Norbert Elias: Dẫn nhập Xã hội học là gì
Dẫn nhập
Để hiểu thấu cốt lõi của xã hội học, người ta cần biết tự nhìn mình từ nơi khác, để thấy mình như là một cá thể người giữa muôn vàn cá thể khác khác. Bởi xã hội học được nghiên cứu các vấn đề của xã hội, và xã hội là thứ kiến tạo bởi chính ta và người khác với nhau; một cá nhân nghiên cứu và suy tư về xã hội như mình là một thành viên của nó. Suy tư về mình trong xã hội đương đại khó lòng mà tránh khỏi cảm giác đối diện với đồng loại như những “đối tượng”, tách khỏi mình bởi vực thẳm bất khả vượt qua[1]. Cảm giác về sự chia cắt này được biểu đạt, tái hiện và củng cố qua nhiều khái niệm và thành ngữ gần đây, khiến cho trải nghiệm tự thân trong tính hiện đại này trở nên hiển nhiên và không thể bác bỏ. Chúng ta nói về “cá thể” và “môi trường sống” của họ, về đứa trẻ và gia đình nó, về “cá thể” và “xã hội”, hoặc về “chủ thể” và “đối tượng”, mà không rõ ràng và thường xuyên tự nhắc mình rằng cá nhân là một phần của môi trường sống, đứa trẻ thuộc về gia đình nó, cá thể luôn nằm trong xã hội, chủ thể gắn liền với đối tượng. Nhìn kỹ hơn, cái gọi là “môi trường sống” của đứa trẻ chủ yếu gồm những cá thể khác: cha, mẹ, anh, chị, em. Điều mà chúng ta gọi là “gia đình” sẽ không còn ý nghĩa gia đình nếu không có những đứa trẻ. Xã hội, thường được đặt trong thế đối lập với cá nhân trong tư duy, gồm toàn bộ các cá thể, kể cả chính ta nằm nơi đó.
Tuy vậy, các công cụ suy tư và diễn đạt thông thường của chúng ta thường được cấu trúc như thể vạn vật mà chúng ta trải nghiệm nằm bên ngoài cá nhân đều là một vật, một “đối tượng”, và hơn nữa là một đối tượng tĩnh. Những khái niệm như “gia đình”, “trường học” rõ ràng ám chỉ đến các nhóm người phụ thuộc lẫn nhau, đến những hình thái cụ thể mà con người hình thành cùng với nhau. Nhưng cách hình thành những khái niệm truyền thống này của chúng ta làm cho nó hiển hiện như thể các nhóm được hình thành bởi những con người phụ thuộc lẫn nhau là các khối vật chất - các đối tượng cùng loại với đá, cây, hoặc nhà cửa. Những cách nói mang tính vật hóa truyền thống này, cùng với những kiểu thức suy tư truyền thống tương ứng về các nhóm người (thậm chí những nhóm mà bản thân ta thuộc về), biểu hiện chính nó ở nhiều phương diện, đặc biệt trong thuật ngữ “xã hội” và cách chúng ta xử trí nó trong suy tư của mình. Có thể nói rằng “xã hội” là “đối tượng” mà các nhà xã hội học nghiên cứu. Nhưng cách diễn đạt mang tính vật hóa này gây cản trở ít nhiều, thậm chí có thể ngăn ta hiểu thấu bản chất của các vấn đề xã hội học.
Hình 1: Sơ đồ góc nhìn vị kỷ của xã hội
Ngày nay, cách hiểu thông thường chi phối trải nghiệm của con người về mối quan hệ giữa bản thân họ, hoặc bất kỳ cá nhân nào khác với xã hội theo kiểu vị kỷ một cách ngây ngô, như minh họa trong hình 1. Các hình thái như "trường đại học", "thị trấn", "hệ thống" và vô số khái niệm khác có thể thay thế cho "gia đình", "trường học", "công nghiệp" hay "nhà nước". Dù là gì đi nữa, cách thức phổ biến và điển hình để khái niệm hóa các nhóm xã hội như vậy, cùng với kiểu tự nhận thức mà nó thể hiện, nhìn chung tương ứng với sơ đồ trong hình 1, nơi cá thể người, “cái tôi” riêng lẻ được bao quanh bởi các cấu trúc xã hội. Những cấu trúc này được hiểu là những thứ tồn tại bên ngoài và tách biệt khỏi “cái tôi” riêng lẻ. Ngay cả khái niệm "xã hội" cũng thường được nhìn nhận như vậy.
Hình 2: Hình thái của các cá thể phụ thuộc lẫn nhau
(“gia đình”, “đất nước”, “nhóm”, …)[2]
Để thấu hiểu hơn những vấn đề của xã hội học, hay cái thường được gọi là "nội dung nghiên cứu"[3] của nó, chúng ta cần định hướng lại cách hiểu về khái niệm "xã hội", như gợi ý trong hình 2. Sơ đồ này sẽ giúp người đọc phá vỡ lớp vỏ cứng nhắc của những khái niệm vật hóa vốn làm mờ đi và bóp méo sự hiểu biết của chúng ta về cuộc sống xã hội của chính mình. Hết lần này đến lần khác, chúng củng cố ấn tượng rằng xã hội được cấu thành bởi những cấu trúc bên ngoài cá nhân và rằng cá nhân vừa bị xã hội bao quanh vừa bị ngăn cách khỏi nó bởi một bức tường vô hình nào đó. Như chúng ta sẽ thấy, những quan niệm truyền thống này cần được thay thế bằng một hình ảnh khác, thực tế hơn về con người với những khuynh hướng và thiên hướng cơ bản của mình, hướng về và gắn bó với nhau theo vô số cách. Họ tạo nên những mạng lưới phụ thuộc lẫn nhau hay những hình thái đa dạng, mang tính đặc trưng bởi cân bằng quyền lực ở nhiều cấp độ như gia đình, trường học, thị trấn, tầng lớp xã hội, hay quốc gia. Mỗi người trong số họ, theo lối nói vật hóa thông thường, đều là một "cái tôi" hay "bản ngã". Trong số những con người này cũng có chính bản thân ta.
Như đã nói, để hiểu bản chất của xã hội học, chúng ta phải ý thức được mình là một cá thể giữa những cá thể khác. Thoạt nghe, điều này có vẻ sáo rỗng. Làng mạc và thành phố, trường đại học và nhà máy, nhóm địa vị và giai cấp, gia đình và nghề nghiệp, xã hội phong kiến và công nghiệp, nhà nước cộng sản và tư bản - tất cả đều là mạng lưới của những cá thể. Mỗi chúng ta đều thuộc về những cá thể này - đây là điều chúng ta diễn đạt khi nói "làng của tôi", "trường đại học của tôi", "giai cấp của tôi", "đất nước của tôi". Ở mức độ ngôn ngữ đời thường, những cách diễn đạt như vậy rất phổ biến và dễ hiểu. Tuy nhiên, ngày nay, khi cố gắng suy tư một cách khoa học, chúng ta thường quên mất rằng hoàn toàn có thể gọi mọi cấu trúc xã hội là "của tôi", "của anh ấy", "của chúng ta", "của các bạn" hay "của họ". Thay vào đó, chúng ta quen nói về những cấu trúc này như thể chúng tồn tại không chỉ trên và ngoài bản thân chúng ta, mà thậm chí còn vượt ra khỏi mọi con người cụ thể nào. Trong lối suy tư này, dường như là hiển nhiên rằng, một mặt có một “tôi” hoặc những cá nhân cụ thể và mặt khác là cấu trúc xã hội - “môi trường sống” bao quanh cái tôi của tôi và mọi cái tôi cụ thể khác.
Có nhiều lý do cho điều này, nhưng ở đây chỉ cần chỉ ra một lời giải thích. Sự ràng buộc đặc biệt, mà các cấu trúc xã hội áp đặt lên những người cấu thành nên chúng, đóng vai trò quan trọng. Chúng ta có xu hướng giải thích sự ràng buộc này bằng cách gán cho các cấu trúc đó một sự tồn tại - một thực tại khách quan - vượt trên cả những cá nhân cấu thành nên chúng. Cách thức hình thành từ ngữ và khái niệm phổ biến càng làm gia tăng xu hướng vật hóa và phi nhân tính hóa các cấu trúc xã hội trong suy tư của chúng ta. Điều này dẫn đến thứ "siêu hình học về cấu trúc xã hội", thường bắt gặp nơi suy tư đời thường lẫn nơi suy tư xã hội học. Một trong những biểu hiện điển hình nhất của nó chính là hình ảnh mối quan hệ giữa "cá nhân" và "xã hội" được tượng trưng trong Hình 1.
