Praga Magica III, IV, V
tức là để tiếp tục ở kia, một người Ý đi vào thành phố
cũng đã tiếp tục một người Ý khác
nhưng nhớ nhé, phải tìm đúng nguồn
Praga Magica
- Angelo Maria Ripellino
III
"Praga sẽ không chịu nhả chúng ta ra. Cả anh lẫn tôi. Cái bà mẹ nhỏ bé ấy có móng vuốt. Cần phải quy thuận, bằng không... Hẳn chúng ta sẽ phải đốt lửa ở hai đầu, tại Vyšehrad và tại Hradschin, khi đó có lẽ chúng ta sẽ có thể đi khỏi được. Hãy nghĩ tới điều ấy từ giờ cho đến Carnaval": Kafka đã nói như vậy trong một bức thư gửi Oskar Pollak, ngày 20 tháng Chạp năm 1902.
Là quyển sách khổ nhỏ cổ xưa với những trang bằng đá, thành phố-quyển sách nơi các trang của nó vẫn còn "biết bao nhiêu điều để đọc, để mơ, để hiểu", thành phố của ba dân tộc (Séc, Đức, Do Thái) và, theo Breton, thủ đô ma thuật của châu Âu, Praha trước hết là một vườn ươm những con ma, một trường đấu của các phép phù thủy, nguồn cho ma thuật, nói cách khác là cho kouzelnictvi (bằng tiếng Séc), cho kishef (bằng tiếng Yiddish). Cái bẫy đó, khi đã tóm được ta bằng sương mù của nó, các bùa ngải của nó, thứ mật ngọt tẩm thuốc độc của nó, nó sẽ không nhả ta ra nữa và không tha thứ. "Praha, mụ phù thủy già ấy - Arnošt Procházka từng viết - chẳng bao giờ chịu ngừng quyến dụ ta bằng những món bùa mê của mụ."
Đừng đến đó nếu bạn tìm một hạnh phúc không vẩn mây. Nó tóm lấy bạn và đốt cháy bạn bằng ánh mắt ma lanh của nó, nhốt lại và biến hình những kẻ thiếu thận trọng cả gan phiêu lưu vào trong các bức tường của nó. Sau một krach tài chính, chủ ngân hàng thích trò tà thuật Meyer bị biến thành lang băm thần bí ở đó và trở thành nhà văn Meyrink, tác giả nhiều câu chuyện huyễn hoặc. Tới lượt mình cũng bị dính bùa, tôi vật lộn trong sự mờ tối nơi chất pha lê của nó giống Pierrot trong câu chuyện của Meyrink bị ngạt thở trong một cái chai. Tôi đã bán cho nó cái bóng của tôi, như Peter Schlemihl từng bán bóng của mình cho quỷ. Nhưng để đổi lại nó thưởng cho tôi kèm cả lãi lớn: nó là Klondyke của tinh thần tôi, và tạo ra một cái cớ ngoạn mục cho những phăng te di lời lẽ của tôi, các Nachtstücke của tôi. Tôi thường nhắc đi nhắc lại những câu thơ này của Nezval:
Tôi cúi xuống các góc bị lãng quên của Praha
mi thì đang bện sự rực rỡ tang tóc của mình
khói những quán rượu nơi tiếng lích chích của lũ chim biến vào
Buổi tối như một kẻ chơi harmonica làm các cánh cửa hay khóc lóc kêu cọt kẹt
những chìa khóa dài nặng nề khóa chặt các món đồ không thể dò thấu
và những dấu vết rối tung lên giống một tràng hạt vỡ.
