Nghĩ chiến tranh (tiếp): Simone Weil viết thư
Simone Weil có sự giao thiệp ý nghĩa với nhiều nhân vật lớn của thời mình - không ít trong đó khởi đầu từ những lá thư.
Dưới đây là thư Simone Weil viết cho Georges Bernanos, tác giả của Nhật ký một cha xứ vùng quê, vào năm 1938, về cuộc nội chiến Tây Ban Nha (1936 - 1939) mà cả hai cùng chứng kiến, cũng như về mối quan hệ phức tạp của Weil với Công giáo. Riêng về chủ đề này, Simone Weil có một correspondence rồi sẽ rất nổi tiếng với linh mục Perrin, đã được Phùng Thăng dịch với nhan đề Kẻ lạ ở thiên đường (nhà xuất bản An Tiêm, Saigon 1973).
Simone Weil - cũng như nhiều trí thức Pháp - tham gia vào cuộc nội chiến Tây Ban Nha từ sớm và hoạt động trong Columna Durruti, một đơn vị vô trị chống Franco tập hợp từ nhiều nơi trên thế giới. Do cận thị nặng và vụng về, Weil không giúp được gì nhiều, cuối cùng bị bỏng nặng, buộc phải rời đơn vị. Khoảng một tháng sau đó, Columna Durruti gần như bị xóa sổ trong một trận giao chiến ở Perdiguera vào tháng 10 năm 1936, tất cả phụ nữ trong nhóm đều bị giết.
Những giết chóc của cả phe Quốc gia lẫn Cộng hòa, bao gồm đội quân vô trị mà Weil từng đặt nhiều lòng tin, đã gây cho Weil một ấn tượng khủng khiếp về sự say máu dễ lây lan của chiến tranh: "Tôi kinh hoàng, nhưng không ngạc nhiên trước những tội ác chiến tranh. Tôi cảm thấy mình cũng có khả năng làm điều đó - và chính vì cảm thấy khả năng ấy mà tôi kinh hoàng." Những ấn tượng ấy đi vào nhiều tiểu luận viết trước và sau thời điểm 1936, nhất là khi châu Âu đối mặt với nguy cơ một cuộc chiến mới - mà Weil không còn sống để chứng kiến (Weil qua đời vào tháng 8 năm 1943 vì suy tim, ở tuổi 34. Báo cáo pháp y ghi rằng: "Người quá cố đã tự gây ra cái chết cho mình bằng cách từ chối ăn uống trong khi tâm thần rối loạn.")
Thư cho Bernanos được viết sau khi Simone Weil đọc Les grands cimetières sous la lune (1938), trong đó Bernanos tả lại sự kinh hoàng mà chính mình trải qua ở Majorca. Bernanos là một người bảo hoàng, nhưng không ngần ngại nói về những chuyện khủng khiếp mà những người phe Quốc gia đang làm trong cuộc chiến.
Dù thật buồn cười khi viết thư cho một nhà văn - người mà, bởi nghề nghiệp, vốn lúc nào cũng ngập trong chữ nghĩa - tôi vẫn không thể không làm thế, sau khi đọc Grands Cimetières sous la lune. Đây không phải đây là lần đầu tiên một cuốn sách của ông làm tôi xúc động; Nhật ký một cha xứ vừng quê đối với tôi là tác phẩm đẹp nhất, ít nhất trong số những cuốn tôi đã đọc, và thực sự là một cuốn sách lớn. Nhưng dẫu tôi có thể yêu những tác phẩm khác của ông, tôi chưa từng có lý do để làm phiền ông bằng một lá thư. Còn lần này thì khác: tôi đã có một kinh nghiệm tương ứng với kinh nghiệm của ông - tuy ngắn hơn, kém sâu sắc hơn, diễn ra ở nơi khác, và bề ngoài (chỉ bề ngoài thôi) dường như trong một tinh thần rất khác.
