Tiếp tục về chuyện đọc, hiệu sách và thư viện (kỳ mới nhất ở kia), đây là chuyện các hiệu sách cũ (cũng xem ở kia: sách cũ năm nay). Léon-Paul Fargue đi dạo một thành phố và gặp, bên bờ ke, các hiệu sách cũ. Đó là những năm 1930s: thành phố lúc ấy có lẽ rất khác bây giờ.
(vẽ một thành phố
một thành phố
hai thành phố
một thành phố nữa)
Bộ hành Paris
- Léon-Paul Fargue
(I)
Au temps où je dansais la gigue,
J’aurais pu faire un bel enfant.
Mais à présent, ça me fatigue,
Je ne suis plus qu’un ci-devant.
J’en ai marre de l’élégance,
Des romans d’analyse et des chansons d’amour.
Adieu, Messieurs! Vive la France!
Moi, je remonte dans ma tour.
Đừng tìm xem ai là tác giả những câu thơ trên, trong đó được thắng lợi huy hoàng nỗi vô tự lự và sự mơ mộng. Chúng chính xác là của một người xa lạ xuất chúng theo nghĩa cao quý nhất của từ ấy. Tôi đã tìm cách để được giới thiệu với nhà thơ đó nhưng vô vọng, tôi thấy dường như, dựa vào mùi các bài thơ của ông, nửa cuộc đời ông sống ở ngoài trời. Ông thích giữ sự vô danh. Tất tật những gì tôi hay là nhà thơ không được biết đến và thường e sợ ấy là một người của các bờ ke, một người bán sách, nổi tiếng trong các đồng nghiệp của ông, nhưng thù nghịch với đầy chủ ý trước vinh quang tới nỗi đã chưa bao giờ nói tên mình cho họ.
Điều mà ta hẳn không thể chối là các ke sông đã truyền cảm hứng cho ông theo đường lối thật may mắn, bởi ông là tác giả của hai trăm bài thơ thuộc thể loại thong dong và duyên dáng đó, hai trăm bài thơ có thể dễ dàng uống ực, giống rượu vang Vouvray, loại màu vàng ấy, cái loại người ta chỉ uống tại chỗ…
Vốn dĩ kiệt tác thơ ca của Paris, các bờ ke đã mê hoặc phần lớn nhà thơ, khách lãng du, nhiếp ảnh gia và những người lang thang dạo chơi trên cõi đời. Đó là một vùng duy nhất, chỉ cứ chăm chăm chạy dài, một dạng dải ruy băng uốn cong, bán đảo tưởng tượng dường chui ra từ trí tưởng tượng của một người vui tươi. Tôi biết quá rõ, vì đã thực hiện đến cả trăm lần, cuộc đi dạo ru êm người đi bộ từ ke Point-du-Jour đến ke Carrières tại Charenton, hoặc cuộc, hồi còn rất trẻ, đã đẩy tôi từ ke Ivry đến ke Issy-les-Moulineaux, rõ đến mức cảm giác có được một chuyến vòng quanh thế giới rất mực nghiêm túc dưới gót chân. Chỉ những cái tên thôi: Orsay, Mégisserie, Voltaire, Malaquais, Gesvres, aux Fleurs, Conti, Grands-Augustins, Horloge, Orfèvres, Béthune và place Mazas với tôi đã là đủ giống như Lịch Sử và Địa Dư. Bạn có từng nhận thấy, rằng người ta không biết các bờ ke “của mình” hơn so với biết các quận lỵ? Tôi vẫn chờ đợi một người Paris đúng nghĩa về điểm này: ke Malaquais kết thúc ở đâu, ke Conti khởi sự từ đâu? Ke Gesvres nằm ở đâu? Tùy thuộc lời đáp, tôi sắp xếp những người. Với cái trò chơi nho nhỏ ấy, ta thấy được rằng không có nhiều người Paris đúng nghĩa, không nhiều tài xế taxi hiểu biết, lại càng ít hơn nhân viên cảnh sát quý giá. Ai ai cũng nhầm lẫn nếu đó là các bờ ke.
Và thế nhưng, chẳng gì nhiều chất Paris hơn so với một bờ ke sông Seine, chẳng gì ở đúng chỗ của nó hơn, trong décor của nó hơn. Léon Daudet [con trai Alphonse Daudet - tôi sắp đến với Léon Daudet], trong Paris vécu, dành hơn năm mươi trang chỉ cho các ke, những người bán sách và những hiệu sách cũ. Về hiệu sách của Champion père, ông nêu nhận xét sau đây, nó, một thế kỷ nữa, sẽ còn mang nhiều vị của mơ mộng hơn tới cho những người yêu sách cuối cùng: “Bầu không khí nhiều tính cách Érasme, vô cùng đậm mùi thế kỷ 16, và nặng chất trí tuệ, cao và lịch thiệp. Khi thấy có một quyển sách gây ra ham muốn nơi ta, Champion liền dịu dàng nói: “Cầm lấy nó đi… Mà không, không mà, anh cứ để lần khác hãy trả tiền.” [thấy rõ có nhầm lẫn về ngoặc kép]
Của phong cảnh ấy, trên đó đã mọc lên như bởi sở thích các dinh thự đẹp nhất, Louvre của nhà Valois, các công trình đáng kinh ngạc nhất, như Tháp Eiffel, những gì khả nghi nhất, như la Chambre, những gì quang vinh nhất, như Institut de France, chính phần trung tâm vừa nổi danh nhất lại vừa hay được lai vãng hơn cả, và chắc chắn ke Conti cùng ke Malaquais được ex-oequo đầu bảng trong cuộc thi. Tôi đã hỏi những người lam lũ, những người không chỗ ở thuộc phẩm tính cao nhất tại sao họ lại thích hai ke ấy hơn những ke khác, nhất là để ngủ trên bờ sông, hòa lẫn vào với mùi của rơm, rượu áp xanh cùng giày mà sông Seine dịu dàng chuyên chở: “Bởi vì, tôi từng được đáp, chúng tôi được thoải mái hơn ở đó và như được ở nhà mình. Thêm nữa, ở đó những giấc mơ cũng xuất sắc hơn.” Suy tư rất đáng quan tâm, và nó nhắc tôi nhớ đến một giai thoại. Rất thường xảy đến với tôi chuyện uống một ly vang trắng tại một tiệm nhỏ nơi Les Halles mà vả lại tôi chỉ tìm được bằng cách mò mẫm, ban đêm. Tôi thấy lại ở đó những người ưa đêm trao đổi các ý kiến chung trước khi đi tới nằm xuống bên dưới một cây cầu nào đó. Tuy nhiên, tôi hòa mình vào các trò chuyện của họ. Chúng tôi bắt tay nhau lối rất mực cao quý. Một hôm, tôi được giới thiệu với một dạng người rách rưới cao lớn đầy sôi nổi, rậm râu, bác học và rất đỉnh, ngụ ở chính bên dưới cầu Nghệ Thuật, mà người ta giới thiệu như sau: ông Hubert, thuộc Hàn Lâm viện Pháp. Chỉ Paris mới cho phép các cách nói tắt rực rỡ như vậy [vì Académie Française nằm ở đó].