Thứ siêu hình học này càng được củng cố bởi xu hướng tự phát chuyển đổi lối suy tư và diễn đạt, vốn ban đầu được phát triển và kiểm nghiệm trong nghiên cứu các mối quan hệ tự nhiên (vật lý, hóa học) sang việc nghiên cứu các mối quan hệ xã hội giữa các cá thể. Trước khi cách tiếp cận khoa học với các hiện tượng tự nhiên trở nên khả thi, con người giải thích các lực tự nhiên mà họ cảm thấy bị phụ thuộc vào bằng những khuôn mẫu suy tư và diễn đạt xuất phát từ trải nghiệm về những lực liên cá thể. Mặt trời và trái đất, bão tố và động đất, những thứ ngày nay chúng ta hiểu là biểu hiện của các lực vật lý-hóa học, đã từng được diễn giải thông qua trải nghiệm trực tiếp về các quá trình xã hội và con người. Họ xem chúng như những con người, hoặc như kết quả từ hành động và ý đồ của con người. Chỉ dần dần, sự chuyển đổi từ suy tư ảo thuật và siêu hình sang suy tư khoa học về các khía cạnh vật lý-hóa học của thế giới mới diễn ra. Sự thay đổi này phụ thuộc phần lớn vào việc các mô hình giải thích dị trị[4], ngây ngô vị kỷ dần phai nhạt, nhường chỗ cho những mô hình diễn đạt và suy tư khác phù hợp hơn với động lực nội tại đặc thù của các sự kiện tự nhiên.
Trong nỗ lực mở rộng hiểu biết về các quá trình xã hội và con người, cũng như tích lũy ngày càng nhiều tri thức đáng tin cậy hơn về chúng, vốn là một trong những mục tiêu chính của xã hội học mà chúng ta đối mặt với nhiệm vụ giải phóng tư duy tương tự. Trong lĩnh vực này, con người cũng phải đối mặt với những "ràng buộc cưỡng chế". Họ tìm cách thấu hiểu chúng để thông qua tri thức, có thể kiểm soát phần nào đối với quỹ đạo mù quáng của những lực này mà thường mang lại hậu quả vô nghĩa, tàn phá và gây nhiều đau khổ. Mục tiêu là định hướng những lực này theo cách giảm bớt tính vô nghĩa và lãng phí sinh mạng và tài nguyên. Do đó, nhiệm vụ trọng tâm của giảng dạy và nghiên cứu xã hội học là đạt được sự hiểu biết tổng quát về các lực xã hội và gia tăng tri thức đáng tin cậy thông qua các lĩnh vực nghiên cứu chuyên sâu.
Bước khởi đầu dường như không quá khó. Thực sự không khó để nắm bắt ý tưởng rằng những gì ta khái niệm hóa là "lực xã hội" thực chất là các tác động lẫn nhau và lên chính bản thân mình. Tuy nhiên, khi muốn tiến xa hơn, chúng ta phát hiện bộ công cụ suy tư và diễn đạt xã hội chỉ cung cấp hai loại mô hình, hoặc là mô hình vị kỷ ngây ngô và mang tính ma thuật-thần thoại hoặc là mô hình từ khoa học tự nhiên. Ta bắt gặp kiểu đầu tiên bất cứ khi nào con người cố giải thích những lực cưỡng chế phát sinh từ các hình thái mà họ và những người khác cùng cấu thành, hoàn toàn dựa trên tính cách cá nhân hoặc mục tiêu và ý định cá nhân của những cá thể hay những nhóm cá thể khác. Xu hướng loại trừ bản thân hoặc nhóm của mình ra khỏi lời giải thích các hình thái cấu thành với người khác là rất phổ biến và đó là một trong nhiều biểu hiện của tính vị kỷ ngây ngô hoặc (cũng gần như thế) sự nhân hóa ngây ngô vẫn thấm đẫm trong suy tư và diễn đạt của chúng ta về các quá trình xã hội. Những cách diễn đạt ngây ngô vị kỷ này lại được pha trộn với những cách khác vốn được mô phỏng từ vốn từ vựng dùng để giải thích các lực cưỡng chế của tự nhiên, nay được dùng để giải thích các lực cưỡng chế trong xã hội.
Đã có một xu hướng khoa học hóa các mô hình diễn đạt và suy tư về cái mà nay ta biết là tự nhiên vô tri với sự phân biệt rõ rệt đối với thế giới xã hội của con người. Nhiều cấu trúc từ vựng và khái niệm, vốn bắt nguồn từ việc khám phá các cấu trúc vật lý và hóa học, đã đi vào kho từ vựng và khái niệm hằng ngày của xã hội châu Âu và bén rễ ở đó. Nhiều từ và khái niệm có hình thức hiện tại chủ yếu xuất phát từ việc diễn giải các hiện tượng tự nhiên, đã được âm thầm chuyển sang để diễn giải các hiện tượng con người và xã hội. Cùng với những biểu hiện khác nhau của suy tư ma thuật-thần thoại, chúng góp phần duy trì nhiều cách diễn đạt và suy tư quen thuộc khi xử lý các vấn đề trong khoa học xã hội, dù rõ ràng chúng không phù hợp. Điều này cản trở sự phát triển của những cách diễn đạt và suy tư mang tính tự chủ hơn, phù hợp hơn với những đặc thù riêng của các hình thái thuộc về con người.
Vì vậy, các nhiệm vụ của xã hội học vì thế không chỉ bao gồm việc khảo sát và diễn giải những sự cưỡng chế cụ thể mà con người phải chịu trong các xã hội và nhóm nhất định có thể quan sát được về mặt kinh nghiệm mà còn bao gồm việc giải phóng của việc diễn đạt và suy tư về những sự cưỡng chế đó khỏi sự ràng buộc với các mô hình dị trị trước đây. Thay cho những từ ngữ và khái niệm mang dấu ấn xuất xứ từ các ý niệm mang tính ma thuật-thần thoại hoặc từ khoa học tự nhiên, xã hội học phải dần dần phát triển những khái niệm khác phản ánh tốt hơn những đặc thù của các hình thái xã hội.
Điều này sẽ ít khó khăn hơn nếu ngày nay chúng ta đã có một bức tranh rõ ràng về giai đoạn tương ứng trong sự phát triển của khoa học tự nhiên, khi các phương tiện diễn đạt và suy tư mới, thích hợp hơn đã thay thế những phương tiện mang tính ma thuật - thần thoại cũ. Tuy nhiên, chúng ta biết rất ít về điều này. Nhiều khái niệm nền tảng dần được phát triển trong tri thức khoa học về tự nhiên đã chứng tỏ lần này đến lần khác, là khá thích hợp để quan sát và thao tác các quá trình vật lý-hóa học. Chính vì lý do này, những khái niệm nền tảng ấy dường như, đối với những người thừa hưởng chúng, là vĩnh viễn đúng và do đó là thường hằng. Những từ ngữ, phạm trù và lối suy tư khoa học tương ứng dường như hiển nhiên đến mức dễ khiến người ta tưởng rằng mọi con người đều biết chúng một cách trực giác. Phải qua nhiều thế hệ các nhà khoa học, với rất nhiều suy tư và quan sát gian khổ, cùng những cuộc đấu tranh nhọc nhằn và thường rất nguy hiểm, mới hình thành được những ý tưởng như tính nhân quả cơ học hoặc tính quy luật phi chủ ý, không mục đích và không kế hoạch của tự nhiên. Chỉ rất chậm rãi và với vô vàn khó khăn, những ý tưởng này mới tách ra khỏi các ý tưởng và lối suy tư mang tính nhân hóa và vị kỷ. Cuối cùng, những ý tưởng mới này lan tỏa ra từ một nhóm tinh hoa nhỏ, cho đến khi chúng thấm vào diễn đạt và suy tư hàng ngày của toàn xã hội. Ngày nay, chúng thường được các thế hệ kế tiếp coi là những ý tưởng và lối suy tư “đúng”, “hợp lý” hoặc “logic”. Nhìn chung, chúng đứng vững trước sự kiểm nghiệm của quan sát và hành động liên tục và do đó chúng ta không còn đặt câu hỏi về cách thức và lý do vì sao con người suy tư ở cấp độ tích hợp này trong vũ trụ lại trở nên thích nghi tốt đến vậy với mục đích của nó.
