Chín truyện Clarice Lispector
Các truyện dưới đây được rút ra từ nhiều tuyển tập in xuyên suốt đời văn Clarice Lispector: “Những Truyện Đầu Tiên” (Jimmy và Tôi), “Những Mối Nối Gia Đình” (Bữa tối), “Quân đoàn ngoại quốc” (Trứng và Gà, Truyện Thứ Năm), “Niềm vui ngầm” (Tha cho Chúa, Một Truyện về Rất nhiều Yêu thương) và “Đàng Sầu Bi của Thân Xác” (Cô Algrave, Cái Xác, Nhưng Trời Sắp Mưa).
Chín truyện ngắn này sẽ cho chúng ta một cái nhìn rõ ràng về một trong những giọng bí ẩn, gợi cảm và kỳ diệu nhất văn chương Mỹ La-tinh - một địa hạt luôn ẩn chứa nhiều thứ đủ sức gây hốt hoảng. Tuy được triển khai bằng nhiều cấu trúc tự sự và nhiều cảm xúc khác nhau qua các quá trình sáng tác - chẳng hạn cấu trúc hình ốc đan cài của “Truyện Thứ Năm”, biện chứng mơ hồ, mờ mịt và hỗn tạp trong “Trứng và Gà Mái”, trần thuật quẩn quanh, nhỏ bé của “Người Dublin” - Lispector sẽ luôn cho ta cảm nhận được mỹ thuật của việc tồn tại và sự dai dẳng của mỗi khoảnh khắc, nơi mà sự phân tích kiệt cùng từng cử chỉ con người không những không khiến nó mất đi mà còn làm tăng thêm bí ẩn, đến mức không chịu nổi. Thiên tài của Clarice nằm ở khả năng một mặt tạo dựng không khí bất thường, nguy ngập, một mặt không cho thứ gì ngẫu nhĩ (theo hướng kỳ diệu lẫn xúi quẩy) diễn ra. Sau bao nhiêu thập kỷ, Clarice Lispector vẫn đủ sức khiến người ta kinh ngạc với khả năng sáng tạo và sự kỳ dị của mình (cùng sự ám ảnh của bà với gà và trứng).
Được dịch từ Complete Stories, có tham khảo bản gốc tiếng Bồ Đào Nha.
Jimmy và Tôi
Tôi vẫn còn nhớ Jimmy, cậu bé với mái tóc rối màu hạt dẻ, che hững hờ hộp sọ hếch dài của một kẻ nổi loạn từ trong trứng nước.
Tôi nhớ Jimmy, mái tóc nó và những ý tưởng của nó. Jimmy cho rằng chẳng thứ gì tuyệt bằng tự nhiên. Rằng nếu hai người thích nhau, họ chẳng thể làm gì khác ngoài yêu nhau, đơn giản thế thôi. Rằng tất cả những gì khác nơi con người tách khỏi nguyên lý giản dị đã gắn với ban sơ thế giới này đều là trò thớ lợ, bọt bèo. Nếu những ý tưởng này nảy ra từ cái đầu nào khác, tôi đã chẳng buồn nghe. Nhưng nó lại phát ra từ cái hộp sọ hếch dài của Jimmy, và hơn hết, nó phát ra từ hàm răng sáng choang và nụ cười trong trẻo của một con thú được thoả mãn.
Jimmy đi đầu luôn ngẩng lên cao, mũi hếch lên trời, và khi băng qua đường, nó sẽ bắt lấy cánh tay tôi với vẻ thân thuộc rất đỗi tự nhiên. Tôi bối rối. Nhưng tôi lập tức tự trách mình vì sự bối rối ấy - bằng chứng cho thấy tôi đã thấm nhuần tư tưởng của Jimmy, nhất là nụ cười sáng choang của nó. Tôi nghĩ trong bất mãn rằng mình đã tiến hoá quá xa, xa rời mẫu hình chuẩn mực nhất - động vật. Tôi tự nhủ mình thật phù phiếm khi đỏ mặt chỉ vì một cánh tay choàng; thậm chí cánh tay ấy còn chẳng để trần. Nhưng những suy nghĩ ấy mơ hồ và hiện lên với sự thiếu mạch lạc mà giờ đây tôi đang chuyển lên trang giấy. Thú thực, tôi chỉ đang tìm cái cớ cho việc mình thích Jimmy. Và cho việc mình theo đuổi tư tưởng của cậu. Tôi dần dà thích nghi với cái đầu dài ngoẵng của cậu. Biết làm sao được? Từ nhỏ, tôi đã chứng kiến và cảm nhận rõ sự áp đặt của tư tưởng đàn ông lên đàn bà. Dì Emília kể, Mama tôi hồi chưa lấy chồng là một cô gái sôi nổi với mái tóc đỏ cuồng nhiệt cùng những quan niệm riêng về tự do và nam nữ bình quyền. Nhưng rồi Papa xuất hiện, đĩnh đạc và cao lớn, cũng với những quan niệm riêng về… tự do và nam nữ bình quyền. Rủi ngay cái chỗ họ lại có cùng đề tài. Đụng độ diễn ra. Và giờ đây, Mama khâu vá, thêu thùa, chơi piano, nướng bánh vào thứ Bảy, đều đặn và vui vẻ. Mẹ vẫn giữ những suy niệm riêng, nhưng giờ chúng vấn vít thành một: đàn bà phải theo đàn ông, như quy tắc cái phụ thuộc theo cái chính[1] (so sánh này là tôi tự nghĩ ra, kết quả sau mấy tiết ở Trường Luật).
Bởi điều đó và bởi Jimmy, tôi cũng thế, cũng từ từ trở nên tự nhiên.
Và vào một ngày đẹp trời, sau đêm hè oi ả, khi tôi ngủ nhiều như lúc đang viết ra câu chuyện này (đó là nguồn gốc của tội ác), vào ngày đẹp trời ấy, Jimmy hôn tôi. Tôi đã dự đoán được tình huống này, cùng mọi biến thể của nó. Thú thật mà nói, thực tế đã khiến tôi thất vọng. Ừ thì, “chuyện ấy” sau bao triết lý rồi dồn nén dông dài! Nhưng tôi thích. Và từ đó, tôi ngủ ngon; tôi không cần phải mơ nữa.
Tôi gặp Jimmy ở góc phố. Rất đơn giản, tôi đưa tay cho nó. Những gì tiếp theo cũng rất đơn giản, tôi vuốt ve mái tóc rối bù của nó. Tôi cảm nhận được sự ngạc nhiên của Jimmy trước tiến bộ của tôi. Những bài học của cậu đã đơn hoa kết trái kỳ lạ, và cô học trò này đã rất cần cù. Đó là khoảng thời gian hạnh phúc.
Rồi chúng tôi thi. Khi đó, câu chuyện thực sự bắt đầu.
Một trong những giám khảo có đôi mắt dịu dàng và sâu thẳm. Đôi bàn tay ông rất đẹp; nâu tối.
(Jimmy trắng như em bé.) Khi nói với tôi, giọng ông ấy trở nên khàn khàn và ấm áp một cách bí ẩn. Và tôi phải gắng sức lắm mới không nhắm nghiền mắt lại, mới không chết đi vì sung sướng.
Không có giằng co nội tâm gì cả. Tôi ngủ mơ màng trong vòng tay giám khảo lúc sáu giờ xế chiều. Và tôi mê mẩn giọng nói của ông, khi ông nói cho tôi về những ý tưởng trái ngược hoàn toàn với Jimmy. Tất cả chìm trong hoàng hôn, trong khu vườn lặng lẽ và lạnh lẽo.
Hồi đó tôi sung sướng cực độ. Còn Jimmy, vẫn bờm xờm mái tóc và nụ cười cũ, làm tôi cũng quên mất việc phải giải thích với nó rằng tình thế giờ đây đã khác.
Một ngày nọ, nó hỏi tôi sao tôi dạo này khác lạ thế. Tôi cười đáp, sử dụng những thuật ngữ của Hegel nghe được từ miệng vị giám khảo của mình. Tôi bảo sự cân bằng nguyên thuỷ đã vỡ tan và một trật tự mới đã hình thành, trên một nền tảng khác. Khỏi phải nói Jimmy chẳng hiểu gì, bởi Hegel nằm ở phần cuối chương trình và chúng tôi chưa bao giờ chạm tới đó. Tôi liền giải thích rằng mình đang yêu điên cuồng D…, và trong một khoảnh khắc xuất thần (tiếc là vị giám khảo không nghe thấy), tôi bảo rằng trong trường hợp này, tôi không thể hợp nhất những mâu thuẫn để tạo ra tổng đề Hegel được. Nhưng mọi lý lẽ đều vô ích.
Jimmy nhìn tôi đần độn và chỉ biết hỏi:
“Thế còn tôi?”
Tôi bực mình.
Tôi biết đâu, tôi đáp thế, đá một viên sỏi tưởng tượng và nghĩ bụng: ôi, tự đi mà nghĩ! Ta là những con vật giản đơn mà.
Jimmy mất bình tĩnh. Nó trút lên tôi một tràng xỉ vả, rằng tôi rốt cục cũng chỉ là đàn bà, ba phải và lăng nhăng như bao kẻ khác. Nó còn doạ: tôi sẽ phải hối hận vì đã đường đột quay ngoắt như thế. Tôi đã cố gắng giải thích bằng chính lý thuyết của cậu ta rằng: khi tôi yêu ai đó, đó cũng là chuyện tự nhiên thôi, thế đấy; rằng nếu tôi “tiến hoá” và “biết suy nghĩ”, tôi đã biến mọi thứ trở nên phức tạp, với những xung đột đạo đức, những thứ nhảm nhí của văn minh, những điều mà loài vật không hề biết tới. Tôi nói với vẻ hùng biện đầy đáng yêu. tất cả nhờ ảnh hưởng biện chứng từ vị giám khảo (đấy, lại cái ý của mẹ tôi: đàn bà phải theo… vân vân). Jimmy mặt mày tái mét và cõi lòng tan nát, bảo tôi cút đến chỗ quỷ sứ cùng với mớ lý thuyết của tôi. Tôi giận dữ hét lại rằng những thứ điên rồ đó đâu phải của tôi, và thực ra, chúng chỉ có thể nảy ra từ một cái đầu rối bù và dài hếch. Nó gào lớn hơn, bảo tôi chẳng hiểu mô tê gì những điều nó nói dù nó đã cất bao nhiêu thiện chí giảng giải: rằng mọi thứ với tôi chỉ tổ phí thời giờ. Thế là quá đủ. Tôi đòi một lời giải thích mới. Nó lại bảo tôi xuống địa ngục.
Tôi bị bỏ lại, rối tinh. Tôi ăn mừng bằng một cơn đau đầu dữ dội. Từ những tàn tích của văn minh, hối hận chuồi ra.
Bà ngoại tôi, một lão bà hiền hậu và minh mẫn, khi nghe tôi kể lại câu chuyện, đã khẽ khàng nghiêng mái đầu bạc và giải thích rằng đàn ông thường xây dựng một số lý thuyết cho riêng họ và một số lý thuyết khác cho phụ nữ. Nhưng rồi bà thở dà, sau một khoảng lặng, bồi thêm: họ quên ngay những lý thuyết ấy vào đúng lúc cần hành động… Tôi cãi lại rằng tôi, kẻ đã áp dụng thành công quy luật mâu thuẫn của Hegel, chẳng hiểu bà nói gì. Bà cười, ôn tồn giảng giải:
Bé cưng, đàn ông chỉ là một đám động vật thôi.
Vậy là chúng tôi lại quay lại điểm xuất phát sao? Tôi không cho đó là một lập luận, nhưng cũng thấy phần nào an ủi. Tôi ngủ thiếp đi, có chút buồn. Nhưng sáng hôm sau khi tỉnh dậy, tôi lại thấy hạnh phúc, thuần khiết như một con vật. Khi mở cửa sổ phòng ngủ và nhìn ra khu vườn tươi mát, yên tĩnh dưới những tia nắng đầu tiên, tôi khẳng định chẳng có gì làm ngoài sống. Chỉ còn sự thay đổi của Jimmy là khiến tôi băn khoăn. Lý thuyết ấy hay thế mà!
Bữa tối
Ông tới nhà hàng lúc tối muộn. Ông vừa giải quyết xong nhiều chuyện hệ trọng trong công việc. Ông tầm sáu mươi, cao to đồ sộ, tóc trắng, mày rậm và bàn tay hộ pháp. Chiếc nhẫn quyền uy tra ở ngón tay. Ông ngồi xuống, lớn lao và vững chãi.
Tôi rời mắt khỏi ông, quay lại nhìn người đàn bà mảnh dẻ đội mũ. Cô cười với cái miệng ngốn đầy đồ ăn và đôi mắt đen ánh lên.
Khi đưa nĩa lên miệng, tôi lại nhìn sang ông. Ông ngồi đó nhắm nghiền mắt và nhai mẩu bánh mì một cách hùng hồn và máy móc, hai nắm đấm siết chặt đặt trên bàn. Tôi vừa ăn vừa chằm chằm nhìn sang. Tay “garçon” đang dọn món lên trên khăn trải bàn. Nhưng người đàn ông lớn tuổi vẫn nhắm nghiền mắt. Trong một chuyển động sống động hơn của người phục vụ, ông mở mắt đột ngột tới mức nó truyền lực cho đôi bàn tay lớn và làm nĩa trên tay rơi xuống. Tay “garçon” thì thầm những lời thân thiện và cúi xuống nhặt; ông không đáp. Giờ khi đã tỉnh táo lại, ông lật đi lật lại miếng thịt một cách dữ dội, xét nét nó từng chút một, đầu lưỡi thè ra - ông lấy lưng nĩa ấn miếng thịt xuống, dường hít hà nó, cái miệng chờ đợi. Và ông ta bắt đầu dồn lực cả cơ thể cắt lấy nó bằng những động tác mãnh liệt quá mức cần thiết. Ngay sau đó, ông đưa một miếng lên ngang tầm mặt và, như thể phải tợp lấy nó khi đang trên máy bay, nhai nhoàm nhoạp cùng cái đầu lắc lư. Tôi nhìn xuống đĩa mình. Khi tôi nhìn ông lại, ông đã nhập vào trong sự huy hoàng cực độ của bữa tối mình, há miệng mà nhai, lưỡi đánh qua đánh lại trên hàm răng, ánh mắt ghì trên đèn trần. Khi tôi sắp cắt miếng thịt tiếp theo, tôi thấy ông ta ngừng ăn hẳn.
Và như thể ông ta không chịu nổi nữa - sao cơ? - ông giật phắt lấy khăn ăn và đôi bàn tay lông lá ấn mạnh nó lên hai hốc mắt. Tôi khựng lại săm soi. Ông ta như không thở nổi, cả cơ thể phồng lên. Cuối cùng, ông ta cũng lấy tờ giấy khỏi mắt và tê dại nhìn vào khoảng không. Ông vừa thở, mi mắt vừa hấp háy liên hồi, ông cẩn thận lau mắt và chậm rãi nhai phần thức ăn còn lại trong miệng.
Tuy nhiên, chỉ cần một giây, ông ta lại bình thường và cứng cáp trở lại, ông dùng cả lực cơ thể xiên xa lát ngập răng nĩa và nhoài người tới ăn, cái cằm ông linh động, dầu ăn làm môi ông bóng ẩm. Ông dừng một giây, lau mắt, nhè nhẹ lắc đầu - và lại một nĩa ngập rau xà lách kèm thịt bị tợp gọn giữa không gian. Ông bảo tay “garçon” vừa ngang qua bàn:
“Đây đâu phải loại rượu tôi kêu.”