Các bờ ke bị ám bởi một dân cư nhân đôi. Tôi đang không nói đến cả khách du lịch lẫn những kẻ hiếu kỳ, hay những hành khách quá cảnh, mà là những người sinh ra, mơ và chết đi trong bầu không khí séquanes [một từ hơi cổ]: những người của các bờ sông và những người của chính các ke, những người ngủ ngoài trời và các tay bán sách, những người bên dưới và những người bên trên. Cư dân của các bờ sông trải rộng từ Auteuil tới Charenton, chân cẳng chĩa lên trời, khuôn mặt giấu đi dưới quả dưa của thùng rác, mẩu thuốc lá trong tầm tay, để dành hút đầu tiên sáng hôm sau, cái điếu ngon hơn cả. Vẫn là trên các ke, tức là hơi ở bên dưới bề mặt Paris, nơi một tổ quốc u tối và nhục nhã theo cái nghĩa mà Shakespeare cấp cho mấy từ đó, người ta có thể làm quen với những cái nghề lặt vặt đầy thơ mộng cuối cùng xưa kia từng truyền cảm hứng cho các ca sĩ, họa sĩ biếm họa và nhà thơ: người chuyên cạo lông chó, thiến mèo, nhặt than, người chuyên nhặt những món đồ nhỏ, chẳng hạn dao cạo râu đã dùng, phéc mơ tuya lon bia, khuy thắt lưng, kim ghim, đót giày cùng các mảnh píp bằng đất nung, cái kẻ nhặt nhạnh mà người ta trông thấy đi dọc các lạch nước, đầu cúi, vào cuối ngày. Cour des Miracles [cf. Victor Hugo, Les Misérables] được phú thêm một bãi biển, cái thế giới của các bờ sông ấy, với những lưng cứng lại qua tiếp xúc với đá lát đường, được hưởng một trong những niềm hạnh phúc lớn lao nhất mà thời của chúng ta biết tới: sự vô tri hoàn toàn trước tờ nhật báo. Vài người, đôi khi, đọc lướt các tờ chuyên về đua ngựa bị bỏ quên ở đó, chắc hẳn, bởi một kẻ tự sát nào đó, nhưng báo về đua ngựa có chút thuộc về truyền thuyết. Từng một đêm vơ vẩn giữa đám người cao ngẳng vô cùng khỏe khoắn, râu lùm xùm đến mức tôi sẵn lòng so sánh họ với những người sống trong hang động, tôi đã có dịp nghe thấy chính giọng nói của giấc mơ đột nhiên biểu hiện ra qua miệng một trong những cái bóng kia. Sau khi bước qua vài “cò súng”, mấy cổ họng trơ thổ địa, tôi đã, đến lượt mình, trú lại trên một cột đường, để hút một điếu thuốc lá mơ màng theo làn nước. To kềnh và đầy kiên nhẫn, mấy cái sà lan trôi đi, trông thật giống lũ thú, trên dòng sông dẻo quẹo. Tôi mơ hồ có cảm giác mình đang quấy rầy một giáo phái. Tôi không nhầm. Đột ngột, một giọng nói vang lên từ phía sau lưng tôi: “Đóng hộ cửa lại được không, giai kia!” người ta hét lên với tôi. Hiển nhiên tôi đã gặp chuyện với Tên Mù của Voltaire…
Hoàn toàn khác là dân cư ngoại biên. Đó là các nhà bác học. Tôi coi những người bán sách là các sinh thể tuyệt diệu nhất mà ta có thể gặp và, chắc hẳn, họ tham gia, với sự thanh lịch và kín đáo, cho danh tiếng trí tuệ mà Paris có thể tự vinh danh bản thân. Vùng của quyển sách cũ cũng có những đường biên giới riêng. Nó chạy từ ke Orsay cho tới Jardin des Plantes, bên tả ngạn, rồi từ Samar, như người ta hay nói [thật ra là Samaritaine], đến Châtelet, bên hữu ngạn. Về nguyên tắc, những cái hòm gỗ được Thành Phố trao cho các phế binh chiến tranh và cho những ông bố nhà đông con, với giá sáu mươi lăm franc mỗi năm, trên độ dài tám mét. Chừng nào một người bán sách tới cái tuổi đáng kính trọng thất thập hoặc nếu ông ta bị ốm, thì ông ta có thể cho thuê cuộc kinh doanh của mình lại cho một người khác và bằng cách đó nhân đôi bản thân lên, cho đến lúc chết. Nhưng ông ta không thể nhường lại trách vụ của mình như một nhân viên hối đoái. Khi nào hơi thở cuối cùng đã hắt ra xong, Thành Phố liền can thiệp. Tập hợp những người bán sách là tập hợp duy nhất không được tổ chức cũng không lập thành nghiệp đoàn, không mở buổi khiêu vũ nào [chẳng hạn những người lính cứu hỏa rất hay tổ chức khiêu vũ], bữa tiệc hằng năm nào. Tuy nhiên nó từng có, mới gần đây, một ông trùm, mà trong nghề người ta thành thực thờ kính, một ông trùm không là ai khác ngoài ông Dodeman, Charles Dodeman, tác giả nổi tiếng. Nó vẫn còn được buộc chặt vào quá khứ Paridiêng bởi cô Poulaillon, nữ nhân bán sách trú không xa trường Mỹ Thuật, là người gợi lên với nhiều hoài nhớ thời những người bán sách tối nào cũng mang đống hòm về nhà cất…
Nhưng, trên các ke cũng như mọi nơi, làn gió của sự hiện đại đã thổi bùng lên thành bão. Ngày nay có những người buôn sách trẻ, hoạt bát, hết sức rành các trồi sụt của thị trường. Sự cứng nhắc hơi có chút tính cách giáo sư của xưa kia đã biến đi. Mùa hè, những lúc trời rất nóng, các phụ nữ bán sách không ngần ngại lặn xuống sống Seine. Ai đó đi thơ thẩn trên bờ ke vì những quyển sách của người ấy và, cũng thường xuyên ở mức tương tự, để nom thấy chui lên khỏi mặt nước trong bộ đồ tắm, nàng tiên cá ướt lướt thướt. Và anh ta hét lên: “Kìa, thưa bà, quyển [Hippolyte] Taine này bao nhiêu thế?” Bằng vài sải tay, quý bà bé nhỏ bơi vào bờ, nhặt cái pe nhoa, ngược lên phía thư viện, vừa đi vừa chùi tay vào hông cho khô, bán quyển Taine, quyển Flaubert hay quyển Jean Lorrain [chắc cũng sắp phải đến với Lorrain rồi] cho khách, rồi quay lại với nước mát…
Tôi từng hỏi một người bán sách trông có vẻ nghiêm túc và hiểu biết nhiều, xem việc buôn bán sách ngoài trời có mang lại nhiều lãi hay không, và được biết phần lớn người bán sách già dễ dàng sở hữu một ít tài sản, một chiếc xe ô tô Citron 5CV, thỉnh thoảng thậm chí một ngôi nhà. Và điều đáng kinh ngạc hơn cả là chẳng ai trong số họ có nghề nào khác. Vả lại, họ đào đâu ra thời gian để mà làm tài xế hay thám tử tư đây? Một người bán sách nhất quyết biết Lịch Sử của anh ta, các văn bản của anh ta, các niên đại của anh ta, các nhà xuất bản của anh ta, cũng bằng nếu chẳng phải hơn so với một người bán ở hiệu sách thông thường, cả ngày thì cũng đâu có nhiều để làm tốt việc mà anh ta làm.
