Nghìn lẻ một đêm mới
Robert Louis Stevenson đã hiện diện trên Văn Bản từ sớm, trong tương quan với thực tại luận từ Henry James đến Joseph Conrad. Stevenson cũng là gợi ý lớn lao cho những nhân vật như G. K. Chesterton. Đó là một trong những người hiếm hoi tạo ra được quanh mình bầu không khí của huyền thoại, nhưng kỳ công lớn hơn (rất thường xuyên bị Stevensoniana che đi) nằm ở chỗ tạo ra huyền thoại cho một thành phố, khiến nó chẳng bao giờ còn có thể được nhìn khác đi. London trinh thám của Chesterton, của Conrad cũng vẫn là London của thiên tài Scotland, nơi những yếu tố không tương thích có thể cùng hiện ra trong một hòa hợp thản nhiên, vừa hài hước vừa rùng rợn.
Nghìn lẻ một đêm mới - mà Chesterton coi là tác phẩm độc đáo nhất của Stevenson - là cuộc bập bềnh giữa thực và phi thực, một thực tại rắn chắc dệt hoàn toàn bằng chất liệu của giấc mơ, nơi những điều trái khoáy cứ liên tiếp nảy ra mà chẳng hề gây kinh ngạc hay khó chịu. "Trước đó không có gì giống nó, và, theo tôi, sau đó cũng chưa có gì sánh được với nó."
Sau James, Conrad, Chesterton (cùng Ford Madox Ford và Thomas De Quincey): Stevenson sẽ là nhân vật tiếp theo của chúng ta. Dưới đây là một truyện, truyện cuối cùng của kỳ án đầu tiên, "Câu lạc bộ tự sát".
CUỘC PHIÊU LƯU CỦA CHIẾC XE MUI KÍN
Trung úy Brackenbury Rich từng lập chiến công hiển hách trong một cuộc chiến nhỏ nơi núi rừng Ấn Độ. Anh tự tay bắt sống thủ lĩnh đối phương; lòng dũng cảm ấy được ca ngợi khắp nơi và khi anh trở về, kiệt quệ vì vết chém và cơn sốt rừng kéo dài, đã được mở rộng vòng tay đón chào như một nhân vật nổi danh vừa phải. Nhưng tính anh vốn khiêm nhường; anh ưa phiêu lưu chứ không phải những lời tâng bốc; thế nên anh lánh mặt ở các thành phố nghỉ dưỡng nước ngoài và ở Algiers, chờ cho hào quang chiến tích sống trọn phần đời của nó và dần chìm vào quên lãng. Cuối cùng, anh đến London vào đầu mùa, lặng lẽ đúng như anh muốn, và vì mồ côi, chỉ có vài họ hàng xa sống rải rác ở tỉnh, anh đặt chân lên thủ đô của đất nước vì nó anh đã đổ máu gần như một người ngoại quốc.
Ngày hôm sau, anh ăn tối một mình tại một câu lạc bộ quân đội. Anh bắt tay vài người bạn cũ và nhận được những lời chúc mừng nhiệt thành; nhưng vì ai nấy đều đã có hẹn cho buổi tối, anh đành tự xoay xở một mình. Anh mặc lễ phục vì đã có ý định sẽ đi xem kịch. Nhưng thành phố lớn này hoàn toàn xa lạ với anh; từ một trường tỉnh lẻ anh đã vào học trường sĩ quan rồi từ đó đi thẳng sang đế quốc phương Đông, và anh tự hứa sẽ tìm ra những điều thú vị trong thế giới mới mẻ ấy. Tay phe phẩy gậy, anh thong thả đi về phía tây. Trời đã sẩm tối, chừng sắp mưa. Dòng người nối nhau lướt qua dưới đèn đường khiến trí tưởng tượng của trung úy được khuấy động, và anh cảm giác mình có thể đi mãi trong bầu khí phấn khích của thành phố, giữa những bí ẩn của bốn triệu cuộc đời riêng lặng. Anh liếc vào các ngôi nhà, tự hỏi không biết chuyện gì đang diễn ra đằng sau những ô cửa ấm áp ấy; anh nhìn vào từng gương mặt lướt qua và thấy ai cũng mải miết theo đuổi một mối bận tâm nào - tội lỗi hoặc thiện lành.
“Người ta nói đến chiến tranh,” anh nghĩ, “nhưng đây mới là chiến trường vĩ đại nhất của loài người.”
Và anh bắt đầu tự hỏi vì sao mình đã đi bộ lâu như vậy giữa khung cảnh phức tạp này mà vẫn chưa gặp nổi dù chỉ cái bóng của một cuộc phiêu lưu.
“Rồi sẽ đến lúc thôi,” anh tự nhủ. “Mình vẫn là kẻ lạ và có lẽ trông cũng còn lạ lẫm ở đây. Nhưng chắc chắn sớm thôi mình sẽ bị cuốn vào dòng xoáy.”
Đêm đã khuya; một trận mưa lạnh đột ngột đổ xuống từ vòm tối. Brackenbury dừng dưới một hàng cây và vừa lúc ấy, anh bắt gặp một người đánh xe mui kín ra hiệu đang rảnh khách. Thật đúng lúc, anh liền giơ gậy đáp lại và chẳng mấy chốc đã yên vị trong chiếc thuyền gondola kiểu London.
“Đi đâu, thưa ngài?” người đánh xe hỏi.
“Đâu cũng được,” Brackenbury đáp.
Và lập tức chiếc xe mui kín phóng đi với tốc độ sửng sốt, lao qua cơn mưa vào một mê cung những khu biệt thự. Biệt thự nào cũng giống biệt thự nào, mỗi căn đều có vườn đằng trước; các con phố, các dãy nhà hình lưỡi liềm vắng vẻ dưới ánh đèn đường cũng na ná nhau, đến mức Brackenbury sớm mất hết cảm giác về phương hướng.
Anh đã có lúc muốn tin rằng gã đánh xe chỉ đang đùa giỡn - chở mình chạy vòng vòng trong một khu phố nhỏ, ra vào ngõ này ngõ nọ, nhưng tốc độ mau lẹ, dứt khoát của cỗ xe lại mang dáng dấp của một việc làm nghiêm túc, khiến anh phải gạt bỏ ý nghĩ. Người kia hẳn có mục đích rõ ràng và đang vội vã hướng đến một nơi nào; Brackenbury vừa kinh ngạc trước khả năng đưa xe thành thạo qua mê trận, vừa bắt đầu thấy bất an khi nghĩ xem điều gì có thể khiến hắn gấp như vậy. Anh từng nghe chuyện người lạ đột ngột ngã bệnh ở London. Liệu gã đánh xe này có phải là thành viên của một hội kín máu lạnh nào đó? Và có phải anh đang được âm thầm đưa đến chỗ chết không?
