưới ánh mặt trời. Vào một lần khi ông tỉnh giấc ở đó, người bạn hoa niên đã ở đây. Anh ta đang đứng cạnh người phụ nữ Bồ Đào Nha và đến từ quê hương của nàng; ở xứ phương bắc này trông anh ta thật giống nàng. Anh ta chào bằng một đường hoàng cao quý và nói những lời theo như biểu cảm của sắc mặt anh ta phải tràn đầy sự thân thiện lớn lao, trong khi đó Ketten nằm như một con chó trên cỏ và xấu hổ.
Về chuyện này thì cũng còn xảy ra thêm lần thứ hai; ông đôi khi vẫn chẳng ở đây. Ông sau này mới để ý rằng chiếc mũ quá rộng với mình. Một chiếc mũ bằng lông từng lúc nào cũng nằm rất khít, giờ sụt xuống trong một cử động nhẹ xuống tận tai đang giữ nó lại. Họ đang ở ba người với nhau, và vợ của ông nó: “Chúa ơi, đầu của ngài đã nhỏ đi rồi!” - Suy nghĩ đầu tiên của ông là có thể ông đã để tóc mình cắt đi quá ngắn, trong khoảnh khắc ấy ông chỉ không biết đó là khi nào; ông bí mật đưa tay lên, và tóc của ông thì dài hơn nó nên là, và rối bù, từ khi ông lâm bệnh. Thế thì chiếc mũ đã được nới rộng ra, ông nghĩ vậy, thế nhưng nó gần như mới và làm sao nó được nới ra trong khi nó nằm trong rương không được sử dụng. Rồi ông nói đùa và ý rằng, hẳn trong nhiều năm khi ông chỉ sống cùng những tên lính và với những kỵ sĩ có giáo dục, hẳn sọ của ông đã nhỏ đi. Ông cảm thấy câu nói đùa của mình mới vụng về làm sao, và cả câu hỏi cũng chẳng bởi thế mà bị đẩy đi, làm sao một cái sọ lại nhỏ đi được? Sức lực trong các mạch máu có thể yếu đi, lớp mỡ dưới da đầu có thể trong cơn sốt mà chảy tan ra: thế nhưng điều đó mang lại gì?! Có lúc ông làm như ông chải tóc, cũng để ngăn mình khỏi khô mồ hôi, hoặc gắng làm sao để lui vào bóng râm không ai để ý, và cào thật nhanh, bằng hai đầu ngón tay, hệt như với một cái kim la bàn, sọ của mình, một đôi lần, và bằng nhiều lần sờ khác nhau: thế nhưng chẳng nghi ngờ gì nữa, cái đầu đã nhỏ đi, và nếu người từ bên trong đổ đầy nó bằng các suy nghĩ, thì nó còn nhỏ hơn nhiều và như hai cái bát mỏng úp lên nhau.
Nhiều điều ông chẳng thể lý giải, dẫu thế ông chẳng mang trên vai và cũng không lần nào cũng cảm thấy khi ông quay cổ sang hai người đang nói chuyện, trong lúc ông có vẻ đương ngủ. Ông từ lâu rồi đã quên mất ngôn ngữ xa lạ, chỉ còn một vài từ; thế nhưng có lần ông hiểu cả một câu: “Cậu không làm điều cậu muốn và làm điều cậu không muốn.” Giọng nói dường gây gổ hơn là trêu chọc; anh ta muốn nói gì? Một lần khác ông cúi người vươn ra xa khỏi cửa sổ, vào tiếng róc rách của con suối; giờ ông làm điều này thường xuyên như một trò chơi: tiếng ồn, thật rối như cỏ khô bị quét lẫn vào nhau, đóng tai ông lại, và khi ông quay trở về từ sự điếc, thì cuộc nói chuyện của người vợ với người còn lại hiện ra trong đó thật nhỏ bé và xa xôi; và đó là một cuộc nói chuyện sôi động, tâm hồn họ dường thấy thoải mái cùng nhau. Lần thứ ba ông chỉ tuyền đi theo hai người họ khi tối đến họ vẫn đi vào sân tòa thành; khi họ đi ngang qua ánh đuốc ở trên kia nơi chiếc cầu thang bên ngoài, thì