Các bờ ke dùng để bán sách được chia ra như một catalogue. Có địa phận sách cổ điển rồi địa phận sách nước ngoài. Những cái hòm nói chung đều đầy ắp, và thông thường người ta tự hỏi các thương gia dày dạn ấy lấy mối hàng từ đâu. Theo một thói quen xưa cũ, người bán sách không sẵn lòng mua những gì người ta đề nghị. Anh ta thích tự mình đến Hôtel des Ventes hơn, để mà mặc cả tùy ý, tới nhà những người “được giới thiệu”, hoặc giả đi xa, trên đất Pháp, đến Perpignan, Puy, Lille, ở đó anh ta luôn luôn chắc chắn cuộc săn sẽ thuận lợi. Thế nhưng sự cung cấp hàng của anh ta, dẫu được hình dung rõ đến thế, vẫn khá là bí hiểm. “Chẳng phải ư, toàn bộ bí mật đều nằm ở đó!” một trong số họ từng nói với tôi.
Trên bình diện văn chương thuần túy, bờ ke đóng vai trò của một phong vũ biểu và đặt các danh tiếng về lại đúng chỗ của chúng. Người ta có đọc đi đọc lại những thứ báo chí chuyên về văn chương, dùng kính lúp mà xem xét các phơi ơ tông của phê bình, mấy thứ bánh tạc của quảng cáo từ phía nhà xuất bản, phỏng vấn các đại sư hay chuyên gia, thì vẫn sẽ luôn luôn phải quay trở về với các ke để có được một mẩu của sự thật. Bởi câu hỏi, cũng như với đường hay giấy cuốn thuốc lá, vẫn cứ là cùng một mà thôi: “Cái gì đang bán được, cái gì không bán được?” Sự bí ẩn mà ông Robert Ganzo, người bán sách trên các ke và chủ hiệu sách phố Mazarine, tháo gỡ trước mặt ta với đầy hiểu biết và sự khéo léo. Tôi không dám liệt kê tên những đồng nghiệp của tôi mà sách không tìm được người mua, mặc cho sự ầm ĩ, những tiếng còi lanh lảnh của thói snob, hay ảnh hưởng của các loại cơ quan danh tiếng. Tôi thích hơn việc thông báo cho các bạn tôi, Paul Valéry, Valery Larbaud, Claudel, Gide, ngoài ra còn thêm nữa và, vượt trên mọi mây mù cùng bóng tối, báo cho Proust yêu quý, rằng họ bán vô cùng chạy. Mong sao chỉ dẫn này cho phép vài nhân vật chẳng ma mốc nào chịu mua tự nhận ra mình.
Cần phải có sức khỏe của cây sồi lâu năm thì mới có thể bán sách trên các bờ ke, vì đâu có đến một yếu tố nào không chăm chăm gây bực bội cho ta: gió, cái nóng, giá lạnh, tiếng ồn, sự kỳ kèo mặc cả của khách, bởi nghe nói không bao giờ được mua quyển sách nào mà không mặc cả. Chính vì thế tôi ngưỡng mộ sức kháng cự cùng bản tính thật đẹp của những người bán sách và, giữa tất tật mọi thứ khác, tâm trạng vui tươi đến thần thánh của nhà thơ chẳng ai biết của những bờ ke, người vẫn còn tìm ra phương tiện để viết những vần thơ…
Các bờ ke
[nhảy qua bài thứ hai trong loạt "Trên các bờ ke": nó cũng xuất chúng không kém so với bài thứ nhất trên đây, nhưng nhắc đến quá nhiều nhân vật, phải chú thích mỏi tay; cũng nhảy qua bài "Place du Théâtre-Français" để đến luôn bài "Ghetto Paris" dưới đây: cũng như mọi thành phố châu Âu, Paris có khu ghetto Do Thái]
Ghetto Paris
Đó không phải, nói cho đúng, một khu ghetto khả dĩ so sánh được với ghetto bên Ba Lan, Rumani hay Hà Lan, mà đó là một vùng đất nhỏ giới hạn bởi phố Roi-de-Sicile, phố Ferdinand-Duval, xưa kia là phố Do Thái, và phố Vieille-du-Temple [đại khái, không xa bảo tàng Picasso], mà trung tâm nằm nơi góc phố Écouffes giao với phố Rosiers, chỗ đó có hiệu sách Speiser, điểm hẹn của tất tật người Do Thái trên đời. Stephan Zweig từng chẳng bao giờ đi xuyên Paris mà không viếng thăm cửa hiệu ấy. Trotsky thường tới đó ngồi. Vừa xong tôi đã vào đó để được báo tin về cái chết của Zuckermann, người từng mở ở chỗ này, cách đây chừng ba chục năm, một quán ăn tuyệt hảo mà chúng tôi hay đến, trước chiến tranh, Charles-Louis Philippe [Lukács rất hay nhắc đến], Michel Yell, Chanvin và tôi, bị thu hút bởi một thứ rượu mạnh có mùi hoa violet, mà con trai ông chủ rót cho chúng tôi với vẻ duyên dáng của một lãnh chúa nhỏ.