Ý nghĩ ấy vừa thoáng hiện thì chiếc xe bất ngờ rẽ gấp qua một khúc cua và dừng lại trước cổng vườn một căn biệt thự nằm trên một con đường rộng và dài. Căn nhà rực ánh đèn. Một xe mui kín khác vừa rời khỏi, và Brackenbury có thể thấy một quý ông đang được vài người hầu đồng phục chỉnh tề đón vào cửa chính. Anh lấy làm lạ khi gã đánh xe dừng ngay trước một căn nhà rõ ràng đang tổ chức tiếp khách, nhưng anh cho rằng đó chỉ là trùng hợp và tiếp tục ngồi yên, thong thả hút thuốc, cho đến khi nghe tiếng cửa sập mở phía trên đầu mình.
“Đến nơi rồi, thưa ngài,” gã đánh xe nói.
“Đến rồi?” Brackenbury lặp lại. “Đến đâu cơ?”
“Ngài bảo tôi đưa đến chỗ nào tôi muốn, thưa ngài,” người kia cười khẽ, “và giờ thì đến nơi rồi đấy.”
Brackenbury chợt để ý rằng giọng nói ấy dịu dàng và lịch sự lạ lùng so với một người ở vị trí thấp kém như vậy; anh nhớ lại tốc độ phi thường của chiếc xe và nhận ra nó được trang bị sang trọng hơn hẳn một phương tiện công cộng thông thường.
“Tôi e rằng tôi phải yêu cầu anh giải thích,” anh nói. “Anh định thả tôi xuống giữa trời mưa đấy à? Này anh bạn, tôi cho rằng quyền chọn lựa là của tôi.”
“Dĩ nhiên là của ngài,” gã đánh xe đáp, “nhưng khi nghe tôi nói hết, tôi tin rằng một quý ông như ngài sẽ biết phải quyết định ra sao. Trong ngôi nhà này đang có một buổi tiệc dành cho các quý ông. Tôi không rõ chủ nhà là người mới đến London, không có bạn bè người quen, hay chỉ đơn giản là một tính tình cổ quái. Tôi đã được thuê ‘bắt cóc’ các quý ông mặc lễ phục buổi tối đi một mình - càng nhiều càng tốt, nhưng ưu tiên sĩ quan quân đội. Ngài chỉ cần bước vào và nói rằng Mr. Morris đã mời ngài.”
“Anh là Mr. Morris à?” Trung úy hỏi.
“Ồ không,” gã đánh xe đáp. “Mr. Morris là chủ ngôi nhà này.”
“Cách mời khách không thông thường cho lắm,” Brackenbury nói, “nhưng một người lập dị có thể hoàn toàn chiều theo ý thích mà chẳng có ý xúc phạm ai. Thế nếu tôi từ chối lời mời của Mr. Morris thì sao?” anh tiếp.
“Lệnh được cho tôi là đưa ngài trở lại đúng nơi tôi đón ngài,” người kia đáp, “rồi tiếp tục đi tìm người khác cho đến nửa đêm. Mr. Morris bảo rằng ai không hứng thú với kiểu phiêu lưu như vậy thì không phải là khách của ông ta.”
Những lời đó khiến Trung úy quyết định ngay lập tức.
“Suy cho cùng,” anh nghĩ khi bước xuống xe, “mình đâu có phải đợi lâu mới gặp được phiêu lưu.”
Anh còn chưa kịp đứng vững trên lề đường, tay vẫn đang lục túi tìm tiền trả, thì chiếc xe đã quay ngoắt lao đi, với tốc độ kinh người như trước. Brackenbury gọi với theo gã đánh xe nhưng hắn chẳng hề ngoái lại; tuy nhiên, tiếng gọi của anh đã vọng tới người trong nhà. Cửa lại mở, ánh sáng tràn ra vườn, và một người hầu chạy xuống đón, tay cầm ô.
“Người đánh xe đã được trả tiền rồi, thưa ngài,” người hầu nói, giọng hết sức lễ độ, rồi dẫn anh đi theo lối mòn bước lên bậc tam cấp. Trong tiền sảnh, vài người hầu khác đón lấy mũ, gậy và áo choàng của ông, đưa cho anh một tấm thẻ đánh số rồi niềm nở giục anh bước lên cầu thang viền hoa nhiệt đới rực rỡ hai bên, đến cửa một căn phòng ở tầng một. Tại đây, một quản gia nghiêm trang hỏi tên ông, và sau khi xướng to: “Trung úy Brackenbury Rich,” liền mở cửa mời anh bước vào phòng khách chính của ngôi nhà.
Một người đàn ông trẻ tuổi, dáng mảnh khảnh và đặc biệt tuấn tú, bước đến chào, phong thái vừa lịch thiệp vừa thân mật. Hàng trăm cây nến hạng nhất thắp sáng căn phòng, hương quyện với mùi hoa quý. Một bàn phụ bày các món ăn hấp dẫn. Vài người hầu đi lại, bưng khay trái cây và sâm banh. Phòng có chừng mười sáu người, tất cả đều là đàn ông, phần lớn còn ở tuổi sung sức, nhìn chung phong nhã và từng trải. Họ chia thành hai nhóm, một nhóm vây quanh bàn cò quay, nhóm còn lại quanh bàn baccarat, nơi một người đang làm cái.
“Ra vậy,” Brackenbury nghĩ, “đây là một sòng bạc tư nhân, còn gã đánh xe là môi giới.”
Ánh mắt anh lướt qua mọi chi tiết trong khi chủ nhà vẫn đang nắm tay ông. Và khi nhìn gương mặt ấy lần thứ hai, anh càng khó hiểu. Sự tao nhã tự nhiên trong phong thái, vẻ chính trực và cương nghị hiện rõ trên gương mặt - tất cả những điều ấy hoàn toàn không hợp với hình dung của Trung úy về một tay chủ sòng. Giọng chuyện của anh lại càng khiến người ta tin rằng đây là một người có địa vị và phẩm hạnh. Brackenbury thấy mình có cảm tình ngay tức khắc, và dù tự trách mình yếu lòng, anh vẫn không thể cưỡng lại sự thu hút của Mr. Morris.
“Tôi đã nghe nói về ngài, Trung úy Rich,” Mr. Morris hạ giọng nói, “và xin tin rằng tôi rất vinh dự được làm quen với ngài. Diện mạo của ngài hoàn toàn xứng với danh tiếng đã lan đến từ Ấn Độ. Và nếu ngài có thể tạm quên đi sự lắt léo trong cách mình được giới thiệu vào nhà này thì tôi sẽ xem đó không chỉ là vinh dự mà còn là niềm vui thực sự.” Anh mỉm cười rồi thêm: “Một người có thể nuốt chửng những kỵ sĩ man rợ thì hẳn không nên quá bối rối trước một chút sai lệch nghi thức, dù là sai lệch nghiêm trọng đến đâu.”
Rồi anh đưa Brackenbury lại gần bàn phụ và mời dùng chút đồ ăn thức uống.