bóng của họ nhất định đổ xuống những ngọn cây cao; ông vội vươn người khi điều này xảy ra, thế nhưng trong tán lá những cái bóng tự biến mất trong một. Vào một thời điểm khác ông đã cố thử để cùng ngựa và binh lính đẩy đi chất độc khỏi thân thể hoặc để thiêu đốt nó trong rượu. Thế nhưng tu sĩ và người viết thư đã ăn và uống đến độ rượu và thức ăn tứa ra khỏi họ nơi khóe miệng, và người hiệp sĩ trẻ tuổi cười quăng chiếc bình đến cho họ, như người ta để lũ chó đối đầu nhau. Thứ rượu những kẻ vô lại được phủ lên bằng lớp vôi trắng học thức làm ông thấy tởm. Họ nói về đế chế hằng nghìn năm, về những câu hỏi đạo lý và chuyện giường chiếu; tiếng đức và tiếng latin nhà thờ. Một nhà truyền giáo đi chu du dịch lại những chỗ thiếu, giữa gã Welsch này và người đàn ông Bồ Đào Nha; ông ấy đã bị bong gân và đang dốc sức chữa trị tại đây. “Ông ấy ngã từ ngựa xuống khi một con thỏ nhảy ra,” người viết thư thêm vào. “Ông ấy tưởng nó là một con giun đất,” Herr von Ketten, đang đứng lưỡng lự bên cạnh, nói với một giễu cợt gượng gạo. “Thế nhưng cả con ngựa nữa!” gã thầy tu gầm lên, “nếu không thì nó đã chẳng nhảy như thế: Thế là chính một người thầy còn có nhiều viễn kiến hơn ông chủ cho trí khôn của một con ngựa !” Những kẻ say cười Herr von Ketten. Ông nhìn họ, bước một bước lại gần hơn và đấm vào mặt gã thầy tu. Đấy là một nông dân béo tròn trẻ tuổi, hắn đỏ lựng cả người, rồi thế nhưng sau đó hoàn toàn trắng bệch, và ngồi yên. Người hiệp sĩ trẻ tuổi cười đứng dậy và đi tìm người bạn gái. “Tại sao ngài không xiên ông ta?!” gã truyền giáo- thỏ đế rít lên lúc họ ở một mình. “Ông ta khỏe như hai con trâu mộng,” gã thầy tu đáp, “và cả sự dạy dỗ của Chúa cũng thích hợp hoàn toàn để trong trường hợp thế này giữ hòa khí.” Thế nhưng thực ra Herr von Ketten vẫn còn rất yếu, và sự sống quay trở lại trong ông quá chậm; ông không thể tìm thấy nấc thứ hai của sự hồi phục.
Người lạ không đi tiếp, và người bạn của anh ta hiểu rất kém những gợi ý của chồng nàng. Từ mười một năm nay nàng đã đợi người chồng, mười một năm dài ông là tán tụng của danh tiếng và trí tưởng tượng, thế rồi ông đi quanh ngôi nhà và tòa thành và, bị bệnh tật làm xước xát, ông trông hoàn toàn bình thường bên cạnh tuổi trẻ và giáo lý triều đình. Nàng chẳng nghĩ nhiều về điều đó, dẫu thế nàng đã mỏi mệt một chút đất nước đã hứa hẹn điều không thể nói ra này, và chẳng muốn vượt quá, bởi một khuôn mặt thất vọng được kéo xuống của người bạn có mùi hương của quê hương và các suy nghĩ ở đó người ta có thể cười. Nàng chẳng buộc tội gì bản thân; từ nhiều tuần nay nàng đã hời hợt một chút, thế nhưng điều đó tốt thôi, và nàng cảm thấy gương mặt mình lúc này đôi lúc lại lấp lánh như nhiều năm trước đây. Một bà thầy bói mà ông hỏi, đã nói với Herrn von Ketten rằng: Ngài chỉ trở nên khỏe mạnh nếu ngài hoàn thành một điều gì đó -, thế nhưng khi ông thúc ép đó là điều gì, thì bà im lặng, tìm cách thoái thác và mãi rồi bà nói, bà cũng không thể tìm thấy nó.