Ngày nay, hiệu sách Speiser dường hữu ích cho khu phố hơn so với quán của père Zuckermann. Nó bày cho những người khách hết sức đa dạng lượng đĩa Yiddish lớn nhất tại Paris, những bức chân dung Rambam bí hiểm, nhà bác học thông thạo nhiều ngôn ngữ từng sống ở Tây Ban Nha, mà thế giới Do Thái tới đây sẽ ăn mừng kỷ niệm sinh nhật lần thứ tám trăm, các bức ảnh chụp trí thức và nhà văn, vé Xổ số Quốc gia, mà người ta tới đây mua từ khắp mọi xó xỉnh của Paris, viện cớ là chúng đã qua những bàn tay Israélite, một tập hợp rất hay văn chương hébraïque, vải dệt tay nhập khẩu từ Liên Xô và giấy bảo hành viết tại chỗ, rồi sau cùng là một loạt nước chanh màu tía, lục nhạt, vàng, đỏ chót, xa lát, những ống thủy tinh lớn trong đó người ta mong sao có một con lặn, từ xa trông như thể chúng ngây thơ mà quay tròn giống một vòng quay ngựa gỗ cho người lùn…
Cửa hàng ấy, hẳn hoàn toàn có thể mở ngoài trời, nhắc tôi nhớ đến các nhà ga huyện lỵ nơi tối tối, vào giờ dùng rượu apero, tập hợp những thân hào, những người rồi việc cùng các công chức. Ở đó đón khách cả vào buổi tối muộn. Những ông già Do Thái, như người ta chỉ có thể gặp tại Bydgoszcz, Zlatana hay Milowek, tối đến luồn lách giữa đống sách. Người ta kinh ngạc vì thấy họ ở Paris, vận áo da cừu dài quét đất, tóc mai xoăn tít, đầu tóc bóng dầu, bàn tay run rẩy. Những người đó, tại Pháp được tự do hơn mọi nơi khác, mạnh bạo mà khinh bỉ trang phục của bên Ki-tô. Chộn rộn và mơ mộng, họ tới lui trong bùn lầy ghetto, đội những cái mũ không vành nhỏ có lưỡi trai cũn cỡn, bọc mình nhếch nhác trong áo rơ đanh gốt dài cánh quạ, rồi thì áo chùng lễ tang. Mắt thì sâu hoắm, buồn và lạc thần, nước da màu hồng, đôi khi gây sợ hãi, những cặp tai to tướng, người cúi gập, chân khập khiễng, chột, chín trên mười mắc lao, họ lê la từ tiệm này qua tiệm khác, thì thào, trượt đi, lười biếng khủng khiếp, đi qua rồi đi lại trước các hiệu bánh ngọt và hàng xén bốc mùi ngâm muối nhờn nhợt của khu phố ấy, nơi những người lính ngự lâm trước kia hay tới để đánh nhau tay đôi.
Các nhà báo bên London hay Berlin thỉnh thoảng ra sức chụp ảnh họ. Nhưng lúc đó các ông già liền trở nên thiện xảo vô chừng. Phải truy lùng họ như đuổi linh cẩu. Một nhà báo đặc biệt may mắn nhíp được một ông, do tình cờ, dồn được ông kẹp vào giữa hai chồng sách và “tóm lấy” ông trong một cú bấm Leika. Thế là ông già liền vươn mình, phóng hai cánh tay về trước, tìm cách nuốt chửng luôn cái máy ảnh, rồi lao vọt ra ngoài phố náo loạn báo động cho tất tật các đồng nghiệp xét về tuổi cũng như xét về độ bẩn thỉu, bằng những tiếng hú của con quái vật đang hấp hối.
Đội trên đầu đống tóc giả bằng lụa hoặc cước, trang điểm, thường xăm mình, ốm o, béo bệu, xấu xí đến rơi nước mắt, các phụ nữ bí hiểm nâng lên hạ xuống những hàng mí mắt rộng trước các tin vặt ấy, chúng chỉ có thể gọi tới cái thẻo đất Do Thái ở Pháp này những cú sét của Israel. Tuy nhiên chốc chốc người ta lại thấy, trong một dòng dung nham các da thịt già nua, một vẻ đẹp thật xuất thần. Những linh dương đúng nghĩa với đôi má sáp thơm hương, các con gái của nàng Shéhérazade, những nữ Sultan với cặp mắt đại bàng non, những người khiến kẻ đi qua phải mơ mộng. Người ta ngoái đầu lại: họ đã hòa lẫn vào với đống gia đình lúc nhúc của mình. Các trinh nữ kỳ dị ấy cũng được đám văn nhân tình cờ gặp truy tìm dữ, như là những típ đặc trưng xứng đáng dùng minh họa cho những quyển sách, nhưng họ chạy trốn giống les Chassidim [hasid] trước ống kính, và thà chết còn hơn đi ngược lại các mệnh lệnh khắc vào những cuộn giấy chép Kinh.
Không có vấn đề Do Thái tại Pháp, ít nhất là trong khuôn khổ ghetto, với những cư dân bản địa quá bận rộn với việc so sánh các lợi thế tương ứng cùng những phần thánh tính trong giáo phái của mình. Vả, phần lớn trong số họ, vốn dĩ là những thương gia khả ái, dịu dàng và nghiêm túc vô tận, kết án rất nghiêm khắc thói lười và sự bẩn thỉu của những người di cư từ Galicie hay Ukraine, mà quần áo và các thói quen tạo ra, theo như họ cảm thấy, một tai hại lớn cho Dân tộc Đặc tuyển. Trên phố Rosiers, quy tắc là Tây phương hóa một chút mỗi ngày. Cảnh sát Warszawa, nơi người Do Thái đông và náo động, vào lúc này đã có những cái máy bơm tự động rất mạnh mẽ, nhanh, có tính cách quốc gia và bài Do Thái. Nó không tránh trớ cái việc tưới cho ướt đẫm các sinh viên hay những người hoạt động công đoàn Do Thái ở bất kỳ chuyển động nào nhỏ nhất của tâm trạng xấu. Chẳng có gì tương tự tại Pháp. Các lực lượng bài Do Thái từng cố sức xâm chiếm, mới gần đây thôi, khu phố Do Thái của Paris. Nhưng người Do Thái Paridiêng thì can đảm, và cho thấy rõ điều đó nhân dịp cuộc tấn công kia.