Vì cùng những lý do đó, sự phát triển xã hội của các phương thức diễn đạt và suy tư về các lực cưỡng chế của các quá trình tự nhiên cho đến nay vẫn bị bỏ qua như một đối tượng của nghiên cứu xã hội học. Quan niệm triết học tĩnh về tri thức khoa học như một hình thức tri thức “vĩnh viễn mang tính con người” vẫn gần như hoàn toàn kìm hãm việc khảo cứu nguồn gốc xã hội và nguồn gốc tâm lý của vốn từ và các phương thức diễn đạt và suy tư khoa học. Tuy nhiên, chỉ những nghiên cứu như vậy mới giúp chúng ta đi đúng hướng trong việc giải thích sự tái định hướng của tư duy và kinh nghiệm con người. Vấn đề này thường bị gạt bỏ trước khi được đặt ra, vì nó bị xem là “chỉ là một vấn đề lịch sử”, đối lập với những vấn đề gọi là mang tính lý thuyết hệ thống. Nhưng sự phân biệt này tự nó đã minh họa cho sự không phù hợp của các mô hình khoa học tự nhiên khi dùng để hiểu các quá trình xã hội dài hạn mà quá trình khoa học hóa tư duy là một ví dụ. Những quá trình như vậy hoàn toàn khác với cái gọi là lịch sử khoa học khi đối chiếu với một triết học khoa học dường như bất biến, cũng giống như trước đây lịch sử tự nhiên được đối chiếu với việc nghiên cứu hệ Mặt Trời vốn được coi là bất biến.
Tương ứng với sự thiếu hụt trong việc khảo cứu các vấn đề về quá trình phát triển xã hội dài hạn này, chúng ta vẫn thiếu một sự hiểu biết tổng quát về sự tái định hướng lâu dài của ngôn ngữ và tư duy trong các xã hội châu Âu, trong đó sự trỗi dậy của khoa học tự nhiên là trung tâm. Một sự hiểu biết như vậy là thiết yếu nếu chúng ta muốn có một bức tranh rõ nét và sinh động hơn về sự biến đổi đó. Nó cũng sẽ giúp con người dễ dàng hơn trong việc nhận thức rằng xã hội hiện nay đã đạt tới một cấp độ mới về kinh nghiệm và nhận thức. Với sự phản hồi liên tục từ khối lượng ngày càng lớn của các nghiên cứu kinh nghiệm, chúng ta nay có thể loại bỏ nhiều mô hình tri thức và tư duy truyền thống và phát triển thay thế chúng, theo thời gian, bằng những công cụ khác cho diễn đạt và suy tư, phù hợp hơn với việc nghiên cứu khoa học về các hình thái xã hội của con người.
Sự giải phóng khỏi các ý niệm dị trị, cùng với những phương thức diễn đạt và suy tư đi kèm chúng, hầu như không dễ dàng hơn đối với khoa học xã hội so với khoa học tự nhiên cách đây hai hoặc ba thế kỷ. Vào thời điểm đó, những người ủng hộ khoa học tự nhiên không còn lựa chọn nào khác ngoài việc bắt đầu bằng cách đấu tranh chống lại các mô hình tri giác và tư duy mang tính ma thuật-thần thoại đã được thể chế hóa; còn ngày nay, những người tiên phong trong khoa học xã hội cũng phải đấu tranh chống lại việc sử dụng dị trị các mô hình khoa học tự nhiên vốn đã được thể chế hóa không kém phần vững chắc.
Ngay cả khi ghi nhớ rằng các ràng buộc xã hội là những ràng buộc do con người tác động lên chính mình và lên nhau thì khi suy tư và diễn đạt vẫn rất khó để tránh khỏi áp lực xã hội của các cấu trúc từ ngữ và khái niệm. Những cấu trúc này khiến các ràng buộc xã hội có vẻ giống như các lực tác động lên những vật thể trong tự nhiên - như những lực nằm bên ngoài con người, tác động lên họ như những “đối tượng”. Quá thường xuyên, chúng ta nói và nghĩ như thể không chỉ núi non, mây trời và bão tố mà cả làng mạc và nhà nước, nền kinh tế và chính trị, các yếu tố sản xuất và tiến bộ công nghệ, khoa học và hệ thống công nghiệp, cùng vô số cấu trúc xã hội khác, đều là những thực thể phi nhân loại có các quy luật nội tại riêng và vì thế hoàn toàn độc lập với hành động hay sự không hành động của con người. Chúng dường như, theo nghĩa của hình 1, là “xã hội” hay “môi trường sống”, tác động lên mỗi con người, mỗi “tôi” riêng lẻ. Nhiều danh từ được dùng trong khoa học xã hội và trong ngôn ngữ thường ngày được hình thành và sử dụng như thể chúng chỉ về những sự vật vật chất, các đối tượng hữu hình và có thể chạm tới, tồn tại độc lập với con người.
Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là chúng ta đã có thể vận hành công việc giảng dạy và nghiên cứu mà không cần đến loại cấu trúc từ ngữ và khái niệm này. Cho dù chúng ta nhận thức sâu sắc đến đâu về sự thiếu hụt của chúng, thì trong nhiều trường hợp, các phương tiện tư duy và giao tiếp đầy đủ hơn đơn giản là chưa có sẵn ở hiện tại. Chúng ta có thể kiên định tìm cách giải phóng kho tàng ngôn ngữ và tri thức hiện nay, vốn được dùng để mở rộng sự hiểu biết của chúng ta về các mạng lưới con người và các hình thái xã hội, khỏi những mô hình diễn đạt và suy tư dị trị. Chúng ta có thể tìm cách thay thế chúng bằng các mô hình tự trị hơn. Thế nhưng, bất kỳ nỗ lực nào như vậy vào lúc này đều sẽ thất bại. Một số biến đổi xã hội, nếu có thể đạt được, chỉ có thể thực hiện thông qua những chuỗi phát triển dài và liên tục, kéo dài qua nhiều thế hệ. Sự tái định hướng trong diễn đạt và suy tư này là một trong số đó. Nó đòi hỏi nhiều đổi mới về ngôn ngữ và khái niệm. Thúc ép quá nhanh sẽ làm suy giảm khả năng được hiểu ở thời điểm hiện tại. Tất nhiên, trong những hoàn cảnh thuận lợi, một số từ mới đơn lẻ có thể nhanh chóng được đưa vào sử dụng rộng rãi trong xã hội. Nhưng sự đồng cảm và thấu hiểu đối với những cách diễn đạt và suy tư mới không bao giờ hình thành mà không xung đột với những cách cũ và quen thuộc hơn. Điều cần thiết là một sự tái tổ chức nhận thức và tư duy của toàn bộ những con người phụ thuộc lẫn nhau trong xã hội. Nếu muốn một số lượng lớn người học lại và nghĩ lại tất cả những điều này, và tập làm quen với một hệ thống khái niệm hoàn toàn mới hoặc những khái niệm cũ với ý nghĩa mới thì thường cần khoảng thời gian hai hoặc ba thế hệ, đôi khi còn lâu hơn. Dù vậy, một cái nhìn rõ ràng hơn về nhiệm vụ chung trước mắt có thể sẽ góp phần tạo thuận lợi và đẩy nhanh quá trình tái định hướng ngay cả khi nó lớn đến mức này. Mục đích của tôi ở đây là đóng góp cho sự làm rõ đó.
Với mục đích này, việc thảo luận về sự khó khăn và chậm chạp của một sự tái định hướng như vậy trong ngôn ngữ và tư duy xã hội có thể tự nó cho thấy phần nào bản chất của các lực mà con người tác động lên nhau. Sẽ ít khó khăn hơn để hiểu rằng những lực này có những đặc trưng rất riêng, nếu ngôn ngữ và tư duy của chúng ta không bị thấm nhuần quá sâu bởi những từ và khái niệm như “tính tất yếu nhân quả”, “thuyết tất định” (“determinism”), “định luật khoa học” và những khái niệm cùng loại. Đây là những mô hình bắt nguồn từ kinh nghiệm thực tiễn trong lĩnh vực khoa học tự nhiên (vật lý và hóa học). Về sau, chúng đã được chuyển sang các lĩnh vực kinh nghiệm khác mà ban đầu chúng hoàn toàn không nhằm tới, trong đó có lĩnh vực các mối quan hệ giữa con người mà chúng ta gọi là xã hội. Trong quá trình đó, sự nhận thức về mối liên hệ ban đầu của chúng với các khám phá về các chuỗi sự kiện vật lý-hóa học đã bị mất đi. Vì thế, giờ đây chúng dường như trở thành những khái niệm hoàn toàn chung, thậm chí ở một mức độ nào đó là những phạm trù tiên nghiệm về cách các sự kiện được kết nối; tất cả mọi người dường như sở hữu chúng như một phần của “lẽ thường” hay “lý trí” bẩm sinh, độc lập với kinh nghiệm.