“Thật lòng mà nói,” Trung úy nghĩ thầm, “đây là một trong những người dễ chịu nhất mình từng gặp, và hẳn đây cũng là một trong những hội nhóm thú vị nhất London.”
Anh nhấp một chút sâm banh, thấy chất rượu thật tuyệt, rồi nhận thấy nhiều người trong phòng đã bắt đầu hút thuốc, anh cũng châm một điếu xì gà Manilla, thong thả bước lại phía bàn cò quay, khi thì đặt một ván, khi thì chỉ đứng xem và mỉm cười trước vận may của người khác. Trong lúc đang lơ đãng như thế, anh dần nhận ra một sự dò xét sắc bén đang bao trùm lên tất cả các khách trong phòng. Mr. Morris đi từ chỗ này sang chỗ khác, bề ngoài bận rộn tiếp đãi nhưng không để một ai trong buổi tiệc thoát khỏi ánh mắt thăm dò. Anh quan sát cách những người thua đậm giữ thái độ, ghi nhận giá trị các ván cược, dừng lại sau lưng những cặp đang trò chuyện kín đáo; tóm lại, dường như không một nét nào của bất kỳ ai trong phòng lọt khỏi sự đánh giá của anh. Brackenbury bắt đầu tự hỏi liệu đây có thực sự là một sòng bạc trá hình hay không: không khí nơi này mang dáng dấp của một cuộc thẩm tra kín đáo hơn là tụ hội bình thường. Anh dõi theo mọi động tác của Mr. Morris, và dù người kia luôn giữ nụ cười trên môi, anh vẫn nhận thấy, như thể ẩn sau một chiếc mặt nạ, một tinh thần mệt mỏi, u uẩn, không nguôi vướng bận. Xung quanh anh người ta vẫn cười nói và bài bạc nhưng Brackenbury đã mất hết hứng thú với những khách còn lại.
“Gã Morris này,” anh nghĩ, “không phải hạng vô công rồi nghề. Có một mục đích sâu xa nào đang thôi thúc hắn; vậy hãy để ta dò đến cùng xem.”
Thỉnh thoảng Mr. Morris lại gọi một vị khách ra, và sau một cuộc đối thoại ngắn trong phòng chờ, anh quay lại một mình, còn vị khách thì không thấy nữa. Sau nhiều lần chứng kiến cảnh ấy, Brackenbury tò mò hết sức. Anh quyết định phải làm sáng tỏ điều bí ẩn, và khi vào phòng chờ, phát hiện một hốc cửa sổ sâu che rèm xanh thời thượng, anh vội chui vào đó ẩn mình. Chẳng phải đợi lâu, tiếng bước chân và trò chuyện từ phòng chính đã tiến gần. Nhìn xuyên qua tấm màn ngăn, anh thấy Mr. Morris đang đưa một người đàn ông mập mạp, mặt đỏ au, có nét gì đó giống một tay buôn rong - kẻ mà Brackenbury đã để ý vì tiếng cười thô lỗ và lối cư xử kém giáo dưỡng. Hai người dừng lại ngay trước cửa sổ, và Brackenbury không bỏ sót lời nào trong đoạn đối thoại sau:
“Tôi xin ngàn lần thứ lỗi!” Mr. Morris bắt đầu, vô cùng hoà nhã. “Và nếu tôi có vẻ thất lễ, tôi tin chắc ngài sẽ bỏ qua. Ở một nơi rộng lớn như London, chuyện nhầm lẫn là khó tránh; điều tốt nhất ta có thể làm là sửa chữa chúng càng nhanh càng tốt. Chẳng giấu gì ngài, tôi e rằng ngài đã nhầm và đã vô tình ban vinh dự cho ngôi nhà nhỏ bé của tôi bởi, nói thẳng ra, tôi hoàn toàn không thể nhớ nổi dung mạo ngài. Cho phép tôi đặt câu hỏi này mà không vòng vo không cần thiết - giữa những quý ông danh dự, chỉ một lời là đủ - ngài nghĩ mình đang đứng dưới mái nhà của ai?”
“Của Mr. Morris,” người kia đáp, mặt đỏ gay vì bối rối - sự bối rối mỗi lúc một tăng.
“John hay James Morris?” chủ nhà hỏi.
“Tôi thật sự không thể nói được,” vị khách bất hạnh đáp. “Tôi không quen biết ông ấy - cũng như không quen biết ông.”
“Tôi hiểu rồi,” Mr. Morris nói. “Ở cuối phố này có một người trùng tên; tôi tin rằng viên cảnh sát sẽ giúp ngài tìm được số nhà. Xin hãy tin rằng tôi xem chuyện hiểu lầm này như một dịp may có hân hạnh trò chuyện cùng ngài và cho phép tôi hy vọng rằng chúng ta sẽ có dịp gặp lại nhau trong hoàn cảnh chỉnh tề và đúng mực hơn. Còn bây giờ, tôi không dám giữ ngài thêm một giây nào, kẻo làm ngài chậm trễ với bạn.” “John,” anh gọi lớn, “tìm giúp áo khoác cho quý ông đây.”
Hết sức niềm nở, Mr. Morris tiễn khách đến tận cửa phòng chờ rồi giao lại cho quản gia. Khi quay về phòng khách, ngang qua cửa sổ, Brackenbury nghe anh ta buông một tiếng thở dài nặng nề, như thể đang có điều lo phiền và thần kinh đã mỏi vì nhiệm vụ phải cáng đáng.
Trong một tiếng đồng hồ sau, những chiếc xe mui kín vẫn tiếp tục ghé vào đều đặn, chừng cứ mỗi khách được tiễn đi thì lại có một người được đón vào, giữ cho số người trong phòng không suy suyển. Nhưng về sau, dòng khách ngớt dần rồi dứt hẳn, trong khi quá trình loại bỏ vẫn tiếp tục không lơi. Căn phòng bắt đầu thưa vắng; trò chơi phải dừng lại vì không còn ai làm cái; có người tự ý cáo từ và được để cho đi không một lời giữ chân, còn Mr. Morris thì càng thêm ân cần với những người ở lại. Anh đi từ nhóm này sang nhóm khác, người này sang người khác với ánh mắt cảm thông và lời lẽ khéo léo. Anh không còn giống một ông chủ nhà mà giống một bà chủ duyên dáng; trong cung cách của anh có nét nũng nịu nữ tính khiến ai cũng xiêu lòng. Khi khách đã vãn hẳn, Trung úy Rich rảo bước ra khỏi phòng khách, tìm chút không khí trong lành nơi tiền sảnh. Nhưng vừa bước qua ngưỡng cửa phòng chờ, anh lập tức khựng lại - trước mắt anh là một cảnh tượng quái đản. Những chậu hoa cảnh dọc cầu thang đã biến mất; ba chiếc xe vận chuyển đồ đạc lớn đậu ngay trước cổng vườn; gia nhân đang tháo dỡ khắp nơi trong nhà; vài người trong số họ đã mặc áo khoác dày, sẵn sàng đi. Tất cả gợi ra đoạn cuối một buổi dạ vũ nông thôn, nơi mọi thứ đều được cung cấp theo hợp đồng. Brackenbury có nhiều điều để băn khoăn. Trước tiên là khách - mà rốt cuộc cũng chẳng phải khách mời thực sự - bị cho về; giờ đến lượt gia nhân - mà chắc gì đã là gia nhân thật.