Ông tưởng đã luôn hiểu để xử lý lòng hiếu khách bằng một vệt cắt gọn ghẽ, thay vì ngắt ngang nó, cả sự thiêng liêng của cuộc đời và của quyền lợi các vị khách dành cho một người đã qua nhiều năm là một vị khách không được mời nơi những kẻ thù của ông, cũng chẳng là một ngáng trở không thể vượt qua, thế nhưng những bất lợi của sự hồi phục khiến ông lần này, gần như tự hào rằng ông đã chẳng thể giúp gì được; một sự khôn ngoan gian trá như thế với ông chẳng khá hơn gì một hùng biện trẻ con của cậu bé. Một điều lạ lùng xảy ra với ông. Trong màn sương của căn bệnh ôm giữ ông lại, hình hài vợ của ông hiện ra với ông mềm hơn nó buộc phải là; nàng hiện lên với ông không khác gì so với khi xưa, khi ông lấy làm lạ rằng tình yêu của nàng có lúc đã tìm lại mãnh liệt hơn xưa, trong khi chẳng một lý do nào nằm trong sự vắng mặt. Ông còn chẳng thể nói một lần liệu ông phấn chấn hay buồn nữa; hệt như những ngày của cận kề sâu cái chết. Ông không thể cử động. Khi ông nhìn vợ mình trong đôi mắt thì chúng sáng quắc, hình bóng của chính ông nằm bên trên, và chúng không để lọt cái nhìn của ông. Ông đã cho rằng hẳn một điều diệu kỳ xảy ra, bởi nếu không chẳng xảy ra điều gì hết, và người ta không được để số phận lên tiếng, nếu nó muốn im lặng thì ta nên nghe theo điều sẽ xảy tới.
Vào một ngày, khi họ cùng nhau leo lên ngọn núi, thì ở trên trước cánh cổng là một con mèo nhỏ. Nó đứng trước cánh cổng như rằng nó không muốn theo kiểu loài mèo đi qua bức tường mà theo lối đi vào của con người, nó nhướn người để chào mừng và vuốt ve nơi váy và ủng những tạo vật to lớn đang ngạc nhiên chẳng lý do gì về sự có mặt của nó ở đây. Nó được người ta cho vào, thế nhưng đã ngay tức thì, như thể người ta tiếp đón một vị khách, và ngày hôm sau đã chỉ ra ngay, có thể người ta đã nhận một đứa bé con chứ không phải là một con mèo: con vật mỏng manh không thuận theo sự hài lòng trong tầng hầm và trên tầng áp mái mà không để lỡ phút nào khỏi hội họp của con người, đã có những đòi hỏi như thế. Và nó có thiên phú đòi lấy thời gian cho mình, điều hoàn toàn không sao lý giải nổi, bởi vẫn còn nhiều con vật cao quý khác trong lâu đài, và con người cũng có nhiều việc để làm với chính họ; có vẻ như vừa diễn ra là họ phải hướng đôi mắt của họ xuống sàn, để nhìn sự sống bé nhỏ cư xử hoàn toàn chẳng đáng chú ý và để im lặng hơn một chút, phải, người ta gần như có thể nói, nó đã buồn và đăm chiêu nhiều hơn so với một con mèo còn nhỏ. Nó chơi đùa, như các vị hẳn đã biết, như người ta thấy ở một con mèo còn nhỏ, nó leo lên người và thậm chí còn bỏ công thấy rõ để thân thiện với con người, dẫu thế người ta có thể cảm thấy, nó không hoàn toàn ở đây; và chính điều này, thứ thiếu ở một con mèo bé nhỏ thông thường, đã giống như một sự sống thứ hai, một sự sống-vắng mặt hoặc một hào quang thánh thần câm lặng bao quanh nó mà chẳng một ai có thể tìm được can đảm để nói ra. Người phụ nữ Bồ Đào Nha dịu dàng cúi xuống tạo vật bé nhỏ đang nằm ngửa bụng trên lòng nàng, và cào bằng những cái móng bé xíu theo ngón tay trêu đùa của nàng, như một đứa trẻ, người bạn trẻ cười và cúi sâu xuống con mèo và lòng nàng, và trò chơi tán loạn này khiến Herr von Ketten nhớ đến căn bệnh đã gần vượt qua của ông, cứ như nó, cùng cả sự dịu dàng chết chóc của mình, đã biến mình vào trong thân thể con vật, chỉ không còn trong ông nữa, mà là giữa họ. Một gã lính nói: Nó bị ghẻ.