Trong phần lớn các trường hợp, khi dấn thân vào một lĩnh vực trải nghiệm mới, người ta đơn giản đối diện với sự thiếu vắng những khái niệm thích hợp cho những loại lực và mối liên kết gặp phải ở đó. Lấy ví dụ khái niệm “lực”. Việc chúng ta sử dụng một ngôn ngữ chung để giao tiếp với nhau tạo ra một dạng lực tác động lên sự diễn đạt và suy tư của từng cá nhân. Loại lực này hoàn toàn khác với lực hấp dẫn chẳng hạn mà theo các định luật khoa học nó sẽ kéo quả bóng trở lại mặt đất khi nó được ném lên cao. Thế nhưng, hiện nay có sẵn những khái niệm đặc thù và rõ ràng nào để diễn tả sự khác biệt này một cách minh bạch và dễ hiểu hay không? Có lẽ các xã hội khoa học có phạm vi lớn hơn để tiến hành đổi mới ngôn ngữ và trí tuệ so với các loại xã hội khác. Tuy vậy, phạm vi đó cũng không phải là vô hạn. Nếu bị kéo căng quá mức, sẽ có nguy cơ không được người khác hiểu. Hơn nữa, diễn đạt và suy tư của chính mỗi người thường chịu sự kiểm soát từ người khác; và nếu sự kiểm soát đó hoàn toàn bị phá vỡ, người ta cũng sẽ có nguy cơ mất kiểm soát bản thân, hoặc đánh mất chính mình trong những suy tưởng vô hạn, trong ảo tưởng và trò chơi với ý tưởng. Thật khó để lèo lái con thuyền giữa Scylla của vật lý học và Charybdis của siêu hình học.
Không nên kỳ vọng quá nhiều từ một cuốn sách đơn lẻ. Một sự tái định hướng và đổi mới thật sự triệt để như hiện nay đang manh nha, được báo hiệu qua những nỗ lực định nghĩa các mối liên kết xã hội theo cách xã hội học, không thể được duy trì chỉ bằng sức tưởng tượng và sáng tạo của bất kỳ một cá nhân nào. Nó đòi hỏi sự hội tụ nỗ lực của nhiều người. Cuối cùng, yếu tố then chốt là hướng đi của toàn bộ sự phát triển xã hội, tức là sự phát triển của mạng lưới con người như một tổng thể. Một cú hích mạnh mẽ của sự tái định hướng trí tuệ có thể ảnh hưởng đến tiến trình phát triển xã hội chung, với điều kiện những biến động trong phân bổ quyền lực và các cuộc đấu tranh giành quyền lực không chặn đứng hoàn toàn và tiêu diệt động lực đằng sau nó. Trong tình thế hiện tại, khoa học xã hội gặp khó khăn tương tự như khoa học tự nhiên từng gặp trong nhiều thế kỷ đầu phát triển: càng bị kích động bởi tức giận và đam mê trong những cuộc đấu tranh này thì càng ít cơ hội chuyển sang một lối tư duy thực tế hơn, ít ảo tưởng hơn. Và tư duy càng nhiều ảo tưởng, càng xa rời thực tế thì sự tức giận và đam mê của con người càng khó kiểm soát. Trong thời cổ đại, từng xuất hiện thoáng qua một quan niệm về tự nhiên gần với thực tế hơn; nhưng rồi nó bị phá hủy bởi làn sóng thần thoại hóa mới gắn liền với việc các quốc gia nhỏ, tự trị bị thôn tính bởi các đế chế lớn. Điều này cho thấy một nỗ lực thay đổi quá sớm có thể mong manh và nguy hiểm đến mức nào. Một ví dụ khác là sự phát triển của tư tưởng xã hội học khoa học từ các ý tưởng không tưởng trong thế kỷ XIX và XX. Cả hai ví dụ đều chỉ ra một vòng luẩn quẩn, bản thân nó là một trong những ràng buộc cưỡng chế cần được nghiên cứu kỹ hơn. Một vài liên hệ đến nó có thể giúp soi sáng phần nào xu hướng “khoa học hóa” trong tư duy, một xu hướng mà cho đến nay vẫn chưa nhận được sự chú ý xứng đáng.
Một đặc điểm phân biệt phương thức tiếp thu tri thức khoa học với phương thức tiền-khoa học là khoa học gắn kết chặt chẽ hơn với thế giới thực của các đối tượng. Phương thức khoa học cho con người cơ hội phân biệt rõ ràng hơn giữa ảo tưởng và những hình ảnh sát thực tế hơn khi tiến hành. Nghe qua, điều đó có vẻ quá đơn giản. Làn sóng mạnh mẽ của chủ nghĩa duy danh[5] trong triết học, vốn vẫn bao trùm và làm mờ tư duy nhận thức luận, đã khiến các khái niệm như “thực tại” và “sự kiện” (fact) bị mất uy tín. Nhưng vấn đề ở đây không phải là một câu hỏi mang tính suy đoán triết học, dù thuộc dạng duy danh hay duy thực nghiệm mà là xác lập một điều gì đó về lý thuyết khoa học có thể được chứng minh bằng quan sát chi tiết và được chỉnh sửa nếu cần. Đã từng có thời, người ta tưởng rằng mặt trăng là một nữ thần. Ngày nay, chúng ta đã có một bức tranh về mặt trăng đầy đủ hơn và sát thực tế hơn. Ngày mai, có thể người ta sẽ phát hiện vẫn còn những yếu tố ảo tưởng trong nhận thức hiện tại của chúng ta về mặt trăng và sẽ phát triển một bức tranh về mặt trăng, hệ Mặt Trời và toàn vũ trụ còn sát thực tế hơn nữa. Tính từ so sánh trong khẳng định này là rất quan trọng; nó cần thiết để lèo lái ý tưởng giữa hai bức tường thành cố định của triết học là chủ nghĩa duy danh và chủ nghĩa thực chứng, nhằm giữ trong dòng chảy phát triển dài hạn của tri thức và tư duy. Khi mô tả hướng đi của dòng chảy này, chúng ta đặc biệt lưu ý đến sự giảm bớt yếu tố ảo tưởng và sự gia tăng yếu tố phù hợp thực tế trong tư duy của mình, như là đặc trưng của quá trình “khoa học hóa” các phương thức suy tư và tiếp thu tri thức. Để khảo sát sự thay đổi trong cân bằng, tức tần suất và trọng lượng tương đối giữa hình ảnh ảo tưởng và hình ảnh phù hợp thực tế trong các ý tưởng đã được chấp nhận về xã hội loài người, sẽ đòi hỏi nghiên cứu kỹ lưỡng hơn mức có thể tiến hành ở đây. Cả hai khái niệm này đều đa tầng. Khái niệm “hình ảnh ảo tưởng”, chẳng hạn, có thể chỉ những giấc mơ cá nhân, những mơ tưởng ban ngày và sự thỏa mãn ước vọng, sự diễn đạt giàu trí tưởng tượng qua nghệ thuật, các suy đoán siêu hình, những hệ thống niềm tin tập thể hay ý thức hệ và còn nhiều dạng khác nữa.
Tuy nhiên, có một dạng hư cấu lại đóng vai trò hoàn toàn không thể thiếu trong quá trình khoa học hóa và quá trình con người ngày càng làm chủ thực tại. Đó là dạng hư cấu vừa được kiềm chế vừa được làm cho trở nên hữu ích nhờ duy trì tiếp xúc chặt chẽ với quan sát thực tế. Các triết gia theo khuynh hướng duy danh thường có xu hướng xem nhẹ việc đưa mối quan hệ phức tạp giữa sự thật và hư cấu vào suy tư của họ và ít khi tìm cách tiếp thu nó một cách khái niệm hóa. Hậu quả là họ hầu như không thể giải thích cho người nghe về tác động của quá trình ngày càng khoa học hóa trong suy tư về các chuỗi sự kiện tự nhiên phi nhân loại. Khi quá trình này tiếp diễn, với sự phản hồi liên tục vào các lĩnh vực thực tiễn, nó có thể nâng cao cơ hội của con người trong việc tránh những nguy hiểm từ các quá trình tự nhiên, cũng như khả năng định hướng chúng theo các mục tiêu mà họ tự lựa chọn. Chẳng hạn, làm sao có thể giải thích sự cải thiện về mức sống và sức khỏe ở nhiều xã hội, nếu không phải do tri thức và suy tư của chúng ta về các lĩnh vực này đã trở nên ít bị chi phối bởi cảm xúc và hư cấu, ít mang màu sắc ma thuật-thần thoại và tương đối hướng nhiều hơn tới đối tượng hoặc lấy thực tại làm trung tâm?