Người thổi harmonica chính là một trong những nhân vật được Josef Čapek miêu tả: tôi từng hay gặp anh ta ở Dejvice và tại các khu phố ngoại thành khác. "Praha, thành phố của những kẻ lập dị và các nhà thấu thị, trái tim đầy náo động của Trung Âu." Thành phố xuyên qua đó lang thang hàng tập đoàn kỳ khôi những nhà giả kim, những nhà chiêm tinh, những rabbi, những nhà thơ, những hiệp sĩ dòng Đền không đầu, những thiên thần và những vị thánh ba-rốc, những con rối theo lối Arcimboldo, những người giật dây rối, những người chuyên vá víu đồ sành sứ và những thợ thông lò. Thành phố dị hợm với các tâm trạng kỳ quặc, rất hợp với tử vi, với trò làm hề siêu hình học, với những luồng gió dữ của cái phi lý, với các cuộc gặp ngẫu nhĩ, với những hội tụ của hoàn cảnh, với các mối đồng lõa khó mà tin nổi giữa những hiện tượng đối lập, hoặc nữa, với các "trùng hợp khiến người ta hóa đá" mà Breton nhắc tới. Nơi đám đao phủ, như ở chỗ Kafka, mang cằm có nọng và có dáng vẻ của các tenor mặt nhẵn thín, và nơi bất cứ lúc nào người ta cũng mắc phải nguy cơ rơi trúng "bọn búp bê biết nói" (mluvicí panny) của Nezval, tương tự với các con búp bê của Bellmer, đầu trọc hếu và tai làm bằng sứ, hoặc trúng phải Leni của Kafka, một dạng Ondine có màng nối ngón tay giữa và ngón tay áp út của bàn tay phải lại với nhau.
Số phận của ngài - Tycho Brahé từng tiên đoán cho Rodolphe II - được nối vào với con sư tử mà ngài thích nhất: và quả thật Rodolphe chết vào tháng Giêng năm 1612, vài hôm sau khi con thú dữ chết. Rodolphe, nhân vật trung tâm của thành phố ven sông Vltava, rất sùng chiêm tinh học và thuật đoán số và được Bulgakov chọn, hết sức đúng đắn, để thuộc vào số những Xác Chết xuất chúng được mời tới vũ hội gớm ghiếc của Satan.
Thảng hoặc bí ẩn của Golemstadt xâm chiếm toàn bộ Bohemia, mảnh đất ở biên giới, ngã tư phơi mình ra cho tất tật các ngọn gió, "ở trung tâm châu Âu - Musil nói - nơi giao lộ của những trục đường cũ của thế giới". Trong một câu chuyện của Apollinaire, một mụ Gitan già tại một ngôi làng Bosnia khẳng định mình xuất thân từ Bohemia, "vùng đất tuyệt diệu nơi người ta phải đi ngang chứ không trú lại, nếu không rất dễ phải ở lại đó trong cảnh bị yểm bùa, bị ếm, bị chú". Một giấc mơ: đi lang thang cả một mùa hè băng ngang Bohemia, từ Dobřiš đến Protivín, từ Vodñany đến Hluboká, đầy tính cách picaresque, bẩn thỉu hôi hám, từ quán rượu này tới quán rượu khác, các khăn trải bàn lấm lem, bia chảy tràn, dọa lũ ngỗng trong những cái sân, ngủ trên cỏ, bầm giập, ngây độn, "hoa huệ ngoài cánh đồng, đến tâm hồn ngây thơ của vị tông đồ", giống những kẻ ma cà bông của Karel Toman, giống họa sĩ ba-rốc và rối loạn Peter Brandi, giống Jaroslav Hašek.
Trong Ecce Homo, Nietzsche khẳng định: "Khi tìm một từ khác nhằm diễn tả 'âm nhạc', bao giờ tôi cũng chỉ tìm được từ Venise." Về phần mình tôi nói: nếu cố gắng tìm một từ khác để diễn tả bí ẩn, tôi chỉ tìm được từ Praha. Vẻ đẹp của nó rối bời và đầy sầu muộn như một sao chổi, như một ấn tượng của lửa, ngoằn ngoèo và xảo trá như trong các hình thù méo mó của những người theo phong cách cầu kỳ quá đà, vây quanh là vầng hào quang của để tang và của đổ nát, được đánh dấu bởi một cái nhăn nhó của sự vỡ ảo tưởng vĩnh cửu.
