Phiếm luận về Chênh lệch đẳng cấp
Nhân có người bàn về chênh lệch đẳng cấp trong văn chương, tôi có đọc được một số truyện kỳ lạ mà muốn góp lời.
Khi chủ đề tác phẩm là đẳng cấp trong xã hội, nhà văn dễ có khuynh hướng tả đẳng cấp nào thì nhân cách nấy, như theo lối truyện cổ tích dân gian: hoàng tử phải dũng cảm và cao thượng, còn dì ghẻ tất phải nham hiểm độc ác. Tôi không muốn bàn về hiện tượng tầng lớp quý tộc cũng có người này người kia, vì đó là một cliché nhàm chán, mà chủ yếu tôi muốn nhắm vào điểm người vẫn như anh hùng sử thi, tức là đồng nhất hoàn toàn với hành động của mình, thậm chí là bị hành động dẫn dắt suy nghĩ như mắc phải cơn giận của Achilles. Cụ thể hơn, tôi lấy ví dụ hoàng tử cổ tích diệt trừ kẻ ác không gớm tay, vì đúng với trật tự đẳng cấp của thời đại nên các hoàng tử ấy đều vô danh trong sử sách. Chứ còn xứ Đan Mạch có chàng hoàng tử đến lạ kỳ, chàng không tin vào phép màu thần tiên, hồn ma cha yêu hiện về không khiến chàng vững dạ vung gươm bén chặt đầu tên nghịch tặc, các hoàng tử khác bị cuốn theo cơn bão táp của huyền thoại, còn chàng Hamlet đột nhiên khựng lại - ngập ngừng suốt nhiều tháng dài. Theo triết học Bergson, khác với loài kiến, con người không lao động bằng bản năng, mà được trời phú cho trí năng để lựa chọn công cụ lao động của mình, ý thức lựa chọn ghim vào giữa cơn hành động bản năng, đắn đo lựa chọn là ân sủng và cũng là trừng phạt dành cho giống loài bán thần. Với Hamlet, tia sáng chớp lên trong ý thức tách chàng khỏi bầy đoàn anh hùng sử thi: chàng thấy định mệnh quá to lớn với thân phận của chàng, hay nói đúng hơn, chàng phản tư về đẳng cấp của chàng, chàng không vô thức tuân theo đẳng cấp của mình, trong phút chốc nghe lời sét đánh trên tháp canh, chàng thuộc về một nhân loại trừu tượng (như các nhân vật chính của Romain Gary (tôi đọc Rễ trời với Giáo dục Châu Âu) hay một giống người tự nhiên - tức là chàng không còn dính líu với đẳng cấp của mình. Chàng nhận thức đẳng cấp của mình và thấy kinh hãi nó, thuyết định mệnh là đòn trừng phạt dành cho giới quý tộc, khi cái cá nhân xung đột với cái phổ quát trong bi kịch Racine, hay khi Trần Liễu nhường vợ cho Trần Cảnh, đó là khi nghĩa vụ của bậc trên bóp nghẹt một con người. Cái khoảnh khắc yếu đuối ấy của quý tộc làm lộ ra con người trong ngần bên dưới đẳng cấp, một chủ đề âm bản của mọi tác phẩm chênh lệch đẳng cấp là có thuộc tính phổ quát nào cùng có ở mọi đẳng cấp không, cái tính người uyên nguyên ấy. Thường thì phẩm chất tốt đẹp nào hiện ra cũng là phẩm chất mà đẳng cấp cũng muốn mình có, câu chuyện đẹp khơi gợi lòng cao thương tiềm ẩn trong mọi con người. Đó là cơ chế đồng cảm, còn tôi muốn bàn về con đường hẻo lánh hơn: con đường của Dazai Osamu - con người đã chọn Juda để kể và chuyên tâm đến thế cho thể loại thú tội (nhân vật trong Thất lạc cõi người đọc Thú tội của Rousseau - tác phẩm kinh điển của sự đồnh cảm), đó là con đường tiết lộ bí mật mà ai cũng có và ai cũng giấu, chẳng hạn như sự đớn hèn cam chịu phổ quát, nói chung không phải là điều ai cũng muốn phô ra như ở đồng cảm, mà đây đúng hơn là đồng loã. Khi ấy, thay vì nói người ta thấy bản thân mình trong sách, người ta sẽ bị một bàn tay tàn nhẫn vọt ra từ trang giấy nắm lấy trái tim mình, là nỗi hãi hùng khi nghe tên đồng phạm thú hết tội lỗi mà cả hai cùng phạm phải, độc giả bị tác phẩm chộp lấy. Đây là con đường bị căm ghét hơn cả, Pascal từng nói người dễ tức khi bị chửi là đồ ngu hơn khi bị chửi là đồ què, vì ai cũng chắc chắn được mình không què, mặc khác thì ai cũng mơ hồ không biết mình ngu hay không. Tương tự việc kẻ keo kiệt nhất cũng chính là kẻ tham lam nhất vì hắn luôn nghĩ mình nghèo (không thể có hoặc keo kiệt hoặc tham lam, mà luôn là cả hai cùng lúc, tức là biển lận - theo kịch Molière), người thời nay lúc nào cũng thổi phồng các khốn khổ của mình, và tránh xếp mình hoàn toàn vào đẳng cấp cao. Và tôi còn nghĩ, què là điều không thể thay đổi, còn cũng như việc ai cũng có thể giàu lên hay nghèo đi, ngu là điều có thể thay đổi, chửi tôi ngu đồng thời cũng là chửi tôi dung dưỡng cái ngu của mình, tức là người đã dùng một lời để chửi tôi hai đợt vậy. Nói chung, mọi độc giả thời nay đều không dễ chịu để mình bị xếp vào một đẳng cấp, nếu không bị trấn áp bởi sự đồng cảm hay đồng loã.