Ngày nay, nhiều người, kể cả các nhà xã hội học, nói về khoa học với sự khó chịu rõ rệt, thậm chí đôi khi với chút khinh miệt. Họ đặt nghi vấn rằng: “Tất cả những khám phá khoa học này [gồm] máy móc, nhà máy, thành phố, bom hạt nhân và mọi thứ kinh khủng khác của chiến tranh khoa học, đã mang lại gì cho chúng ta?” Lập luận này là một ví dụ điển hình về việc đè nén một lời giải thích không mong muốn và thay thế nó bằng một lời giải thích dễ chịu hơn (một quá trình gọi là “dịch chuyển”[6]). Suy cho cùng, bom hydro được phát triển theo yêu cầu của các chính khách, và chính họ sẽ là người ra lệnh sử dụng nếu cho là cần thiết. Thế nhưng, đối với chúng ta, bom hạt nhân trở thành một thứ vật sùng bái, một đối tượng để chúng ta gán ghép nỗi sợ, trong khi mối nguy thực sự nằm ở sự thù địch qua lại giữa các nhóm người trong quan hệ với nhau. Ở một mức độ nào đó, ngay cả sự thù địch này cũng khiến các nhóm đối địch phụ thuộc lẫn nhau và họ có thể bị cuốn vào đến mức không còn nhìn thấy đường ra của mê cung này nữa. Chúng ta đổ lỗi cho quả bom và cho các nhà khoa học, những người đã thực hiện nghiên cứu hướng về thực tại khiến nó trở thành khả thi, như một cái cớ để che giấu với chính mình sự đồng lõa của ta trong sự thù địch qua lại đó, hoặc ít nhất là sự bất lực của từng cá nhân trước cái gọi là tính tất yếu của đe dọa và phản đe dọa. Bằng cách đổ lỗi cho các nhà khoa học, ta cũng tránh né nghĩa vụ phải tìm một lời giải thích thực tế hơn về những mạng lưới xã hội đan xen dẫn tới việc trao đổi đe dọa leo thang dần dần giữa các nhóm người. Lời than phiền rằng chúng ta đã trở thành “nô lệ của máy móc” hay công nghệ cũng tương tự như vậy. Bất chấp những ác mộng trong tiểu thuyết khoa học viễn tưởng, máy móc không hề có ý chí riêng của nó. Chúng không thể tự phát minh hay tự sản xuất và cũng không thể ép buộc chúng ta phục vụ chúng. Mọi quyết định và hành động mà chúng thực hiện đều là các quyết định và hành động của con người. Chúng ta gán ghép những mối đe dọa và sự cưỡng chế lên chúng, nhưng nếu nhìn kỹ ta luôn thấy các nhóm người phụ thuộc lẫn nhau đang đe dọa và cưỡng chế nhau bằng phương tiện máy móc. Khi con người đổ nguyên nhân của sự bất an trong đời sống ở các xã hội công nghiệp - khoa học - kỹ thuật cho bom hay máy móc, hoặc cho các nhà khoa học hay kỹ sư, họ đang né tránh nhiệm vụ khó khăn và có thể không dễ chịu là tìm kiếm một hình ảnh rõ ràng và thực tế hơn về cấu trúc của sự đan xen giữa con người; đặc biệt là những mẫu hình xung đột ăn sâu vào đó. Chính cấu trúc này mới là thứ chịu trách nhiệm cho việc phát triển và cuối cùng sử dụng các loại vũ khí khoa học, cũng như cho những khó khăn của đời sống trong các nhà máy và đô thị hiện đại. Các tiến bộ công nghệ quả thực có ảnh hưởng đến hướng phát triển của sự đan xen giữa con người. Nhưng bản thân kỹ thuật -“vật tự thân” - không bao giờ là nguồn gốc của những lực cưỡng chế và khó khăn mà con người phải chịu; nguyên nhân luôn nằm ở cách con người áp dụng công nghệ trong bối cảnh khung xã hội của họ. Điều chúng ta cần lo sợ không phải là sức mạnh hủy diệt của bom hạt nhân mà là sức mạnh của con người, hay chính xác hơn là sức mạnh của các mối quan hệ đan xen giữa con người. Mối nguy không nằm ở tiến bộ của khoa học và công nghệ, mà nằm ở cách thức các phát hiện khoa học và phát minh công nghệ được con người sử dụng dưới áp lực của sự phụ thuộc lẫn nhau rối rắm, và trong các cuộc đấu tranh liên quan đến phân chia cơ hội quyền lực dưới mọi hình thức. Trong các trang tiếp theo của phần dẫn nhập vào xã hội học này, sẽ ít khi bàn trực tiếp về những vấn đề cấp bách đó. Mối quan tâm hàng đầu của cuốn sách là thúc đẩy sự phát triển của trí tưởng tượng và suy tư xã hội học nhằm hướng tới việc nhận thức rõ hơn những sự đan xen giữa con người và hình thái xã hội mà con người tạo nên. Tuy nhiên, một lời nhắc về các vấn đề cấp bách đang tác động lên những sự đan xen của con người này có thể hữu ích như một phần giới thiệu.
Sự ám ảnh tinh thần với những hiện tượng quen thuộc và hữu hình như bom hạt nhân và máy móc, hay nói rộng hơn là với khoa học và công nghệ, che mờ nguyên nhân xã hội của nỗi sợ hãi và sự bất an, là biểu hiện của một trong những đặc điểm cơ bản của thời đại chúng ta. Đó là sự chênh lệch giữa, một mặt, khả năng tương đối lớn mà con người ngày nay có được để vượt qua một cách thích đáng và thực tế những vấn đề do các quá trình tự nhiên ngoài con người gây ra; mặt khác, khả năng tương đối hạn chế trong việc giải quyết các vấn đề về sự chung sống của con người với sự chắc chắn có mức độ tương đương.
Với cách lạ lùng, chúng ta có tiêu chuẩn kép cho việc suy tư, cho tri giác, cho quá trình tiếp thu tri thức và cho bản thân tri thức. Trong lĩnh vực các quá trình tự nhiên, tất cả những nỗ lực này đều có tính hiện thực cao và ngày càng được định hướng vào thực tại. Lĩnh vực này có thể là vô hạn. Nhưng trong phạm vi đó, kho tàng tri thức khoa học tương đối đáng tin cậy, tương đối thực tế, ngày càng tăng trưởng liên tục và tích lũy. Mức độ tự kỷ luật ở đây tương đối cao và những quan điểm vị kỷ cá nhân được chế ngự một cách hiệu quả nhờ cơ chế kiểm soát lẫn nhau của tất cả các nhà nghiên cứu, khiến cho quan sát và suy tư của họ chủ yếu hướng về đối tượng nghiên cứu. Có tương đối ít chỗ cho những ảo tưởng vị kỷ hay vị chủng tác động đến kết quả nghiên cứu vì chúng được kiềm chế bằng sự đối chiếu liên tục và cẩn trọng với các phát hiện của nghiên cứu chi tiết. Mức độ cao của sự tự kiểm soát trong việc xem xét các quá trình tự nhiên, cùng với mức độ tương ứng về tính hướng đối tượng, tính hiện thực và “lý tính” trong tư duy và hành động ở các lĩnh vực này không còn là đặc quyền của riêng giới nghiên cứu chuyên môn. Chúng nay đã trở thành thái độ cơ bản của con người ở tất cả các xã hội công nghiệp phát triển hơn. Trong chừng mực mà toàn bộ đời sống của chúng ta, kể cả những khía cạnh riêng tư nhất cũng đã được công nghệ hóa, các nguyên tắc này chi phối mọi suy nghĩ và hành động của chúng ta. Tuy nhiên, trong đời sống riêng tư, vẫn còn chỗ cho những ảo tưởng vị kỷ về các hiện tượng tự nhiên nhưng con người thường ý thức rõ chúng chỉ là như vậy, chỉ như những ảo tưởng cá nhân.