Đúng hệt cái giọng tôi hình dung: một giọng nói không chừa cho đối phương bất kỳ cơ hội bác bỏ nào, để từ đó tôi cảm giác như chẳng ai có thể làm gì với ông ấy. Ngoại trừ việc tuân phục.
Tay “garçon” biết điều cầm chai rượu rời đi.
Nhưng giờ đây, người đàn ông già lại cứng đờ một lần nữa như thể lồng ngực ông ta bóp chẹn. Sức mạnh đầy bạo lực của ông giãy giụa trong tù đày. Ông đợi. Đến khi cơn đói dường như quấy rối ông ta và ông lại bắt đầu nhai tóp tép đầy đói khát, mày chau lại. Tôi thì ăn chậm, tự dưng thấy lợm ở cổ mà chẳng biết vì sao, cũng chẳng biết mình đang dính líu tới chuyện gì. Hốt nhiên, cả người ông giật bần bật, tay quơ cái khăn ăn lên mắt và đè mạnh tới nỗi khiến tôi sửng sốt… Tôi có chút chủ ý trong việc đánh rơi cái nĩa xuống đĩa ăn, thấy như cổ họng mình bị cái gì đó bịt chặt tới mức không chịu nổi, cái gì đó cuồng nộ rồi thua phủ phục. Nhưng người đàn ông già không để khăn ăn quá lâu trên mắt mình. Bấy giờ, khi ông đã từ tốn lấy nó xuống, hai con ngươi ông trông thật dịu dàng và mỏi mệt, và trước khi ông lại quệt lên - tôi đã nhìn thấy. Tôi đã nhìn thấy nước mắt.
Tôi nhoài tới miếng thịt của mình, thấy lạc lõng. Khi tôi đã lấy lại bình tĩnh để tiếp tục quan sát ông từ hoắm sâu nhợt nhạt của gương mặt mình, tôi thấy ông cũng đang nhoài người, cùi chỏ tì lên bàn, hai tay bưng mặt. Và ông ta thực sự không chịu nổi nữa. Đôi mày rậm nhíu lại. Miếng thức ăn hẳn đã nuốt không trôi khỏi cổ họng với cảm xúc khắc khổ của ông ta, bởi khi ông ta quyết định ăn tiếp, ông có cử chỉ kinh khủng như gắng sức để nuốt ực xuống và chậm khăn ăn lên trán. Tôi không thể chịu nổi nữa, miếng thịt trên đĩa tôi còn sống, tôi thì không chịu nổi nữa. Nhưng ông ta - ông ta đang ăn.
Tay “garçon” mang chai rượu mới tới trong một xô đá. Tôi lơ đễnh để ý mọi thứ: đó là một chai rượu khác, chàng bồi bàn mặc áo đuôi tôm, ánh sáng vẽ hào quang quanh cái đầu rắn rỏi của Thần Pluto giờ đây cựa quậy trong tò mò, thèm khát và chăm chú. Trong một chặp, “garçon” chặn tầm nhìn của tôi về phía người đàn ông, khiến toàn bộ những gì tôi thấy được chỉ là đôi cánh đèn của cái áo đuôi tôm: lăng xăng trên bàn, hắn rót vang đỏ vào ly và chờ đợi cùng đôi mắt háo hức - bởi người khách này chắc chắn sẽ boa hậu, một ông già vẫn còn là tâm điểm của thế giới và quyền lực. Ông già được cung phụng ấy hớp một hơi dài, đặt ly xuống và đắng đót thẩm định hương vị trong miệng. Ông chép môi, ghê tởm mà tặc lưỡi như thế thứ ngon nào cũng khôn kham. Tôi chờ, “garçon” chờ, cả hai đều nghiêng người hồi hộp. Cuối cùng, ông nhăn mặt ra hiệu chấp nhận. Anh bồi cúi cái đầu bóng lưỡng phục tùng sự chấp thuận trên rồi cúi chào lui đi, tôi thở dài nhẹ nhõm.
Giờ, ông đan xen những miếng thịt và những ngụm rượu bỏ vào cái miệng to bự ấy, bộ răng giả nặng nhọc ngấu nghiến trong lúc tôi ngồi dõi theo ông trong vô vọng. Không có gì khác xảy ra. Nhà hàng như phát sáng gấp đôi cùng những tiếng leng keng của ly và dao nĩa; trong vầng hào quang chói gắt, rực rỡ của căn phòng, những tiếng thì thầm lên xuống theo nhịp sóng mềm mại, người phụ nữ đội chiếc mũ rộng vành mỉm cười với đôi mắt lim dim, thanh tao và xinh xắn, “garçon” từ từ rót rượu vào ly. Nhưng giờ ông ta ra hiệu.
Bàn tay nặng nề, đầy lông lá của ông, lòng bàn tay tạc những đường chỉ tay định mệnh, tạo ra một cử chỉ suy tư. Ông vận động hết tất cả cử chỉ cơ thể để nói, và tôi, tôi không hiểu. Và như thể ông ta không chịu nổi nữa - ông đặt nĩa xuống đĩa. Lần này thì ông bị bắt tại trận rồi nhé, ông già. Ông ta ngồi đó thở, kiệt sức, náo động. Rồi ông chộp lấy ly rượu và uống với đôi mắt nhắm nghiền, trong sự phục sinh chấn động. Mắt tôi rát bỏng và ánh sáng đinh tai, dai dẳng. Tôi bị một cơn buồn nôn đầy khoái cảm nuốt trọn. Mọi thứ với tôi sao thật to lớn và nguy hiểm. Người phụ nữ mảnh mai ngày càng xinh đẹp đang run rẩy, trang trọng, dưới ánh đèn.
Ông ta ăn xong rồi. Gương mặt trống rỗng phác ra nhiều biểu cảm. Ông nhắm mắt, lỏng hàm. Tôi cố gắng chộp lấy khoảng khắc này, khi ông ta không còn sở hữu gương mặt của chính mình nữa, để cuối cùng cũng được thấy. Nhưng vô ích thôi. Diện mạo lớn lao mà tôi đang thấy thuộc về cõi vô danh, uy nghi, tàn nhẫn và mù quáng. Điều tôi muốn thấy trực tiếp, thông qua sức mạnh phi thường của bậc lão thành đáng kính kia, quả thực không tồn tại trong khoảng khắc này. Ông ta không muốn nói tồn tại.
Món tráng miệng tới, một kiểu mousse, và tôi không ngờ ông lại có một lựa chọn đồi bại như thế. Ông ăn chậm rãi, múc một muỗng đầy rồi nhìn chất lỏng sánh kẹo nhỏ xuống. Dù thế, ông vẫn nuốt hết, nhăn mặt, rồi phình to, no nê, đẩy cái đĩa đi. Sau đó, không còn đói nữa, con ngựa lớn ngả đầu lên một tay. Dấu hiệu rõ ràng đầu tiên lộ ra. Kẻ ăn thịt trẻ con đang trầm tư mặc tưởng. Tái mét, tôi nhìn ông ta nâng chiếc khăn ăn lên miệng. Tôi tưởng tượng mình đang nghe một tiếng nức nở. Cả hai lặng lẽ ngồi giữa tâm điểm căn phòng. Có lẽ ông ta ăn quá nhanh, Bởi, dù gì đi nữa, ông vẫn chưa thoả cơn đói, phải chứ! Tôi cạnh khoé bằng sự mỉa mai, phẫn nộ và kiệt cùng. Nhưng ông ta đang tan rã ngay trước mắt tôi. Những đường nét trên gương mặt ông giờ đây hốc hác và quay cuồng, ông lắc đầu qua lại, lắc mất kiểm soát, môi mím chặt, mắt nhắm nghiền, đung đưa tới lui - trưởng lão đang khóc trong lòng. Cơn giận đang bóp chết tôi. Tôi thấy ông đeo kính và lập tức già đi thêm mấy tuổi. Khi đếm số tiền lẻ mình có, ông ta tặc lưỡi trong lúc choãi cằm ra, trong một phút chốc khuất phục trước sự ngọt ngào của tuổi già. Còn tôi, suốt từ đầu tới giờ vẫn luôn quá chăm chú tới ông, không hề thấy ông rút tiền ra trả, cũng chẳng hề để ý lúc ông xem hoá đơn, và không nhận ra tay “garçon” đem tiền thối quay lại.
Cuối cùng, ông tháo kính, tặc lưỡi, lau mắt trong cái nhăn mặt thừa thãi và đau đớn. Ông miết bàn tay vuông vắn qua mái tóc trắng, vuốt đầy uy lực. Ông đứng lên, hai bàn tay rắn rỏi nắm chặt mép bàn. Giờ đây, khi không còn gì để dựa dẫm, ông trông yếu ớt hơn, dù vẫn vĩ đại và có khả năng đâm chết bất kỳ ai trong chúng tôi. Trong sự vô can dự của tôi, ông đội mũ, tay vuốt ve cà vạt trước gương. Ông băng qua hình hài chói chang của căn phòng, biến mất.
Nhưng tôi thì vẫn là con người.
Bất cứ khi nào bị phản bội hay ám hại, bất cứ khi nào ai đó dứt đi vĩnh viễn, hoặc khi tôi đánh mất điều quý giá nhất còn sót lại, hay khi nhận ra mình sẽ chết - tôi không ăn. Tôi chưa phải thứ quyền lực này, cấu trúc này, hoang phế này. Tôi đẩy cái đĩa ra xa, khước từ thịt và máu nó mang.
Trứng và Gà
Sáng nọ trong bếp trên bàn tôi thấy quả trứng đó.
Tôi chỉ liếc nhìn quả trứng một cái. Ngay lập tức tôi nhận ra người ta không thể thấy một quả trứng được. Việc nhìn thấy trứng không bao giờ tồn tại ở hiện tại: ngay khi tôi thấy trứng việc thấy trứng đã thuộc về ba thiên niên kỷ trước. - Ngay trong khoảnh khắc thấy trứng nó đã là ký ức về một quả trứng. - Trứng chỉ có thể được thấy bởi kẻ đã nhìn thấy nó rỗi. - Khi thấy trứng thì đã quá muộn: một quả trứng được nhìn thấy là một quả trứng đã mất. - Thấy trứng là lời hứa ngày nào đó cuối cùng sẽ thấy được trứng. - Một cái nhìn ngắn và không thể chia cắt; nếu thực sự có tư tưởng; thì không có tư tưởng; chỉ có trứng. - Cái nhìn là công cụ cần thiết mà mỗi khi dùng xong, tôi sẽ vứt bỏ. Tôi sẽ giữ lại quả trứng. - Quả trứng không có chính mình. Đứng riêng, nó không tồn tại.
Nhìn thấy trứng là điều bất khả: trứng có tính siêu-ảnh, giống như có siêu âm. Không ai có thể thấy trứng. Chó có thấy trứng không? Chỉ có máy móc mới thấy trứng. Cần cẩu thấy trứng. - Khi tôi còn hồng hoang một quả trứng rơi xuống trên vai tôi. - Tình yêu dành cho trứng không cảm nhận được: Tình yêu dành cho trứng là siêu-giác. Chúng ta không biết mình yêu trứng. - Khi tôi còn hồng hoang tôi là người giữ trứng và tôi luôn phải đi rất khẽ để tránh xáo động sự im lặng của trứng. Khi tôi chết, họ cẩn thận lấy trứng khỏi tôi. Nó vẫn còn sống. - Chỉ những ai đã nhìn thấu cuộc đời mới thấy trứng. Trứng hiển nhiên như thế giới.
Trứng không còn tồn tại. Như ánh sáng từ một vì sao đã chết, nói chính xác thì trứng không còn tồn tại. - Trứng ạ, ngươi hoàn hảo. Người trắng. - Với bạn, tôi hiến tặng mọi khởi nguyên. Với bạn, tôi dâng lên lần đầu.
Với trứng, tôi dâng bạn đất nước Trung Hoa.
Trứng là một thứ lơ lửng. Nó không bao giờ đáp xuống. Khi nó đáp, nó không phải thứ vừa đáp. Nó là thứ bên dưới trứng. - Tôi nhìn quả trứng trong bếp bằng sự chú ý hời hợt để tránh làm vỡ nó. Tôi cực kỳ chú tâm việc tránh hiểu nó. Bởi nó không thể hiểu được, tôi biết nếu tôi hiểu nó thì đó là tôi đang mắc sai lầm. Hiểu nó nghĩa là đang mắc sai lầm. Hiểu nó không phải là cách để thấy nó. - Không bao giờ nghĩ tới trứng là một cách để đã thấy nó. - Tôi tự nghĩ, mình có biết gì về trứng không? Gần như chắc chắn là có biết. Vậy nên: tôi tồn tại, do đó tôi biết. - Điều tôi không biết về trứng mới là thứ thực sự quan trọng. Điều tôi không biết về trứng cho tôi trứng đúng nghĩa. - Trên mặt trăng có trứng cư ngụ.
Trứng là sự moi từ trong để bày ra ngoài. Có vỏ là đầu hàng. - Trứng lột trần căn bếp. Nó biến cái bàng thành mặt nghiêng. Trứng bóc mẽ. - Kẻ nào càng lao sâu hơn vào trứng, kẻ nào thấy nhiều hơn chỉ bề mặt của trứng là đang theo đuổi thứ khác: người đó đang đói.
Trứng là linh hồn của gà. Con gà vụng về. Quả trứng chắc chắn. Con gà sợ sệt. Quả trứng chắc chắn. Như một viên đạn đang bay thì dừng. Vì trứng là trứng trong không gian. Quả trứng xanh cao. - Ta yêu ngươi, trứng. Ta yêu ngươi như một thứ còn chẳng hề biết bản thân mình yêu thứ gì khác. - Tôi không chạm vào nó. - Nhưng dâng hiến mình cho hình ảnh về trứng cũng giống như chết cho thế giới, và tôi cần lòng đỏ và lòng trắng. - Trứng thấy tôi. Trứng có lý tưởng hoá tôi? Trứng có suy niệm về tôi? Không, sức mấy mà trứng thấy tôi. Nó được miễn trừ khỏi việc hiểu được thương đau. - Trứng không bao giờ khổ đau. Nó là một tặng vật. - Trứng vô hình trước mắt phàm. Từng quả trứng một tới bên Chúa, người cũng vô hình trước mắt phàm. - Trứng ban đầu có thể có hình tam giác và đã lăn thật lâu trong không gian để thành hình tròn thuôn một đầu như bây giờ. - Vậy trứng có phải là thuyền lớn? Nó có thể là con thuyền đầu tiên những người Etrusca đã đóng? Không. Trứng sinh ra ở Macedonia. Ở đó, nó đã được tính toán, là thứ quả ngọt của một quá trình tự phát đầy khắt khe. Trên những trảng cát của Macedonia, một người đàn ông cầm que và vẽ ra nó. Và rồi xoá nó đi bằng bàn chân trần.