Chắc chắn, có một thiểu số Do Thái một ngày kia rời bỏ ghetto, ở Paris cũng như ở Wilno hoặc ở Cracovie, họ chạy khỏi những khu nhớp nhúa ấy sau khi đã kiếm đủ gia sản, mua lấy xe cộ, may quần áo từ bên London, đi nhiều đoàn tàu xanh lơ khác nhau và xuất hiện tại các casino. Nhưng họ nuối tiếc décor gây choáng ngợp của những bước chân đầu tiên và thường quay trở lại với các nguồn năng lượng đó, chúng sản sinh các bác sĩ phẫu thuật, dương cầm thủ, chủ nhà băng cùng đôi khi là những đại cử tri, như Baruch, kho tài chính lớn của đảng dân chủ bên Mỹ, người thân cận của Roosevelt. Làm sao, quả thật, mà không cảm thấy nỗi hoài nhớ một ghetto chừng người ta là một người Do Thái khá khẩm, dẫu cái khu phố đó nhỏ xíu, như ghetto của Paris, mà vẻ đẹp đẽ cô đặc lại không hề thua kém những trung tâm lớn. Ở đây cũng như nơi khác, đám hàng thịt tên là Simon Klotz, người bán đồ dạ thì là Hirschfled, bánh không men của phố Écouffes ngon nhất Lục Địa, loại bánh duy nhất là đích thực bởi vì nó được làm ra dưới sự kiểm soát của Đại Rabbi, trong nghi thức ấy ông được hỗ trợ bởi một rabbi khác.
Rác với rưởi lều bều nơi các rãnh nước, trộn lẫn với lũ trẻ con còi cọc, mèo ghẻ lở. Mùi bánh nhúng dầu, đùi non nóng hổi, cần tây lững lờ bay ở ngang tầm tầng trệt. Những bóng dáng trang hoàng các bím tóc băng ngang các phố hẹp đi mua đồ, xi rô hay dép mujik, tại những hiệu sách-quán ăn. Thật hiếm những chiếc taxi len lách vào khu bazar ấy. Tất tật người Do Thái của một ghetto đều biết nhau, rình mò nhau, bỏ cả đời để chơi sát ván trên bình diện của tham tàn: chẳng ai trong số họ muốn cung cấp cho đồng loại chứng cứ về một phản bội, về một sự yếu đuối. Người nào mong muốn nhúc nhích thì đã bị đánh dấu cho sự đi khỏi, đại lộ Champs-Élysées, chính trị hoặc những buôn bán lớn.
Trong lúc đợi phép mầu đó, cư dân đóng trại, đầy kiên tâm và nhẫn nại, trên các vỉa hè, mơ trước những giá đựng sách cầu nguyện, các bí ẩn Talmud, bên dưới thủy tinh của ô kính trông chúng giống đống thảm, các tiểu thuyết tình hay thể thao bằng tiếng Hebrew, mà những ký tự gợi lên các tranh vẽ trên giấy ô, hình xà mâu hoặc ác-ti-sô, chuôi gươm. Những ai nồng nhiệt hơn cả thì mua ở chỗ chủ hiệu bùa và lư hương mấy thứ đồ mang lại may mắn, tương tự mấy món xỉa răng, gọi là mezuzas, rồi mang về nhà mà treo, cạnh cửa ra vào, sao cho lúc nào cũng có thể nhìn thấy, và nhất là những khi bước vào một nội thất thảm hại vào các giờ muộn mằn, lúc tiền và tình đều thiếu.
Buổi sáng, các ông già rậm râu và nhăn nheo, những hỗn hợp của thiên tài và nỗi sợ, những người dạo chơi lớn, nặng trĩu và đầy ưu tư, mà người ta đoán định là tinh ranh và nhiều hiểu biết, vừa có vẻ như đang chuyên chở các gánh nặng của niềm hoài nhớ lại vừa chứa nhiều điều bí mật, những lái buôn đáng kính rơi ra từ bảo tàng Hà Lan nào đó bước đi mà không nhìn thấy gì về phía nhà thờ, giống các sếp, và giới vô sản Do Thái phố Rosiers nhìn họ với đầy ghen tị và ngây độn, bởi họ thông thái và giàu.
Đối với một Ki-tô hữu bị chủ đề Do Thái khuấy động, một ghetto luôn luôn đầy ngập bí hiểm. Ghetto của Paris được trang hoàng bằng các biển hiệu vui mắt, những quảng cáo cho các nhà trọ Yiddish tại Dauville, các áp phích liên quan tới nhà hát Do Thái nào đó, cộng thêm đống nẹp sắt và trang trí kiến trúc. Đó là một tỉnh con người xấu xa và rực rỡ, sặc sỡ, chói, tinh xảo, đầy nhóc những sự giàu có lén lút, các dồn tụ kỳ khôi, từ đó phát xuất dòng chảy và ngõ nhỏ dị hình và nhơ nhớp, các lối đi toàn những ngôi nhà hôi thối, hai bên lề là các cửa hàng mà dòng chữ viết bằng tiếng Hebrew cấu tạo nên một phong cảnh kiểu biểu đồ cả rối rắm lẫn tối tăm. Nhưng ghetto của Paris, hòa trộn đến mức ấy vào với quận chứa nó như một thứ nấm tầm gửi, cũng đựng các hấp hơi của lịch sử.
Phố Roi-de-Sicile, cái tên dành cho các tội ác kiểu Balzac, chạy dài và trượt về phía một chân trời của nỗi buồn. Sau hiệu bánh mì Do Thái lừng danh, nơi những người rành và đám tín đồ đổ tới từ mọi khu phố Paris tìm những cái bánh ngọt đặc biệt, những cái ngon nhất và cũng mang các hình dạng kỳ quặc nhất mà người ta có thể hình dung, những cửa tiệm và quán ăn vơi dần. Cứ như thể phố ngáp ra các kỷ niệm. Nó ngoặt khá gấp, trong một dạng hoảng sợ, và tự ném mình vào phố Mahler, từng có tên phố Balais [chổi] cái hồi Những Người tháng Chín [tức là tháng Chín 1792, đoạn đẫm máu bi thảm của Cách mạng Pháp] một sáng nọ tụ tập đông đảo trước nhà tù prison de la Force, vốn dĩ nằm nơi góc faubourg Saint-Antoine, thảm sát tất tật tù nhân trong đó, lột áo princesse de Lamballe, cắm cái đầu nàng lên mũi một ngọn giáo, đôi khi quên mất nó tại các góc quán rượu bọn họ dừng chân, tiến về phía Palais-Royal, và giơ nó lên cao trước các cửa sổ một căn phòng nơi tình nhân của nàng đang đánh bài cùng các bạn.
Đám thiếu nữ tuyệt xinh và sa đọa của đám đông Do Thái, đứng đợi khách trên phố Pavée, có lẽ mơ tới cái kỷ niệm khủng khiếp đó trong lúc liếc những cặp mắt dài màu lục của họ lên những đĩa gia cầm của một quán bistrot Israélite nào đó, nơi mấy ông già say xỉn chỉ còn mong độc có một điều: chết tại một tổ quốc liberal và dễ dàng, nơi không cho phép các pogrom…
Marais
Hồi còn rất trẻ, tôi đã hiểu sự rực rỡ của khu Marais nghĩa là thế nào, khi một hôm nọ đi cùng, tới dinh thự Soubise, nơi ngày nay đặt Lưu trữ Quốc gia, một văn nhân đã già bước đến bắt tay Sếp Gác và liếc nhìn vài hiện vật đẹp vô song và được sắp xếp theo lối vô song.
