favorites
Shopping Cart
Search
Vitanova
Prev
Hạ 2025
Next

John Cheever: Percy

19/07/2025 15:30

Hồi ức, cùng với những khay phô mai và món đồ gốm xấu xí đôi khi trao cho cô dâu, dường như có một vận mệnh hiển nhiên gắn liền với biển cả. Những hồi ức được viết ra trên một cái bàn như thế này, được hiệu đính, xuất bản, đọc, rồi bắt đầu hành trình tất yếu của mình về phía các giá sách trong những ngôi nhà và căn lều người ta thuê nghỉ hè. Trong căn nhà cuối cùng chúng tôi thuê, bên cạnh giường ngủ là Hồi ký của một Đại Công tước phu nhân, Hồi tưởng của một Tay săn cá voi vùng Yankee và một cuốn Goodbye to All That bìa mềm, nhưng cảnh ấy thì ở đâu trên thế giới cũng giống nhau. Cuốn sách duy nhất trong phòng khách sạn của tôi ở Taormina là Recordi d’un Soldato Garibaldino, và trong phòng tôi ở Yalta, tôi tìm thấy «Повесть о Җизни». Sự thất sủng chắc hẳn là một phần của chuyến dạt trôi này về phía nước mặn, nhưng bởi vì biển là biểu tượng phổ quát nhất của ta về ký ức, nên phải chăng có một mối tương liên bí ẩn nào đó giữa những cuốn hồi ức đã xuất bản này và tiếng gầm của sóng? Thế nên tôi viết ra những dòng sau đây với niềm tin hân hoan rằng những trang này sẽ tìm được đường vào một giá sách nào đó với tầm nhìn đẹp hướng ra bờ biển giông tố. Tôi thậm chí có thể hình dung không gian ấy - tấm thảm rơm, cửa sổ kính mờ đục vì muối biển, và cảm nhận ngôi nhà rung lên theo ngân vang của biển cả.

Ông chú cố Ebenezer từng bị ném đá trên đường phố Newburyport vì những quan điểm theo chủ nghĩa bãi nô. Người vợ đoan trang của ông, Georgiana (một nghệ sĩ dương cầm), mỗi tháng một hai lần lại tết lông chim lên tóc, ngồi xổm trên sàn, châm tẩu thuốc, và, sau khi được các thế lực tâm linh ban cho nhân cách của một con mọi da đỏ, bèn tiếp nhận những thông điệp từ người chết. Chị họ của cha tôi, Anna Boynton, người từng dạy tiếng Hy Lạp tại trường Radcliffe, đã nhịn ăn đến chết trong nạn đói Armenia. Bà và người chị gái Nanny có nước da màu đồng, gò má cao và mái tóc đen của người da đỏ vùng Natick. Cha tôi thích hồi tưởng cái đêm ông uống sạch sâm panh trên chuyến tàu New York - Boston. Ông bắt đầu uống những chai nhỏ cùng một người bạn nào đó trước bữa tối, và khi hết chai nhỏ, họ uống cạn những chai quarts, rồi đến magnums, và đang uống tiếp một chai jeroboam khi tàu đến Boston. Ông thấy cái kiểu nốc rượu này thật oai hùng. Bác Hamlet của tôi - một ông già tàn tạ, mồm đen đúa, từng là ngôi sao trong đội bóng của Sở Cứu hỏa Tình nguyện Newburyport - gọi tôi đến bên giường bệnh và gào lên, ‘Tao đã sống qua năm mươi năm đẹp nhất trong lịch sử đất nước này. Còn lại, mày giữ lấy.’ Ông như thể trao lại tất cả cho tôi trên một cái mâm - hạn hán, suy thoái, thiên tai, dịch bệnh và chiến tranh. Tất nhiên là ông đã lầm, nhưng ý nghĩ đó khiến ông hài lòng. Tất cả những chuyện này diễn ra ở vùng ngoại ô Boston - thành Athens của nước Mỹ, nhưng gia đình tôi dường như gần hơn nhiều lối nói cường điệu và hùng biện bắt nguồn từ xứ Wales, Dublin và các tiểu quốc rượu chè, so với những bài giảng đạo của Phillips Brooks.