“Phải chăng toàn bộ cơ ngơi này là đồ giả?” anh tự hỏi. “Một thứ nấm mọc trong đêm rồi tan biến trước bình minh?”
Chờ đúng thời điểm, Brackenbury lao lên những tầng cao nhất của ngôi nhà. Mọi thứ đúng như anh đoán. Anh chạy từ phòng này sang phòng khác, hoàn toàn không thấy một món nội thất nào, đến cả một bức tranh trên tường cũng không. Dù ngôi nhà đã được sơn sửa và dán giấy, nó không chỉ đang bỏ trống mà còn rõ ràng chưa từng có người ở. Chàng sĩ quan trẻ không khỏi ngạc nhiên nhớ lại vẻ ổn định, ấm cúng và hiếu khách đã đánh lừa mình lúc vừa đặt chân tới. Phải tiêu tốn một khoản khổng lồ để dàn dựng với quy mô như vậy.
Vậy Mr. Morris là ai? Mục đích của anh ta khi đóng vai chủ nhà một đêm ở vùng ngoại ô xa xôi của London là gì? Và tại sao lại đi gom khách vãng lai từ ngoài phố tới?
Brackenbury chợt nhớ ra rằng mình đã chậm trễ quá lâu, bèn vội vã quay lại nhập hội. Nhiều người đã đi trong lúc anh vắng mặt; phòng khách khi nãy còn chật kín người giờ chỉ còn năm, kể cả trung úy lẫn chủ nhà. Khi anh bước vào, Mr. Morris mỉm cười và lập tức đứng dậy.
“Thưa các quý ông,” anh nói, “giờ là lúc tôi phải nói rõ lý do vì sao tôi lại lừa các vị rời khỏi những vui thú khác. Tôi mong các vị không thấy buổi tối quá chán chường, nhưng tôi xin thú nhận, mục đích của tôi không phải là giải trí cho các vị, mà là nhằm tìm lối thoát cho một tình thế éo le của bản thân tôi. Các vị đều là quý ông,” ông tiếp tục, “dáng vẻ của các vị đủ chứng minh điều đó và tôi không cần gì hơn để tin tưởng. Vậy nên tôi xin nói thẳng không giấu giếm: tôi muốn nhờ các vị thực hiện một việc vừa nguy hiểm vừa tế nhị; nguy hiểm vì các vị có thể phải đánh đổi cả mạng sống, và tế nhị vì tôi cần sự kín đáo tuyệt đối về mọi điều các vị sẽ thấy hoặc nghe. Một lời thỉnh cầu như thế từ một kẻ hoàn toàn xa lạ thật gần như lố bịch, tôi hiểu rõ điều đó; và tôi cũng xin nói ngay rằng, nếu có ai trong các vị cảm thấy chừng ấy là đủ rồi, nếu có ai trong số các vị rùng mình trước một sự tin cậy đầy hiểm nguy và một hành động hiệp sĩ dành cho một người mà mình hoàn toàn không quen biết - thì đây, tôi sẵn sàng chìa tay chúc người ấy một buổi tối tốt lành và thượng lộ bình an, với tất cả sự chân thành.”
Một người đàn ông da đen rất cao, lưng gù nặng nề, lập tức hưởng ứng lời mời.
“Tôi đánh giá cao sự thẳng thắn của ngài,” ông ta nói. “Về phần tôi, tôi xin rút lui. Tôi không đưa ra phán xét nào; nhưng tôi không thể phủ nhận rằng ngài khiến tôi nảy sinh nhiều nghi ngại. Tôi đi, như tôi đã nói; và có lẽ ngài sẽ cho rằng tôi không có quyền nói thêm lời nào sau hành động ấy.”
“Trái lại,” Mr. Morris đáp, “tôi rất cảm kích những gì ngài vừa nói. Không thể phóng đại mức độ nghiêm trọng của đề nghị này.”
“Thế còn các quý ông, các vị nghĩ sao?” người đàn ông cao lớn quay sang những người còn lại. “Chúng ta đã vui chơi một tối, chi bằng cùng nhau yên ổn trở về nhà? Sáng mai, khi các vị được nhìn thấy mặt trời trong sự vô tội và an toàn, hẳn các vị sẽ thấy lời tôi là phải.”
Những lời cuối của ông ta được nói ra với một giọng khiến ý nghĩa của chúng càng thêm rõ; và vẻ mặt ông lúc ấy cũng mang một nét kỳ dị, nghiêm trọng, đầy ẩn ý. Một người khác trong nhóm vội vã đứng dậy, có phần hoảng hốt, chuẩn bị cáo từ. Chỉ còn hai người ngồi nguyên: Brackenbury và một thiếu tá kỵ binh già, mũi đỏ như rượu. Nhưng hai người này vẫn giữ vẻ dửng dưng, và ngoài cái liếc mắt nhanh đầy thông hiểu trao cho nhau, họ dường như hoàn toàn đứng ngoài những đối thoại vừa rồi.
Mr. Morris tiễn những người rút lui ra tận cửa rồi khép cánh cửa lại ngay sau gót họ. Khi quay lại, gương mặt anh nhẹ nhõm và hào hứng; anh hướng về hai sĩ quan mà nói:
“Tôi đã chọn người như Joshua trong Kinh Thánh, và giờ tôi tin rằng mình đã chọn được những người xuất sắc nhất London. Dáng vẻ của các vị đã làm những phu xe của tôi hài lòng, rồi khiến chính tôi thích thú. Tôi đã quan sát cách các vị cư xử giữa một nhóm người lạ, trong hoàn cảnh kỳ dị nhất đời: tôi đã để ý cách các vị chơi, cách các vị chấp nhận thua. Cuối cùng, tôi đã thử các vị bằng một lời tuyên bố choáng váng, và các vị tiếp nhận nó cứ như một lời mời ăn tối. Không phải ngẫu nhiên,” anh kêu lên, “mà suốt bao năm tôi là bạn đồng hành và học trò của vị quân chủ can đảm và sáng suốt nhất châu Âu.”
“Tại trận Bunderchang,” Thiếu tá nhận xét, “tôi từng gọi mười hai người xung phong, và toàn bộ lính trong hàng ngũ đều hưởng ứng. Nhưng một cuộc chơi bài thì không giống một trung đoàn giữa làn đạn. Anh hẳn hài lòng khi tìm được hai người, mà là hai người sẽ không bỏ mặc anh khi nguy cấp. Còn hai kẻ bỏ chạy kia, tôi xem chúng là những con chó hèn nhất mà tôi từng gặp. Trung úy Rich,” ông quay sang Brackenbury, “gần đây tôi nghe nhiều về anh, và tôi chắc anh đã từng nghe đến tôi. Tôi là Thiếu tá O’Rooke.”