Phải cẩn thận với trứng. Thế nên con gà là trứng cải trang. Con gà tồn tại để trứng có thể tồn tại qua nhiều thời đại. Mẹ sinh ra để làm điều đó. - Trứng không ngừng bị ngược đãi vì đi trước thời đại quá nhiều. - Một quả trứng, từ lúc này đây, sẽ luôn mang tính cách mạng. - Nó trú trong con gà để khỏi bị gọi là trắng. Trứng thật sự trắng. Nhưng nó không thể bị gọi là trắng. Không phải bởi chuyện đó sẽ gây hại gì cho nó, nhưng người nào gọi trứng là trắng, họ là những kẻ không còn sự sống. Gọi thứ gì trắng là trắng có thể huỷ hoại nhân loại. Bất cứ khi nào một người bị buộc tội bởi những gì anh ta là và anh ta được gọi là Kẻ Đó. Họ không nói dối: chính anh ta là thế. Nhưng đến ngày nay, ta vẫn chưa hồi phục, từng người một. Luật chung để ta sống: ta có thể nói “một gương mặt đẹp đẽ,” nhưng ai nói “gương mặt đó” thì chết; bởi đã vắt kiệt chủ đề.
Sau một thời gian, trứng trở thành một quả trứng gà. Nó không phải trứng gà. Nhưng khi bị đưa vào sử dụng, nó được gọi bằng cái tên ấy. -Người ta nên nói “trứng của con gà.” Và nếu một người chỉ bả “trứng đó,” chủ đề đã bị vắt kiệt và thế giờ bị lột trần. - Khi nó trở thành trứng, nguy hiểm nằm ở việc khám phá ra thứ có thể được gọi là vẻ đẹp, tức là sự thật. Sự thật của trứng không có giống gì sự thật. Nếu họ biết, họ có thể tìm cách buộc nó biến thành hình chữ nhật. Hiểm nguy này không dành cho trứng, dù gì nó cũng không biến thành hình chữ nhật. (Chúng tôi chắc chắn như thế nhờ việc nó không có khả năng: bất khả là sức mạnh lớn nhất của trứng: sự vĩ đại của nó đến từ sự lớn lao của việc bất khả, thứ khiến nó toả sáng như một vật-không muốn.) Nhưng kẻ nào gắng tìm cách biến nó thành hình chữ nhật sẽ mất mạng. Do đó, trứng đẩy ta vào chỗ nguy. Lợi thế của ta là trứng vô hình. Và với những kẻ được khai minh, những kẻ được khai minh sẽ nguỵ trang trứng.
Về cơ thể con gà, cơ thể con gà là bằng chứng lớn nhất rằng trứng không tồn tại. Chỉ nhìn con gà thôi là ta đã rõ như ban ngày rằng trứng không thể nào tồn tại.
Thế còn gà thì sao? Trứng là sự hy sinh cao cả nhất của con gà. Trứng là thập tự giá con gà mang theo suốt đời. Trứng là giấc mơ viển vông của con gà. Gà yêu trứng. Nó không biết trứng tồn tại. Nếu nó biết thân mình mang trứng, liệu nó có tự cứu mình? Nếu biết, nó sẽ đánh mất trạng thái làm gà. Làm gà là sự tồn tại của con gà. Tồn tại là sự cứu rỗi. Bởi sống dường như không tồn tại. Sống dẫn đến chết. Vậy nên những gì con gà làm là tồn tại vĩnh viễn. Tồn tại là cuộc chiến không ngừng chống lại sự sống gây chết người. Đó là ý nghĩa của việc làm gà. Con gà trông hổ thẹn.
Con gà không được biết mình mang trứng. Nếu không, nó sẽ tự cứu mình với tự cách một con gà, điều cũng chẳng có gì đảm bảo thành công, nhưng nó sẽ mất quả trứng. Vậy nên nó không biết trứng tồn tại để trứng có thể lợi dụng con gà. Nó chỉ được sử dụng để hoàn thiện thứ khác, nhưng nó thích điều đó. Sự đổ vỡ của gà bắt đầu như thế này: thích hay không cũng không nằm trong việc sinh ra. Thích sống thì đau đớn. - Về cái nào có trước, trứng là kẻ đi tìm gà. Con gà thậm chí còn không được hiệu triệu. Gà được chọn ra trực tiếp. - Gà như sống trong một giấc mơ. Nó không có cảm thức gì về đời thực. Mọi nỗi sợ của gà đều đến từ việc chúng luôn làm gián đoạn huyễn mộng của mình. Gà là một giấc ngủ êm đềm. -Gà mắc một căn bệnh không ai biết. Căn bệnh không ai biết của gà là quả trứng. -Nó không biết phải giải thích thế nào: “Tôi không biết sai lầm nằm bên trong tôi,” nó gọi đời mình là lỗi lầm, “tôi không biết cảm xúc của mình là thế nào nữa,” vân vân.
“Vân vân, vân vân, vân vân,” là thứ con gà kêu suốt ngày. Gà có đời sống nội tâm phong phú. Thành thật mà nói, thứ duy nhất nó có là đời sống nội tâm. Cái nhìn của chúng ta về nội tâm nó là thứ ta gọi là “gà.” Đời sống nội tâm của gà bao gồm việc giả vờ như nó hiểu. Chỉ cần một mối đe doạ nhỏ nhoi nhất nó cũng sẽ ré lên như kẻ mất trí. Tất cả chỉ để trứng bên trong nó không vỡ. Trứng mà vỡ trong gà thì khác gì là máu.
Gà nhìn về đường chân trời. Như thể đường chân trời là nơi trứng đang tới. Ngoại trừ việc là một phương tiện vận chuyển của trứng, gà ngu ngốc, đờ đẫn và cận thị. Làm sao gà có thể hiểu chính mình khi nó là mâu thuẫn của một quả trứng? Trứng vẫn thứ trứng bắt nguồn từ Macedonia. Gà vẫn là bi kịch hiện đại nhất. Nó đương thời một cách vô nghĩa. Và nó không ngừng được vẽ lại. Hình dáng phù hợp nhất cho một con gà vẫn chưa được tìm thấy. Khi người hàng xóm của tôi nói chuyện điện thoại, gã vẽ lại con gà bằng một cây bút chí đãng trí. Nhưng cũng chẳng làm gì được cho con gà: một trong những bản chất của gà là không hữu ích đối với mình. Tuy nhiên, bởi số phận của nó quan trọng hơn chính nó và bởi số phận của nó là trứng, cuộc sống riêng của nó không đáng cho ta lo ngại.
Gà không biết trứng ở trong mình, nhưng nó cũng không biết trứng khi nó ở bên ngoài mình. Khi gà gặp trứng, nó nghĩ nó đang đối mặt với thứ thứ bất khả. Và với trái tim đang đập, với trái tim đang đập, nó không nhận ra trứng.
Tự nhiên, tôi nhìn quả trứng trong bếp và tất cả những gì tôi thấy là thức ăn. Tôi không nhận ra nó, trái tim tôi đập. Sự hoá thân đang diễn ra bên trong tôi: tôi bắt đầu không thể nhận thức về trứng nữa. Vượt khỏi mọi quả trứng cụ thể nào, vượt khỏi mọi quả trứng bị ăn nào, trứng không tồn tại. Giờ tôi không thể nào tin trứng được nữa. Càng ngày tôi càng ngã lòng tin, tôi hấp hối, tạm biệt, tôi đã nhìn một quả trứng quá lâu và nó bắt đầu đưa tôi vào giấc ngủ.
Con gà không muốn phải hi sinh bản thân mình. Con gà đã chọn là con gà muốn được “hạnh phúc.” Nó không nhận ra rằng, nếu dành cả đời để thiết kế quả trứng bên trong mình như một bản thảo được minh hoạ, nó sẽ hữu ích cho một thứ gì đó. Con gà không biết cách đánh mất bản thân. Con gà nghĩ mình có lông gà để che chắn cho làn da quý giá của mình không hiểu lông gà thực sự giúp quả trứng được bảo vệ bởi sự đau đớn tột độ có thể làm hại trứng. Con gà nghĩ hoan lạc là món quà dành cho mình không hề nhận ra thứ này chỉ để đánh lạc hướng nó khỏi việc trứng đang từ từ thành hình. Con gà không biết “Tôi” chỉ là một trong những từ bạn vẽ ra khi nói chuyện điện thoại, một nỗ lực đơn thuần để tìm kiếm một hình dạng tốt hơn. Con gà nghĩ “Tôi” nghĩa là có bản ngã. Những con gà mái hại trứng là những con gà mang trong mình “Tôi” bất tận. Trong chúng, “Tôi” ấy bất biến đến mức chúng không thể thốt ra từ “trứng.” Nhưng, ai biết được chứ, nhỡ đâu đó chính là thứ quả trứng cần. Bởi nếu những con gà mái không bị đánh lạc hứng, nếu chúng để ý đến cuộc sống vĩ đại đang thành hình trong mình, chúng sẽ can thiệp vào chuyện của trứng.
Tôi đã bắt đầu nói về gà và nãy tới giờ đã được một lúc tôi không còn đang nói về gà nữa. Nhưng tôi vẫn nói về trứng.
Và bởi thế, tôi không hiểu trứng. Tôi chỉ hiểu một quả trứng đã vỡ: tôi đập nó vào một cái chảo rán. Bằng cách gián tiếp này, tôi dâng hiến vào sự tồn tại của trứng: sự hy sinh của tôi đang thu giảm tôi thành cuộc sống cá nhân tôi. Tôi đặt khoái lạc và nỗi đau của mình vào số phận bị che giấu của mình. Và việc chỉ có một cuộc đời, đối với những người đã thấy trứng, là một sự hy sinh. Giống như những người trong tu viện, quyét nhà và giặt giũ, phục vụ mà không có vinh quang của một mục đích cao hơn, công việc của tôi là sống trọn vẹn khoái lạc và nỗi đau của mình. Tôi cần sự nhún nhường để mà sống.
Tôi lấy thêm một quả trứng khác trong bếp, tôi đập vỡ vỏ và hình thù của nó. Và từ đúng khoảnh khắc này, không có thứ gì gọi là trứng nữa. Điều này là cần thiết bởi tôi là một người bận rộn và xao nhãng. Tôi cần phải là người biết khước từ. Tôi thuộc về một cộng đồng Tam Điểm mà ở đó, những người từng thấy trứng sẽ khước từ nó như một cách để bảo vệ nó. Chúng ta là những kẻ kiềm chế mình trước sự huỷ hoại, và làm thế quả là chuyện mệt mỏi. Ta, những điệp viên nằm vùng, toả vào trong những nhiệm vụ ít lộ liễu hơn, đôi khi nhận ra nhau. Bằng một cách nhìn nào đó, bằng một cái bắt tay, chúng ta nhận ra nhau và gọi đó là tình yêu. Và khi đó, lớp nguỵ trang của chúng tôi là không cần thiết nữa: dù chúng tôi không nói, cũng không dối nhau, dù chúng tôi không thành thật với nhau, chúng tôi cũng không che giấu được nữa. Tình yêu là khi ta được cho phép can dự thêm một chút. Số ít muốn tình yêu, phần còn lại xem tình yêu là sự vỡ mộng lớn nhất. Và vài người không thể chịu nổi việc đánh mất số ảo tưởng còn lại của mình. Ngoài kia có đủ kẻ tự nguyện yêu đương, cho rằng tình yêu sẽ khiến đời sống cá nhân họ giàu có thêm. Ngược lại: tình yêu là sự nghèo đói kiết xác. Yêu nghĩa là không có. Hơn nữa, yêu là sự vỡ mộng của những thứ bạn tưởng là yêu. Và nó không phải là phần thưởng, đó là lý do tại sao nó không thể khiến người ta trở nên phù phiếm được, tình yêu không phải là phần thưởng, nó là danh phận được phong tặng duy nhất cho những kẻ sẽ làm ô uế trứng bằng nỗi đau khổ cá nhân nếu không có được nó. Điều đó không khiến tình yêu trở thành một ngoại lệ danh dự; nó được ban cho chính những tác nhân xấu, những kẻ sẽ huỷ hoại tất cả nếu không được cho phép mơ hồ đoán mò mọi thứ.
Tất cả điệp viên đều được ban cho nhiều lợi thế để quả trứng thành hình. Điều đó không có gì đáng ghen tị bởi, ngay cả ở những danh phận kém cỏi nhất cũng là điều kiện lý tưởng cho trứng. Về phần khoái lạc của các điệp viên, họ cũng đón nhận nó mà không hề kiêu hãnh. Họ trải nghiệm mọi khoái lạc một cách khắc khổ: thậm chí chính điều này cũng là sự hy sinh của chúng ta để trứng thành hình. Chúng ta cũng bị áp đặt một bản chất cực kỳ dễ bị kích thích bởi khoái lạc vô độ. Điều càng giúp việc thành hình của trứng dễ dàng hơn. Ít nhất thì nó cũng làm cho khoái lạc bớt khắc khổ hơn.
Có những trường hợp điệp viên tử tự: họ thấy những chỉ dẫn tối thiểu mình nhận được là không đầy đủ và thấy không được hỗ trợ. Đã có trường hợp điệp viên tự công khai thân phận điệp viên bởi anh ta nhận ra việc không được hiểu thật quá sức chịu đựng và không thể chịu nổi việc tiếp tục không được người khác tôn trọng: anh ta bị xe cán chết khi đang rời khỏi nhà hàng. Có một trường hợp khác không cần phải bị loại trừ: anh ta từ từ bị cuốn vào cuộc nổi loạn của mình, anh ta nổi loạn khi phát hiện ra rằng hai hoặc ba chỉ dẫn anh ta nhận được không hề đi kèm với lời giải thích nào. Có một trường hợp khác, cũng bị loại bỏ, vì anh ta nghĩ rằng “sự thật nên được nói ra một cách dũng cảm,” và trước hết nên bắt đầu tìm ra nó trước đã; họ bảo anh ta đã nhân danh sự thật mà chết, nhưng thực tế là anh ta chỉ làm sự thật khó khăn hơn vì sự ngây thơ của anh ta; sự dũng cảm giả hiệu của anh ta thật ngông cuồng và khát vọng của anh ta với sự trung thành thật ngây thơ, anh ta chưa hiểu rằng trung thành không có nghĩa là sạch sẽ, trung thành với một thứ nghĩa là bất trung với mọi thứ khác. Những cái chết nói trên không liên quan gì tới sự tàn độc. Đó là bởi vì một công việc, hãy gọi nó là công việc của vũ trụ, phải hoàn thành, và những trường hợp cá nhân trên thật đáng tiếc là không hề đáng để cân nhắc. Đối với những ngừoi đầu hàng và trở thành cá nhân, có những thể chế, lòng bác ái, sự thấu hiểu không phân biệt động cơ, nói tóm lại là cuộc sống con người chúng ta.
Trứng xì xèo trong chảo chiên và tôi làm bữa sáng khi tha thẩn trong một giấc mơ. Không còn biết gì về hiện tại, tôi gọi đám trẻ sẽ nảy dậy từ nhiều giường, kéo ghế ra ngồi xuống ăn và công việc của ngày mới lại bắt đầu, la hét và cười và ăn, lòng trắng và lòng đỏ, vui vầy trong trận chiến, ngày là muối của chúng tôi và chúng tôi là muối của ngày, cuộc sống thật quá đỗi dễ chịu, cuộc sống làm ta bận rộn và xao nhãng, cuộc sống khiến ta cười.