Herr von Ketten ngạc nhiên, bởi lẽ tự ông không nhận ra; gã lính nhắc lại: Người ta phải sớm đập chết nó.
Trong lúc ấy con mèo bé nhỏ đã nhận một cái tên từ một trong những quyển truyện cổ tích. Nó đã mềm mỏng hơn và rộng lượng hơn. Giờ thì người ta cũng đã để ý rằng nó bệnh và gần như yếu thấy rõ. Nó cứ nghỉ lâu hơn trong lòng từ các công việc của thế giới, và những cái móng be bé của nó bấu chặt bằng nỗi sợ mong manh. Nó lúc này cũng khởi sự nhìn từ người này sang người kia; hai người nhà Ketten và người đàn ông Bồ Đào Nha, người đang ngồi ngả xuống và không rời mắt khỏi nó, hoặc từ hơi thở của lòng người nó đang nằm trên. Nó nhìn họ, như muốn cầu xin sự tha thứ rằng thứ nó đang chịu đựng cho tất tật trong một thay thế bí mật, rồi sẽ trở nên xấu xí. Sau đó sự tử đạo của nó bắt đầu.
Vào một đêm sự nôn mửa khởi sự, rồi nó nôn đến ngày hôm sau; nó hoàn toàn kiệt sức và quay cuồng trong ánh sáng ban ngày vừa kéo trở lại, như thể nó đã nhận nhiều cú đánh vào đầu. Thế nhưng có thể người ta đã chỉ cho con mèo chết đói khốn khổ ăn quá nhiều trong sự chín quá của tình yêu; dẫu thế nó sau đó không thể ở trong phòng ngủ được nữa và được đưa tới chỗ bọn trẻ ở bên cánh của tòa thành. Thế nhưng bọn trẻ chỉ sau hai ngày đã phàn nàn rằng sự việc chẳng khá hơn, và có khả dĩ chúng đã ném nó ra ngoài trong đêm. Và không chỉ nôn, nó còn chẳng giữ được phân, và chẳng gì an toàn trước nó cả. Đó thực sự là một phép thử khó, giữa một hào quang thiên thần hiện hữu và sự bẩn thỉu tệ hại và rồi một quyết định được đưa ra - người ta khi ấy đã biết được nó đến từ đâu, - đã bế nó quay trở lại đó; đấy là một ngôi nhà nông dân bên dưới cạnh con suốt, gần chân của ngọn núi. Hôm nay người ta có thể nói, họ đặt nó trở về trong cộng đồng quê hương của nó và không muốn trả lời điều gì lẫn khiến họ nực cười; tuy nhiên sự hiểu đè lên tất tật họ, và họ đưa sữa cùng một chút thịt và cả tiền nữa, để những người nông dân chẳng hề hấn gì với cái bẩn, chăm sóc nó tốt. Những kẻ hầu còn lắc cái đầu của họ về những người chủ.
Gã lính đã mang con mèo nhỏ xuống dưới, kể lại rằng, nó đã chạy theo, khi hắn ta quay trở về, và rằng hắn đã phải quay người một lần: hai ngày sau đó nó đã lại ở trong lâu đài. Bọn chó tránh nó ra, người hầu thì bởi chủ mà chẳng dám đuổi nó đi, và khi họ nhìn nó thì đã thật chắc chắn trong câm lặng rằng, giờ đây chẳng một ai có thể khước từ việc nó sẽ chết ở trên đây. Nó gầy rộc và trở nên thất sắc, và dường nỗi khốn khổ khơi gợi sự ghê tởm đã vượt qua nó và nó chỉ còn gần như mất đi thể trạng. Hai ngày tiếp theo đã đẩy tất tật thêm một lần nữa điều cho đến nay đã xảy ra: nhẹ nhàng, chậm rãi đi vòng quanh nơi trú chân người ta đang săn sóc nó; nụ cười lạt đi cùng những bước chân khi nó đuổi theo một mẩu giấy người ta đặt nhảy múa trước nó; cứ mãi một đung đưa nhẹ bởi yếu sức, như thể bốn chân sụp xuống nó, và vào ngày thứ hai thì nó cứ mãi ngả sang một bên. Ở một con người thì hẳn người ta sẽ chẳng thấy sự đuối sức này lạ đến thế, tuy nhiên ở một con vật thì nó như là trở thành con người. Họ dõi theo nó gần như bằng một nỗi kính sợ; không một ai trong ba người ở trong tình thế đặc biệt của họ được tha khỏi ý nghĩ rằng đó chính là số phận của anh ta đang nhảy vào con mèo bé nhỏ gần như đã bị giết chết bởi trần thế. Dẫu vậy vào ngày thứ ba thì các trận nôn mửa và sự bẩn thỉu lại tiếp tục. Tên lính đứng đó, và nếu hắn ta không tự tin để nhắc lại, thì sự im lặng của hắn cũng nói lên: người ta phải đập chết nó. Người đàn ông Bồ Đào Nha cúi đầu giống như trong dằn vặt, rồi anh ta nói sang người bạn gái: sẽ không khác được; với chính mình anh ta thấy như thể anh ta công nhận bản án tử của chính mình. Thế rồi tất tật nhìn Herr von Ketten. Người này đã trắng như một bức tường, đứng dậy và đi. Khi ấy người phụ nữ Bồ Đào Nha nói với tên lính: Hãy mang nó theo.