Một trong những thành viên nổi bật nhất bên ngoại của tôi là một người dì tự gọi mình là Percy và hút xì gà. Không hề có sự nhập nhằng giới tính nào ở đây. Dì ấy đẹp, trắng trẻo và nữ tính mãnh liệt. Chúng tôi chưa bao giờ thân thiết. Cha tôi có thể đã không ưa dì ấy, dù tôi không nhớ rõ điều này. Ông bà ngoại tôi đã di cư từ Anh sang vào những năm 1890 cùng sáu người con. Ông ngoại Holinshed của tôi, từng bị gọi là một kẻ vô lại - một từ luôn gợi lên cho tôi hình ảnh một gã đàn ông đang nhảy qua hàng rào ngay trước một làn đạn hoa cải đang nổ phía sau. Tôi không rõ ông đã gây ra lỗi lầm gì ở Anh, nhưng chuyến lưu đày sang Tân Thế giới của ông được tài trợ bởi người cha vợ, Ngài Percy Devere, và ông được chu cấp một khoản tiền nhỏ miễn là không trở về Anh. Ông căm ghét nước Mỹ và qua đời vài năm sau khi đến đây. Vào ngày tang lễ của ông, Bà tôi thông báo với các con rằng tối nay sẽ có một cuộc họp gia đình. Mọi người nên chuẩn bị tinh thần để bàn về dự định của mình. Khi cuộc họp bắt đầu, Bà lần lượt hỏi các con định làm gì với cuộc đời mình. Bác Tom muốn làm lính. Bác Harry muốn làm thủy thủ. Bác Bill muốn trở thành thương nhân. Dì Emily muốn kết hôn. Mẹ tôi muốn làm y tá chữa bệnh cho người. Dì Florence - người sau này tự gọi mình là Percy – thốt lên, 'Con ước mình trở thành một họa sĩ vĩ đại, giống như các Bậc thầy thời Phục hưng Ý!' Bà tôi bèn nói, 'Vì ít nhất một đứa trong số các con đã có ý niệm rõ về cuộc đời mình, những người còn lại sẽ đi làm, còn Florence sẽ đi học trường mỹ thuật.' Họ đã làm đúng như vậy, và theo như tôi biết, không ai từng oán hận quyết định ấy.

Mọi thứ dường như thật êm xuôi, mà hẳn thực tế đã khác biết bao. Cái bàn nơi cả nhà quây quần hẳn được thắp sáng bằng dầu cá voi hoặc dầu hỏa. Họ sống trong một trang trại ở Dorchester. Họ chắc chỉ ăn đậu lăng hoặc cháo, hay khá lắm là món hầm vào bữa tối. Họ rất nghèo. Nếu khi ấy là mùa đông, họ hẳn sẽ lạnh lắm, và sau cuộc họp gia đình, gió sẽ thổi tắt ngọn nến của Bà tôi - Bà nghiêm trang - khi bước xuống lối sau đến cái nhà xí hôi hám. Họ chắc không tắm quá một lần mỗi tuần, và tôi đoán là tắm bằng xô. Sự gãy gọn trong lời thốt của Percy dường như đã che khuất hiện thực về một góa phụ khốn cùng với sáu người con. Ai đó hẳn đã phải rửa hết chỗ bát đĩa ấy - và rửa chúng trong thứ nước đầy mỡ, được múc lên từ giếng bơm và đun trên bếp lửa.

Mối đe dọa của vẻ quý phái trong những hồi ức kiểu này giống như thanh gươm Damocles, nhưng đây đều là những con người không giả bộ cũng chẳng màu mè, và khi Bà tôi nói tiếng Pháp ở bàn ăn, như bà vẫn thường làm, thì chỉ là để áp dụng phần học vấn của mình vào điều gì đó thiết thực. Dĩ nhiên, đó là một thế giới giản đơn hơn rất nhiều. Chẳng hạn, một ngày nọ, Bà đọc trên báo rằng một gã đồ tể say xỉn, cha của bốn đứa trẻ, đã chém vợ mình bằng một con dao chặt thịt, bà đã đi thẳng đến Boston bằng xe ngựa điện hay xe ngựa hai bánh - bất cứ phương tiện nào có sẵn. Có một đám đông vây quanh khu nhà nơi xảy ra án mạng, và hai viên cảnh sát canh cửa. Bà tôi vượt qua cảnh sát, và tìm thấy bốn đứa con kinh hãi của tay đồ tể trong căn hộ nhuốm máu. Bà gom quần áo của chúng, đưa những đứa trẻ về nhà và cưu mang trong một tháng hoặc hơn, cho đến khi tìm được những mái nhà khác. Quyết định tuyệt thực của người họ hàng Anna và ước nguyện trở thành họa sĩ của Percy đều được đưa ra với cùng trực tính. Đó là điều mà Percy tin mình có thể làm tốt nhất - điều sẽ mang lại nhiều ý nghĩa nhất cho cuộc đời dì.

Dì bắt đầu tự gọi mình là Percy trường mỹ thuật, vì cảm thấy giới nghệ thuật có phần định kiến với phụ nữ. Trong năm cuối ở trường mỹ thuật, dì đã vẽ một bức tranh khổ sáu trên mười bốn bộ, vẽ Orpheus thuần phục muông thú. Tác phẩm này đã giúp dì giành được huy chương vàng và một chuyến sang Châu Âu, nơi dì theo học vài tháng tại trường Beaux-Arts. Khi trở về, dì nhận được ba đơn vẽ chân dung, nhưng dì quá nhiều hoài nghi để thành công trong việc này. Những bức chân dung của dì là những bản cáo trạng bằng hình ảnh, và cả ba đều không thể được chấp nhận. Dì không phải là người đàn bà hung hăng, nhưng lại cực đoan và khắt khe.