Lão binh chìa bàn tay đỏ au run rẩy về phía chàng trung úy trẻ.
“Có ai chưa từng nghe danh ông,” Brackenbury đáp.
“Khi chuyện nhỏ này kết thúc,” Mr. Morris nói, “anh sẽ thấy tôi đã đền đáp anh xứng đáng; vì không món quà nào quý cho bằng việc giúp hai người như hai vị đây được biết nhau.”
“Thế chuyện này,” Thiếu tá O’Rooke nói, “là một vụ đấu tay đôi chăng?”
“Một cuộc đấu tay đôi, theo một nghĩa nào đó,” Mr. Morris đáp, “một cuộc đấu với những kẻ thù vô danh và nguy hiểm, và tôi nghiêm túc sợ là một cuộc đấu sinh tử. Tôi phải xin các vị,” anh nói tiếp, “đừng gọi tôi là Morris nữa; nếu được, hãy gọi tôi là Hammersmith; đó là cái tên tôi sẽ dùng từ giờ. Tên thật của tôi, cũng như tên thật của một người khác mà tôi hy vọng sẽ sớm giới thiệu với các vị, tôi mong các vị đừng hỏi và cũng đừng tìm cách tự tìm hiểu.. Ba ngày trước, người ấy đã đột nhiên biến mất khỏi nhà; mãi sáng nay tôi mới nhận được chút manh mối về tình cảnh của anh ta. Các vị có thể tưởng tượng nỗi kinh hoàng của tôi khi biết rằng anh ta đang dấn mình vào một hành động liều lĩnh. Bị ràng buộc bởi một lời thề khốn khổ, thề quá vội vàng, anh ta buộc phải tự tay loại khỏi thế gian một kẻ nham hiểm và khát máu mà không có sự trợ giúp nào từ pháp luật. Đã có hai người trong số chúng tôi - một trong đó là em ruột tôi - hy sinh trong hành trình ấy. Chính anh ta, nếu tôi không nhầm, cũng đã sa vào cái bẫy chết người. Nhưng ít ra anh ta vẫn còn sống và còn hy vọng, như mảnh giấy này cho thấy.”
Người đang nói - không ai khác chính là Đại tá Geraldine - đưa ra một bức thư, nội dung như sau:
“Thiếu tá Hammersmith,
Vào thứ Tư, lúc ba giờ sáng, ông sẽ được một người hoàn toàn trung thành với tôi đưa vào vườn Rochester House, ở Regent’s Park, qua một cánh cửa nhỏ. Tôi mong ông đừng trễ dù chỉ một giây. Làm ơn mang theo hộp kiếm của tôi, và, nếu có thể, một hoặc hai quý ông cư xử chừng mực và kín đáo, những người chưa từng biết mặt tôi. Tuyệt đối không được nhắc đến tên tôi trong chuyện này.
T. Godall.”
“Chỉ riêng trí tuệ của anh ấy thôi, nếu không có bất cứ danh nghĩa nào khác,” Đại tá Geraldine tiếp tục sau khi mọi người đã đọc xong, “cũng đủ khiến người ta phải tuyệt đối tuân theo chỉ dẫn của anh ấy. Tôi hẳn không cần nói thêm rằng tôi còn chưa từng đến khu Rochester House và hoàn toàn mù mờ, y như các anh, về bản chất của rắc rối mà bạn tôi đang gặp phải. Ngay khi nhận được chỉ thị này, tôi liền tìm đến một nhà cung cấp dịch vụ tổ chức tiệc và chỉ trong vài giờ, ngôi nhà chúng ta đang ngồi đây đã mang dáng vẻ của một buổi hội hè như các anh đã thấy. Kế hoạch của tôi ít nhất cũng phải tính là độc đáo, và tôi không hề hối tiếc về hành động đã mang lại cho tôi sự cộng tác của Thiếu tá O’Rooke và Trung úy Brackenbury Rich. Bọn người hầu ngoài phố sắp có một phen sững sờ. Ngôi nhà tối nay còn sáng rực và tấp nập khách ra vào, sáng mai sẽ hiện ra trống trơn và đang rao bán. Thế đấy, ngay cả những việc nghiêm trọng nhất,” Đại tá nói thêm, “cũng có mặt khôi hài của nó.”
“Và ta hãy để chuyện này có một cái kết vui,” Brackenbury nói.
Đại tá nhìn đồng hồ.
“Gần hai giờ sáng rồi,” anh nói. “Chúng ta còn một tiếng. Một cỗ xe đang chờ sẵn ngoài cửa. Hãy cho tôi biết, liệu tôi có thể trông cậy vào các vị không?”
“Cả đời,” Thiếu tá O’Rooke đáp, “tôi chưa bao giờ rút tay khỏi bất cứ việc gì, cũng chưa từng dè dặt khi đặt cược.”
Brackenbury cũng bày tỏ sẵn sàng với những lời chừng mực; và sau khi ba người cụng ly, Đại tá trao cho mỗi người một khẩu súng ngắn đã lên đạn, rồi họ bước lên xe thẳng tiến đến địa chỉ đã hẹn.
Rochester House là một dinh thự lộng lẫy nằm ven kênh. Khu vườn rộng đến mức nó gần như tách hẳn mọi phiền nhiễu từ hàng xóm xung quanh. Nó trông như parc aux cerfs[1] của một đại quý tộc hay một triệu phú khét tiếng. Nhìn từ ngoài phố, không một tia sáng nào lọt ra từ hàng hàng lớp lớp cửa sổ tòa nhà; nơi này hoang lạnh như thể chủ nhân đã vắng mặt từ lâu.
Xe được cho về, và ba quý ông nhanh chóng tìm được cánh cửa nhỏ - một loại cửa hậu - kẹp giữa hai bức tường vườn. Vẫn còn mười lăm phút nữa mới đến giờ; mưa đổ nặng hạt, và ba kẻ mạo hiểm rúc vào dưới tán thường xuân rủ xuống để tránh mưa, thì thầm với nhau về thử thách sắp tới.
Đột nhiên Geraldine giơ ngón tay ra hiệu im lặng, và cả ba căng tai nghe. Giữa tiếng mưa dồn dập, họ bắt đầu thấy rõ tiếng bước chân và chuyện trò của hai người đàn ông vọng ra từ bên kia bức tường; và khi họ tiến lại gần hơn, Brackenbury - vốn đặc biệt thính tai - còn có thể bắt được một vài đối thoại.
“Hố đào xong chưa?” một người hỏi.
“Rồi,” người kia đáp. “Sau hàng nguyệt quế. Khi xong việc, ta có thể phủ một đống cọc gỗ lên.”
Người thứ nhất bật cười - tiếng cười khiến ba người đang lắng nghe rùng mình kinh hãi.