Tên lính đã mang người bệnh đi vào căn buồng của hắn, và vào ngày hôm sau thì nó đã biến mất. Không một ai hỏi. Tất tật biết rằng hắn đã đập chết nó. Tất tật cảm thấy bị đè nặng bởi một tội lỗi không nói thành lời; có gì đó đã đi khỏi họ. Chỉ bọn trẻ chẳng cảm thấy gì hết và thấy vậy là đúng khi gã lính đạp chết con mèo bẩn thỉu người ta không còn có thể chơi cùng nữa. Thế nhưng những con chó trong sân cứ mãi đánh hơi ở một khoảnh cỏ mặt trời chiếu vào, chúng cứng chặt chân lại, dựng đứng bộ lông và nhìn cúi gằm sang một bên. Trong một khoảnh khắc như thế Herr von Ketten đã gặp người phụ nữ Bồ Đào Nha. Họ đứng bên nhau, nhìn sang phía lũ chó và chẳng tìm được lời nào. Dấu hiệu đã ở đây, nhưng nó có ý nghĩa gì, và điều gì nên xảy đến? Một cái lồng của sự im lặng phủ lên hai người họ.
Nếu nàng cho đến buổi tối không tống cổ hắn đi, thì ta sẽ giết hắn, - Herr von Ketten nghĩ. Thế nhưng buổi tối đến và chẳng điều gì xảy đến. Giờ ăn nhẹ đã qua. Ketten ngồi nghiêm, người ấm bởi một cơn sốt nhẹ. Ông đi vào sân tòa thành để hạ nhiệt, ông ở đó khá lâu. Ông không muốn tìm quyết định cuối cùng đã dễ dàng lối chơi đùa là toàn bộ sự tồn tại của ông. Thắng ngựa, mặc áo giáp, rút một thanh kiếm, âm nhạc của cuộc đời ông đã với ông thật lạc âm; chiến trận với ông như một chuyển động xa lạ vô nghĩa, chính ngay cả nước đi của một con dao cũng như một con đường dài bất tận trên đó con người héo úa. Dẫu thế cả nỗi thống khổ này cũng không phải kiểu của ông; ông cảm thấy ông sẽ không bao giờ khỏe lại hoàn toàn nếu ông không giật tung ra. Và ở cạnh chúng bất chợt một không gian khác chiếm lấy: khi là một thằng bé ông đã luôn muốn trèo lên vách đá không thể trèo lên được bên dưới tòa lâu đài; đó là một ý nghĩ ngớ ngẩn và đầy tính tự vẫn, thế nhưng nó chiếm lấy một cảm xúc đen tối như sự phán quyết của Chúa hoặc như một điều kỳ diệu tiến gần. Không phải ông mà là một con mèo bé nhỏ từ Phía kia sẽ lại đi con đường này. Ông cười lắc đầu nhẹ để cảm giác lại mình trên đôi vai, thế nhưng khi ấy ông nhận ra mình đã ra xa xuống bên dưới trên con đường đầy đá dẫn xuống ngọn núi.