[nhảy qua mấy bài vô cùng xuất sắc, "Le Marais", "Jardin des Plantes-Halle aux Vins", "Le musée des mondes perdus", "Crépuscule rue de Lappe", "De L'Opéra à Montparnasse" để đến luôn "Montparnasse": có thể thấy là Léon-Paul Fargue dần dần đi từ Bắc xuống Nam của Paris, nói ngắn gọn là từ Hữu Ngạn sang Tả Ngạn; cũng có thể dễ dàng thấy rằng Fargue - giống Proust - là con người của Hữu Ngạn, chứ không phải Tả Ngạn]
Montparnasse
Montmartre không có, ở trong ngôn ngữ, cách nói trại phổ biến. Vài ca sĩ đúng là từng nói Montmertre, nhưng cái từ ấy đã không phổ thông nổi. Trong khi Montparnasse đã chấp nhận là Montparno, giống Sébastopol đã trở nên Sébasto; rồi Topol. Tôi thuộc vào số những người thích Montmartre hơn Montparnasse, cả từ khi Montmartre trở thành hang ổ cho đám vũ công, lũ thích loay hoay vớ vẩn và ăn vận bảnh, và của hội người thượng lưu “nghịch đêm như người ta nghịch hội họa”. Montmartre đối với tôi có nhiều nhân tính hơn, nhiều thơ ca hơn, nhiều đẳng cấp hơn và, như người ta nói, ở đó người ta hẵng còn tự vệ, điều đó cũng có nghĩa tại đó người ta vẫn còn được ở nhà mình. Hoàn toàn khác là bầu không khí của Montparnasse, khu phố nhỏ tí xíu và đông nhung nhúc, không lịch sử cũng chẳng truyền thuyết, mà vĩ nhân dường như chính là Antoine, người khiến phát xuất từ phố Gaîté toàn bộ sân khấu kịch hiện đại. [rue de la Gaîté, xem nó đã xuất hiện trong thế giới văn chương của August Strindberg như thế nào ởkia]
Có hai Montparnasse. Một Montparnasse tự giao thân mình chẳng chút kín đáo, không phẩm cách, tức là Montparnasse của ngoài phố. Cái Montparnasse của giao lộ Montparnasse-Raspail, nơi bày ra toàn bộ rác rưởi - và đôi khi, giới tinh hoa - của châu Âu “trí thức và nghệ thuật”. Một nhà thơ tối tăm nào đó, một họa sĩ nào đó muốn thành công tại Bucarest hay Sevilla, nhất thiết phải, với tình trạng hiện tại của Cựu Lục Địa, từng thực hiện chút ít quân dịch ở quán Rotonde hoặc quán Coupole, hai viện hàn lâm vỉa hè nơi được dạy dỗ cuộc sống lưu đãng, niềm khinh bỉ giới bourgeois, sự hài hước và tửu lượng. Khủng hoảng đã giáng một đòn khá nghiêm trọng lên Montparnasse. Nhưng ở đó chúng ta từng biết đến một sự náo động phát xuất từ hồng thủy, từ thế kỷ lớn và từ kết thúc của thế giới. Những chiếc taxi đã chạy suốt nhiều đêm trên phố Delambre [phố Delambre thì lại xuất hiện rất trọng yếu trong thế giới của Modiano], phố Vavin hay phố Campagne-Première, những người Litva, hay làm ra các câu thơ bù xù, những người Chilê vận áo săng đay vẽ bằng những chiếc phuộc sét dùng để ăn ốc sên, những người da đen có bằng thạc sĩ dạy học, các triết gia Abyssinie, những người Nga tị nạn chuyên gia về nghệ thuật chế ra các món thuốc ngủ, lô tô hoặc nhà may. Bầu không khí của những trại điên ấy không hoàn toàn gây khó chịu.
Hồi mùa đông 1929-1930, tôi tới thăm một người Bồ Đào Nha tuyệt diệu sống tại nhà thuê đủ đồ đạc không xa hiệu sách Larousse. Tôi thường thấy ông trần truồng, đi lởn vởn trong phòng rồi đột nhiên dừng khựng lại để nguệch ngoạc lên mấy bức tường, giống Scribe [kịch tác gia] vẫn hay làm chừng ông cần có những lời thoại thật. Nhưng người Bồ Đào Nha chẳng hề ứng tác một cảnh nào hết: ông đang tìm kiếm một nghệ thuật mới hẳn sẽ, trong tinh thần ông, hội tụ các lợi thế của hội họa, văn chương và giấy bồi. Mười lần mỗi ngày bị săn đón, và thậm chí bị quây chặt, bởi các nhà cung ứng những câu thơ của khu phố, chẳng ngần ngừ ông bán đi một cái phô tơi, một tấm gương, một cái bàn guéridon trong nhà với giá sáu hay bảy franc, chỉ giữ độc một bộ complet veston màu xám nâu nhỏ phủ đầy vết bẩn mà ông cần “để sống”, ông giải thích. Ông lao thân vào những thao tác đó với một vẻ thờ ơ và một sự nhã nhặn gây ấn tượng lớn cho bà chủ nhà. Suốt nhiều tháng ròng, bà không dám mở miệng nói gì. Bà nhìn đồ đạc cùng đống thảm nhỏ của mình bỏ trốn với một sự rụt rè gây cảm động. Một hôm thậm chí bà còn mua lại, với giá chừng ba chục franc, một cái bình mà người Bồ Đào Nha đã để cho người khác để lấy trăm xu [tức năm franc]. Nhưng đâu có thánh tính được làm sẵn đó. Một đêm nọ, người đàn bà tốt tính nhận thấy rằng sự kiên nhẫn của mình vừa đột nhiên nhường chỗ lại cho lòng phẫn nộ. Chán ngán hội họa, nước Bồ Đào Nha, lũ gigolo, trong một nháy mắt bà bật dậy, giật lấy một cái ô, bước ra khỏi phòng ngủ của mình như một nữ thần báo thù, xuất hiện ở chỗ người thuê nhà, vụt cho ông mấy nhát chẳng hề báo trước và rốt cuộc tống cổ ông ra ngoài, trần như nhộng, bảo rằng ông sẽ chỉ nhìn thấy lại bộ comlê màu xám nâu cái ngày sạch được nợ với bà. Ông phải trả, vì tính luôn những thứ đồ đã bán, các món mà bà chủ nhà đưa cho, rồi thì tiền thuê nhiều tháng chưa thanh toán, đâu như sáu mươi lăm nghìn franc. Điều đó cho phép ông trần truồng mà đi khỏi, chẳng cằn nhằn mấy nỗi. Vài phút sau, ông