Tôi không phải người Công giáo, dù - điều tôi sắp nói hẳn nghe có vẻ tự phụ với bất kỳ tín đồ Công giáo nào, nhất là khi thốt ra từ miệng một người ngoại đạo, nhưng tôi không biết diễn tả cách nào khác - dù không có gì thuộc về Công giáo, không có gì thuộc về Kitô giáo từng khiến tôi cảm thấy xa lạ. Đôi khi tôi nghĩ, nếu người ta treo một tấm bảng trước cửa nhà thờ ghi rằng cấm vào với những ai có thu nhập cao hơn một mức nào đó (không cao lắm), thì có lẽ tôi đã lập tức cải đạo. Từ nhỏ, cảm tình của tôi luôn hướng về những hội nhóm tự nhận là đại diện cho các tầng lớp bị khinh rẻ trong hệ thống xã hội, cho đến khi tôi nhận ra rằng chính những hội nhóm ấy lại có khả năng làm tan rã mọi cảm tình. Tổ chức cuối cùng tôi còn đặt chút lòng tin là C.N.T. Tây Ban Nha. Tôi đã đi lại ít nhiều ở Tây Ban Nha - không nhiều - trước nội chiến, nhưng đủ để cảm thấy thứ tình yêu khó cưỡng dành cho dân tộc ấy; tôi từng xem phong trào vô trị như biểu hiện tự nhiên của những phẩm chất và tật xấu của họ, những khát vọng chính đáng cũng như không chính đáng. C.N.T. và F.A.I. là một hỗn hợp kỳ lạ, bất cứ ai cũng có thể tham gia, và vì thế ở đó lẫn lộn đủ thứ: đồi bại, hoài nghi, cuồng tín, tàn nhẫn, nhưng cũng có tình yêu, tình huynh đệ, và trên hết là đòi hỏi phẩm giá đẹp đẽ bậc nhất nơi những con người bị hạ nhục; tôi có cảm tưởng những kẻ đến đó vì lý tưởng nhiều hơn hẳn những kẻ bị hấp dẫn bởi bạo lực và hỗn loạn. Tháng Bảy năm 1936, tôi ở Paris. Tôi không thích chiến tranh; nhưng điều khiến tôi kinh hãi nhất trong chiến tranh luôn là trạng thái tinh thần của những kẻ ở hậu phương. Khi nhận ra rằng, dù cố gắng thế nào, tôi cũng không thể ngăn mình khỏi tham dự về mặt cảm xúc và đạo đức vào cuộc chiến - nghĩa là hằng ngày, hằng giờ mong thắng lợi cho phe này, thất bại cho phe kia - tôi tự nhủ Paris chính là hậu phương, và tôi bắt tàu đến Barcelona với ý định nhập ngũ. Ấy là đầu tháng Tám năm 1936.
Một tai nạn khiến tôi buộc phải rời Tây Ban Nha sớm. Tôi ở Barcelona vài ngày; rồi giữa vùng quê Aragon, bên bờ sông Ebro, cách Zaragoza mười lăm cây số - ngay chỗ mấy ngày gần đây quân của Yagüe đã vượt sông Ebro; rồi ở cung điện Sitges - đã biến thành bệnh viện; rồi lại trở về Barcelona; tất cả chừng hai tháng. Tôi rời Tây Ban Nha bất đắc dĩ, định sẽ quay lại; nhưng sau đó tôi không quay lại nữa. Tôi không còn thấy trong lòng sự cần muốn tham dự một cuộc chiến vốn không còn như lúc khởi đầu: không còn là cuộc chiến của những nông dân đói chống lại địa chủ cùng một giáo quyền đồng lõa, mà đã trở thành cuộc chiến giữa Nga, Đức, và Ý.
Mùi của nội chiến, của máu và kinh hoàng mà cuốn sách ông tỏa ra, tôi cũng từng cảm thấy. Tôi phải nói rằng tôi chưa từng thấy, hay nghe điều gì khủng khiếp và đạt tới tận cùng ô nhục như một số chuyện ông kể - cảnh những lão nông bị giết, hay cảnh dùng dùi cui đánh đập người già, nhưng những gì tôi nghe cũng đã quá đủ. Tôi suýt đã phải chứng kiến một vụ hành quyết một vị linh mục; trong những phút chờ đợi, tôi tự hỏi mình sẽ chỉ đứng nhìn, hay tự nạp mình vào hàng bị bắn nếu cố can thiệp; tôi vẫn không biết mình sẽ làm gì nếu không có một ngẫu nhiên may mắn ngăn vụ hành quyết xảy ra.
