Melville: Mardi (kỳ 23)
CHƯƠNG LXXIII
THÊM ĐÔI ĐIỀU VỀ QUỐC VƯƠNG
Trước khi kể lại cuộc dừng chân của chúng tôi trong lãnh thổ của chàng, chỉ còn một điền phải thuật lại về Donjalolo, rằng sau khi nhận chiếc đai lưng, một sự thay đổi đã xảy ra.
Suốt một đời cai trị của vua cha, ông nổi tiếng vì sự chừng mực và thận trọng. Nhưng khi Mardi đã vĩnh viễn đóng cửa; và ông nhớ đến lề luật của đảo mình, cấm các vua của nó thoái vị; ông dần rơi vào những cơn tuyệt vọng, để nhấn chìm những cảm xúc mà đôi lần khiến ông rối trí.
Tinh thần hào phóng của ông khao khát một sự nghiệp mãnh liệt, nhận ra bản thân nó đã thu về bên trong một thung lũng hẹp ở Willamilla, nơi những thôi thúc mạnh mẽ nhất tưởng chừng như vô dụng. Nhưng những điều ấy khó lòng mà chết đi được; và tư bề cự tuyệt, tự bật lại chúng.
Tương tự với Donjalolo; một người, trong nhiều cảnh tượng náo loạn, đã phung phí sức lực đáng lẽ đã dùng để thi hành những kế hoạch cao trọng nhất.
Đức vua, cha chàng, qua đời chưa được bao nhiêu năm, thế mà chàng quốc vương tuy còn trẻ nhưng không còn là một cậu bé mắt lanh lợi và tung tăng vui cười, mới sáng ngày đã từng ra ngoài dạo chơi nhìn ngắm quang cảnh của các đảo lân cận.
Chàng uỷ mị chẳng kém gì Sardanapalus. Và, đôi lúc, chàng là nạn nhân của tính thất thường không thể giải thích được; bị các hồn ma bóng quế ám ảnh; và bị linh hồn cha ông vẫy gọi bảo ban.
Có những lúc, ghê tởm vì những thú vui đồi bại của mình, vốn chẳng mang lại cho chàng niềm thỏa mãn đích thực, nhưng đã luôn chất đầy trong chàng niềm ghê tởm chung cuộc, chàng đã quyết sửa sang đường mình; khuây khỏa bản thân vì tình trạng giam cầm cay đắng, bằng cách giao thiệp với những con người khôn ngoan và kín đáo. Nhưng khoảng thời gian ăn năn chẳng được bao lâu. Một lần nữa, chàng lại lao vào những cuộc trác táng, gấp trăm lần hoang đàng hơn.
Bị giằng co giữa đức hạnh và trụy lạc; chẳng được kiên định với bên nào, và bị quở trách vì cả hai; tâm trí chàng, cũng như con người chàng nơi thung lũng hẹp, cứ liên tục qua lại giữa những thái cực đối lập.
CHƯƠNG LXXIV
ĐI SÂU HƠN VÀO TRONG THUNG, HỌ GẶP DONJALOLO
Từ miệng hang, một con đường rợp bóng với những tán cây huynh đệ vai kề vai trong không trung, đưa chúng tôi đến một ngả giao nhau, mỗi hướng dẫn đến vách đá đối diện, phủ bóng hai ngôi làng song sinh đã nhắc đến trước đây.
Bằng phẳng như một đồng cỏ, chính là lòng của thung lũng. Ở đây, gật gù những vườn cây Mít Bột và Cọ Dừa xanh; ở kia, lấp lánh những đồn điền Chuối vàng. Đi ra khỏi những vườn cây ấy, chúng tôi đến một đồng cỏ, men rìa theo bóng của núi. Và chẳng bao lâu chúng tôi đã băng qua một cây cầu khỉ, bắc qua một con hào, được trồng dày đặc những củ khoai Tara, như bầy cá sấu, hoặc Hollanders, no say trong phù sa mềm. Tiếp bước, vẻ đẹp hoang sơ của núi non khiến chúng tôi chú ý. Các vách đứng trên cao được rưới bằng những cây thân leo; dập dờn trong gió, như những thác lá; nguồn của chúng là các lùm cây trên cao.