Trái lại, ngay trong các xã hội này vẫn còn một phạm vi rộng lớn để những ảo tưởng vị kỷ và vị chủng trở thành yếu tố quyết định trong tri giác, tư duy và hành động ở các lĩnh vực đời sống xã hội không liên quan đến khoa học tự nhiên. Trong khoa học xã hội, ngay cả các nhà nghiên cứu cũng thiếu những tiêu chuẩn chung cho sự kiểm soát lẫn nhau và tự kiểm soát, cho phép họ xem xét công trình của đồng nghiệp với mức độ tự tin như các đồng nghiệp của họ trong khoa học tự nhiên. Họ cũng khó có thể phân biệt rạch ròi giữa một bên là những ảo tưởng tùy tiện mang tính cá nhân, các lý tưởng chính trị và dân tộc chủ nghĩa, với một bên là các mô hình lý thuyết định hướng thực tại có thể kiểm chứng bằng nghiên cứu thực nghiệm. Và nơi xã hội nói chung, các chuẩn mực khi suy tư về vấn đề xã hội vẫn cho phép con người ở mức độ nào đó buông mình theo những ảo tưởng của bản thân mà không nhận ra chúng là như vậy. Điều này gợi nhớ đến mức độ của những ảo tưởng về các sự kiện tự nhiên ở thời Trung Cổ. Vào thời trung đại, người ta cho rằng những người xa lạ, đặc biệt là người Do Thái, phải chịu trách nhiệm cho các vụ bùng phát dịch hạch và hàng loạt người Do Thái đã bị tàn sát. Khi đó, con người chưa biết đến những lời giải thích khoa học, thực tế hơn để lý giải cho những sự kiện như cái chết hàng loạt do dịch bệnh. Như thường xảy ra, các nhóm cầm quyền đã dồn nỗi lo âu, nỗi sợ hãi trước sự khủng khiếp không thể giải thích của dịch bệnh, cùng với cơn giận dữ mãnh liệt trước một sự tấn công mà họ cho là khó hiểu, lúc chưa có tri thức thực tế hơn để kiềm chế, vào những ảo tưởng mà trong đó họ coi những người ngoài và các nhóm xã hội yếu thế hơn là nguồn gốc đau khổ của mình. Kết quả là những vụ thảm sát hàng loạt. Trong thế kỷ XIX, các xã hội châu Âu đã phải hứng chịu nhiều đợt dịch tả. Nhờ tăng cường sự giám sát của nhà nước về các vấn đề y tế công cộng, cùng với tiến bộ của tri thức khoa học và sự phổ biến các giải thích khoa học về dịch bệnh, các loại bệnh truyền nhiễm trên quy mô lớn này cuối cùng đã được khống chế. Sang thế kỷ XX, cả sự đầy đủ của khoa học lẫn mức độ thịnh vượng xã hội đều gia tăng, và điều đó đã giúp biến các lý thuyết về vệ sinh công cộng thành các biện pháp phòng ngừa thực tế. Lần đầu tiên kể từ khi mật độ dân cư gia tăng, con người ở châu Âu cuối cùng gần như hoàn toàn thoát khỏi mối đe dọa của dịch bệnh và gần như đã quên mất nó. Thế nhưng, tư duy và hành động của chúng ta liên quan đến sự chung sống xã hội của con người vẫn ở cùng một giai đoạn phát triển như tư duy và hành vi thời trung cổ đối với bệnh dịch hạch. Trong các vấn đề xã hội, con người ngày nay vẫn phải chịu áp lực và nỗi lo âu mà họ không thể hiểu thấu. Và bởi vì con người trong cơn hoạn nạn không thể sống thiếu một lời giải thích nào đó nên những khoảng trống trong sự hiểu biết ấy được lấp đầy bằng ảo tưởng.
Trong thời đại của chúng ta, huyền thoại Quốc Xã là một ví dụ cho kiểu diễn giải như thế về sự khốn cùng và bất ổn tập thể [và là] thứ mà họ tìm cách giải tỏa thông qua hành động. Ở đây cũng vậy, giống như trong trường hợp dịch hạch, lo âu và bất an trước những đau khổ chung đã tìm thấy sự giải tỏa qua những lời giải thích nhuốm đầy tưởng tượng, xác định các nhóm thiểu số yếu thế trong xã hội là kẻ gây rối và thủ phạm, từ đó dẫn tới việc họ bị tàn sát. Như vậy, ta thấy rằng thật đặc trưng cho thời đại của chúng ta khi một nhận thức rất “lấy đối tượng làm trung tâm” lại là giải pháp cho vấn đề xã hội đầy ắp ảo tưởng, những vấn đề mà đến nay ta vẫn chưa hoặc không muốn giải thích và khắc phục một cách đầy đủ hơn.
Niềm hy vọng của Quốc Xã cho rằng có thể giải quyết các vấn đề xã hội bằng cách tiêu diệt người Do Thái dường như là một ví dụ cực đoan của một đặc điểm vốn phổ biến rộng rãi trong đời sống xã hội đương đại của nhân loại. Tuy vậy, nó minh họa rõ chức năng của những lời giải thích đầy ắp ảo tưởng về sự khốn cùng và lo âu xã hội, những nguyên nhân thực sự mà ta không thể hoặc không muốn nhận ra. Đồng thời, đây cũng là biểu hiện của một tính nhị nguyên đáng kể trong tư duy đương đại: ở đây, một chiếc áo khoác khoa học tự nhiên và sinh học đã được khoác lên một ảo tưởng xã hội.
Từ “ảo tượng” nghe thì có vẻ vô hại. Không ai phủ nhận rằng trí tưởng tượng đóng một vai trò không thể thiếu và vô cùng xây dựng trong đời sống con người. Giống như khả năng biểu lộ nhiều loại nét mặt khác nhau, biết mỉm cười hay khóc, khả năng tưởng tượng phát triển cao là một đặc trưng độc đáo của loài người. Nhưng ở đây, chúng ta đang nói đến một loại tưởng tượng đặc biệt, hoặc chính xác hơn là những ảo tưởng được áp dụng sai chỗ trong đời sống xã hội. Khi không được kiểm soát bằng tri thức thực chứng, đặc biệt trong thời kỳ khủng hoảng, loại ảo tưởng này lại nằm trong số những xung lực chi phối hành vi con người vốn kém tin cậy nhất và thường mang tính sát hại nhất. Trong những tình huống như vậy, con người không cần phải điên loạn để những xung lực này được giải phóng.
Ngày nay, chúng ta thường thích nghĩ rằng yếu tố tưởng tượng, vốn đóng vai trò quan trọng trong việc định hướng hành động và ý tưởng chung của một nhóm người hướng tới mục tiêu của họ, chỉ là một “tấm màn”, chẳng qua là chiếc mặt nạ quyến rũ và kích thích của tuyên truyền. Chúng ta hình dung rằng các lãnh đạo xảo quyệt dùng nó để che giấu những mục tiêu táo bạo, vốn dĩ dựa theo “lợi ích riêng” của họ là rất “hợp lý” hoặc “thực tế”. Dĩ nhiên, điều đó đôi khi cũng xảy ra. Nhưng khi chúng ta dùng khái niệm “lợi ích” trong cụm từ như “lợi ích quốc gia”, hay khái niệm “thực” trong từ như “chính trị thực dụng” cùng nhiều khái niệm tương tự khác, chúng ta đã góp phần củng cố ý tưởng phổ biến rằng các cân nhắc hợp lý, khách quan hay thực tế thường là yếu tố chính khi các nhóm người xung đột với nhau. Ngay cả trong giới xã hội học, cách sử dụng khái niệm “ý thức hệ” cũng cho thấy khuynh hướng này. Thế nhưng, khi quan sát kỹ hơn, không khó để thấy rằng cả những ý tưởng “thực tế” lẫn những ý tưởng đầy ảo tưởng đều trộn lẫn với nhau trong khái niệm “lợi ích nhóm”. Các kế hoạch thay đổi xã hội mang tính thực tế và phương pháp (dù chỉ là tạm bợ), được xây dựng với sự hỗ trợ của các mô hình khoa học về phát triển, là một hiện tượng rất mới trong lịch sử. Thường thì chính các mô hình phát triển này vẫn còn hết sức khiếm khuyết, chưa phản ánh đủ sát cấu trúc xã hội đang biến đổi mà chúng nhằm vào. Toàn bộ lịch sử trước tới giờ hệt như bãi tha ma của hàng đêm mơ mộng của nhân loại. Những giấc mơ ấy đôi khi được thực hiện trong ngắn hạn, nhưng về lâu dài thì chúng gần như luôn bị rút hết nội dung và mất hết ý nghĩa. Nguyên nhân là vì các mục tiêu và hy vọng bị thấm đẫm quá nhiều yếu tố tưởng tượng, đến mức tiến trình thực tế của xã hội liên tiếp giáng những đòn mạnh vào chúng và cú sốc từ thực tế đã bộc lộ bản chất hư ảo như những giấc mơ của chúng. Sự khô cằn đặc thù của nhiều phân tích về ý thức hệ chủ yếu bắt nguồn từ xu hướng xem chúng như những cấu trúc ý tưởng mang tính hợp lý, trùng khớp với lợi ích nhóm nơi thực tế. Gánh nặng của cảm xúc và ảo tưởng, sự thiếu tính hiện thực do vị kỷ hay vị chủng lại bị bỏ qua, vì chúng bị giả định là chỉ là lớp ngụy trang được cân đo đong đếm [nhằm] che giấu một “cốt lõi” rất hợp lý.