Quan sát nó vào buổi tối từ các ngọn đồi của Hradčany, Nezval ghi nhận: "Nhìn Praha từ trên cao này, đang lần lượt thắp lên từng ánh đèn của nó, người ta như thể là cái kẻ gần như không tự kìm giữ nổi mình để khỏi lao đầu xuống hồ - huyễn tưởng - nơi anh ta vừa trông thấy hiện ra một tòa lâu đài có một trăm ngọn tháp. Đã từ lâu cảm tri ấy, mà tôi gần như luôn luôn cảm thấy mỗi lần nào tiếng chuông buổi tối bắt chợt tôi trên cái hồ đen kịt những mái nhà điểm sao kia, trong tâm trí tôi được gắn vào với hình ảnh về một vụ nhảy khỏi cửa sổ tuyệt đối." Những lời nhiều hé lộ đánh dấu rất rõ mối liên hệ giữa sự sầu muộn của một phong cảnh thấm đẫm tang tóc vũ trụ, sự để tang còn lớn thêm lên bởi các phản chiếu của dòng sông, và cái chất dễ bở, nền của những suy sụp, các cấm đoán, những vực thẳm của lịch sử Praha.
Nhưng trước Nezval, và là theo cách thức tương đồng, Miloš Marten từng ám chỉ tới bí ẩn cư ngụ ở Praha, mà người ta tri nhận được rõ hơn nếu nhìn chằm chằm xuống thành phố từ các ngọn đồi Hradčany khi mặt trời lặn: "Sớm thôi sẽ cháy lên trong màu đen pha lê của đêm các ngọn đèn chao đảo tương tự hàng trăm con mắt nhìn lên trời." "Tôi biết tất tật chúng! Những ngọn lửa canh gác của các bờ ke được phản chiếu trong tấm gương dòng Vlatava lấp lánh, đại lộ nồng nhiệt dâng lên về phía ngọn đồi như về phía vô tận, và tít trên cao kia, đằng kia, bụi các ngọn nến được thắp trên linh cữu một xác chết ngày nào cũng mới. Và đồng tử phát lân quang của một con chim săn mồi, bên dưới, cạnh cây cầu, và ánh mắt liếc xéo của một ngôi nhà nhỏ trông thật giống khuôn mặt đang cười của một người Trung Quốc."
Thành phố ven sông Vltava nhiều mù mờ không chịu chơi bài ngửa. Sự cồ quẹt của bà già cao quý với đó nó vờ như, kể từ nay, chỉ còn là một bức tranh tĩnh vật, các tàn dư đầy rụt rè của những rực rỡ quá cố, một phong cảnh đã tắt ngấm đi trong một quả cầu thủy tinh, chỉ càng làm tăng mức ma mãnh thứ bùa của nó. Đầy xảo trá, nó luồn vào tâm hồn, dùng các thứ bùa yểm cùng bí mật mà chỉ mình nó có chìa khóa. Praga không nhả bất kỳ ai mà nó từng tóm lấy. Hãy nghĩ tới điều đó từ giờ cho đến Carnaval.
IV
Không phải ngẫu nhiên mà rất nhiều nhà văn của Secession (Secese) từng trình hiện thành phố ven sông Vltava như một phụ nữ nhiều mơn trớn và điêu trá, giống một kỹ nữ điên dở. So sánh nàng ta với một "Salomé tối tăm" khiêu vũ với cái đầu những người tình của mình, Oskar Wiener viết: "Kẻ nào từng nhìn một lần vào tận sâu cặp mắt của nàng đầy ngập nỗi hoài nhớ điều bí ẩn, cả đời sẽ nằm trong vòng cương tỏa của nữ nhân bỏ bùa." "Ngay cả những ai mà niềm say mê Praha đã không làm cho chết đi đều từng rơi vào một sự hành hạ miên viễn." Và Miloš Marten: "Nó thật đẹp. Cuốn hút như một phụ nữ, không thể nắm bắt giống một phụ nữ, trong những tấm voan phớt xanh của hoàng hôn bọc lấy nó dưới chân các triền dốc nở đầy hoa, được ôm ghì bởi cái thắt lưng bằng thép con sông của nó, điểm xuyết thứ emerald những vòm tròn bằng đồng của nó..." Và Miloš Jiránek: "Có các buổi tối nơi Praha, Praha của chúng ta, bẩn thỉu, buồn bã, bi kịch, trong ánh sáng mạ vàng của chiều tà, biến thành một giai nhân tóc vàng huyền hoặc, thành một mầu nhiệm duy nhất của ánh sáng và cuồng bạo."