Giữa vách đá, dọc một thềm đá, trổ ra vô số rễ của một loại cây có vẻ như không có thân. Trồi lên từ đất nông, chúng lan khắp những tảng đá bên dưới, bao phủ bằng một mạng lưới rối rắm. Trong khi ở tít trên cao, các cành cây lớn — mỗi cành là một lùm cây — đã leo lên tận đỉnh núi; rồi cúi xuống, một lần nữa đâm vào đất; tạo thành một dãy cây dằng dặc ở ven bờ; toàn bộ kiểu kiến trúc kỳ dị đứng chống trời.
Theo Mohi, cái cây này quả thực tuyệt vời; hạt của nó từng được thả từ cung trăng xuống; nơi những rừng cây tương tự còn nhiều hơn, vốn gây ra những đốm tối màu trên bề mặt của nó.
Chỗ này chỗ kia, dòng nước mát trong mạch núi phun ra thành những dòng nước sống; nước của chúng được đón lấy trong các bể rêu xanh, được vùi một nửa trong cỏ.
Ở một chỗ, là một dòng suối khá lớn, chảy ra từ một độ cao nhiều cây, trước khi chạm mặt đất đã bị phân tán thành một trận mưa rào phun sương, rơi xuống quá cao từ nền vách đá, đến mức khi bước đến gần bên dưới, bạn cảm thấy một chút hơi ẩm. Đi qua dòng thác hơi nước này, chúng tôi trông thấy có nhiều Dân Đảo đang tắm.
Nhưng tán lá đung đưa đằng xa kia là gì? Và sự gì đang tiến ra kia, như một cuộc xao động nơi cư trú? Donjalolo đang tiến gần các vị khách của chàng.
Chàng ngự đến trên một chiếc kiệu đẹp; một buồng lá, gác lên ba cây cọc dài, song song, được ba mươi đàn ông khiêng, ăn vận sặc sỡ; năm người ở đầu mỗi cọc. Được trang hoàng bằng những tấm vải tappa nhuộm màu, và được quấn bằng những vòng hoa mới hái, mà từ đó, cứ mỗi bước, lại có những cánh hoa thơm được thổi ra; bằng một chuyển động lộng lẫy, mềm dẻo, chiếc kiệu sặc sỡ tiến tới; để lại sau nó một vệt dài, phớt hồng những xào xạc lá và hương thơm.
Đến gần, hiện ra một thanh niên mảnh dẻ, bạc nhược, mang vẻ đẹp xanh xao, ngả mình trên một tấm thảm đỏ, gần mái vòm được kết tràng của buồng lá. Mái đầu được xức dầu của chàng đang gối vào ngực một cô gái; một cô gái khác khuấy gió bằng một chiếc quạt lông vũ Pintado. Con ngươi trong mắt chàng như hai hòn đảo giữa biển. Bằng một chất giọng trầm nhẹ, chàng lẩm bẩm “Media!”
Những người khiêng kiệu dừng lại; và Media tiến tới, hai Vua Đảo cùng nhau cúi chào.
Thông qua những ống thuốc được mồi ở một đầu, những người hầu đang ngả mình của Donjalolo bấy giờ thổi ra một làn khói thơm quanh chàng. Những ống này được làm từ những chiếc lá kích thích của “Aina”, trộn với những lưỡi lá vàng của một loại cỏ ngọt ở vùng cao; tạo thành một thân rỗng. Nói chung, làn khói dễ chịu của “Aina” được tạo ra khi người ta hít vào; nhưng Donjalolo cho rằng niềm khuây khỏa ấy quá đắt đỏ với bất kì nỗ lực để thu được thông qua lá phổi hoàng gia, nên đã tự hưởng cho kỳ thỏa nhờ các nữ hầu của chàng, mà đôi môi của họ tựa như những nụ mười giờ sau một cơn mưa rào.
Trong thinh lặng vị quốc vương trẻ tuổi khi ấy đưa mắt nhìn chúng tôi chăm chú; cùng lúc khua tay nhè nhẹ, hầu cho được nhìn rõ hơn qua những vành khói thuốc. Chàng đang định nói với chúng tôi, thì vô tình trông thấy Samoa, chàng bỗng giật mình; ngoảnh mặt đi; rồi điên cuồng ra lệnh cho người chiến binh đi đi cho khuất mắt. Thấy vậy, những người hầu của chàng xoa dịu chàng; còn Media mong muốn anh Upolu được lui đi.