“Chỉ một tiếng nữa thôi,” hắn nói.
Qua tiếng bước chân, có thể đoán được hai người đã tách ra, mỗi kẻ đi một hướng.
Ngay sau đó, cánh cửa hậu hé mở thận trọng, một khuôn mặt trắng bệch ló ra và một bàn tay ra hiệu cho ba người đang đợi. Không nói một lời, họ lặng lẽ lách qua cửa, cánh cửa lập tức được khóa lại sau lưng họ, và cả ba theo chân người dẫn đường qua nhiều lối nhỏ trong vườn cho đến khi đến cửa bếp căn nhà. Gian bếp lát đá rộng lớn chỉ leo lét một ngọn nến không có lấy một món nội thất thông thường, và khi cả nhóm bắt đầu leo lên cầu thang xoắn, những hồi âm ồn ào của lũ chuột càng cho thấy rõ tình trạng đổ nát.
Người dẫn đường đi trước, tay cầm nến. Đó là một người gầy gò, lưng còng nhưng vẫn nhanh nhẹn; thỉnh thoảng ông quay lại, ra hiệu giữ im lặng và cẩn trọng bằng những động tác tay dứt khoát. Đại tá Geraldine theo sát gót, hộp kiếm kẹp dưới một tay, tay kia cầm sẵn súng. Tim Brackenbury đập dồn. Anh cảm nhận rõ họ vẫn kịp giờ, nhưng qua sự nhanh nhẹn của ông già dẫn đường, anh đoán thời khắc hành động đã kề cận. Hoàn cảnh của cuộc phiêu lưu này mờ ám và đe dọa đến thế, nơi chốn lại quá thuận lợi cho những hành vi đen tối, và một người già dặn hơn Brackenbury cũng có thể được tha thứ nếu không giấu nổi chút xúc động khi khép lại đoàn người đang lầm lũi trên cầu thang xoắn.
Lên đến tầng trên, người dẫn đường mở toang một cánh cửa và mời ba sĩ quan bước vào một căn phòng nhỏ được chiếu sáng bằng một ngọn đèn khói và ánh lửa âm ỉ từ lò sưởi. Ở góc lò sưởi ngồi một người đàn ông đang ở độ sung mãn đầu đời, thân hình vạm vỡ mà phong thái lại uy nghiêm, lịch lãm. Tư thế và nét mặt anh hoàn toàn điềm nhiên; anh đang thưởng thức một điếu xì gà cheroot với vẻ khoan thai đầy khoái cảm, và trên chiếc bàn cạnh khuỷu tay anh là một ly dài đựng thứ đồ uống sủi bọt, tỏa mùi hương dễ chịu khắp phòng.
“Chào mừng các vị,” anh nói, đưa tay bắt tay Đại tá Geraldine. “Tôi biết tôi có thể trông cậy vào sự chuẩn xác của anh.”
“Vào sự tận tâm của tôi,” Đại tá cúi đầu đáp.
“Xin giới thiệu các bằng hữu của anh với tôi,” người kia tiếp tục; và khi nghi thức ấy đã xong, ngài nói thêm, với một vẻ lịch thiệp tuyệt đỉnh:
“Tôi ước gì có thể dành cho các vị một chương trình vui vẻ hơn; khởi đầu một mối quen biết bằng những việc nghiêm trọng quả là không mấy dễ chịu; nhưng sự cưỡng bách của hoàn cảnh mạnh hơn mọi quy tắc xã giao. Tôi hy vọng và tin rằng các vị sẽ tha thứ cho buổi tối chẳng mấy vui vẻ này; và với những người như các vị, chỉ cần biết rằng mình đang ban một ân huệ lớn lao là đủ.”
“Điện hạ,” Thiếu tá lên tiếng, “hãy thứ lỗi cho sự thẳng thắn của tôi. Tôi không giỏi che giấu điều mình đã nhận ra. Từ trước tôi đã có phỏng đoán về Thiếu tá Hammersmith, còn Mr. Godall thì không thể lẫn đi đâu được. Muốn tìm ở London hai người không biết đến Hoàng tử Florizel xứ Bohemia thì đúng là kỳ vọng hơi quá vào vận may.”
“Hoàng tử Florizel!” Brackenbury thốt lên kinh ngạc, chăm chú nhìn khuôn mặt nhân vật lừng danh đang đứng trước mình.
“Tôi sẽ không than tiếc chuyện để lộ danh tính mình,” Hoàng tử điềm đạm nói, “vì điều đó cho phép tôi cảm ơn các vị chính danh hơn. Tôi tin chắc điều gì các vị làm cho Hoàng tử Bohemia, các vị cũng sẽ làm cho Mr. Godall, nhưng có lẽ Hoàng tử có thể đền đáp các vị nhiều hơn. Vậy thì ở đây tôi là người được lợi,” ngài thêm vào với một cử chỉ nhã nhặn
Và ngay sau đó, Hoàng tử trò chuyện với hai sĩ quan về quân đội Ấn Độ và các đạo quân bản xứ - một đề tài mà, cũng như mọi đề tài khác, ngài chứng tỏ một hiểu biết phong phú và những quan điểm vững vàng.
Có điều gì đó thật ấn tượng trong phong thái của con người này ngay giữa thời khắc hiểm nghèo, khiến Brackenbury không khỏi trào dâng kính phục. Anh cũng không thể không bị cuốn hút bởi sự hấp dẫn trong câu chuyện và từng lời nói, cử chỉ. Mỗi động tác, mỗi ngữ điệu của ngài không những tự thân cao quý mà dường như còn làm cho người được ngài hướng đến trở nên cao quý hơn. Và Brackenbury, với tất cả nhiệt thành, thầm thừa nhận với mình rằng đây là một bậc quân vương mà một người dũng cảm có thể cam lòng hy sinh tính mạng.
Nhiều phút trôi qua như thế. Bỗng người đã đưa họ vào nhà - nãy giờ vẫn lặng lẽ ngồi một góc, đồng hồ luôn trong tay - đứng dậy và thì thầm một câu vào tai Hoàng tử.
“Rất tốt, bác sĩ Noel,” Florizel đáp lớn. Rồi quay sang những người còn lại, ngài nói:
“Xin thứ lỗi cho tôi, các quý ông, nếu tôi phải để các vị ngồi trong bóng tối. Giờ đã gần kề.”
Bác sĩ Noel liền thổi tắt ngọn đèn. Một ánh sáng nhợt nhạt, xám xịt báo hiệu rạng đông bắt đầu le lói qua cửa sổ nhưng không đủ để soi rõ căn phòng; và khi Hoàng tử đứng dậy, chẳng ai có thể nhìn rõ nét mặt ngài hay đoán được cảm xúc gì đang xâm chiếm lấy ngài lúc ấy. Ngài bước về phía cửa và đứng nép sang bên, trong tư thế vô cùng cảnh giác.