Có một điểm khiến tôi nghĩ Thorstein Veblen đã quá nghiêm khắc với sinh viên triết học và văn chương. Đúng là nếu nghĩ theo khuynh hướng giảng dạy của Jerusalem (đức tin), người thầy truyền thụ kiến thức cho học trò, học trò ghi nhớ những điều hằng đúng ấy để trở nên giống người thầy, thì kiến thức không thực tế như triết học và văn chương sẽ giống như vàng, tồn tại chỉ để phục vụ cho việc trao đổi truyền từ đời này sang đời khác như món trang sức gia truyền. Từa tựa Wittgenstein, tôi tự hỏi một người có thể đọc thuộc làu làu từ đầu đến cuối một tác phẩm văn triết thì có thể tính là đã học được phần văn triết đó không, theo tôi là không, để tính là đã học xong thì người ta phải còn thể tiếp tục tác phẩm ấy. Nói cách khác, tôi tìm đến truyền thống academic của thành Athens - thiết chế của Platon như để phản ứng lại cái chết của sư phụ mình, một sư phụ không phải là người truyền kiến thức mà là người khiến học trò nhận ra mình nhầm lẫn, nói theo Kierkegaard - giúp học trò hiểu về chính mình. Như vậy, giáo dục không phải là việc nhân bản một cuộc độc thoại, mà là cuộc đối thoại giữa hai chân trời trí thức, một điều đúng có thể tồn tại một mình, còn một nhầm lẫn bắt buộc phải tạo bởi hai người (người nhầm lẫn và người chỉ ra sự nhầm lẫn, từa tựa vấn đề nguyên tắc của Wittgenstein). Do đó, việc học văn triết không tạo thành một cộng đồng đồng phục có tính đặc quyền như Thorstein Veblen nhận định, mà một tác phẩm văn chương không khẳng định điều gì (thứ phân biệt nó với tuyên truyền, hai cái đẹp không bao giờ phủ định nhau hay đối đầu nhau như hàng hoá), và ở một số trường hợp thì triết học chỉ bày ra sự nhầm lẫn của ngôn ngữ - triết học chống lại sự ngu, mỗi học trò sẽ nhận được sự nhầm lẫn của riêng mình, và thay đổi bản thân theo các hướng khác nhau. Một tác phẩm lớn là một thế giới, nó khiến mỗi một giai cấp nhận thấy chính nó, và phát triển thành một nhân loại uyên nguyên, như ở tác phẩm Nông trang Howards End của E.M. Forster.
Dẫu sao, thì do bởi đẳng cấp cao nhất của giới tư sản ngày nay là những người đầu tư, tức là họ chỉ cung cấp tiền cho những người khác vận hành bộ máy xã hội, những hoàng tử Hamlet bị giằng co bởi nghĩa vụ và cá nhân đã không còn thể nữa, những người chịu trách nhiệm chính là giới công chức của Kafka, chính họ mới chịu sức ép của bộ máy hệ thống.
Cuối cùng, về vấn đề hồi quang phản chiếu của giai cấp, tôi có kiến giải là: ở thời cực thịnh, các phẩm chất giai cấp nổi lên như một kết quả tất yếu của quy luật phổ quát, theo duy vật luận, cái nền sung túc vật chất đã khiến họ trở thành như thế, và họ không thể thay đổi. Còn ở thời suy tàn, các đặc quyền đã cạn kiệt - không còn như trước, các phẩm chất giai cấp chỉ có thể là nỗ lực lặp lại của mỗi cá nhân kiêu hãnh, sự lặp lại ấy là sự sáng tạo kỳ vĩ bất chấp quy luật tự nhiên, là hành động tự do nhất của con người. Vì thế, những quý tộc điêu tàn rực rỡ hơn bao giờ hết, cũng giống như món ăn ngon của một đầu bếp nấu từ nguyên liệu tươi sống thượng hạng không gây ngạc nhiên bằng món ăn ngon của một đầu bếp dùng những mẩu đầu thừa đuôi thẹo trong tủ lạnh để nấu, nhà duy mỹ (theo Oscar Wilde) không phải là người tìm những vật đẹp, mà chính là người luôn thấy phiên bản đẹp hơn của mọi vật (thấy bức tranh doppelgänger của nó). Nỗ lực ấy đẹp vì ánh hoàng hôn tuyệt vọng, giống như lời cầu nguyện thiêng liêng nhất chỉ dành cho khi đã không còn cơ may nào hết. Với tôi, không nhà Nho nào đẹp bằng Lương Ngọc của Nhượng Tống, chàng thư sinh của thế hệ Nho tàn không cưới được cả Kiều lẫn Vân, sau đó, người ta tự hỏi các nho sinh đi đâu mất rồi, chỉ còn ông đồ già với giấy đỏ.
các bài đọc và cộng tác cho Văn Bản có thể gửi về: formapubli.vitanova@gmail.com
độc giả đọc
Vào thuở nớ vậy, buổi dạ-minh của cuộc phục-hồi