Khi chúng tôi vẫn còn đang kinh ngạc trước cảnh tượng ấy, thì Donjalolo, với đôi mắt nhắm, ngả vào vòng tay của những người thiếu nữ của chàng. Khi lại sức, chàng thở một hơi dài, và nhìn xa xăm khắp chung quanh.
Có vẻ như chàng đã tưởng Samoa là hồn ma giữa ban ngày của ông tổ Marjora; kẻ soán ngôi đã mất một tay trong trận chiến giành cho ông chiếc đai lưng. Quốc vương đáng thương: đây chỉ là một trong số những ảo tưởng điên rồ, vốn quá rối rắm đối với thần dân của chàng.
Media bấy giờ vội vàng đoan chắc với Donjalolo, rằng Samoa, dẫu nhìn thì chẳng lấy làm dễ thương gì cho cam, song, lại là con người bằng xương bằng thịt đàng hoàng. Và ngay sau đó thì vị vua hờ hững nhìn; chứng độc tưởng của chàng đã đi mất như một giấc chiêm bao.
Nhưng vẫn còn chịu tác động của một bữa yến tiệc thâu đêm suốt sáng, ngay sau đó chàng thều thào một mong muốn cho được ở bên các phụ nữ của mình; cùng thêm rằng người của chàng sẽ không thất bại trong việc lo liệu cho các vị khách quý của chàng được giải trí.
Bấy giờ chiếc kiệu được kéo màn; và chẳng chốc nó đã biến mất vào các rừng cây. Tiếp tục cuộc hành trình, chúng tôi đã đến được sườn đồi phía tây của thung lũng; một trong số những vòm cây rải rác giữa các thân cây, được chỉ định để chúng tôi nghỉ lại. Ở đây, chúng tôi ngả mình trước một bữa ăn tử tế. Sau đó, chúng tôi đi dạo để được ngắm toàn cảnh thung lũng; đặc biệt chính là các cung điện nổi tiếng khắp nơi của vị quốc vương.
CHƯƠNG LXXV
THỜI GIAN VÀ CÁC NGÔI ĐỀN
Trong quyển Hành Hương phương đông của Purchas sùng đạo, và trong quyển folio Các Cuộc Hải Trình xưa của Hakluyt, Thevenot, Ramusio và De Bry, chúng ta đã đọc về các đền thờ cổ xưa đầy tráng lệ của người Á Châu, xây dựng rất lâu năm. Và Gaudentia di Lucca chân thực đã viết một câu chuyện tuyệt vời về thời gian đã dành để coi sóc Ngôi Đền Niên Kỷ ba-trăm-bảy-mươi-lăm-cột, đâu đó bên ngoài Lybia; trong đó, các cột đại diện cho các ngày trong năm, và khắp phía đều hướng về các vùng đồng tâm của các cung điện, bị cắt ngang bởi mười hai đại lộ biểu tượng cho các cung hoàng đạo, toàn bộ tỏa ra từ kiến trúc vòm mặt trời nằm ở giữa. Và trong câu chuyện phương đông đầy say mê của mình, Marco Polo kể cho chúng ta, cách Mogul Đại Đế đã bắt đầu xây dựng cho mình một cung điện khoái lạc với quy mô quá đế vương, đến nỗi cháu trai của ông đã phải bỏ nhiều công sức để hoàn thành nó ra sao.
Thế nhưng tất cả những điều này không có gì phải lấy làm ngạc nhiên về chúng: các tòa tháp vĩ đại cần rất nhiều thời gian xây dựng.
Và cũng tương tự với mọi điều khác.