“Xin các vị giữ im lặng tuyệt đối,” Hoàng tử nói, “và ẩn mình vào nơi bóng tối dày nhất.”
Ba sĩ quan cùng bác sĩ vội vã làm theo, và suốt gần mười phút sau, âm thanh duy nhất trong Rochester House chỉ là tiếng chuột chạy loạn phía sau các tấm ván gỗ. Cuối khoảng ấy, một tiếng bản lề rít lên giữa yên lặng nghẹt thở, và chẳng bao lâu, những người phục kích có thể nhận ra tiếng bước chân chậm chạp, dè dặt đang tiến lên cầu thang nhà bếp. Cứ mỗi hai bậc, kẻ lạ lại dừng lại lắng nghe, và trong những khoảnh ngắt như kéo dài vô tận ấy, nỗi bất an sâu thẳm bao trùm tinh thần những người đang rình chờ. Dù vốn quen với hiểm nguy, bác sĩ Noel cũng lâm vào một trạng thái suy kiệt gần như tội nghiệp: hơi thở rít lên trong ngực, răng nghiến vào nhau, các khớp xương phát ra những tiếng kêu răng rắc khi ông không ngừng đổi tư thế.
Cuối cùng, một bàn tay đặt lên cánh cửa, chốt bật ra kêu tách. Lại thêm một khoảng ngưng lặng nữa, Brackenbury kịp thấy Hoàng tử khẽ thu mình, lặng lẽ như để chuẩn bị cho một hành động phi thường. Rồi cánh cửa mở ra, ánh rạng đông len thêm vào phòng, và một bóng người hiện rõ, đứng bất động nơi ngưỡng cửa. Hắn cao lớn, tay cầm một con dao. Dù ánh sáng nhợt nhạt, họ vẫn có thể nhìn thấy rõ hàm răng trên trắng toát lấp loáng, vì miệng hắn há ra như một con chó săn chuẩn bị nhảy vồ. Rõ ràng hắn vừa lội qua nước - chắc chỉ một hai phút trước thôi - những giọt nước vẫn rỏ đều từ quần áo ướt sũng xuống nền nhà.
Ngay khoảnh khắc tiếp theo, hắn bước qua ngưỡng cửa. Một cú nhảy, một tiếng kêu bị bóp nghẹt, một cuộc vật lộn chớp nhoáng - và trước khi Đại tá Geraldine kịp tới ứng cứu, Hoàng tử đã khống chế được kẻ ấy - tay không tấc sắt, hoàn toàn bất lực - bằng hai vai.
“Bác sĩ Noel,” ngài nói, “làm ơn thắp lại đèn.”
Sau khi giao tù nhân cho Geraldine và Brackenbury canh giữ, Hoàng tử bước ngang phòng, đứng tựa lưng vào lò sưởi. Khi đèn vừa được thắp sáng, mọi người đều nhận ra nét nghiêm khắc khác thường trên gương mặt ngài. Đó không còn là Florizel - quý ông ung dung khoáng đạt - mà là Hoàng tử xứ Bohemia, chính đáng phẫn nộ và quyết liệt chết chóc. Ngài ngẩng đầu lên nói với tù nhân - Chủ tịch Câu lạc bộ Tự sát.
“Chủ tịch,” ngài nói, “ông đã giăng cái bẫy cuối cùng của đời mình, và chính ông đã sa chân vào đó. Ngày mới đang bắt đầu - đây là buổi sáng cuối cùng của ông. Ông vừa bơi qua kênh Regent - đó là lần tắm táp cuối cùng trên cõi đời này. Đồng lõa cũ của ông, bác sĩ Noel, không những không phản bội tôi, mà còn giao ông vào tay tôi để chịu phán quyết. Và cái huyệt mà ông đã cho đào cho tôi chiều nay - theo sự an bài của Chúa Toàn Năng - sẽ là nơi che giấu số phận xứng đáng của ông khỏi ánh mắt tò mò của con người. Quỳ xuống mà cầu nguyện đi, nếu ông còn có lòng, vì thời gian chẳng còn bao nhiêu nữa, và Chúa đã mỏi mệt vì tội lỗi của ông rồi.”
Chủ tịch không phản ứng gì, dù bằng lời hay bằng cử chỉ; hắn cứ cúi đầu nhìn chằm chằm xuống sàn nhà, ủ rũ như thể biết rõ ánh mắt lạnh lùng không khoan nhượng của Hoàng tử vẫn đang chiếu thẳng mình.
“Thưa các quý ông,” Florizel tiếp tục, trở lại với giọng nói thường ngày, “kẻ này đã lẩn tránh tôi từ lâu, nhưng nhờ bác sĩ Noel, giờ tôi đã tóm được gót chân hắn. Kể hết tội ác của hắn ra e rằng sẽ mất nhiều thời gian hơn chúng ta có thể cho phép, nhưng nếu kênh Regent kia chỉ toàn máu các nạn nhân mà hắn từng sát hại thì tôi tin rằng hắn cũng chẳng ướt át hơn bây giờ là bao. Ngay cả trong một chuyện như thế này, tôi vẫn muốn giữ những nghi lễ danh dự. Tuy nhiên, tôi xin trao quyền phán xét cho các vị - vì đây giống một cuộc xử tử hơn là một cuộc đấu tay đôi; và để một tên như hắn được chọn vũ khí thì là đẩy sự lịch thiệp đến thành lố bịch. Tôi không thể liều mạng trong một chuyện như thế này,” ngài vừa nói vừa mở khóa hộp kiếm, “và vì đạn súng lục quá phụ thuộc vào may rủi - dù người tài trí và dũng cảm vẫn có thể ngã xuống bởi tay một kẻ run rẩy nhất - tôi đã quyết định, và tin rằng các vị sẽ đồng tình, rằng chúng ta nên phân định bằng gươm.”
Khi Brackenbury và Thiếu tá O’Rooke - đối tượng chủ yếu của những lời này - gật đầu tán thành, Hoàng tử quay sang Chủ tịch và nói:
“Nhanh lên, thưa ông, chọn lấy một thanh gươm và đừng để tôi phải chờ đợi; tôi nóng lòng muốn kết thúc chuyện này với ông - vĩnh viễn.”
Lần đầu tiên kể từ khi bị bắt và bị tước vũ khí, Chủ tịch ngẩng đầu lên và rõ ràng lập tức lấy lại dũng khí.
“Vậy là đấu thật à?” hắn hỏi, giọng hăm hở. “Chỉ giữa tôi và ngài thôi sao?”
“Ta muốn dành cho ông vinh dự ấy,” Hoàng tử đáp.
“Ồ, tốt lắm!” Chủ tịch kêu lên. “Chơi công bằng, ai biết chuyện gì sẽ xảy ra? Tôi phải nói thêm rằng tôi rất khâm phục cung cách hành xử của Điện hạ; và nếu điều tệ nhất có xảy ra, thì tôi cũng sẽ chết dưới lưỡi kiếm của một trong những quý ông can trường nhất châu Âu.”