Nhiều chuyện kể lắm… Nhưng sẽ quá dài, và kể để làm gì? Một thôi cũng quá đủ. Tôi ở Sitges khi những dân quân vừa trở về từ chiến dịch Majorca, bại trận. Họ bị tàn sát nặng nề. Trong số bốn mươi chàng trai rời Sitges, chín người chết. Chúng tôi chỉ biết khi ba mốt người còn lại trở về. Đêm kế tiếp, có chín cuộc hành hình trả thù; họ giết chín người được gọi là "Phát-xít" trong cái thị trấn nhỏ mà hồi tháng Bảy còn chưa từng có gì xảy ra. Trong số chín người ấy có một người thợ làm bánh khoảng ba mươi tuổi, tội của anh ta, người ta bảo, là từng thuộc dân quân địa phương; cha già của anh, người mà anh là con trai độc nhất và là nguồn sống duy nhất, đã phát điên. Một chuyện khác: ở Aragon, một nhóm dân quân quốc tế gồm hai mươi hai người thuộc đủ quốc tịch, sau một trận đụng độ nhẹ, bắt được một thiếu niên mười lăm tuổi đang chiến đấu cho phe Phalangist. Vừa bị bắt, run rẩy vì chứng kiến đồng đội bị giết, cậu nói rằng mình bị cưỡng bức tòng quân. Họ lục soát, thấy trên người cậu một huy hiệu Đức Mẹ và thẻ Phalangist; họ đưa cậu đến gặp Durruti, thủ lĩnh đoàn quân, người sau khi giảng giải suốt một giờ về vẻ đẹp của lý tưởng vô trị, cho cậu chọn, hoặc chết ngay, hoặc lập tức gia nhập hàng ngũ những kẻ đã bắt mình, chống lại đồng đội đêm trước. Durruti cho cậu hai mươi bốn giờ để suy nghĩ; hết thời hạn, cậu nói “không” và bị bắn. Durruti xét nhiều mặt, vẫn là một người đáng khâm phục. Cái chết của đứa trẻ anh hùng ấy mãi đè nặng lương tâm tôi, dù tôi chỉ nghe kể lại sau đó. Lại chuyện này: trong một ngôi làng bị phe đỏ và phe trắng chiếm, mất, rồi chiếm lại, tôi không nhớ bao nhiêu lần, phe đỏ sau khi chiếm lại chắc chắn, đã tìm thấy trong hầm một nắm người rụng rời, hoảng sợ và đói, trong đó có ba bốn thanh niên. Họ lý luận rằng: nếu những thanh niên này, thay vì rút theo chúng ta lần trước, lại ở lại chờ phe phát-xít, thì chắc chắn họ là phát-xít. Thế là họ bắn ngay tại chỗ, rồi cho những người khác ăn và tự cho mình là nhân đạo. Một chuyện cuối, ở hậu phương: hai người vô trị kể với tôi rằng họ cùng vài đồng đội bắt được hai linh mục; họ bắn chết một người ngay trước mặt người kia, rồi bảo người còn lại có thể đi. Khi ông ta đi được hai chục bước, họ bắn nốt. Người kể chuyện ấy rất ngạc nhiên khi thấy tôi không cười.
Ở Barcelona họ giết trung bình năm mươi người mỗi đêm trong những cuộc hành quân trừng phạt như thế. So với Majorca thì con sốt này ít hơn nhiều, vì Barcelona là một thành phố gần một triệu dân; hơn nữa đã diễn ra một trận chiến đẫm máu trên đường phố kéo dài ba ngày. Nhưng có lẽ con số không phải điều cốt yếu. Cốt yếu là thái độ đối với việc giết người. Tôi chưa từng thấy, dù là người Tây Ban Nha hay người Pháp - dù họ đến để chiến đấu hay chỉ để nhìn quanh, những trí thức vô hại và nhợt nhạt - tôi chưa từng thấy ai, dù trong riêng tư, bày tỏ sự ghê tởm, chán ghét, hay ít nhất bất đồng với việc đổ máu vô ích. Ông nói đến nỗi sợ. Đúng, sợ hãi có vai trò trong những vụ tàn sát ấy, nhưng ở nơi tôi từng ở, tôi không thấy vai trò ấy lớn như ông tả. Những người có vẻ dũng cảm - có ít nhất một người tôi đã tận mắt chứng kiến lòng can đảm - giữa bữa ăn đầy tình huynh đệ, vẫn có thể mỉm cười vui vẻ kể mình đã giết bao nhiêu linh mục hay “phát-xít” (một từ rộng vô chừng). Tôi dần có cảm giác rằng, một khi các quyền lực thế tục và tôn giáo đã đặt một hạng người ra ngoài giới hạn con người thì không còn gì tự nhiên với con người hơn là giết chóc. Khi biết rằng có thể giết mà không lo bị trừng phạt hay bị chê trách, người ta giết; hoặc ít nhất, người ta tươi cười khích lệ kẻ giết người. Nếu có chút ghê sợ nào thì người ta im lặng, rồi dập tắt nó, sợ bị cho là yếu đuối. Người ta bị cuốn đi; đó là một cơn say khó cưỡng, trừ phi có một sức mạnh tinh thần mà tôi phải xem là phi thường, vì chưa từng thấy ở đâu. Tôi đã gặp những người Pháp hiền lành, mà trước đó tôi không có lý do gì để khinh thường - họ chẳng bao giờ nghĩ đến việc giết chóc nhưng lại đắm mình trong bầu không khí đẫm máu ấy với niềm thích thú thấy rõ. Với những người ấy, từ nay tôi không còn có thể kính trọng.