Và điều đó khiến tôi cười trong sự bí ẩn của mình. Sự bí ẩn của tôi nằm ở việc tôi chỉ là một phương tiện đơn thuần chứ không phải là mục đích, nó đã cho tôi sự tự do tai hại nhất: tôi không ngốc và tôi làm được hầu như mọi thứ. Thậm chí là làm hại người khác rất nhiều, thành thật mà nói. Công việc giả tạo mà họ giao cho tôi để che giấu mục đích thực sự của tôi, bởi tôi đã tận dụng tối đa công việc giả tạo này và biến nó thành công việc thực sự của mình; bao gồm cả số tiền họ đã cho tôi như một khoản trợ cấp hàng ngày để cuộc sống tôi dễ chịu hơn để mà trứng có thể hình thành, bởi tôi đã dùng số tiền này cho những mục đích khác, chuyển quỹ, gần đây tôi đã mua cổ phiếu bia Brahma và giàu lên. Sau ngần ấy thứ, tôi vẫn bảo mình cần sự nhún nhường để mà sống. Và cả thời gian họ ban cho tôi, thứ nhàn rỗi đầy tôn kính họ ban cho ta chỉ để trứng có thể hình thành, chà, tôi đã dùng khoảng thừoi gian ấy cho những hoan lạc và nỗi đau phi pháp và quên bẵng đi trứng. Đó là sự đơn điệu cua rtooi.
Hay đó chính xác là những gì họ muốn xảy ra với tôi, để nhờ chính điều đó trứng có thể hoàn thành sứ mạng của mình? Là tự do hay tôi đang bị điều khiển? Bởi tôi cứ để ý thấy mỗi lỗi lầm của mình đều được đem ra tận dụng. Tôi dấy loạn bằng cách tôi không là gì cả, tôi chỉ có trị giá: họ chăm sóc tôi từng giây từng phút, với sự thiếu thốn tình thương tuyệt đối nhất; tôi chỉ có trị giá. Số tiền họ cho tôi, gần đây tôi dùng để chè chén. Lạm dụng lòng tin ư? Nhưng đó là vì không ai biết được thâm tâm của một người hành nghề giả vờ phản bội nhưng cuối cùng lại tin mình phản bội thật. Người ngày ngày hành nghề quên đi. Người được yêu cầu phải mang ô nhục hiển hiện. Đến chiếc gương của tôi cũng không còn phản chiếu gương mặt của chính tôi. Hoặc tôi là một điệp viên, hoặc đó thực sự là phản bội.
Vậy mà tôi vẫn ngủ giấc ngủ của một người công chính bởi tôi biết rằng cuộc sống vô ích của tôi không hề cản trở dòng chảy của thời đại. ngược lại: dường như tôi được yêu cầu phải vô ích tận cùng, dường như tôi được yêu cầu để ngủ như một người công chính. Họ muốn tôi bận rộn và xao nhãng, và họ không cần biết bằng cách nào. Bởi, bằng sự quan tâm không đúng chỗ và sự ngu ngốc sốt sắng của tôi, tôi có thể can thiệp vào thứ đang được thực hiện thông qua mình. Đó là bởi vì chính bản thân tôi, tôi dõng dạc nói, chính bản thân tôi giỏi nhất là can thiệp. Thứ nhắn nhủ cho tôi rằng tôi có thể là một tay điệp viên chính là suy nghĩ rằng số phận của tôi đã vượt qua tôi: ít nhận họ đã để tôi đoán được thế, tôi thuộc kiểu sẽ làm việc cực kỳ tệ nếu không đoán được ít nhất chút gì đó; họ làm tôi quên thứ họ để tôi đoán, nhưng tôi vẫn mơ hồ nhận ra rằng số phận đã vượt qua tôi, và tôi chính là một công cụ để họ làm công việc của mình. Nhưng trong bất kỳ trường hợp nào, tất cả những gì tôi làm được cũng chỉ là trở thành một công cụ, bởi công việc kia không bao giờ có thể thực sự là của tôi. Tôi đã cố gắng tự mình khởi sự nhưng sự không thành; hôm ấy tay tôi run bần bật. Tôi mà tiếp tục thì sức khoẻ của tôi sẽ lụn bại vĩnh viễn. Kể từ lúc đó, kể từ cuộc thử nghiệm bị cản trở đó, tôi cố gắng nghĩ mọi chuyện theo hướng sau: tôi đã được cho ngần ấy, rằng họ đã cho tôi mọi thứ cho được; rằng những điệp viên khác, những kẻ cũng chẳng hề vượt trội hơn tôi là mấy, cũng đang phải làm việc cật lực cho thứ gì đó họ không biết. Cùng những chỉ dẫn tối thiểu y hệt. Tôi đã được cho ngần ấy; chẳng hạn, thứ này đây: thi thoảng, khi trái tim tôi đập trong niềm danh dự, ít nhất tôi biết mình không nhận ra gì cả! Với trái tim tôi đập trong xúc cảm, ít nhất tôi không hiểu gì cả! Với trái tim tôi đập trong đức tin, ít nhất tôi không biết gì cả!
Nhưng còn trứng thì sao? Đây là một trong những mánh khoé của chúng: khi tôi đang nói về trứng, tôi quên béng trứng. “Nói đi, nói đi!” chúng dẫn dụ tôi. Và trứng được bảo vệ hoàn hảo bởi những lời nói ấy. Cứ nói đi, một trong cách dẫn dụ của chúng, tôi mệt quá.
Khi tôi dâng hiến mình cho trứng, tôi đã quên nó. Sự lãng quên cần thiết của tôi. Sự lãng quên vị kỉ của tôi. Bởi trứng là sự xâm lăng. Trước sự tôn sùng có tính chiếm hữu của tôi, nó có thể rút lui và không bao giờ quay lại. Nhưng nếu nó bị quên lãng. Nhưng nếu tôi hy sinh việc chỉ sống một cuộc đời của mình và quên nó đi. Nếu trứng trở nên bất khả. Thì - tự do, mỏng manh, không một lời nhắn nhủ cho tôi - có lẽ nó sẽ di chuyển lần cuối cùng từ không gian đến ô cửa sổ này, ô cửa sổ tôi vẫn hằng để mở. Và vào lúc bình minh, nó sẽ hạ cánh xuống toà nhà của chúng tôi. Thanh thản đi vào bếp. Tự rọi mình bằng vẻ xanh xao của tôi.
Truyện Thứ Năm
Truyện này có thể được đặt là “Những Bức Tượng.” Một nhan đề khả thi khác là “Cuộc Giết Chóc.” Thậm chí có thể gọi là “Cách Diệt Gián.” Vậy nên, tôi sẽ kể ít nhất ba truyện, toàn bộ đều là thật, bởi giữa chúng không có mâu thuẫn. Dù hợp thành một truyện, chúng hoàn toàn có khả năng trở thành một ngàn lẻ một truyện, nếu tôi được ban cho một ngàn lẻ một đêm.
Truyện đầu tiên, “Cách Diệt Gián”, bắt đầu như sau: Tôi đang than vãn về lũ gián. Một người đàn bà nọ nghe tôi than vãn. Bà ta mách tôi công thức thuốc gián. Tôi phải trộn đều đương, bột mì và thạch cao với tỷ lệ bằng nhau. Bột và đường sẽ dẫn dụ, thạch cao sẽ hút kiệt nước nội tạng chúng. Tôi làm theo. Lũ gián chết.
Truyện tiếp theo thực ra là truyện đầu tiên, tên là “Cuộc Giết Chóc.” Truyện bắt đầu như sau: Tôi đang than vãn về lũ gián. Một người đàn bà nọ nghe tôi than vãn. Tuân theo công thức. Và rồi cuộc giết chóc diễn ra. Sự thật là tôi chỉ phàn nàn về chúng một cách trừu tượng thôi, bởi chúng còn chẳng phải của tôi: chúng thuộc về tầng trệt và bò lên chỗ tôi qua những đường ống trong toà nhà, xâm chiếm căn hộ chúng tôi. Chỉ khi tôi trộn xong thuốc, chúng mới là của tôi. Thế là, nhân danh chúng tôi, tôi bắt đầu cân đong nguyên liệu với một sự tập trung khác lạ. Một nỗi ghê tởm mơ hồ ập đến tôi, một cảm giác phẫn nộ. Ban ngày, lũ gián vô hình và chẳng ai tin rằng có bí mật độc ác nào đó đang gặm nhấm một gia đình yên bình như thế. Nhưng vào ban ngày, khi lũ gián, như những bí mật độc ác, đi ngủ thì tôi lại đang chuẩn bị thuốc độc cho chúng vào ban đêm. Tỉ mỉ, hăm hở, tôi pha chế thứ thuốc tiên gọi cái chết từ từ. Trong chính tôi, có nỗi sợ phẫn nộ và bí mật tội lỗi nào đang dẫn lối. Giờ đây, lạnh lùng, tôi chỉ muốn duy một thứ: giết sạch mọi con gián trên đời. Gián bò lên qua những đường ống khi con người mệt mỏi đang chìm trong giấc ngủ. Và giờ đây, thuốc pha đã sẵn sàng, nom trắng ởn. Như thể để đối mặt với lũ gián tương đồng về độ xảo quyệt, tôi cẩn thận rắc bột cho đến khi nó trông như một mảng bụi vô hại phủ lên. Trên giường, trong im lặng của căn hộ, tôi tưởng tượng cảnh chúng từng con một bò lên nhà bếp, nơi bóng tối đang ngủ, chỉ còn chiếc khăn tắm đơn độc đầy cảnh giác trên dây phơi. Nhiều giờ sau, tôi choàng tỉnh, giật mình vì đã ngủ quên mất. Trời hừng sáng. Tôi bước qua nhà bếp. Chúng nằm la liệt trên sàn nhà, to xác và giòn tan. Trong đêm, tôi đã giết chúng. Nhân danh chúng tôi, trời hừng sáng. Trên ngọn đồi gần đó, một con gà trống cất tiếng gáy.
Truyện thứ ba sắp kể mang tên “Những Bức Tượng.” Truyện mở đầu bằng việc tôi đã than vãn về lũ gián. Rồi người đàn bà ấy lại xuất hiện. Và cứ thế, mọi chuyện tiếp diễn đến khoảnh khắc tôi tỉnh giấc thì trời vừa hừng sáng, vẫn còn lơ mơ ngái ngủ, bước qua nhà bếp. Sàn chỗ rửa bát từ đây nhìn sang còn ngái ngủ hơn tôi. Trong ánh rạng đông mờ ảo, một màu tím nhạt khiến tất cả nhạt nhoà; dưới chân tôi, những mảng sáng tối loang lổ, hàng chục bức tượng cứng đờ rải rác khắp nơi. Những con gián đã hoá cứng từ ruột ra tới vỏ. Vài con chỏng gọng. Những con khác đông cứng trong một cử động nào đó sẽ không bao giờ được hoàn thành. Trên miệng vài con vẫn còn dính chút bột trắng. Trong bình minh đang rạng trên Pompeii, tôi là nhân chứng đầu tiên. Tôi biết đêm qua đã xảy ra chuyện gì, tôi biết về cuộc vui điên cuồng trong bóng tối. Ở một số con, thạch cao từ từ cứng lại như một quá trình hữu cơ, và lũ gián, trong những cử động ngày càng giằng xé, đã tham lam tận hưởng khoái lạc của đêm, cố thoát khỏi nội tạng mình. Cho đến khi chúng hoá đá, trong nỗi kinh hoàng ngây thơ và với một vẻ hờn trách đau đớn đến vậy. Những con khác, bất ngờ bị tấn công từ bên trong mình - thậm chí còn chẳng kịp nhận ra cơ thể mình đang hoá đá! - chúng đột nhiên kết tinh, như một từ ngữ bị chặn lại trên môi ai đó: Tôi yêu… Lũ gian, van vỉ hai tiếng yêu thương trong vô vọng, đã hát suốt đêm hè. Trong khi con gián đằng kia, con có râu nâu dính đầy bột trắng, hẳn nó đã nhận ra trong muộn màng rằng nó đã tự ướp xác mình bởi không biết cách đối xử với vạn vật bằng sự ân sủng vô tư của một kẻ vô tâm: “Chỉ vì ta nhìn quá sâu vào bên trong! Chỉ vì ta nhìn quá sâu vào bên trong…” - từ độ cao lạnh lùng của một con người, tôi đứng nhìn sự huỷ diệt của một thế giới. Bình minh lên. Lác đác khắp chỗ, những chiếc râu khô giòn của lũ gián chết rung rinh trong gió. Con gà trống từ câu chuyện trước lại cất tiếng gáy.
Câu chuyện thứ tư mở ra một thời đại mới trong gia đình của tôi. Nó bắt đầu như thường lệ: tôi đang than vãn về lũ gián. Truyện cứ thế tiếp diễn tới khoảnh khắc tôi nhìn thấy những bức tượng thạch cao. Cái chết chắc chắn. Tôi nhìn về phía những đường ống, nơi lũ gián tối nay sẽ lại kéo lên, bò từng con một trong hàng dài bất tận. Liệu tôi có nên đêm nào cũng lại rắc thứ đường chết chóc ấy, như một kẻ chẳng thể đi ngủ nếu chưa thực hiện nghi thức khát máu nọ. Và liệu rằng tôi có nên mỗi sáng sớm lại mộng du ra hiên nhà, trong cơn thèm khát được chiêm ngưỡng những bức tượng mà đêm đẫm mồ hôi của tôi đã tạc nên. Tôi run lên trước khoái lạc đồi bại khi nghĩ về hai tồn tại chồng chập như một phù thuỷ của mình. Tôi cũng run lên khi thấy thạch cao đang cứng lại, trước sự suy đồi của tồn tại sẽ huỷ hoại dạng thức nội tại của tôi.
Khoảnh khắc nghiệt ngã khi phải chọn giữa hai con đường tôi tin sẽ chia ra hai ngả chứng tỏ rằng bất cứ lựa chọn nào cũng đồng nghĩa với việc hi sinh mình hoặc linh hồn mình. Tôi đã chọn. Và hôm nay, tôi âm thầm mang theo tấm biển vinh danh trong trái tim: “Ngôi nhà này đã được khử trùng.”
Truyện thứ năm có tên “Leibnitz và Tính Siêu Việt của Tình Yêu ở Polynesia”... Truyện mở đầu như sau: tôi đang than vãn về lũ gián.
Tha cho Chúa
Tôi đi dọc Avenida Copacabana và mơ màng nhìn những toà nhà, quãng biển, con người, đầu không thực sự nghĩ gì. Tôi vẫn chưa nhận ra mình không thực sự xao nhãng, chỉ là tôi đã thôi tự vệ, tôi đang là một thứ khá hiếm thấy: tự do. Tôi thấy mọi thứ, một cách ngẫu nhiên. Tôi đang từ từ nhận ra mình đang để ý mọi thứ. Sự tự do của tôi dần dần trở nên càng mãnh liệt, từ chối việc thác xuống thành tự do. Đây không phải một tour du proriétaire, không thứ gì thuộc về tôi, tôi cũng không muốn điều đó. Nhưng tôi dường như mãn nguyện với những thứ mình thấy.