Nhưng Vilém Mrštík, trong cuốn tiểu thuyết Santa Lucia (1893) đã miêu tả thành phố như là một "giai nhân đen", một "nữ nhân chuyên quyến rũ da đen", "giấu mình đi trong lớp áo buông tuồng làm nên từ sương trắng của sông Vltava". Đối với các thanh niên tỉnh lẻ Moravia, hồi cuối thế kỷ trước, Praha với các cung điện vẻ ngoài cao quý của nó, dòng sông và những truyền thuyết của nó, thật giống Matxcơva cho ba chị em, nguồn của mất ngủ, huyễn tưởng, le lói của ham muốn. Không dự đồ cũng chẳng có việc làm và tiền, họ cất cánh bay từ tận sâu các vùng nông thôn xa xôi của mình về phía thủ đô, nói cách khác là về phía cái không biết và, bị rơi vào vòng kiềm tỏa quỷ quái của nó, nhiều người trong số họ không quay về.
Nhân vật chính của cuốn tiểu thuyết ấy, Jiři Jordán, con trai một công nhân nghèo ở Brno, bị cuốn hút bởi thành phố ven sông Vltava, đất hứa giam chặt trí tưởng tượng của anh, đi tới đó để học luật. Anh yêu Praha như người ta yêu một phụ nữ bằng xương bằng thịt, với một sự nồng nàn bệnh hoạn. Nhưng Praha tỏ ra rất hắc với những kẻ yêu mình: "Nó bóp cổ trong vòng tay bằng đá của mình kẻ ngây thơ nhiều hào hứng, con người mơ mộng lắm đột khởi của Brno, vốn dĩ bị thu hút về phía nó bằng toàn bộ sức mạnh các dây thần kinh của anh và các giác quan thèm khát được sống của anh." Mùa đông đến, chẳng ai quan tâm đến anh và, khi đã tiêu hết món tiền tiết kiệm còm cõi, anh chịu đựng cái lạnh, cái đói, cảm thấy cả nghìn nỗi chua cay, giống tất tật những sinh viên từ tỉnh lên bị mất hút đi ở thủ đô.
Jordán "tự thiêu đốt mình bằng ngọn lửa gây say sưa của Praha giống một con bướm run rẩy". Nhưng sự vỡ ảo tưởng không làm giảm bớt nhiệt hứng của anh: "... nó tiếp tục quyến rũ anh, cái đồ tội lỗi đó, nó thu hút anh ngay cả lúc, nhìn từ xa, như thể nó đang nghỉ ngơi trong bóng tối. Kẻ quyến rũ ngủ trong vòng tay những ai trả cho nó hậu hĩnh hơn cả"; "Nó xào xạc sau lưng anh, bằng một tiếng gầm gừ sượng đục đệm cho những tiếng thở dài cố nén nơi cặp môi không sao thỏa nổi của nó và, chừng nó không thể làm khác, từ xa nhắc cho anh nhớ, bằng các tiếng hét to, rằng những đoàn tàu đang tiến lại gần cơ thể nó và rằng các đám đông lúc nào cũng mới, những nạn nhân lúc nào cũng mới biến mất đi vào trong lòng nó, nơi chẳng thể nào dò thấu."