Một bầu khí như vậy xóa sạch mục đích của cuộc chiến. Bởi mục đích chỉ có thể được phát biểu liên quan đến lợi ích chung, đến điều tốt cho con người - mà con người thì không còn giá trị. Ở một đất nước mà dân nghèo phần lớn là nông dân, việc cải thiện đời sống của họ phải là mục tiêu thiết yếu của bất kỳ tổ chức thiên tả nào; và cuộc chiến này có lẽ trước hết là một cuộc chiến về việc chia lại đất. Ấy vậy mà những người nông dân khốn cùng tráng lệ của Aragon, vốn từng giữ được niềm kiêu hãnh giữa nỗi nhục, lại không hề là đối tượng quan tâm của dân quân. Không có xúc phạm, không có thô bạo - ít ra tôi không thấy, và tôi biết trong các đội vô trị, tội trộm cắp hay cưỡng hiếp đều bị xử tử - nhưng giữa người có vũ khí và dân không vũ khí vẫn có một hố sâu, hệt như giữa người giàu và người nghèo. Điều ấy có thể thấy ngay trong thái độ: sự khiêm nhường, phục tùng, sợ sệt ở một bên và sự dễ dãi, thản nhiên, khinh mạn ở bên kia.
Người ta tự nguyện lên đường với lý tưởng hy sinh và cuối cùng rơi vào cuộc chiến của lính đánh thuê, với nhiều tàn bạo và ít lòng tôn trọng kẻ thù.
Tôi có thể tiếp tục nghĩ và nghĩ mãi như thế, nhưng phải dừng lại. Từ khi tôi đến Tây Ban Nha và nghe đọc đủ loại luận thuyết về Tây Ban Nha, tôi không thể nêu được ai, ngoài ông, người theo hiểu biết của tôi, đã dấn mình vào không khí của cuộc chiến ấy mà vẫn giữ được sự kháng cự. Ông là người bảo hoàng, môn đệ của Drumont - cái đó có hề gì? Ông vẫn gần gũi với tôi hơn gấp bội so với các đồng đội dân quân ở Aragon - những người mà tôi đã yêu thương.
Những gì ông nói về chủ nghĩa quốc gia, chiến tranh, và chính sách đối ngoại của Pháp sau chiến tranh cũng chạm đến tận tim tôi. Tôi mười tuổi vào thời điểm Hiệp ước Versailles. Cho đến lúc đó tôi vẫn là một người yêu nước hăng hái, như mọi đứa trẻ thời chiến. Nhưng khao khát hạ nhục kẻ thù bại trận, vốn phô bày khắp nơi một cách đáng ghê tởm vào thời điểm ấy (và suốt nhiều năm sau), đã vĩnh viễn chữa khỏi tôi thứ yêu nước ngây thơ ấy. Những sỉ nhục mà đất nước tôi gây ra còn khiến tôi đau hơn những sỉ nhục mà nó phải chịu.
T.B. Tôi đã ghi địa chỉ của mình mà không thực sự nghĩ gì. Trước hết, tôi nghĩ chắc ông có nhiều việc hơn là trả lời thư. Hơn nữa, tôi sắp sang Ý một hai tháng, nơi mà thư của ông, nếu có, có lẽ cũng không đến tay tôi được.
Mlle Simone Weil
3, rue Auguste-Comte
Paris (VIe)
nghĩ chiến tranh
Simone Weil trả lời một câu hỏi của Alain (1936)
Thư và nhật ký chiến tranh của Ingeborg Bachmann
vô trị
vấn đề Công giáo
Graham Greene: G. K. Chesterton
Chesterton: Tại sao tôi là người Công giáo?
Graham Greene: François Mauriac