xuất hiện tại quán Rotonde, trên mình phủ đầy những mảnh áp phích, đầu thì đội tờ báo Paris-Sport và chân lấm bùn, vì trời hôm ấy mưa. Người ta tiếp đón ông như một nhà thám hiểm. Ông kể lại cuộc phiêu lưu của mình. Ngay tức khắc Latvia, Đan Mạch, Tây Ban Nha, Mozambique và vùng Patagonia, được đại diện bởi nhiều họa sĩ chuyên màu nước, người mẫu và nhà cách mạng đa dạng, đề nghị lập thành liên đoàn trả thù, thành Bal des Quat’zarts trừng trị, và tàn phá ngôi nhà trọ. Người Bồ Đào Nha thấy thuận tiện hơn hết là vào ở trong một khách sạn bên cạnh, nơi người ta nhận chứa chấp ông vài tháng. Bởi người cho thuê nhà của Tả Ngạn thì khá là cả tin: ông ta tin vào nghệ thuật Nègre, vào Pré-Hellénique, vào Munichois, Toulousain và Bất kỳ cái gì, chỉ cần đám đầu bò đầu bướu hồi bé kia bình luận trước mặt ông ta kèm với thật nhiều động tác, whisky và Camel. Montparnasse là một trong những chốn trên đời nơi dễ dàng nhất hạng để sống mà chẳng làm gì, và thậm chí đôi khi còn kiếm được tiền nữa. Chỉ cần, phần lớn thời gian, mặc một cái áo pull-over thật chóe, hút một cái tẩu trông hơi có phần phức tạp, và nhảy múa dị dạng, là đủ. Đối lại, chút tài năng dẫu nhỏ nhất thì sẽ gây phiền: thậm chí nó chính là phương cách duy nhất để chết đói thẳng cẳng. Từ mười nay, các quận xịn đều đặn gửi, đến Cabane Cubaine, Select, Villa, Jacket hoặc vài chốn khác lúc nào cũng đầy sắc hương xa cỏ lạ, những phái đoàn tụi snob ngứa ngáy ham muốn được giải phóng, và cảm thấy một khoái lạc đúng nghĩa nếu được nói: “C’est régulier, c’est correct, je suis à la page, j’en ai marre, un truc marle, un malabar, v.v…” [đại khái là idiom, jargon] Khoái thú vô tội, vốn dĩ nằm ở nguồn gốc của Internationale nửa-trí thức nửa-đêm đen ấy, nơi đám giàu, đám thất bại, đám lười và đám ngộ của Trung Quốc, Phi châu, đại lộ Friedland, London hay Asnières kết giao hảo huynh đệ. Louis Barthou, một ngày nọ ăn tối cùng tôi tại một quán rất ổn của khu phố, nói với tôi rằng một trong số chúng tôi, nhà thơ, họa sĩ hay nhà thời luận, chắc phải sưu tầm cho các a ma tơ tương lai tổng thể những tờ tạp chí cùng xuất bản phẩm ra đời tại Montparnasse, nhằm lập dựng một hồ sơ tài liệu hẳn sẽ trở nên nhất thiết cho những ai, về sau này, muốn viết lịch sử rậm rì, hơi điên rồ, của Tả Ngạn. Barthou không thích Montparnasse lắm, nhưng ông lại yêu thích các loại tài liệu, bản thảo, chữ viết tay và giấy da dê… Tôi hẵng còn nghe thấy ông hỏi tôi bằng cái giọng nho nhỏ của ông, cắn cắn vào cái kính lorgnon, tay ngoáy mũi, tìm cách có được một hiểu biết chính xác về cái địa điểm ông đang ở trên: “Tôi cảm thấy hơi lạc lối trong cái biển toàn những họa sĩ, kiến trúc sư, đám người chỉ ưa phăng te di này. Đây là một dạng tiếng chiêm chiếp của các tư tưởng sai, của những ý vứt đi, của những sáng tạo đầy duyên dáng, những mầm mống dở của nghệ thuật. Nhưng chẳng gì xuất hiện, chẳng gì thống trị. Có một ông thầy hay không? Một thống lãnh trường phái? Một học thuyết?”
Đúng lúc ấy, tiến lại gần chúng tôi một Don Quichotte đầu đầy tóc và hàm răng thì hổng, một tay bợm rất đặc biệt khắp người phủ đầy những vết tàn nhang, trang trí bằng đống bút chì, mang nặng đống giấy, bìa, và hết sức dễ mến đề xuất với chúng tôi, bằng giọng của viên sen đầm: “Một xú vơ nia Montparnasse chứ?” Ông ta vẽ chân dung tốc họa với cái giá năm mươi xăng tim một bức…
Bên cạnh cái Montparnasse của các hàng hiên, các điệu tango, đậu phộng và những thứ đồ uống độc đáo đó, tồn tại trong không khí, như một giai điệu Montparnasse đích thực, cái Montparnasse chẳng hề có tường lẫn cửa ra vào và nó, hơn nhiều so với mọi ngôi đền khác, hẳn có thể đòi về mình mật mã lừng danh, đã hơi được sửa đổi: “Không ai được bước vào đây nếu không phải là nghệ sĩ.” Montparnasse vàng son, trên không, dịu dàng, đuổi cho phải chạy trốn lũ quỷ của nỗi cô đơn, Montparnasse của Baudelaire, của Manet, của Apollinaire, và của biết bao người khác nữa, với họ cuộc sống bên lề các thiết chế và tập quán bourgeois không phải một trò giả đò, mà là một nhất thiết theo cách nào đó ghi vào thâm sâu. Bộ tổng tham mưu đúng nghĩa của Montparnase được cấu thành bởi Moréas, Whistler, Jarry, Cremnitz, Derain, Picasso, Salmon, Max Jacob, nhóm bảo trợ cao cấp những người đã chết và còn đang sống vẫn còn định giọng cho những kẻ chập chững trong nghệ thuật sở hữu thiên tài. Cách đây hơn hai mươi năm một chút, vào lúc Picasso đến định cư vùng lân cận của quán Rotonde, tất cả mọi người ở Paris đều hiểu rằng một vùng thuộc địa mới, trải rộng tới tận Porte d’Orléans, sẽ thay thế cho phố Lepic đang hấp hối. Quán ăn Baty biết đến một sự thời thượng đột nhiên và có vinh dự được bán chịu cho Léon Trotsky, người, dẫu đã tạo ra Hồng quân cũng như vị thế của nhà cách mạng tuyệt đối, lúc nào cũng sẽ vẫn là một típ của Montparnasse, và