Hình ảnh thật tuyệt, những đoàn tàu xâm nhập cái bụng của kẻ chắc chắn không phải là một "bà mẹ nhỏ bé" (matička), mà là một ả chuyên chèo kéo, một nữ tình nhân thiếu ổn định trang điểm bằng màu nâu sẫm nhiều thay đổi của các ánh sáng và được bọc trong những thứ trang phục hở hang bồng bềnh bằng sương hoặc đồ điếm đàng nhà thổ. Từ đó người ta đi tới chỗ nghĩ rằng, thay vì đáp lại sự sùng kính của một sinh viên lạc lối thảm hại, nó thích buông mình vào sự lả lơi với tên nhà giàu thô kệch nào đó mới từ tỉnh lên, với một chú giàu xổi thích tình tang bụng điểm trang bằng một cái đồng hồ giật nảy lên ở đầu một sợi dây chuyền vàng to tướng, nói cách khác là một baalboth giống cái kẻ mà Werfel, ở một trong những câu chuyện của mình, đã đưa vào giữa các khách hàng của một nhà điếm hạng sang.
Bệnh tật, đói, gầy guộc, không ba đờ xuy, giày thì thủng, Jordán đi lảng vảng xuyên qua Praha như một cái ô-tô-mát, bị thiêu cháy bởi các cơn thất thường của nó, bị xuyên thủng bởi những ánh mắt mời chào của nó, rơi vào cơn sốt và cơn điên loạn, anh, kẻ bị vứt bỏ, kẻ bị loại trừ, kẻ xa lạ. Anh lảng vảng, không ngừng độc thoại với cô ả cồ quẹt làm bằng đá vừa đưa mắt đánh đĩ với anh vừa chạy trốn khỏi anh, thờ ơ với nỗi đau đớn của anh, với cuộc lang thang tuyệt vọng của anh. Được tìm thấy đã bất tỉnh trên phố, anh sẽ chết tại bệnh viện, nhưng cho đến giây phút cuối cùng vẫn ánh lên trong cặp mắt của anh hình ảnh Praha, cái thứ phụ nữ phù phiếm, rối mù và nhiều khiêu khích, tương tự với các tạo vật nữ trong những bức tranh Secession. Quả thật, trong cái thực thể đẫm tính dục, bị trật cấp ấy của thành phố ven sông Vltava có một cái gì đó dẫn chiếu tới những phụ nữ trễ nải, tới các "bông bạch trà" mà Max Švabinský hay vẽ vào đầu thế kỷ.
Do chuỗi êm ái các bức màu nước và màu bột chạy băng qua nó, cuốn tiểu thuyết đó cũng có nhiều tính cách ấn tượng luận. Với một sự khéo léo thuộc hội họa ngoạn mục, Mrštík làm nổi bật lên những sắc thái môi trường tinh tế hơn cả, các biến điệu của thời tiết, những sắc của thủ đô vùng Bohemia, Santa Lucia đầy ảo tưởng, vào các giờ khác nhau của đêm và ngày: những lóe sáng ánh trăng cùng các bóng tối xanh nhạt, màu trắng của những mái nhà phủ tuyết, sự lấp lánh của dải ruy băng ngọc trai dòng sông, phản chiếu màu vàng của các ngọn đèn đường hoang vắng.
Với các công tua nhiều run rẩy và mù mờ, được làm dịu bớt bởi sự ẩm ướt của sông Vltava, Praha nhiều ánh xà cừ của Vilém Mrštík dường, giống một Loïe Fuller, tan đi vào sự bồng bềnh những tấm voan lóng lánh của màn sương, vào xoáy lốc các dải sợi ánh sáng nhiều màu bao bọc lấy nó.
V
Giờ đây tôi đang ở xa nó, có lẽ là vĩnh viễn, tôi tự hỏi chẳng biết Praha có thực sự tồn tại hay không, hay nó chỉ là một vùng đất tưởng tượng, giống Ba Lan của lão Ubu. Và thế nhưng hằng đêm, bước đi trong mưa, tôi cảm thấy, từng hòn đá một, lớp lát của quảng trường Thành Phố Cũ. Tôi thường sang Đức, để nhìn từ xa, như người sinh viên Anselme từ Dresden nhìn các chuỗi răng cưa những ngọn núi của Bohemia Mein Herr, das alte Prag ist verschwunden.
Huỳnh Bất Thức dịch
một thành phố
một thành phố
một thành phố