Xuống tận sâu bên dòng suối ông mới rẽ, nơi dòng nước chảy ở giữa, rồi cạnh những bụi rậm lên đến khu rừng. Mặt trăng vẽ những vết hằn sâu bằng các vệt bóng đổ ngón tay và ngón chân có thể vươn tới được. Bất chợt một hòn đá lăn xa dưới chân, cơn giật mình truyền vào các thớ gân, rồi vào tim. Ketten dỏng nghe; có vẻ kéo dài vô tận cho tới khi hòn đá va vào nước; hẳn ông ít nhất đã đi quá ba phần tư khu rừng. Khi ấy ông tỉnh, điều này dường rất rõ ràng, và biết điều ông đã làm. Chỉ một người chết có thể xuống đến kia, và lên khu rừng là quỷ dữ. Ông lần tìm khắp người. Trong mỗi cú chạm sự sống lại treo vào mười sợi dây của gân ngón tay; mồ hôi vã từ trán, hơi nóng rực chảy trong cơ thể, các dây thần kinh giống như các sợi chỉ hóa đá: dẫu vậy, lạ thay khi cảm thấy trong cuộc đấu tranh với cái chết này thể lực và sức khỏe khởi sự chảy vào các chi như rằng chúng từ bên ngoài quay trở vào thân thể. Và điều bất khả dĩ đã thành; ở trên kia còn phải tránh sự cheo leo sang một bên nữa, rồi cánh tay tóm chặt vào cánh cửa sổ. Hoàn toàn không thể khả dĩ khác đi được ngoài chui lên ở cửa sổ này; thế nhưng ông biết ông đang ở đâu; ông đu người vào trong, ngồi lên ban công và để hai chân treo vào trong căn phòng. Sự táo bạo đã quay trở lại cùng sức lực. Ông thở ra. Con dao bên mình ông vẫn chưa đánh mất. Ông thấy như chiếc giường trống. Thế nhưng ông đợi cho đến khi tim và phổi của ông hoàn toàn bình tĩnh. Ông cứ ngày một thấy rõ ràng hơn rằng ông một mình ở trong căn phòng. Ông đi nhẹ đến chiếc giường: đêm nay chưa một ai nằm lên cả.
Herr von Ketten đi xuyên căn phòng, rồi lối đi, các cánh cửa mà không một ai nếu không được dẫn đi có thể ngay lần đầu tìm thấy được buồng ngủ của vợ ông. Ông dỏng tai và đợi, thế nhưng không tiếng thì thầm nào lộ ra. Ông lẻn vào; người phụ nữ Bồ Đào Nha thở nhẹ trong giấc ngủ; ông cúi xuống một góc tối, sờ vào các bức tường, và khi ông đẩy mình ra khỏi căn phòng, ông gần như hát lên vì vui sướng nguầy nguậy lắc trước sự nghi ngờ của ông. Ông lục tung tòa lâu đài, thế nhưng sàn nhà và gỗ đã cót két dưới bước đi của ông như rằng ông đang tìm kiếm một điều ngạc nhiên đầy vui vẻ. Trong sân thành một tên lính gọi ông, ông là ai thế. Ông hỏi về vị khách. Đã rời đi, tên lính báo, khi trăng lên. Herr von Ketten ngồi trên một chồng gỗ đã tách vỏ một nửa, còn người lính canh ngạc nhiên ông đã ngồi đây lâu thế nào. Đột nhiên sự vỡ lẽ tóm lấy ông, nếu lúc này ông lại đặt chân vào phòng của người phụ nữ Bồ Đào Nha, nàng sẽ chẳng ở đó nữa. Ông đập tim thình thịch và bước vào; người phụ nữ trẻ bật dậy như nàng đã đợi điều này trong giấc mơ, và nhìn ông đứng trước mình ăn vận như khi ông đi khỏi. Chẳng điều gì được chứng minh cả, chẳng điều gì bị xóa bỏ, thế nhưng nàng không hỏi, và ông hẳn chẳng thể trả lời điều gì. Ông kéo tấm rèm nặng từ cửa sổ trở lại, rồi bức màn của gầm thét trồi lên, phía sau nó tất tật Catene được sinh ra và chết.
“Nếu Chúa có thể trở thành người, thì Ngài cũng có thể trở thành mèo,” người phụ nữ Bồ Đào Nha nói, và ông đáng lẽ đã phải đặt tay lên trước đôi môi của nàng, bởi sự xúc phạm Chúa, thế nhưng họ biết rằng chẳng âm thanh nào thoát ra được khỏi những bức tường này.
Phan Nhu dịch