Và rồi, tôi có một cảm giác mình chưa bao giờ nghe ai nói về nó cả. Từ tình yêu thuần khiết, tôi cảm thấy tôi là mẹ Chúa, tôi là Đất Mẹ, là thế giới. Từ tình yêu thuần khiết, thực sự đấy, không kiêu căng cũng không vinh quang, không hề có một chút cảm giác thượng đẳng hay bình đẳng nào, tôi đã trở thành, bằng tình yêu thuần tuý, mẹ của vạn vật hiện hữu. Tôi cũng khám phá ra rằng nếu tất cả “thực sự” là thứ tôi đang cảm nhận - chứ không phải một cảm giác tiềm ẩn sai lầm - thì Chúa không kiêu ngạo hay nhỏ nhen sẽ cho phép ai đó yêu thương Ngài và không có nghãi vụ gì với tôi. Sự thân mật trong tình yêu tôi dành cho Ngài sẽ được Ngài chấp nhận. Cảm giác này với tôi thật là mới mẻ nhưng cũng rất chắc chắn, và nó chưa bao giờ xảy ra với tôi trước đây chỉ bởi trước đây nó có thể đã không tồn tại. Tôi biết ta yêu bất cứ thứ gì là Chúa. Với tình yêu nghiêm túc, thứ tình yêu trang trọng, nỗi sợ và lòng sùng kính. Nhưng tôi chưa bao giờ nghe đến thứ tình cảm mẹ con với Ngài. Và bởi thứ tình yêu dành cho một đứa con trai không thu giảm nó mà thậm chí còn phóng to nó ra, và bởi như thế, làm mẹ của cả thế giới này chỉ là thứ tình yêu tự do của tôi mà thôi.
Và bởi như thể, tôi suýt đạp phải một con chuột chết bự chảng. Trong ít hơn một giây, tôi rùng mình vì sự khiếp đảm của việc sống, trong ít hơn một giấy, tôi sụp đổ trong hoảng hốt và cố kìm nén tiếng hét hãi hùng nhất của mình. Gần như bỏ chạy trong kinh sợ, mù loà giữa những người qua phố, tôi đến một góc phố khác rồi mà vẫn còn bàng hoàng, dựa vào cây cột, nhắm nghiền đôi mắt không còn muốn thấy gì nữa. Nhưng hình ảnh dính vào mí mắt tôi: một con chuột lông hung đỏ với cái đuôi khổng lồ, chân nó bị dẫm nát, chết, cứng đờ, ngả màu cam thối. Tôi sợ chuột vô hạn.
Toàn thân lẩy bẩy, tôi xoay xở để sống tiếp. Hoàn toàn bối rối, tôi tiếp tục đi, miệng như con nít gặp chuyện không ngờ. Tôi cố gắng cắt xẻ kết nối giữa hai sự thực: cảm giác của tôi mấy phút trước và con chuột chết. Nhưng chẳng ích gì. Ít nhất sự tiếp giáp đã liên kết chúng lại. Hai sự thực đã phi lí có chung một mối liên hệ. Việc con chuột là đối tác của tôi khiến tôi kinh hoàng. Và đột nhiên sự phản khảng bao trùm: vậy tôi không thể cứ khinh suất mà đầu hàng tình yêu sao? Chúa đang nhắc nhở tôi điều gì? Tôi đâu phải kẻ cần nhắc nhở rằng bên trong mọi thứ đều là máu. Tôi không chỉ không quên máu bên trong mọi thứ mà còn cho phép và khát khao nó, tôi là quá nhiều máu để quên máu, và với tôi từ ngữ tâm linh chẳng có ý nghĩa gì và từ ngữ trần tục cũng thế. Đâu có cần phải ném cả một con chuột vào gương mặt trần trụi của tôi. Không phải ngay lúc đó. Lý do dễ mang ra nhất là nỗi sợ đã đeo đẳng và khiến tôi mê sảng từ thời thơ ấu, loài chuột đã chế nhạo tôi, trong thuở xa xưa thế giới, chúng đã ăn tôi dữ dội và gấp rút. Vậy chuyện là thế ư? Trong khi tôi lang thang khắp thế giới không cầu gì, cần gì, yêu bằng tình yêu thuần khiết, ngây thơ, Chúa lại cho tôi thấy con chuột của Ngài? Sự thô lỗ của Chúa làm tôi tổn thương và thấy bị xúc phạm. Chúa là kẻ vũ phu. Khi tôi bước đi với trái tim đã khoá chặt, nỗi thất vọng trong tôi trở nên không sao ủi an được, như thể nó ập đến khi tôi vẫn chỉ còn là một đứa trẻ. Tôi tiếp tục bước, cố gắng quên, Nhưng điều duy nhất trong đầu tôi bây giờ là ý định trả thù. Nhưng trước Chúa-Toàn-Năng, vị Chúa chỉ cần một con chuột bẹp dí cũng đè bẹp được tôi, tôi trả thù kiểu gì? Sự mỏng manh của tôi là một sinh vật đơn độc. Trong khát khao trả thù, tôi thậm chí còn không thể đối diện với Ngài, vì tôi không biết Ngài cư ngụ nhiều nhất ở nơi nào, và liệu tôi, khi nhìn chằm chằm vào nơi ấy với ánh mắt giận dữ, liệu tôi có tấy Ngài không? Trong con chuột ấy? Trên cửa sổ ấy? Trong những viên đá rải đường ấy? Bên trong tôi là nơi Ngài không còn ở đó nữa. Bên trong tôi là nơi tôi không còn thấy Ngài nữa.
Rồi ý nghĩ trả thù của kẻ yếu hơn xuất hiện trong tôi: à, vậy đó sao? Vậy thì tôi sẽ không giữ bí mật nào nữa, tôi kể luôn đây. Tôi biết thật hèn hạ khi tọc mạch đời tư của ai đó rồi đem bí mật của họ kể ra, nhưng tôi sẽ kể - đừng kể, vì tình yêu thuầ tuý, đừng kể, hãy giữ những thứ Ngài xấu hổ cho riêng mình - nhưng tôi sẽ kể, vâng, tôi sẽ kể cho mọi người chuyện gì đã xảy ra với tôi, lần này Ngài không xong đâu, thế đấy, tôi sẽ kể điều Ngài đã làm, tôi sẽ huỷ hoại danh tiếng của Ngài.
… nhưng ai biết được, có khi nào chuyện đó xảy ra bởi thế giới này cũng là một con chuột và tôi nghĩ rằng mình cũng đã chuẩn bị cho chuột. Bởi tôi tưởng mình mạnh mẽ hơn. Bởi tôi đã có một phép tính sai lầm về tình yêu: tôi tưởng, bằng cách cộng tất cả những gì tôi hiểu, tôi đã yêu. Tôi không biết rằng, cộng tất cả những gì ta không hiểu mới là cách thực sự để yêu. Bởi tôi, chỉ từ việc cảm nhận thấy tình yêu, đã nghĩ rằng yêu là dễ. Bởi tôi đâu có muốn thứ tình yêu trang trọng, nhưng tôi không hiểu rằng sự trang trọng biến những gì không hiểu được thành nghi lễ và tự chuyển hoá nó thành vật dâng. Và cũng bởi tôi luôn có xu hướng tiếp chiến, chiến đấu là cách tôi hành xử. Bởi tôi luôn cố xoay xở mọi việc theo cách của mình. Bởi tôi vẫn chưa biết cách nhượng bộ. Bởi sâu thẳm tôi muốn yêu thứ tôi sẽ yêu - chứ không phải thứ đang hiện hữu. Bởi tôi vẫn không phải là tôi nên hình phạt là yêu một thế giới không phải là nó. Cũng bởi vì tôi đã lăng mạ bản thân mình chẳng vì điều gì. Bởi tôi cần được nói thẳng mặt, bởi tôi quá cứng đầu. Bởi tôi quá chiếm hữu để rồi bị hỏi với chút mỉa mai rằng tôi có muốn một con chuột không. Bởi vì tôi chỉ có thể là mẹ của vạn vật một khi tôi có thể tay trần cầm con chuột. Tôi biết mình sẽ không bao giờ có thể nhặt con chuột lên mà không chết cái chết kinh khủng nhất. Vậy, hãy để tôi quay về với Magnificat, bài cá mù quáng về những gì không được biết đến hoặc không thấy được. Và hãy để tôi trở về với thứ hình thức luận đã đẩy tôi ra xa. Bởi hình thức luận không làm tổn thương sự giản dị của tôi, mà tổn thương niềm kiêu hãnh của tôi, vì chính niềm kiêu hãng ấy khi được sinh ra đã khiến tôi gần gũi với thế giới, nhưng thế giới này là thứ tôi đã giật ra khỏi mình với một tiếng thét câm lặng. Bởi con chuột tồn tại như chính tôi tồn tại, và có lẽ cả tôi lẫn con chuột đều không được phép nhìn thấy chính mình, khoảng cách khiến chúng tôi bình đẳng. Có lẽ tôi trước hết phải chấp nhận bản chất này của mình, một bản chất khát khao cái chết của một con chuột. Có lẽ tôi đã tự cho mình là tinh tế chỉ vì chưa phạm lỗi. Chỉ vì đã kìm nén những tội lỗi của mình, tôi nghĩ mình được tạo nên từ tình yêu vô tội. Có lẽ tôi không thể nhìn con chuột chừng nào còn chưa nhìn vào linh hồn mình mà thôi phẫn nộ, thứ linh hồn bị kìm nén. Có lẽ tôi phải gọi “thế giới” là cách tôi tồn tại như một phần của tất thảy. Làm sao tôi có thể yêu sự vĩ đại của thế giới nếu tôi không thể yêu được toàn phạm vi bản chất mình? Chừng nào tôi còn nghĩ “Chúa” tốt lành chỉ bởi vì tôi xấu xa, tôi sẽ không yêu thương gì hết: đó chỉ là cách tôi vạch mặt mình. Tôi, kẻ thậm chí còn chưa từng tìm kiếm bản thân mình tới tận cùng, đã vội chọn yêu cái đối lập với mình và muốn gọi cái đối lập của mình ấy là Chúa. Tôi, kẻ sẽ không bao giờ quen với việc là mình, lại hy vọng thế giới sẽ không làm tôi kinh hoàng. Bởi tôi, kẻ duy nhất từng bắt mình phục tùng mình, bởi tôi còn khắc nghiệt với chính bản thân mình còn hơn cả chính tôi, đã hy vọng rằng sẽ bù đắp cho chính tôi bằng một trái đất ít bạo lực hơn tôi. Bởi chừng nào tôi còn yêu Chúa bởi vì tôi không muốn bản thân mình, tôi sẽ là một cái chết thảm, và trò chơi cuộc đời lớn hơn của tôi sẽ không diễn ra. Chừng nào tôi còn tạo ra Chúa, Ngài không tồn tại.
Một Truyện về Rất nhiều Yêu thương
Ngày xửa ngày xưa, có cô bé nọ đã quan sát lũ gà mái kỹ đến mức thấu tận tâm hồn cùng những khát khao thầm kín nhất của chúng. Gà mái thì âu lo, gà trống thì chịu đựng một nỗi thống khổ tựa loài người: một mặt, hắn không tìm thấy tình yêu đích thực trong cả dàn hậu cung của mình, mặt khác, gã phải thức trắng đêm để không bỏ lỡ khoảnh khắc những tia sáng bình minh xa xôi nhất hé lộ mà gắng hết sức bình sinh gáy cho thật kêu. Đó là nghĩa vụ, cũng là nghệ thuật của gã. Lại nói về cô bé, cô có hai con gà. Một tên Pedrina, con còn lại là Petronilha.
Hễ nghi một con bị đau gan, cô sẽ luồn dưới cánh chúng mà ngửi với sự thẳng thừng hệt như một y tá, thử xem có dấu hiệu ban đầu nào của căn bệnh hay không, bởi mùi của một con gà sống không phải chuyện đùa. Rồi cô sẽ chạy đi xin thuốc ở chỗ dì. Và dì bảo: “Gan cháu có bị sao đâu.” Khi ấy, vì rất thân với người dì đáng quý, cô bé giải thích mình lấy thuốc cho ai. Cô nghĩ tốt nhất là cho Pedrina và Petronilha uống cùng một lượng thuốc để tránh chúng lây lan cho nhau mà cô không biết. Cho chúng uống thuốc kỳ thực vô ích, vì Pedrina và Petronilha cứ suốt ngày mổ đất và ăn những rác rưởi gây hại cho gan chúng. Và cái mùi dưới cánh tụi nó đích thị là cái mùi nhức óc đó. Cô chưa bao giờ nghĩ tới chuyện dùng xịt khử mùi cho chúng bởi ở Minas Gerias, nơi cô sống, chẳng có ai làm thế, cũng như chẳng có ai mặc đồ lót bằng ni-lông, mà họ đều chọn loại mút-lim. Dì vẫn đưa cô thuốc, thứ chất lỏng màu đen mà cô bé nghi rằng chỉ là nước lã pha vài giọt cà phê - rồi bắt đầu màn tra tấn nạy mỏ cặp gà để bón cho thứ sẽ chữa trị chúng khỏi việc là gà. Cô bé vẫn chưa hiểu người ta không thể được chữa trị khỏi việc là người và lũ gà cũng không thể được chữa trị khỏi việc là gà: người hay gà cũng có những nỗi buồn và sự cao cả (ở gà, nó nằm ở việc đẻ ra những quả trứng trắng mởn, tròn trịa) cố hữu trong chủng loài mình. Cô bé sống ở nông thôn và chẳng có hiệu thuốc nào gần đó khuyên cô điều này.
Lại một chuyện gay go nữa khi cô cho rằng Pedrina và Petronilha quá gầy dưới bộ lông xù xì của chúng dù tụi nó ăn suốt ngày. Cô bé không hiểu rằng việc càng vỗ béo chúng sẽ khiến cái kết cục lên bàn ăn của chúng càng nhanh diễn ra. Và cô lại bắt đầu bước khó khăn nhất trong tất cả: nạy mỏ chúng ra. Trong khu vườn mênh mông ở Minas Gerias, cô bé dựa vào bản năng trở thành chuyên gia về gà. Lớn lên, cô ngạc nhiên khi biết từ “gà” còn là tiếng lóng ám chỉ thứ khác[2]. Cô không nhận ra sự nghiêm túc đầy hài hước của toàn bộ câu chuyện ấy:
“Nhưng chính con gà trống mới là kẻ khởi sự, kẻ muốn làm chuyện ấy! Lũ gà mái chẳng làm gì cả! Và mọi chuyện diễn ra nhanh tới mức khó nhận ra! Chính gà trống mới là kẻ luôn cố yêu một con trong đám gà mái mà chẳng thể!”
Hôm nọ, gia đình quyết định đưa cô con gái bé nhỏ lên nhà người thân cách đó khá xa chơi một ngày. Khi cô bé trở về, con Petronilha không còn trên đời nữa. Dì cô bảo:
“Nhà mình ăn Petronilha rồi.”
Cô bé là sinh vật với trái tim yêu thương vô bờ bến: một con gà không thể đáp lại tình yêu thương cô dành cho nó, nhưng cô vẫn có thể cứ yêu nó mà không cần đối phương đền trả. Khi cô biết điều đã xảy ra với Petronilha, cô bắt đầu ghét tất cả mọi người trong nhà, ngoại trừ mẹ cô, người không thích ăn thịt gà và đám gia nhân, người chỉ ăn thịt bò hoặc đuôi bò. Còn cha mình, chậc, cô chẳng nhìn mặt: ông là kẻ thích thịt gà nhất trên đời. Mẹ cô để ý thấy điều này và giải thích mọi chuyện cho cô.
“Một khi được con người ăn, động vật sẽ trở nên giống con người hơn bởi chúng nằm lại bên trong họ. Trong nhà, chỉ có hai chúng ta là không có Petronilha trong mình thôi đó, con. Điều đó tệ thật đấy.”