Và thứ gì toàn diện tồn tại lâu dài, thì cần phải ủ lâu trong mầm. Và khoảng thời gian[1] không thuộc vào tương lai, nhưng là thuộc vào quá khứ; và sự vĩnh cửu là thuộc vĩnh cửu, bởi nó đã như vậy; và tuy rằng một tượng đài hiện đại kiên cố được dựng nên hôm nay, thì nó chỉ bền vững khi các khối đá của nó đã lâu đời như mặt trời. Còn đối với các Kim Tự Tháp đấy chẳng phải là vì chúng cổ đại, nhưng là thứ đá hoa cương vĩnh cửu đã dùng để dựng nên chúng; một thứ cổ xưa không kém dẫu vẫn còn nằm trong mỏ đá. Vì để tạo nên cái vĩnh cửu, chúng ta cũng phải lấy những cái vĩnh cửu mà xây dựng; bởi đó, mà có cái phù phiếm của tiếng kêu dành cho bất kỳ thứ gì kiên cố và mới mẻ; và sự non nớt của chỉ trích — Viên đá hoa cương của bạn đến từ những ngọn đồi cũ. Vì chúng ta không phải là các vị thần và các tạo vật; và các nhà luận chiến đã từng cãi lý với nhau, rằng liệu quả thực bản thân thứ Quyền năng Hoàn toàn Nhân tạo có thể hơn được cái khuôn đã đúc nó hay chăng. Mọi sự trong vũ trụ chỉ là một thể độc nhất; và ngay cả các mặt trời phải là nguồn lửa của chúng; và các Prometheus chúng ta phải lấy chúng làm nguồn lửa cho mình; thứ mà, khi đã có, chỉ cần có sự chăm sóc vĩnh viễn của nữ thần Vesta là sẽ được duy trì.
Nhưng chúng ta hãy từ lửa mà trở lại với đá. Chưa từng có một chất liệu nào lại được cứng cáp cho bằng một quả bầu. Ngôi nhà Vàng của Nero đã chẳng được dựng nên trong một ngày; cũng chẳng phải Ngôi nhà Mặt trời Mexico; hay lâu đài Alhambra; hay tu viện Escurial; hay nhà hát Amphitheatre của Titus; hay gò Illinois Mounds; hay các trụ lớn của Diana ở Ephesus; hay Cột kiêu hãnh của Pompey; hay đền Parthenon; hay Bàn thờ của Belus; hay Stonehenge; hay Đền vua Solomon; hay các tòa tháp của Tadmor; hay pháo đài của Susa; hay các trán tường của Persepolis. Vòng lên vòng lên mãi, tháp pháo của người Moor ở Seville đã chẳng được quấn hướng lên trời trong một ngày; và tính từ lúc bắt đầu xây móng, đã qua năm trăm năm, trước khi tháp chóp vĩ đại của Strasbourg được nâng lên cao năm trăm bộ giữa trời. Không đâu: các hang lớn của Elephanta cũng chẳng được đào ra trong một giờ; hay người Troglodyte cũng chẳng đào hang Voi Ma mút của Kentucky trong một buổi sáng; hay hang của Trophonius, hay đảo Antiparos; hay Đường Người Khổng lồ. Cũng chẳng phải các cống vòm dưới đất của Etruria cứ đào ba lượt là xong; cả các cầu máng vòm lộng gió của Nerva ném qua các thung lũng của nó vào ngày rằm trong tháng. Cả Cây cầu Tự nhiên của Virginia cũng chẳng bị mòn đi trong một năm; hay, trong địa chất học, Grampians vĩnh cửu cũng chẳng dựng lên trong một kỷ. Và ai sẽ đếm những chu kỳ đã quay quanh trước khi những địa tầng trầm tích bên trong của đất được kết tinh thành đá. Cũng chẳng phải Đỉnh Piko, hay Teneriffe, đã được đục thành tháp obelisk trong mười năm; hay Núi Athos cũng chẳng biến thành tượng của Alexander nhanh đến thế. Và lùm cây của Artaxerxes cần cả một mùa hè Ba Tư để phát triển; và Cung điện Băng của Czar cần một mùa đông Muscovite để đóng băng. Không đâu, không đâu: Kim Tự Tháp của Cheops cũng chẳng được xây đắp trong một tháng; dẫu, một khi xây xong, thì những bãi cát còn sót từ trận lũ lớn cũng chẳng nhấn chìm được khối cát này. Hay những cành Sồi rộng của