Ví dụ, hãy xét tình trạng xung đột giữa các cường quốc lớn vẫn kéo dài từ sau Đệ nhị Thế chiến và ngày càng ảnh hưởng bao trùm cả các xung đột trong nhiều quốc gia khác trên toàn thế giới[7]. Các đại diện của mỗi cường quốc dường như tin rằng họ sở hữu một thứ “sức hút quốc gia” độc nhất, rằng chỉ họ và lý tưởng của họ mới xứng đáng lãnh đạo thế giới. Rất khó tìm ra bất kỳ xung đột lợi ích thực tế nào có thể giải thích cho sự leo thang khổng lồ trong lúc chuẩn bị cho chiến tranh. Thực tế, sự khác biệt về thực hành tập thể giữa họ rõ ràng nhỏ hơn nhiều so với điều người ta có thể mong đợi, nếu xét tới sự tương phản sắc nét giữa các hệ thống niềm tin và lý tưởng của họ. Hơn bất kỳ xung đột lợi ích “thực” nào, chính là sự va chạm giữa các giấc mơ của các cường quốc, và không chỉ các cường quốc, đã khiến họ trở nên đối địch gay gắt và liên tục với nhau. Sự phân cực gần như toàn cầu hiện nay có cấu trúc tương đồng đáng kể với một sự phân cực châu Âu trước đây, khi các giấc mơ của các hoàng tử và tướng lĩnh Tin Lành và Công giáo đụng độ nhau. Vào thời đó, con người cũng nhiệt tình tàn sát lẫn nhau hàng loạt vì các hệ thống niềm tin của mình như hiện nay họ dường như sẵn sàng giết hàng loạt chỉ vì một số người ưa hệ thống niềm tin Nga, một số ưa Mỹ hoặc Trung Quốc. Xem ra, chính sự đối kháng giữa các hệ thống niềm tin quốc gia và những quan niệm đầy sức hút về “sứ mệnh quốc gia” đã khiến sự đan xen này trở nên mù mờ và khó hiểu với những người bị cuốn vào đó và vì thế khiến nó trở nên bất khả kiểm soát. (Những hệ thống niềm tin quốc gia này, nhân tiện, hầu như không liên quan đến phân tích của Marx về đối kháng giai cấp trong nội bộ các quốc gia, một phân tích ở thời của ông vốn rất sát với thực tế.)
Đây cũng là một ví dụ về động lực của những mối đan xen xã hội, mà việc nghiên cứu có hệ thống chúng là lĩnh vực của xã hội học. Ở cấp độ này, các hình thái được cấu thành từ những nhóm người phụ thuộc lẫn nhau, được tổ chức thành các quốc gia dân tộc, chứ không phải từ những cá nhân phụ thuộc lẫn nhau riêng lẻ. Nhưng ở đây cũng vậy, các đơn vị con người dùng đại từ ngôi thứ nhất để không chỉ “tôi” ở số ít mà chỉ cả “chúng tôi” ở số nhiều, lại được họ trải nghiệm như thể hoàn toàn độc lập. Khi còn là học sinh, họ đã được dạy rằng quốc gia của mình có chủ quyền tuyệt đối, hoàn toàn độc lập với mọi quốc gia khác. Hình ảnh vị chủng về nhân loại bị chia tách thành các quốc gia tương tự như hình ảnh vị kỷ được mô tả trong hình 1. Giới tinh hoa cầm quyền, và nhiều người ủng hộ họ trong mỗi quốc gia (ít nhất là ở mỗi cường quốc), tưởng tượng rằng họ đang ở trung tâm nhân loại như thể trong một pháo đài, bao bọc và được bao quanh bởi tất cả các quốc gia khác nhưng đồng thời cũng bị tách biệt khỏi chúng. Trong trường hợp này, giai đoạn tự nhận thức trong suy tư và hành động (như trong hình 2), nhưng với quốc gia là đơn vị cơ bản thay vì một cá nhân, hầu như chưa bao giờ đạt được.
Hiện nay, tư duy coi quốc gia của mình là một trong nhiều quốc gia phụ thuộc lẫn nhau và việc hiểu được cấu trúc của hình thái đan xen mà tất cả chúng tạo thành, hầu như mới chỉ bắt đầu hình thành. Hiếm khi tìm thấy một mô hình xã hội học rõ ràng về động lực của các mối quan hệ giữa các quốc gia. Lấy ví dụ về động lực của “thế giằng co đông cứng” giữa các cường quốc: cả hai bên đều tìm cách tăng tiềm lực quyền lực của mình vì sợ tiềm lực của đối thủ. Do đó, nỗi sợ của mỗi bên về bên kia lại được xác nhận, khiến họ càng thôi thúc bản thân tăng tiềm lực hơn nữa, và điều này lại kích thích đối thủ phải nỗ lực tương ứng. Nếu không có một trọng tài có đủ cơ hội quyền lực để phá vỡ sự ràng buộc cưỡng chế của “thế giằng co” này và trừ khi cả hai bên cùng lúc đạt được sự hiểu biết về động lực của hình thái mà họ đang cùng tạo thành, thì việc tiếp tục gia tăng quyền lực là điều gần như chắc chắn. Nhưng các đối thủ phụ thuộc lẫn nhau này, đặc biệt là các tập đoàn đảng cầm quyền ở mỗi phía lại không đạt tới sự hiểu biết đó. Trái lại, họ tin tưởng sâu sắc rằng mối nguy hiểm mình phải đối mặt và những nỗ lực không ngừng để gia tăng quyền lực có thể giải thích hoàn toàn bằng cách chỉ tay vào kình địch đương thời phía bên kia với “hệ thống xã hội sai lầm” và “niềm tin dân tộc nguy hiểm” của họ. Các quốc gia cho đến nay vẫn chưa thể nhìn nhận mình như những thành tố hợp nhất của một hình thái có động lực buộc họ phải thực hiện những hành vi đó. Sự cứng nhắc của hệ thống niềm tin dân tộc phân cực ngăn cản giới tinh hoa cầm quyền nhận thức đủ rõ rằng chính họ, truyền thống đảng phái của họ đang dần đánh mất uy tín với các lý tưởng xã hội mà họ dùng để biện minh cho quyền lực của mình. Khoảng trống niềm tin này xuất phát từ việc họ thực sự góp phần tạo ra đối đầu nguy hiểm trong chiến tranh, lãng phí nguồn lực do con người tạo ra vào vũ khí và cuối cùng là sử dụng bạo lực. Ở đây, lần này dưới dạng điển hình này nữa, ta thấy sự làm chủ thực tế rất cao đối với môi trường vật lý-công nghệ lại tồn tại song song với một cách tiếp cận đầy ảo tưởng đối với các vấn đề xã hội và liên cá thể.
Nhìn quanh, không khó để tìm thêm nhiều ví dụ khác về sự chênh lệch này. Tuy nhiên, nhiều người ngày nay tin rằng họ có thể tiếp cận vấn đề xã hội dựa trên “lý tính” bẩm sinh của mình, hoàn toàn tách biệt với trình độ phát triển hiện tại của tri thức và tư duy xã hộ, nhưng lại với cùng một phương pháp tập trung vào đối tượng như một nhà vật lý hay kỹ sư áp dụng cho vấn đề khoa học hay công nghệ.
Chính vì thế, các chính phủ đương đại thường khẳng định, có thể là với thiện ý, rằng họ có thể giải quyết các vấn đề xã hội cấp bách của đất nước một cách “lý tính” hoặc “thực tế”. Thực ra, họ thường lấp đầy những khoảng trống trong tri thức còn khá sơ khai về động lực của những mối đan xen xã hội bằng các giáo điều cứng nhắc, những bài thuốc cổ truyền, hoặc những cân nhắc về lợi ích đảng phái ngắn hạn. Phần lớn các biện pháp được đưa ra một cách tình cờ, khiến họ bị động trước các diễn biến mà họ hiểu không rõ hơn gì so với dân chúng của mình. Trong khi đó, dân chúng phục tùng lãnh đạo, tin tưởng rằng họ sẽ chế ngự được những hiểm nguy và khó khăn của xã hội và ít nhất là biết rõ họ đang đi đâu.