Pedrina, con gà cô bé thầm yêu thương nhiều hơn, vốn vẫn mong manh từ trước, chết vì nguyên nhân tự nhiên. Thấy Pedrina run rẩy giữa sân nắng như thiêu đốt, cô bọc nó trong tấm vải đen rồi đặt trên bệ lò gạch nóng trên chiếc lò nướng truyền thống thường thấy ở những nông trại quanh Minas Gerais. Ai nấy cũng can ngăn, cho rằng cô bé đang khiến nó chết nhanh hơn, nhưng cô vẫn ngoan cố đặt con gà bọc kín lên gạch. Sáng hôm sau, khi thấy Pedrina đã chết cứng đờ, chỉ đến lúc ấy, trong nước mắt tuôn như mưa, cô mới tin rằng mình đã gián tiếp giết chết sinh vật bé nhỏ ấy.
Lớn lên thêm chút nữa, cô bé có một cô gà khác, tên Eponina.
Tình yêu của cô cho Eponina: lần này, thực tế hơn và không còn nhiều lãng mạn; đó là thứ tình yêu đến từ một con người đã từng đau vì tình yêu. Và khi đến lượt Eponina bị ăn, cô bé không chỉ biết mà còn cho đó là số phận không tránh khỏi của bất kỳ con gà mái nào ở đời. Đám gà hình như biết trước số phận của mình, không bao giờ chúng học cách yêu chủ nhân của mình hay con gà trống. Gà mái nào cũng lẻ loi giữa đời.
Nhưng cô bé không quên lời mẹ nói về việc ăn thịt con vật mình yêu: trong nhà, cô là người ăn Eponina nhiều nhất, chẳng ngon miệng gì, nhưng cô ăn với niềm hoan lạc gần như thuộc về xác thịt, bởi giờ đây, cô đã biết Eponina sẽ hoà vào trong người mình và thuộc về cô nhiều hơn lúc nó còn sống. Họ nấu Eponina trong nồi tiết quánh như xốt. Thế là cô bé, trong nghi lễ ngoại giáo được truyền từ cơ thể này sang cơ thể khác qua nhiều thế kỷ, đã ăn thịt và uống máu con gà. Trong bữa ăn ấy, cô ghen tị với bất kỳ người nào cũng đang ăn Eponina. Cô bé là sinh vật được sinh ra để yêu thương, cho tới khi cô trở thành thiếu nữ và đàn ông xuất hiện.
Cô Algrave
Cô dễ bị phán xét. Đó là lý do tại sao cô không kể cho ai nghe điều gì. Mà nếu có kể, ngừoi ta cũng khồn tin cô bởi họ không tin vào hiện thực. Nhưng cô, người sống ở London, thành phố của những con ma cư ngụ sâu trong hẻm tối, biết sự thật.
Ngày của cô, thứ Sáu, cũng giống mọi ngày. Chuyện không có gì cho tới tối thứ Bảy. Nhưng vào thứ Sáu, cô vẫn làm mọi chuyện như thường lệ. Dù vậy, một ký ức kinh hoàng cứ ám ảnh cô: khi cô còn nhỏ, tầm bảy tuổi, cô chơi trò gia đình với đứa anh họ tên Jack trên chiếc giường lớn của Ngoại. Và chúng làm mọi thứ để có con nhưng không thành. Cô chẳng gặp lại Jack, cũng chẳng muốn gặp. Nếu cô có tội thì hắn cũng chẳng tránh đâu được.
Độc thân, tất nhiên, còn trinh, tất nhiên. Cô sống một mình ở căn hộ tầng thượng tại Soho. Hôm đó, cô đi mua nhu yếu phẩm: rau và quả. Bởi cô nghĩ ăn thịt là tội ác.
Khi đi ngang qua Piccadilly Circus và bắt gặp những người phụ nữ đứng chờ đàn ông bên góc đường, cô nôn khan. Lại còn vì tiền nữa chứ! Quá sức chịu đựng rồi. Và cả bức tượng Eros đằng kia nữa chứ, thật khiếm nhã.
Ăn trưa xong, cô đi làm: một thợ đánh máy chuẩn mực. Ông chủ chẳng bao giờ nhìn cô, nhưng may mắn là ông đối xử với cô rất tôn trọng và gọi cô là Cô Algrave. Tên thật của cô là Ruth. Cô là người gốc Ireland. Mái tóc cô màu hung, luôn được búi chặt sau gáy. Cô nhiều tàn nhang, nước da trong và mỏng tựa làn lụa trắng. Mi cô cũng màu đỏ. Cô là một người phụ nữ đẹp.
Cô lấy làm tự hào cái vóc dáng của mình lắm: nở nang và cao ráo. Nhưng chưa ai từng chạm vào ngựa cô cả.
Cô hay ăn tối ở một nhà hàng rẻ tiền ngay tại Soho. Cô thường gọi món mì trụng chan xốt cà chua. Và cô chưa bao giờ đặt chân vào quán rượu: chỉ cần thoáng ngửi thấy mùi cồn cũng làm cô phát nôn. Cô thấy cả loài người đang xúc phạm mình.
Cô trồng những chậu phong lữ đỏ rực rỡ mỗi đỏ xuân về. Cha cô từng là mục sư Kháng Cách, mẹ cô vẫn sống ở Dublin với người con trai đã lập gia đình. Em trai cô lấy một con chó cái đúng nghĩa tên Tootzi.
Thi thoảng, cô Algrave vẫn viết thư phản đối gửi đến The Times. Và họ đăng thật. Cô vô cùng thích thú khi nhìn thấy tên mình trên ấy: Trân trọng, Ruth Algrave
Cô chỉ tắm mỗi tuần một lần vào thứ Bảy. Để không phải nhìn thấy cơ thể trần truồng của mình, cô thậm chí còn chẳng cởi quần lót và áo ngực.
Ngày định mệnh ấy là thứ Bảy nên cô không phải đi làm. Cô dậy từ rất sớm, uống chút trà lài rồi cầu nguyện. Sau đó, cô ra ngoài hít thở chút không khí trong lành.
Ở chỗ gần Savoy Hotel, cô suýt bị xe đâm. Nếu cô bị đâm thật và chết, sẽ thật kinh khủng vì cô sẽ không được trải qua sự kiện tối hboom đó.
Cô đến buổi tập hợp xướng. Giọng cô truyền cảm lạ thường. Phải, cô quả là một người vô cùng đặc biệt.
Rồi cô đi ăn trưa và cho phép mình ăn tôm: chúng ngon tới mức gần như là tội lỗi.
Chiều đến, cô ra Hyde Park ngồi trên bãi cỏ. Cô mang theo Kinh Thánh để đọc. Nhưng - Chúa tha thứ cho cô - mặt trời chói chang quá, ấm áp quá, nóng bức quá khiến cô chẳng đọc được chữ nào, chỉ có thể ngồi bất động trên mặt đất, không đủ can đảm để nằm xuống. Cô gắng hết sức để không nhìn những cặp đôi đang hôn và âu yếm nhau một cách vô liêm sỉ.
Về nhà, cô tưới những chậu thu hải đường rồi đi tắm. Sau đó, cô đến thăm bà Cabot chín bảy tuổi, mang theo một lát bánh nho khô để họ cùng thưởng trà. Cô Algrave cảm thấy rất hạnh phúc, dù sao thì… Ừm, dù sao đi nữa.
Cô trở về nhà lúc bảy giờ. Chẳng có việc gì làm, cô ngồi đan áo len, áo có màu vàng rực như mặt trời.
Trước khi ngủ, cô uống thêm trà lài và dùng thêm bánh quy, đánh răng, thay đồ và lên giường. Những tấm rem voan mỏng manh kia là do chính tay cô may và treo lên.
Đã tháng Năm. Những tấm rèm bay lượn trong làn gió đêm đặc biệt ấy. Sao lại đặc biệt? Cô không biết nữa.
Cô đọc mấy dòng báo buổi sáng rồi tắt đèn ngủ. Qua khung cửa sổ mờ, ánh trăng tròn vằng vặc chiếu vào.
Cô thở dài não nề vì sống một mình thật khổ sở. Nỗi cô đơn đang đè nghiến cô. Thật kinh khủng khi không có lấy một người để trò chuyện. Cô là sinh vật cô độc nhất mà cô từng biết. Ngay cả bà Cabot còn có con mèo. Ruth Algrave không nuôi thú cưng: chúng quá thú tính so với gu của cô. Cô cũng không mua tivi vì hai lý do: không đủ tiền mua và không muốn ngồi xem những thứ đồi bại lập loè trên màn hình. Trên tivi nhà bà Cabot, cô từng thấy một người đàn ông hôn môi một phụ nữ. Khoan hãy nói tới chuyện lây lan vi trùng nhé. Ôi, nếu có thể, cô sẽ viết thư phản đối gửi tờ The Times mỗi ngày. Nhưng phản đối cũng có được ích gì đâu. Sự vô sỉ của thế giới đã ngấm vào không khí rồi. Cô từng chứng kiến cảnh hai con chó đang giao cấu. Cô sốc tận óc. Nhưng nếu Chúa đã muốn thì cũng đành thôi. Dù sao cũng sẽ không ai chạm vào người mình, cô tự nhủ. Cô tiếp tục chịu đựng nỗi cô đơn của mình.
Ngay cả lũ trẻ con cũng đồi bại. Cô né xa chúng nó. Và cô vô cùng hối hận vì đã được sinh ra từ sự thiếu kiềm chế của cha mẹ mình. Cô xấu hổ vì họ thật là trơ trẽn.
Cô có thói quen để gạo sống trên bệ cửa sổ nên hay có những chú bồ câu ghé thăm. Đôi khi, chúng bay cả vào trong phòng ngủ. Hẳn Chúa đã phái chúng tới. Thật ngây thơ. Tiếng gù êm ái. Dù thế, tiếng gù ấy cũng có chút gì không đứng đắn, dù không đến nỗi kinh khủng như cảnh một người phụ nữ ăn mặc phóng túng trên tivi. Ngày mai, nhất định cô sẽ viết thư phản đối những thói hư tật xấu của thành phố London đáng nguyền rủa này. Cô từng thấy những kẻ nghiện xếp hàng bên ngoài hiệu thuốc chờ tới lượt mình vào chích thuốc. Sao Nữ hoàng có thể ngó ngơ chuyện này chứ? Quả là quái lạ. Cô sẽ viết thêm một là thư nữa để lên án chính Nữ hoàng. Cô viết rất hay, không sai ngữ pháp và thương tranh thủ đánh máy những bức thư này ở văn phòng khi rỗi. Ông sếp Clairson của cô khen ngợi những lá thư được đăng báo của cô. Ông ấy còn nói ngày nào đó cô có thể trở thành nhà văn. Cô thấy tự hào lắm, cảm ơn ông ấy rối rít.
Cô nằm đó với nỗi cô đơn. Cái “dù sao thì” ấy.
Chính lúc ấy, sự việc xảy ra.
Cô cảm nhận thứ gì đó đang trèo qua cửa sổ, không phải bồ câu. Cô khiếp vía, hét lớn:
“Ai?”
Gió mang câu trả lời tới:
“Tôi là một cái Tôi”
“Mi là ai?” cô run rẩy hỏi.
“Tôi từ sao Thổ tới để yêu em.”
“Nhưng tôi có thấy anh đâu!” cô kêu lên.
“Quan trọng là em cảm nhận được tôi.”
Quả thật, cô cảm nhận được hắn. Một luồng điện rùng mình chạy dọc sống lưng.
“Anh tên gì?” cô hỏi đầy sợ hãi.
“Tên không quan trọng.”
“Nhưng tôi muốn gọi tên anh!”
“Gọi là Ixtlan.”
Họ dùng tiếng Phạn để hiểu nhau. Cái chạm của hắn lạnh như thằn lằn, làm cô run lẩy bẩy. Trên đầu Ixtlan những con rắn quấn quýt thành vương miện, ngoan ngoãn vì sợ cái chết lửng lơ. Chiếc áo choàng phủ lên thân hình hắn mang sắc tím đau đớn - thứ vàng bệ rạc và tím đặc quánh.
Hắn phán:
“Cởi đồ ra.”
Cô cởi bỏ chiếc đầm ngủ. Trăng lênh láng phòng. Ixtlan trắng bệch và nhỏ nhắn. Hắn nằm xuống bên cô trên chiếc giường sắt rèn. Bàn tay hắn lướt qua ngực cô. Hai nụ hồng đen.
Đời này cô chưa bao giờ có cảm giác như thế. Sung sướng quá. Cô sợ nó sẽ kết thúc. Cảm giác ấy như một kẻ què quặt ném cây gậy của mình lên trời.
Cô bắt đầu rên rỉ và thì thầm với Ixtlan:
“Em yêu anh, người tình của em! Người tình vĩ đại của em!”
Và - vâng, thực sự là thế. Nó đã xảy ra. Cô chẳng bao giờ muốn nó kết thúc. Ôi Chúa ơi, sung sướng quá. Cô thèm khát thêm nữa, thêm mãi.
Cô nghĩ: hãy chiếm lấy em! Hay đúng hơn: “Con xin dâng hiến mình cho ngài.” Đó là vương quốc của “lúc này và tại đây.”
Cô hỏi hắn: “Khi nào anh lại tới?”
Ixtlan đáp:
“Trăng tròn tháng sau.”
“Nhưng em không thể đợi lâu đến thế!”
“Không khác được,” hắn nói, giọng lạnh lùng.
“Em sẽ có thai chứ?”
“Không.”
“Nhưng em sẽ chết vì nhớ anh mất! Em phải làm sao đây?”
“Hãy tự thoả mãn lấy mình.”
Hắn đứng dậy, hôn lên trán cô một cách trinh thuần. Và biến mất qua khung cửa sổ.
Cô bắt đầu khóc rưng rức. Cô như cây vĩ cầm buồn mất cung. Bằng chứng rằng tất cả thực sự đã xảy ra là tấm ga giường nhuốm máu. Cô không giặt mà cất nó đi, để ai không tin thì mang ra.
Cô ngắm bình minh ló dạng cùng sắc hồng rực rỡ. Trong màn sương, những chú chim nhỏ bắt đầu hót líu lo ngọt ngào nhưng chưa tới độ điên cuồng.
Chúa đang chiếu rọi thân thể cô.
Nhưng, như một Nữ Nam tước Von Blich đầy hoài niệm nằm dưới màn mùng lụa là trên giường, cô giả vờ rung chuông gọi người quản gia mang đến ly cà phê nóng hổi, đậm đặc, thật đậm đặc.
Cô yêu hắn và sẽ một lòng đợi chờ tới ngày trăng tròn tiếp theo. Cô không muốn tắm kẻo hương vị của Ixtlan tan biến. Với hắn, đó không còn là tội lỗi mà là khoái lạc. Cô không còn muốn viết thư phản đối nữa: cô đã ngừng phản kháng.
Và cô cũng không đến nhà thờ. Giờ cô là một người phụ nữ đã được thoả mãn. Cô đã có chồng.
Rồi đến trưa Chủ nhật, cô ăn filet mignon với khoai nghiền. Miếng thịt tươm máu ngon tuyệt. Và cô uống rượu vang đó Ý. Quả thực cô là kẻ đặc biệt. Cô đã được chọn bởi một sinh vật đến từ sao Thổ.