Được thả ra khỏi tay những người đã giam giữ mình, Chủ tịch bước tới bàn, bắt đầu lựa kiếm với sự chăm chú tỉ mỉ. Hắn tỏ ra vô cùng phấn khích và dường như hoàn toàn tin tưởng rằng mình sẽ là kẻ chiến thắng. Các khán giả quan sát xung quanh bắt đầu lo lắng trước sự tự tin quá đỗi ấy và khẩn thiết đề nghị Hoàng tử Florizel cân nhắc lại quyết định của mình.
“Chỉ là một màn kịch thôi,” Hoàng tử đáp. “Và tôi nghĩ tôi có thể hứa với các quý ông rằng nó sẽ không kéo dài đâu.”
“Xin Điện hạ cẩn trọng, đừng để quá tay,” Đại tá Geraldine nói.
“Geraldine,” Hoàng tử đáp, “anh đã bao giờ thấy ta thất hứa trong một món nợ danh dự chưa? Ta mắc nợ anh cái chết của kẻ này - và anh sẽ nhận được nó.”
Cuối cùng, Chủ tịch đã chọn được một thanh kiếm vừa ý, và bằng một cử chỉ không thiếu khí khái, hắn ra hiệu rằng mình đã sẵn sàng. Sự cận kề của hiểm nguy và lòng can đảm - dù nơi một tên tội đồ như hắn - cũng tạo ra một hào quang nam tính và một thứ hấp dẫn kỳ lạ.
Hoàng tử chọn đại một thanh kiếm.
“Đại tá Geraldine và bác sĩ Noel,” ngài nói, “xin vui lòng chờ tôi trong phòng này. Tôi không muốn bất cứ người bạn thân nào của mình bị cuốn vào việc. Thiếu tá O’Rooke, ngài là người từng trải và có danh tiếng vững vàng - tôi xin gửi gắm Chủ tịch cho sự trông nom của ngài. Trung úy Rich, xin anh dành sự chú ý của mình cho tôi: một người trẻ tuổi không bao giờ có quá nhiều kinh nghiệm trong những chuyện như thế này.”
“Thưa Điện hạ,” Brackenbury đáp, “đó là vinh dự của tôi.”
“Tốt lắm,” Hoàng tử đáp. “Tôi hy vọng sẽ có dịp đứng cạnh anh trong những hoàn cảnh còn hệ trọng hơn.”
Nói rồi, ngài dẫn đường ra khỏi phòng, xuống cầu thang bếp.
Hai người còn lại - Đại tá và bác sĩ - mở toang cửa sổ, nghiêng người ra ngoài, căng mọi giác quan để bắt lấy bất kỳ dấu hiệu nào về thảm kịch sắp xảy ra. Mưa đã tạnh; trời gần sáng hẳn, tiếng chim ríu rít vang lên từ bụi cây và những hàng cổ thụ trong vườn. Hoàng tử cùng những người đi cùng thoáng hiện trong tầm mắt khi họ đi dọc một lối mòn kẹp giữa hai hàng cây trổ hoa; nhưng ngay ở khúc rẽ đầu tiên, một đám lá rậm đã che khuất họ, và họ biến mất. Đó là tất cả những gì mà Đại tá và bác sĩ có thể thấy. Khu vườn quá rộng, và nơi diễn ra cuộc đấu rõ ràng cách xa ngôi nhà đến nỗi ngay cả tiếng kiếm chạm nhau cũng không lọt đến tai họ.
“Ngài đã dẫn hắn về phía cái huyệt,” bác sĩ Noel rùng mình nói.
“Lạy Chúa,” Đại tá thốt lên, “Lạy Chúa, xin Người phù hộ cho lẽ phải!”
Họ ngồi chờ trong im lặng - bác sĩ run lên vì sợ, còn Đại tá thì mồ hôi túa ra như tắm. Nhiều phút đã trôi qua; trời sáng dần và lũ chim ngoài vườn hót vang hơn bao giờ hết; tiếng bước chân trở lại khiến cả hai lập tức ngoảnh về phía cửa. Hoàng tử và hai sĩ quan Ấn Độ bước vào. Chúa đã phù hộ cho lẽ phải.
“Tôi xấu hổ vì cảm xúc của mình,” Hoàng tử Florizel nói. “Tôi thấy đó là một sự yếu đuối không xứng đáng với địa vị tôi, nhưng sự tồn tại dai dẳng của con chó địa ngục ấy như một căn bệnh gặm mòn tôi và cái chết của hắn khiến tôi nhẹ nhõm hơn cả một đêm yên giấc. Nhìn xem, Geraldine,” ngài tiếp, ném thanh kiếm xuống sàn, “đây là máu của kẻ đã giết em trai anh. Cảnh này đáng ra phải mang lại niềm an ủi. Thế mà,” ngài lại nói, “anh xem con người ta kỳ lạ chừng nào! Cuộc trả thù chưa đầy năm phút mà tôi đã bắt đầu tự hỏi liệu trả thù có thực sự khả hữu trên cái sân khấu mong manh gọi là cuộc đời này không. Những điều ác hắn gây ra - ai có thể xóa bỏ? Sự nghiệp nhơ nhuốc đã giúp hắn tích lũy gia tài khổng lồ - căn nhà mà chúng ta đang đứng đây cũng từng là của hắn - giờ đã vĩnh viễn trở thành một phần số phận nhân loại. Và dù tôi có đâm hàng nghìn nhát en carte cho đến ngày tận thế, em trai của Geraldine cũng không thể sống lại, và hàng nghìn người vô tội khác cũng không vì thế mà hết bị làm nhục hay bại hoại! Lấy mạng một người là điều quá nhỏ, dùng được một đời người mới là chuyện lớn lao! Than ôi,” ngài kêu lên, “có gì trong đời khiến ta mất ảo tưởng nhanh bằng chính khoảnh khắc đạt được điều ao ước?”
“Công lý của Chúa đã được thực thi,” bác sĩ nói. “Điều đó tôi thấy rõ. Bài học lần này, thưa Điện hạ, thật tàn nhẫn đối với tôi; và tôi đang chờ đến lượt mình trong nỗi sợ chết người.”
“Ta vừa nói gì nhỉ?” Hoàng tử kêu lên. “Ta đã trừng phạt, và đây, ngay bên cạnh ta, là một người có thể giúp ta sửa lại những điều sai. A, bác sĩ Noel! Giữa tôi và ông còn nhiều ngày lao lực xứng đáng, và có lẽ, trước khi những ngày ấy kết thúc, ông sẽ không chỉ chuộc được lỗi lầm xưa, mà còn làm được hơn.”
“Còn bây giờ,” bác sĩ nói, “hãy để tôi đi chôn người bạn lâu năm nhất của mình.”
[1] Vườn nai.
Anh Hoa dịch
Stevenson cũng là một người viết thư. Correspondent của Stevenson là James.