Charles đã chẳng phát triển ngay trong một mùa xuân; dẫu chúng còn tồn tại lâu hơn các vương triều của nhà Tudor và Stuart. Hay các phần của Iliad vĩ đại chẳng được đặt vội lại với nhau; dẫu ngôi đền của Homer xưa sẽ nâng cả mái vòm của nó lên, khi Thánh Phê-rô là một huyền thoại. Thậm chí chính con người cũng phải sống hàng tháng trước khi Đấng Sáng Tạo thấy nó đủ cứng cáp để được sinh ra; và trước khi cái thân kiêu hãnh của nó đạt đủ vóc, hai mươi mốt năm Julian trường phải trôi qua. Và cả cuộc sống phải chết của nó chẳng mang đến cho linh hồn bất tử của nó sự trưởng thành; thì cả vĩnh hằng cũng chẳng làm cho nó nên hoàn thiện. Phải, với niềm tôn kính tột bậc, đối với hiểu biết con người, mở rộng lãnh thổ có vẻ như là mở rộng quyền lực; và ngày này qua tháng nọ các hành tinh mới lại được thêm vào các Sao Thổ đầu lòng, thậm chí cả sáu ngàn năm về trước Trái Đất của chính chúng ta đã thêm một vào hệ thống này; vậy, theo ngẫu nhiên, chứ không phải theo bản chất, xin Đấng Vô Cùng lúc này đừng bớt vô cùng hơn so với Aldeberan khi xưa đã lăn ra khỏi bàn tay mình. Và nếu thời gian, với Trái Đất tròn này, mà đối với vô số những phàm nhân này đã là một đế chế chưa bao giờ được khám phá trọn vẹn; thứ mà, trong các vùng biển của nó, ẩn giấu hết thảy các vùng Ấn Độ suốt hơn bốn ngàn năm; nếu thời gian, khi công trường đá vĩ đại của các đế chế Assyria và Rome này không còn tồn tại; thì, thời gian có thể đã là, khi toàn bộ vũ trụ vật chất sống trong Thời đại Tăm tối của nó; phải, khi sự Im lặng Bất khả Thành lời, bắt nguồn từ sự xa xôi không thể tưởng tượng được của nó, đã trông thấy nó như một hòn đảo nhỏ ngoài biển. Và ở đây không có ý hạ thấp phẩm giá. Bởi lẽ sự cao độ của Vô Hạn không được nâng cao nhờ những vòm trời của Mahomet; và nếu như toàn bộ không gian là một sự rỗng không, thì nó vẫn sẽ là một sự trọn vẹn; bởi đối với chính Ngài vũ trụ của riêng Ngài là Ngài.
Càng lúc càng tiến sâu vào đường hầm vô tận của Thời Gian như vậy, thì linh hồn có cánh, như một con chim ưng đêm, bay đường bay hoang dã của nó; và tìm thấy những sự vĩnh cửu trước và sau[2]; và giới hạn cuối cùng của nó chính là sự khởi đầu vô tận của nó.
Nhưng khi được gửi đi trên đại địa cầu ngập nước, ngay cả bồ câu của Noah cũng trở về, và đậu trên tay ông. Vậy nên linh hồn của tôi trở về với tôi, và gập cánh của nó.
Vậy cho nên, dẫu Thời Gian là vua hùng mạnh nhất trên các vua Alaric, thì nó vẫn là người thợ thủ công vĩ đại nhất. Và sư phó, và cố vấn, và thầy thuốc, và thư ký, và nhà thơ, và nhà hiền triết, và vị vua[3].
Và, một người làm vườn, như ít nữa đây sẽ bàn.
Nhưng chúng ta phải trở về thung lũng trước đã.
Khương Anh dịch
[1] Nguyên văn duration
[2] Nguyên văn before and behind. Trong Phaedrus của Plato, Socrates cho rằng linh hồn có cánh chính là linh hồn trước khi nhập vào thân xác bất toàn. Linh hồn có cánh này thuộc vào linh hồn của vũ trụ, luôn hướng lên trên, hướng về cái toàn thể. Khi đã nhập vào thân xác rồi thì linh hồn không còn cánh nữa; và để phục hồi đôi cánh của linh hồn, ta cần cái đẹp, cái thật, và cái thiện để làm của ăn nuôi dưỡng linh hồn. Sau khi thân xác chết đi, linh hồn có cánh sẽ trở về với vĩnh hằng, từ đó mà nó đã đến lúc ban đầu.
[3] Plato, Phaedrus 248d