Cô đã hỏi hắn tại sao lại chọn cô. Hắn nói vì cô là một cô gái tóc đỏ và còn trinh. Cô cảm thấy mình thú tính. Những con vật không làm cô buồn nôn nữa. Hãy cứ để chúng yêu nhau, đó là điều tuyệt nhất trên đời. Và cô sẽ chờ Ixtlan. Hắn sẽ quay lại: Em biết mà, em biết mà, em biết mà, cô nghĩ. Và cô không còn cảm thấy ghê tởm trước những cặp đôi ở Hyde Park nữa. Giờ cô đã hiểu họ cảm thấy thế nào.
Thật tuyệt làm sao khi được sống. Thật tuyệt làm sao khi được ăn thịt tươm máu. Thật tuyệt làm sao khi được uống thứ rượu vang Ý chát chúa, có chút đắng trên lưỡi và làm lưỡi se lại.
Giờ đây, cô đã không còn phù hợp với những ai dưới mười tám tuổi. Và cô khoái chí với điều đó, thậm chí còn chảy dãi vì sung sướng.
Vì là Chủ nhật, cô đến buổi tập xướng. Cô hát hay hơn bao giờ hết và chẳng ngạc nhiên khi được chọn làm người solo. Cô cất cao lời ca: Hallelujah! Hallelujah! Hallelujah!
Rồi cô ra Hyde Park nằm dài trên bãi cỏ ấm áp, tách hờ đôi chân ra để ánh mặt trời lọt vào. Làm đàn bà cũng tuyệt. Chỉ có đàn bà mới hiểu được thôi. Nhưng cô chợt nghĩ: Nếu hạnh phúc này phải đổi bằng một cái giá thật đắt thì sao? Cô chẳng bận tâm. Cô sẽ trả bất cứ cái giá nào. Cô đã luôn trả giá và luôn bất hạnh. Giờ thì nỗi bất hạnh ấy đã chấm dứt. Ixtlan! Hãy quay lại sớm! Em chờ không nổi nữa! Đến đây! Đến đây! Đến đây!
Cô nghĩ: có khi nào anh ta thích mình vì mình hơi lé? Đến ngày trăng tròn sau, cô sẽ hỏi cho ra. Nếu đó là lý do, chẳng còn nghi ngờ gì nữa: cô sẽ lé nặng hơn, thậm chí lé hẳn đi. Ixtlan, bất cứ điều gì anh muốn em làm, em sẽ làm. Chỉ có điều, em đang chết dần vì nhớ anh đây. Hãy quay lại đi, tình yêu của em.
Đúng vậy. Nhưng cô đã làm một việc có thể bị xem là phản bội. Ixtlan sẽ hiểu và tha thứ cho cô thôi. Cuối cùng thì cô cũng phải tự lo cho mình thôi, phải chứ?
Chuyện là thế này: Không chịu nổi nữa, cô đến Piccadilly Circus và rù quến một gã đàn ông rậm lông. Cô dẫn gã về phòng ngủ. Cô bảo gã không cần phải trả tiền. Nhưng gã nhất quyết đòi trả, và trước khi rời đi, gã để lại tận một bảng bên cạnh giường! Dù gì thì cô cũng cần tiền. Nhưng cô tức điên lên khi gã không tin câu chuyện của cô. Cô giơ tấm ga giường nhuốm máu ra, suýt nữa thì chọc vào mũi gã. Gã cười nhạo cô.
Sáng thứ Hai, cô quyết định rồi: cô sẽ không làm nhân viên đánh máy nữa, cô có những biệt tài khác cơ. Ông Clairson giờ biến đi được rồi. Cô sẽ đi dạo phố và dẫn đàn ông về phòng ngủ. Vì cô giỏi chuyện giường chiếu, họ sẽ trả cô hậu hĩnh. Cô có thể uống rượu Ý mỗi ngày. Cô sẽ lấy tiền người đàn ông rậm lông kia để lại mua một chiếc váy đỏ rực. Cô sẽ xoã mái tóc dày màu đỏ rực tuyệt đẹp của mình. Cô tựa một tiếng hú.
Cô đã nhận ra giá trị không nhỏ của mình. Nếu Clairson, cái tên đạo đức giả kia, muốn cô làm việc cho mình thì phải cử cô vào một vị trí khác mới được.
Đầu tiên, cô sẽ mua chiếc váy đỏ hở ngực đó, rồi đến văn phòng, cố tình đến muộn lần đầu tiên trong đời. Và cô sẽ nói với ông sếp như vầy:
“Tôi ngán việc đánh máy lắm rồi! Đừng có giả khờ với tôi! Muốn tôi nói cho nghe điều này không? Hãy lên giường với tôi đi, đồ khốn! Và thêm nữa: hãy trả lương cho tôi thật hậu hĩnh vào, đồ keo!”
Cô chắc chắn ông ta sẽ đồng ý. Ông ta đang kết hôn với một người đàn bà nhợt nhạt và vô vị tên Joan và có một đứa con gái bị bệnh thiếu máu tên Lucy. Ông ta sẽ sung sướng khi ở bên tôi, tên chó đẻ đó.
Và khi trăng tròn - cô sẽ tắm rửa để gột sạch những người đàn ông kia, chuẩn bị cho bữa yến tiệc cùng Ixtlan.
Cái Xác
Xavier cuồng chiến và cuồng dâm. Mạnh như điên, người đàn ông ấy. Hắn thích những điệu tăng gô. Hắn đi xem Điệu Tăng Gô Cuối Cùng Ở Paris và thấy hứng tình kinh khủng. Hắn không hiểu bộ phim: hắn tưởng đó là phim khiêu dâm. Hắn không nhận ra đó là câu chuyện về một người đàn ông tuyệt vọng.
Vào cái đêm hắn đi xem Điệu Tăng Gô Cuối Cùng Ở Paris, ba bọn họ đã lên giường cùng nhau: Xavier, Carmem và Beatriz. Ai cũng biết Xavier có nhiều vợ: hắn sống cùng hai người đàn bà.
Mỗi đêm mỗi cô. Có đêm hai cô một lượt. Người không làm thì đứng xem. Không ai tị nạnh ai.
Beatriz ăn như heo: cô béo ú và nhờn mỡ. Trong khi đó, Carmem cao và thanh.
Cái đêm của điệu tăng gô cuối cùng ở Paris thật đáng nhớ với cả ba người. Tới sáng thì ai nấy đều mệt lử. Nhưng Carmem gặng dậy và đi làm một bữa sáng thật thịnh soạn - với những muỗng kem dày béo ngậy - rồi mang cho Beatriz và Xavier. Cô thấy đầu nhức như búa gõ. Cô phải tắm nước lạnh để thấy tỉnh táo lại.
Hôm đó - một Chủ Nhật - họ ăn trưa vào lúc ba giờ chiều. Người nấu là Beatriz, cô béo. Xavier uống vang Pháp. Và hắn một mình ăn hết cả một con gà. Con còn lại hai người đàn bà chia nhau. Gà được nhồi với nho khô và mận xào với bột sắn, ăn vào ẩm và nịnh miệng.
Sáu giờ tối, ba người tới nhà thờ. Họ giống như một điệu bolero. Bolero của Ravel.
Và ban đêm, họ ở nhà coi ti vi và ăn tối. Đêm đó không có gì xảy ra: ai nấy đều mệt mỏi quá rồi.
Ngày nào cũng như thế, hết ngày này qua ngày khác.
Xavier cật lực làm lụng để nuôi cái miệng của hai người đàn bà và của mình, cùng những bữa ăn thịnh soạn của họ. Và có đôi lần, hắn phản bội họ để tìm đến một con điếm tuyệt vời. Nhưng hắn không hé răng về chuyện này ở nhà, có điên mới làm thế.
Hết ngày, rồi hết tháng, rồi năm qua. Chẳng ai chết. Xavier sang tuổi bốn bảy. Carmem ba chín. Và Beatriz vừa qua năm mươi.
Cuộc sống của họ không có gì để chê. Thi thoảng, Carmem và Beatriz cùng nhau đi mua những bộ đồ ngủ siêu gợi cảm. Và nước hoa nữa. Carmem chọn mẫu mã thanh lịch hơn. Beatriz, với những ngấn mỡ, chọn chiếc quần lót nhỏ xíu và chiếc áo chật cứng cho bộ ngực tổ chảng của mình.
Một đêm, Xavier về nhà rất muộn: hai người đàn bà quắn cả lên. Họ đâu biết hắn vừa ở chỗ cô điếm. Chuyện ba người hoá ra lại là bốn, hệt chuyện ba người lính ngự lâm.
Xavier về nhà với cơn đói không đáy. Và mở một chai sâm banh. Hắn tràn đầy sinh lực. Hắn trò chuyện đầy hào hứng với hai người đàn bà, khoe rằng công ty dược của mình đang ăn nên làm ra. Và hắn tỏ ý muốn đưa họ đi một chuyến tới Montevideo ở một khách sạn sang trọng.
Hỗn loạn thay, đồ đạc gói ghém vào ba chiếc va li.
Carmem mang theo mớ đồ trang điểm rườm rà. Beatriz chạy đi mua váy ngắn. Họ lên máy bay. Chỗ ngồi của họ làm thành một hàng ba ghế: hắn ngồi giữa.
Ở Montevideo, họ tiêu xài thả ga. Bao gồm một cái máy khâu cho Beatriz và một máy đánh chữ cho Carmem muốn học cách sử dụng. Thành thực cô chẳng cần nó, cô đã quen sống trong khốn khổ. Cô viết nhật ký: trong cuốn sổ đỏ dày cộp, cô ghi lại những ngày Xavier tìm đến mình. Và cho Beatriz đọc.
Ở Montevideo, họ mua sách một cuốn sách dạy nấu ăn. Cuốn sách bằng tiếng Pháp và họ chẳng hiểu mô tê gì. Những con chữ cứ như ghi ra những lời tục tĩu.
Thế rồi họ chuyển qua mua cuốn sách nấu ăn bằng tiếng Tây Ban Nha. Và hoàn thiện các loại xốt và xúp. Họ học cách làm món bò quay. Xavier tăng gần ba ki-lô và sức mạnh như một con bò đực của hắn càng dữ dội.
Thi thoảng, hai người đàn bà ngủ với nhau. Ngày đó như dài ra. Và dù không ai đồng tính, họ vẫn khêu gợi nhau và làm tình. Thứ tình buồn.
Một hôm, họ nói cho Xavier điều đó.
Xavier rùng mình. Và hắn muốn tối đó hai bọn họ làm tình cho mình xem. Nhưng khi bị ra lệnh, mọi thứ đổ bể. Hai người đàn bà bật khóc, Xavier nổi trận lôi đình.
Suốt ba ngày liền, hắn không mở miệng với ai.
Thế nhưng, trong thời gian đó, khi không bị ra lệnh, hai người đàn bà lại ngủ với nhau và chuyện lại đâu vào đấy.
Cả ba chẳng bao giờ ra rạp. Họ thích xem ti vi hơn. Hoặc đi ăn tối.
Xavier ăn uống rất thô: hắn bốc đồ ăn bằng tay, nhai tóp tép với cái miệng há rộng. Carmem, người vốn ăn uống dìu dặt, thấy kinh tởm và xấu hổ. Người hoàn toàn không biết xấu hổ gì là Beatriz, cô ta thậm chí chẳng thèm mặc đồ khi ở trong nhà.
Không ai biết chuyện bắt đầu thế nào. Nhưng nó đã bắt đầu.
Một ngày nọ, Xavier từ chỗ làm trở về nhà với nhiều vết son môi trên áo. Hắn không tài nào giấu giếm được nữa việc mình vừa ở cùng với con điếm yêu thích. Carmem và Beatriz vác gậy rượt Xavier quanh nhà. Hắn chạy trong hoảng loạn điên cuồng, hét: Xin lỗi! Xin lỗi! Xin lỗi!
Hai người đàn bà cuối cùng cũng thấm mệt, thôi không đuổi nữa.
Ba giờ sáng hôm sau, Xavier lên cơn thèm đàn bà. Hắn gọi Beatriz vì cô ta có vẻ ít giận hơn. Beatriz yếu ớt và mệt mỏi chiều theo ham muốn của người đàn ông có sức mạnh siêu nhân ấy.
Nhưng ngay ngày hôm sau, họ tuyên bố sẽ không nấu ăn cho hắn nữa. “Kêu cô vợ ba của anh mà nấu.”
Họ cứ bật khóc luôn và Beatriz hay làm món xa lát khoai tây trộn mayo để họ ăn cùng.
Chiều đó, họ đi xem phim. Họ đi ăn tối và chỉ về khi đã khuya. Thấy Xavier ngồi đó, ủ dột, buồn bã và đói meo. Hắn cố giải thích:
“Tôi như thế bởi đôi khi tôi muốn làm chuyện ấy giữa ban ngày.”
“Vậy,” Carmem đáp, “sao anh không về nhà mà làm?”
Hắn hứa từ nay sẽ làm như thế. Và khóc. Khi hắn khóc, trái tim Carmem và Beatriz tan nát. Tối hôm đó, hai người phụ nữ làm tình trước mặt hắn và hắn quắn lên vì ghen tị.
Từ khi nào lòng ham muốn trả thù trỗi dậy? Từ khi hai người đàn bà cứ ngày càng xích lại gần nhau và khinh rẻ hắn.
Xavier nuốt lời và lại đi tìm con điếm. Cô ta làm hắn hứng tình bằng những lời tục tĩu. Và cô gọi hắn thằng chó đẻ. Hắn nhận hết.
Cho tới một ngày đẹp trời nọ.
Hay đúng hơn là một đêm nọ. Xavier ngủ yêu lành như một công dân mẫu mực. Hai người đàn bà ngồi trên bàn mà tư lự. Mỗi người nghĩ về tuổi thơ đã mất của mình. Và họ nghĩ về cái chết. Carmem bảo:
“Rồi có ngày ba chúng ta sẽ chết.”
Beatriz đáp:
“Và chết mà chẳng vì lý do gì cả.”
Họ phải kiên nhẫn chờ tới cái ngày khép mắt vĩnh viễn. Còn Xavier? Họ sẽ làm gì với Xavier? Hắn trông như một đứa trẻ đang ngủ.
“Ta chờ đến lúc Xavier chết già ư?” Beatriz nói.
Carmem nghĩ đi nghĩ lại, bảo:
“Tôi nghĩ mình nên lo chuyện đó.”
“Bằng cách nào?”
“Chưa biết.”
“Nhưng phải nghĩ cho ra.”
“Để tôi lo, tôi biết phải làm gì.”
Và chỉ đứng nhìn không phải là lựa chọn. Ngày sắp ló mà mọi thứ vẫn còn nguyên vẹn. Carmem pha cà phê đặc. Họ ăn sô cô la tới đến phát ốm. Và chẳng có gì, hoàn toàn chẳng có gì.
Họ bật đài nghe bản nhạc xé lòng của Schubert. Một bản độc tấu piano. Carmem nói:
“Hôm nay phải làm cho được.”
Carmem đi trước, Beatriz theo sau. Đó là một đêm đặc biệt: bầu trời đầy sao ngắm nhìn họ, lấp lánh và bình yên. Thật im lìm. Ôi thật im lìm. Họ lên lầu đến bên Xavier xem có cảm hứng gì không. Xavier đang ngáy. Carmem thực sự thấy có hứng làm gì đó.