cho thấy nhiều điểm chung với Modigliani, Vlaminck hay Doanier Rousseau, những người khách khác của Montparnasse, vả lại là khách du lịch thì đúng hơn, vì Vlaminck từ vùng ngoại ô lớn tới còn Modigliani thì từ Montmartre. Sự hiện diện đó của các họa sĩ, nhà duy mỹ, nhà buôn tranh, nhà thơ và các gái luôn luôn sẵn sàng tụt quần áo để làm mẫu khỏa thân đã chẳng phải không gây ảnh hưởng lớn lao lên cái giống “phiêu bạt” của khu phố. Le “mec” [ý nói các tay rất rắn] của Raspail và đại lộ Maine thì không giống những đồng nghiệp của anh ta bên Grenelle. Anh có có một ít giáo dục, những năng lực rất tinh tế về hài hước, biết nhảy kiểu hiện đại và, khi cần, với sự cận kề của nghệ thuật giúp sức, vẽ một ký họa các đôi bốt. Tuy tỏ ra cứng rắn với đám con gái, anh ta lại không thù nghịch với các nhà thơ. Anh ta từng biết Foujita, anh ta nhận ra được Kisling, và đám bí thư của các sứ quán xa xôi đến ăn tối ở quán Coupole cùng những họa sĩ “tại chỗ”. Tôi hay tới uống một cốc porto ở chỗ một cựu mẫu giờ đây sống theo lối hết sức bourgeois tại một căn hộ nhỏ diêm dúa phố Vaugirard và đối với tôi đó là một bảo tàng viện nhỏ của Montparnasse: ở đó người ta thấy có một cái cà vạt của Mécislas Golberg, một bưu thiếp của Max Jacob, một thực đơn của quán Baty, một tạp dề cũ từng thuộc về tay rửa bát nào đó của quán Rotonde, nhiều bức Utrillo, một mẩu cắt báo nhắc rằng khách sạn nhỏ của Picasso ở Montrouge từng một ngày kia bị trộm viếng thăm, một quyển sách về Van Gogh, và rất nhiều món lưu niệm lập thể, vị lai, khiêu dâm hay gây cảm động gợi nhớ rằng Montparnasse, trước khi trở thành khu phố cho đám họa sĩ giả danh thành đạt, từng rất lâu là một thiên đường nho nhỏ…
Chắc tôi sẽ chẳng thể nào kết thúc cuộc dạo chơi nhỏ tại Montparnasse này nếu không nhắc rằng ngọn đèn đầu tiên từng thắp lên để soi sáng cho khu phố kể từ bấy lừng danh trên toàn thế giới là một ngọn đèn cũ có chụp, đèn của Douanier Rousseau, người từng sống vào quãng 1895 trên đại lộ Maine, ngay kề cây cầu đường sắt. Nương theo những tình cờ của đi vơ vẩn và của các quán cà phê, một ngày kia chúng tôi, Alfred Jarry và tôi, phát hiện được ông. Rốt cuộc ông, chẳng phải là không suy nghĩ chán rồi, dẫn chúng tôi vào xưởng vẽ của ông. Vả lại ông không chậm trễ vẽ cho mỗi chúng tôi một bức chân dung. Ông đã vẽ tôi với bộ râu chỏm nhọn hồi đó tôi hay để, trước một cửa sổ có đường sắt chạy ngang lẫn vào một làn khói nặng nề như chùm lông một hiệp sĩ… Tôi không biết chuyện gì đã xảy tới với bức tranh đó, vả lại nó đã không được đưa cho tôi. Ông có thói quen nói, hồi ấy: “Chúng ta có bốn nhà văn lớn: ông Octave Mirbeau, ông Jarry, ông Fargue và ông Prudent-Dervillers.” (Nhân vật cuối cùng là cố vấn thành phố của khu.)
Quán cà phê đầu tiên nơi thực sự được đặt, để chiếu sáng, ngọn đèn cũ của Rousseau, là Rotonde, thời đó nó chỉ gồm tất tật có một quầy cùng một phòng sau nhỏ gắn nhiều gương, hoàn toàn được phủ lên bằng sự khắc hàng trăm nghìn câu tỏ tình… Giờ, tôi cần phải nhắc, trước khi lên đường quay trở lại bên hữu ngạn, đến khuôn mặt của Bubu de Montparnasse, nhân vật chính của Charles-Louis Philippe vĩ đại khốn khổ của tôi. Bubu làm ma cô hồi trước chiến tranh, tương đối khôn ngoan và gần như lụy tình. Thỉnh thoảng anh ta về thăm mẹ, bán tạp hóa trên đại lộ Maine. Và, chừng anh ta gặp ở đó các hàng xóm cùng những kẻ ưa ngồi lê đôi mách, thì anh ta chào họ, Philippe nói thế, với sự lịch thiệp nhã nhặn khiến bố mẹ chúng ta chẳng khi nào có thể từ mặt chúng ta cho nổi…
Nhị Linh dịch
đọc
Chắc hồi còn nhỏ không có những ngày nào chúng ta sống đầy đủ được hơn như những ngày mà chúng ta đã tưởng mình để mặc không sống qua, những ngày mà chúng ta đã đi qua cùng một cuốn sách ta rất thích.
Tôi nghĩ chúng ta chỉ nên đọc những cuốn sách làm mình đau đớn, xoáy dao vào mình.
Tôi chỉ có thể dự cảm được đây là một thứ hoàn toàn khác với những gì đã từng đọc trước đây
Quyển Sách... Ở đâu đó lúc bình minh của tuổi thơ, buổi rạng đông đầu tiên của cuộc đời, chân trời đã bừng sáng với ánh rực dịu dàng của nó.
Khi là một đứa trẻ, tôi đọc sách
Sự đọc, như thế, có thêm một chiều hoàn toàn mới: không còn chỉ là theo trục các tác giả, trục lịch đại, trục địa dư, mà còn có thêm trục của các hình thức.
Bằng cách tập cho công chúng đọc chỉ những loại truyện nhất định, với một góc nhìn hạn chế, nó [tạp chí] đã làm hỏng hẳn thị hiếu của họ đối với những tiểu thuyết nghiêm túc hơn.
Những cuốn sách quá tìm cách mời mọc. Những cái bìa gào quá to. Chẳng còn nhiều điều để ngưỡng mộ và ao ước. Cánh cửa nào cũng mở rộng nhưng chẳng còn đáng để bước vào.
Làm thế nào để từ ngôn tình lại tìm thấy cổ điển, thật khó biết
Tất nhiên có thể đọc sách trên laptop, nhưng những quyển sách giấy, bởi tồn tại vật chất của chúng, có thể nói lên rất nhiều điều.