Còn bộ máy nhà nước, hệ thống quan liêu, thì có lẽ không quá lời khi nói như điều Max Weber có thể đã muốn, rằng cấu trúc của hệ thống quan liêu và thái độ của các quan chức ngày nay có phần “hợp lý” hơn so với những thế kỷ trước. Nhưng khó có thể đồng ý như Max Weber đã nói, rằng quan liêu hiện đại là một “hình thức tổ chức hợp lý” và rằng hành vi của các quan chức là “hành vi hợp lý”. Nhận định đó gây hiểu lầm nghiêm trọng. Ví dụ, xét ở một khía cạnh, quan liêu có xu hướng cắt rời các mối phụ thuộc xã hội phức tạp thành từng bộ phận hành chính riêng rẽ, mỗi bộ phận có một lĩnh vực quyền hạn chặt chẽ, được vận hành bởi các hệ thống phân cấp chuyên môn và các tầng lớp đầu sỏ hành chính vốn hiếm khi suy nghĩ vượt ra ngoài phạm vi quyền lực của mình. Kiểu quan liêu này gần giống với một tổ chức truyền thống chưa bao giờ được suy xét thấu đáo hơn là một tổ chức được thiết kế hợp lý với khả năng thích nghi liên tục được kiểm nghiệm.
Ngần đó ví dụ là đủ. Nhờ các ví dụ như vậy, có lẽ một số mối quan tâm trung tâm của xã hội học sẽ được nhìn rõ hơn. Việc các xã hội loài người được cấu thành từ con người, từ chính bản thân chúng ta, khiến chúng ta quá dễ quên rằng sự phát triển, cấu trúc và chức năng của chúng cũng xa lạ và chưa được biết rõ chẳng kém gì sự phát triển, cấu trúc và chức năng của các cấp độ tích hợp[8] vật lý-hoá học hay sinh học. Và điều quan trọng không kém là phải dần dần gia tăng sự hiểu biết ở tất cả các cấp độ đó. Các mối tiếp xúc hàng ngày giữa chúng ta dễ dàng che mờ thực tế rằng hiện tại chính bản thân chúng ta lại là đối tượng nghiên cứu mà ít được khám phá nhất; chúng ta vẫn là một khoảng trống trên bản đồ tri thức nhân loại, như hai cực trái đất hay bề mặt mặt trăng. Nhiều người sợ hãi khi phải khám phá sâu hơn vùng lãnh thổ này, giống như con người xưa kia từng sợ những khám phá khoa học về cơ thể con người. Và cũng như trước kia, một số người lập luận rằng việc con người nghiên cứu khoa học về chính con người. điều họ không muốn, là hoàn toàn không thể. Nhưng khi loài người thiếu một sự hiểu biết vững chắc hơn về động lực của các mối đan xen mà họ tạo ra cùng nhau, liên tục trôi dạt bất lực từ những hành vi tự hủy từ bé tới và từ sự sa ngã vào vô nghĩa này đến sự sa ngã khác, thì sự ngu dốt lãng mạn ngày càng mất cuốn hút như một vé thông hành vào cơn mê.
Xuân Tín dịch
[1] Trong nhiều phần trong tác phẩm của mình, Elias đề cập đến hình ảnh con người như một homo clausus (con người khép kín), tách biệt khỏi những người khác và ông coi đây vừa là một kiểu trải nghiệm về bản thân đã phát triển trong các xã hội hiện đại (và trong một số nhóm người hạn chế ở các xã hội trước đó), vừa là một sự phản ánh của các triết gia về kiểu trải nghiệm bản thân đó.
[2] Để cho đơn giản hóa, sơ đồ này chỉ thể hiện những dạng cơ bản nhất của nhu cầu con người đối với nhau và những mối liên kết tương ứng giữa họ, cụ thể là các “hóa trị cảm xúc” của họ. Còn có nhiều dạng khác với chức năng tương tự. Con người cần nhau, hướng về nhau và gắn kết với nhau do sự phân công lao động, do chuyên môn hóa nghề nghiệp, do sự hội nhập vào bộ tộc hoặc quốc gia, do cảm giác nhận diện chung và do sự đối kháng chung đối với người khác hoặc do lòng thù ghét và sự thù địch giữa họ.
Nhiệm vụ chính của Hình 2 là tạo điều kiện cho việc định hướng lại các mô hình và khái niệm xã hội học, điều này trở nên khả thi nếu ta ngừng xem con người bao gồm cả bản thân mình như những đơn vị hoàn toàn tự chủ và thay vào đó nhận thức họ như những đơn vị bán tự chủ, cần đến nhau, phụ thuộc vào nhau và gắn bó với nhau theo nhiều cách khác nhau.
Sơ đồ này cho thấy rằng sự mất cân bằng quyền lực không ổn định và các cuộc thử sức liên quan là một trong những đặc điểm cơ bản của mọi mối quan hệ giữa con người, dù đó là mối quan hệ tương đối đơn giản giữa hai người như trong hôn nhân, hay các “hình thái” (figuration) nhiều thành viên như thị trấn hoặc quốc gia, được hình thành bởi một số lượng lớn người.
[3] Trong tiếng Đức, người ta có thể nói đến “đối tượng” (object) của nó nhưng ở vấn đề thuật ngữ, tiếng Anh gọi là “subject matter” (đề tài, nội dung).
[4] Trong các tác phẩm của mình về xã hội học tri thức và khoa học, Elias mô tả một continuum (dải liên tục) giữa mức độ tự chủ tương đối lớn hơn của các giá trị (bắt nguồn từ những thiết chế xã hội tương đối tự chủ) định hướng cho hoạt động khoa học trong các ngành khoa học tự nhiên, so với những gì đã phát triển cho đến nay trong khoa học xã hội.
Trong khoa học xã hội, các giá trị heteronomous (dị trị), tức là các giá trị liên quan đến những mong muốn cá nhân hoặc lợi ích xã hội đến từ “bên ngoài” các thiết chế xã hội của khoa học, vẫn tiếp tục đóng vai trò tương đối lớn hơn.
[5] Elias viết: “Các dạng của chủ nghĩa duy danh (nominalism) đã trở thành tín điều thống trị của nhiều nhà triết học và nhiều nhà lý thuyết khác. Có thể là, giữa tình trạng vô trật tự, vũng lầy và hỗn loạn mà họ tin rằng vốn dĩ tồn tại trong trạng thái của các đối tượng khoa học, dù là tự nhiên hay xã hội, họ tìm kiếm sự cứu rỗi trong tính trật tự được cấu trúc a priori của lý trí con người. Họ có thể tìm kiếm điều đó trong cấu trúc của ngôn ngữ con người hoặc, như Popper, trong các “định luật” của logic.
...Có nhiều biến thể của chủ nghĩa duy danh. Dạng duy lý (rationalist brand) xuất phát từ giả định rằng “ratio” (lý trí) của con người vốn có trật tự, ngay cả khi không có gì khác là như vậy; dạng suy diễn (deductivist brand) xuất phát từ giả định rằng tư duy của con người tuân theo các định luật vĩnh cửu của logic; dạng ngôn ngữ học cấu trúc, theo phiên bản của Chomsky, xuất phát từ giả định rằng ngôn ngữ con người có... một “cấu trúc sâu” (deep structure) riêng của nó...
Có những biến thể khác của chủ nghĩa duy danh nhưng trong tất cả, tính có cấu trúc của chủ thể con người hoặc một trong những biểu hiện của nó được mặc nhiên thừa nhận, còn tính có cấu trúc của các “đối tượng” của suy tư thì bị nghi ngờ hoặc phủ nhận.”
[6] “Dời chuyển” (Displacement) là một thuật ngữ Freud, chỉ một cơ chế phòng vệ vô thức theo đó cảm xúc bị chuyển hướng từ một đối tượng bị coi là nguy hiểm hoặc không thể chấp nhận, sang một đối tượng có vẻ an toàn hoặc có thể chấp nhận được.
[7] Elias đã viết điều này vào thời kỳ đỉnh điểm của Chiến tranh Lạnh và trong bối cảnh (các cuộc chiến khác) gồm chiến tranh ở Việt Nam.
[8] Việc Elias sử dụng ý tưởng về “các cấp độ tích hợp” bắt nguồn từ sinh học tiến hóa hiện đại. Đến những năm 1940, ý tưởng về một hệ thống phân cấp các cấp độ tích hợp như một chuỗi các giai đoạn mới xuất hiện [và] không thể quy giản trong toàn bộ tiến trình tiến hóa đã trở thành điều phổ biến trong tư duy sinh học.