Cô bảo Beatriz:
“Trong bếp có hai con dao lớn.”
“Thì?”
“Ta có hai người và ta có hai con dao.”
“Thì?”
“Thì, ngốc ạ, hai ta đều có vũ khí và ta có thể làm điều mình phải làm. Chúa đưa lối.”
“Chẳng phải trong những lúc như thế này không đem Chúa vào thì hơn sao?”
“Chứ chị muốn tôi đem Ác Quỷ vào hả? Không, tôi nói về Chúa, chúa tể của vạn vật. Của không gian và thời gian.”
Thế là họ xuống bếp. Hai con dao đã mài làm bằng thép tốt, quắc sáng. Liệu họ có đủ gan?
Vâng, họ có.
Họ trang bị vũ khí. Phòng ngủ tối như mực. Họ đâm nhầm vài chỗ, con dao ghim qua chăn. Đêm lạnh ngắt. Rồi họ tính tới chuyện phi tang cơ thể đang ngủ của Xavier.
Dòng máu đặc sệt của Xavier chảy khắp giường, xuống cả sàn, thật uổng phí.
Carmem và Beatriz ngồi trên bàn ăn tối, dưới ánh đèn vàng vọt của bóng đèn không chao, họ kiệt sức. Giết người cần sức. Sức người. Sức thánh. Họ vã mồ hô, câm lăng, rã rời. Nếu kìm được, họ đã không giết tình yêu vô bờ của mình.
Giờ sao? Phải xử lý cái xác. Xác to. Xác nặng.
Thế là cả hai ra vườn và lấy xẻng đào một cái huyệt.
Và, trong đêm tối, họ khiêng xác Xavier ra vườn. Khó khăn đủ điều, Xavier khi chết dường như nặng hơn lúc sống, bởi giờ đây linh hồn đã lìa khỏi. Họ vừa vác hắn, vừa rên rỉ vì kiệt sức và đau đớn. Beatriz khóc.
Họ đặt cái xác vào trong huyệt, lấp lại bằng thứ đất vườn ẩm, thơm phức, hợp với việc trồng cây. Rồi họ trở vào trong, pha thêm cà phê và dường như khoẻ lại được chút.
Beatriz, kẻ lãng mạn tuyệt vọng - suốt ngày cắm đầu vào những tiểu thuyết diễm tình ba xu với những mối tình yểu mệnh hoặc tan vỡ - nảy ra ý tưởng sẽ trồng hoa hồng trên khoảnh đất giàu dưỡng chất ấy.
Thế là họ ra lại vườn, cắt vài nhành hoa hồng và cắm nó vào trên nấm mồ Xavier thương tiếc quá cố. Ngày tới. Sương mai hôn khu vườn. Sương đang che giấu vụ giết ngừoi. Họ ngồi ngoài đó trên bằng ghế trắng mà nghĩ vậy.
Nhiều ngày trôi qua. Họ mua đầm đen. Và chẳng ăn được mấy. Đêm xuống, nỗi buồn cuốn lấy họ. Họ không còn hứng thú với việc nấu ăn nữa. Trong thịnh nộ, Carmem, người nóng tính hơn, đã xé toang cuốn sách dạy nấu ăn bằng tiếng Pháp. Cô giữ lại cuốn tiếng Tây Ban Nha: ai biết lúc nào thì cần tới nó.
Cuối cùng, Beatriz nhận việc bếp núc. Cả hai ăn và uống trong im lặng. Nhành hồng chiết dường như đã đâm rễ. Người mát tay, đất nhiều chất. Chuyện thành.
Và vấn đề dường như cũng đã nhờ thế mà êm thắm.
Nhưng rồi tới một ngày, việc liên tục vắng mặt của hắn làm viên thư ký sinh nghi. Có nhiều giấy tờ khẩn cần ký. Bởi nhà Xavier không có điện thoại nên cậu ta đích thân tìm tới. Căn nhà như chìm trong “mala suerte.”[3] Hai người đàn bà bảo Xavier đang đi du lịch ở Montevideo. Cậu thư ký không tin hẳn nhưng cũng chấp nhận cho qua.
Tuần sau, cậu thư ký đến thưa cảnh sát. Cảnh sát thì không bỡn được. Đầu tiên, cảnh sát không muốn tin câu chuyện. Nhưng đối diện với sự kiên định của cậu, họ uể oải quyết định sẽ tới nhà tay đa thê một chuyến. Vô vọng: không có dấu hiệu gì của Xavier.
Rồi Carmem cất lời:
“Xavier trong vườn.”
“Trong vườn? Làm gì?”
“Có Chúa mới biết.”
“Nhưng chúng tôi đâu có thấy ai?”
Họ ra vườn: Carmem, Beatriz, người thư ký tên Alberto, hai viên cảnh sát và hai người khác không ai biết là ai. Cả thảy bảy người. Rồi Beatriz, mặt mày ráo hoảnh, cho họ xem nấm mồ đầy hoa. Ba người đàn ông đào nó lên, xới nát bụi hồng tự dưng phải chịu đựng sự độc ác của con người.
Và họ thấy Xavier. Trông hắn gớm ghiếc, biến dạng, bị ăn gần hết, mắt mở trừng.
“Giờ sao?” một cảnh sát nói.
“Giờ ta bắt hai người đàn bà này.”
“Nhưng,” Carmem nói, “hãy nhốt chúng tôi chung một buồng.”
“Nghe này,” một viên cảnh sát nói trước mặt tay thư ký đang sững sờ, “tốt nhất là làm như không có gì xảy ra, bằng không chuyện sẽ nháo nhào cả, rồi còn phải làm bao nhiêu là giấy tờ, gây bao nhiêu là đàm tếu.”
“Hai cô,” người cảnh sát kia nói, “dọn khỏi đây tới Montevideo sống đi. Đừng có gây phiền phức cho chúng tôi nữa nghe chưa.”
Hai người đàn bà đáp: Thành thật cảm ơn.
Và Xavier không nói gì. Thật ra cũng chẳng có gì để nói.
Nhưng Trời Sắp Mưa
Maria Angélica de Anrade sáu mươi. Người tình bà, Alexandre, mười chín.
Ai cũng biết cậu trai đào mỏ Maria Angélica. Maria Angélica là người duy nhất không nghi gì.
Chuyện bắt đầu như thế này: Alexandre là người giao thuốc đến nhấn chuông cửa nhà Maria Angélica. Bà tự ra mở cửa. Và giáp mặt với một thanh niên cao, vạm vỡ và đẹp trai không tưởng. Chẳng đoái hoài mớ thuốc mình đã đặt tới và trả tiền, bà mời cậu ta, tự ngạc nhiên với sự dạn dĩ của mình, vào muốn vào nhà uống chút cà phê.
Alexandre bất ngờ và bảo thôi, cảm ơn. Nhưng bà nài. Có cả bánh nữa, bà thêm.
Cậu trai ngần ngừ, khó xử thấy rõ. Nhưng rồi cậu cũng đáp:
“Tôi sẽ vào, nhưng một phút thôi đấy nhé, còn về làm việc.”
Cậu bước vào. Maria Angélica không hề nhận ra mình đã yêu. Bà cắt cho cậu một miếng bánh to và pha cà phê sữa tươi. Cậu ta ăn trong ngượng nghịu, bà ta nhìn cậu si mê. Cậu là sức mạnh, tuổi trẻ, thứ tình dục đã bị bỏ lại từ lâu. Cậu trai ăn uống xong xuôi, lấy cổ tay áo quệt miệng. Maria Angélica không coi đó là thói xấu: bà ngây ngất, bà thấy cậu ta sao mà tự nhiên, đơn thuần, mê hoặc.
“Tôi phải đi ngay chứ lâu quá là không xong với ông sếp.”
Bà thấy lòng rộn ràng. Bà để ý những đầu mụn chỗ này chỗ kia trên mặt cậu. Nhưng dẫu có thế thì vẻ xinh trai và nam tính ở cậu vẫn không hề bị ảnh hưởng; hóoc-môn đang cuồn cuộn nơi ấy. Thật vậy, ôi, vẻ nam nhi. Bà típ cho cậu rất hậu, quá hậu, đến mức làm cậu thanh niên bất ngờ. Và bà ta nói bằng giọng ríu rít như hát và cư xử như một cô em si tình:
“Tôi sẽ để cậu đi nếu cậu hứa sẽ quay lại. Quay lại ngay hôm nay! Bởi tôi sắp đặt ít vitamin ở chỗ nhà thuốc…”
Một giờ sau, cậu quay lại với mấy viên vitamin. Bà đã thay đồ sang một bộ kimono đính đăng-ten mỏng dính. Bạn có thể thấy quần lót bà in hằn lên. Bà bảo cậu ta vào nhà. Bà nói rằng chồng mình đã mất. Đó là cách bà cho cậu ta biết rằng mình sẵn sàng. Nhưng cậu trai trẻ không hiểu.
Bà mời cậu dạo quanh căn hộ được trang hoàng đẹp đẽ của mình, để cậu trong bàng hoàng không nói được gì nữa. Bà đưa cậu vào phòng ngủ. Bà không biết làm sao cho cậu hiểu. Nên bà nói:
“Hãy để tôi hôn cậu một cái.”
Cậu thanh niên giật mình, đầu nghiêng về phía trước. Nhưng bà đã nhanh chóng chạm lấy môi cậu, gần như ngấu nghiến nó.
“Này bà,” cậu chàng quắn lên, “kiềm chế đi! Bà ổn không vậy?”
“Tôi không kiềm được! Tôi yêu cậu! Hãy ngủ với tôi!”
“Bà điên hả?”
“Tôi không điên! Mà không: tôi điên lên vì yêu cậu!” bà vừa hét lên vào mặt cậu trai, vừa xé nét giằng tấm chăn tím ra khỏi giường.
Thấy cậu chẳng bao giờ hiểu lòng mình, trong nhục nhã gây chết người, bà bảo cậu:
“Hãy ngủ với tôi…”
“Tôi?!”
“Tôi sẽ cho cậu một món quà lớn! Tôi sẽ cho cậu một chiếc xe!”
Xe? Cậu trai trẻ mắt sáng rỡ vì tham. Một cái xe cơ đấy! Đó là thứ cậu đã mơ ước cả đời. Cậu nghi ngờ hỏi lại:
“Một chiếc Karmann Ghia nhé?”
“Vâng, tình yêu, gì cũng được!”
Chuyện xảy ra tiếp theo rất là kinh khủng. Bạn không cần biết đâu. Maria Angélica - ôi, lạy Chúa, xin ban phước lành, xin tha lỗi cho tôi vì đã viết ra những điều này! - Maria Angélica phát ra những tiếng nghiến răng kèn kẹt trong cuộc truy hoan của họ. Và Alexandre phải nín nhịn, thấy buồn ói, muốn phản kháng. Cậu trở thành kẻ phản kháng suốt phần đời còn lại. Cậu có cảm giác mình sẽ không đời nào có thể ngủ với đàn bà một lần nào nữa. Chuyện đã xảy ra thật: tới tuổi hai bảy, cậu đã bất lực.
Và họ thành tình nhân. Vì sợ hàng xóm dòm ngó nên cậu ta không dọn tới sống với bà. Cậu muốn sống ở một khách sạn xa xỉ: cậu có những bữa sáng phục vụ ở giường. Và cậu cũng thôi việc. Cậu mua những chiếc áo đắt phi lí. Cậu tới phòng khám da liễu và chữa sạch mụn.
Maria Angélica không tin mình hên tới thế. Bà cóc thèm quan tâm tới lũ gia nhân cứ cười phỉ vào mặt bà.
Một người bạn cảnh tỉnh:
“Maria Angélica, bà không thấy nó là một kẻ đào mỏ hay sao? Nó đang lợi dụng bà đấy?”
“Tôi sẽ không gọi Alexandre là kẻ đào mỏ đâu! Và anh ấy yêu tôi!”
Một ngày nọ, Alex quyết đánh liều. Cậu ta bảo:
“Tôi sắp tới Rio chơi vài ngày với một đứa con gái mới quen. Cần chút tiền.”
Đó là những ngày tồi tệ với Maria Angélica. Bà không rời khỏi nhà, không tắm rửa, chẳng mấy khi ăn uống. Chỉ có sự ngoan cố khiến bà vẫn còn tin Chúa. Bởi Chúa đã bỏ rơi bà. Bà đành phải là chính mình, trong đau đớn khôn xiết.
Cậu trai trở về sau năm ngày, rất vênh váo, tràn đầy niềm vui. Cậu ta mua mấy gói goiabada[4] về làm quà. Bà ăn và gãy một cái răng. Bà đến nha sĩ trồng vào một cái răng giả.
Và cuộc sống tiếp diễn. Hoá đơn chất đống. Alexandre ngày càng quá quắt. Maria Angelicán buồn bã. Ngày bà qua tuổi sáu mốt, cậu chàng không tới. Bà ngồi một mình trước ổ bánh sinh nhật.
Rồi - chuyện xảy tới.
Alexandre bảo:
“Tôi cần một triệu cruzeiro[5].”
“Một triệu?” Maria Angélica nói.
“Ừ!” cậu ta khó chịu ra mặt, “bằng một tỉ cruzeiro cũ!”
“Nhưng… nhưng em đào đâu ra ngần ấy…”
“Thì bán căn hộ, bán con Mercedes, đừng thuê tài xế riêng nữa.”
“Dù có thế cũng không đủ, tình yêu ơn, hãy nhẹ nhàng với em chút!”
Cậu trai trẻ không kiềm nổi nữa:
“Mẹ con già khốn khổ! Đồ rác rởi, đồ đĩ! Không có một tỉ thì đừng hòng tao chịu đựng cái trò đê tiện của bà.”
Và khi cơn thù ghét dâng lên và choán lấy, cậu ta bỏ đi, đóng sầm cánh cửa.
Maria Angélica đứng đó. Toàn thân đau đớn.
Rồi bà lê ra tràng kỉ ở phòng khách ngồi. Bà trông như thương binh. Nhưng không có Hội Chữ Thập Đỏ nào cứu bà. Bà ngồi bất động, nín thinh. Không nói được lời nào.
“Hình như,” bà nghĩ, “hình như trời sắp mưa.”
[1] Một trong các quy tắc pháp luật trong lĩnh vực hành chính và hình sự, quy định rằng hình phạt hoặc biện pháp xử lý đối với hành vi phụ (hành động hỗ trợ, duy trì, che giấu vi phạm chính) sẽ phụ thuộc vào tính chất/hậu quả của hành chi chính.
[2] Trong tiếng Bồ Đào Nha, từ galinha (gà) là tiếng lóng ám chỉ một người đàn bà lăng loàn, dễ dãi.
[3] Tiếng Bồ Đào Nha: “điềm gở, lời nguyền độc địa.”
[4] Món kẹo ổi đặc sản
[5] Đơn vị tiền tệ cũ của Brazil. Do siêu lạm phát, Brazil đã lựa chọn cách liên tục đổi tiền để giảm bớt số 0 với tỉ lệ 1 đồng sau bằng 1000 đồng trước. Có tới 3 loại cruzeiro: đồng cruzeiro cũ (Cruzeiro antigo) được lưu hành từ 1942-1967, đồng cruzeiro mới (Cruzeiro Novo) lưu hành từ 1970-1986 và đồng cruzeiro lưu hành 1990-1993.
Clarice Lispector: âm nhạc khô, cứng, nghiêm và sắc, giống như Bernhard.