Sau khi trở về từ Pháp, dì đã gặp một bác sĩ trẻ tên là Abbott Tracy tại câu lạc bộ du thuyền nào đó ở vùng North Shore. Tôi không nói đến Corinthian. Ý tôi là đống gỗ trôi tanh tưởi tạm bợ, đóng đinh lại bởi đám thuỷ thủ chơi cuối tuần. Bọ ngài đục khoét mặt nỉ bi-a. Đồ nội thất trục vớt. Hai hố xí khô đề biển "Quý bà" và "Quý ông", cùng vài chỗ neo cho một tá những con thuyền bụng bè mà cha tôi thường tả là “lướt đi như bất động sản.” Percy và Abbott Tracy đã gặp nhau ở một nơi như vậy, và dì phải lòng ông ta. Ông ta trước đấy đã bắt đầu một sự nghiệp tình dục đáng gờm và lâm sàng, và dường như không hiểu biết gì về tình cảm, dù tôi nhớ là ông ấy thích ngắm trẻ con đọc kinh cầu nguyện. Percy lắng nghe từng bước chân ông, mòn mỏi khi ông vắng mặt, tiếng ho do hút xì gà của ông nghe như âm nhạc với dì, và dì đã vẽ đầy một tập tranh, những bản phác chì khuôn mặt, đôi mắt, bàn tay ông, và, sau khi họ kết hôn, là phần còn lại của ông.

Họ mua một căn nhà cũ ở West Roxbury. Trần nhà thấp, các phòng tối, cửa sổ bé, và lò sưởi phà khói. Percy thích tất cả những điều này, và cùng mang với mẹ tôi một niềm yêu dành cho những tàn tích lộng gió tưởng như kỳ lạ ở những người phụ nữ cao thượng như thế. Dì biến một phòng ngủ trống thành xưởng vẽ và thực hiện một bức tranh khổ lớn khác - Prometheus mang lửa đến cho loài người. Tác phẩm được trưng bày ở Boston, nhưng chẳng ai mua. Sau đó, dì vẽ một tiên nữ và một nhân mã. Bức này từng nằm trên gác xép, và con nhân mã trông giống hệt chú Abbott. Công việc của chú Abbott không mấy lợi lộc, và tôi đoán là ông ấy lười. Tôi nhớ từng thấy ông ăn sáng trong bộ đồ ngủ lúc một giờ chiều. Họ hẳn đã túng thiếu, và tôi đoán Percy đã lo liệu việc nhà, đi chợ và đem đồ giặt ra phơi. Một đêm khuya khi đã lên giường, tôi nghe thấy cha tôi hét lên, 'Tôi không thể chu cấp cho con em hút xì gà của cô thêm nữa.' Percy dành một thời gian chép tranh ở Fenway Court. Việc này mang lại chút tiền, nhưng rõ ràng là không đủ. Một người bạn ở trường mỹ thuật đã khuyên dì thử vẽ bìa tạp chí. Điều này đi ngược hoàn toàn với mọi khát vọng và bản năng của dì, nhưng hẳn dì cảm thấy mình không có lựa chọn nào khác, và bắt đầu vẽ ra những bức tranh uỷ mị cho các tạp chí. Dì trở nên khá nổi tiếng nhờ việc này.

Dì chưa bao giờ là người khoa trương, nhưng dì không thể quên rằng dì chưa khám phá hết khả năng mình: những thiên bẩm mà dì có thể đã có và lòng say mê hội họa của dì là chân thật. Khi có điều kiện thuê người nấu ăn, dì đã dạy người đầu bếp đó học vẽ. Tôi nhớ dì từng nói, vào cuối đời, 'Trước khi chết, dì phải quay lại Bảo tàng Boston và ngắm những bức tranh màu nước của Sargent.' Năm mười sáu hay mười bảy tuổi, tôi đã thực hiện một chuyến đi bộ tham quan nước Đức cùng anh trai mình và mua cho dì Percy vài bản sao tranh van Gogh ở Munich. Dì vô cùng phấn khích trước món quà này. Hội hoạ, với dì, mang một sức sống hữu cơ nào đó - nó là hành trình khám phá các lục địa của ý thức, và ấy là một thế giới mới. Sự non nớt chủ ý trong phần lớn tác phẩm đã làm mai một kỹ năng phác hoạ của dì, và đến một thời điểm, dì bắt đầu thuê người mẫu mỗi sáng thứ bảy và vẽ từ mẫu thật. Một lần ghé qua - để trả một cuốn sách hay một tờ báo - tôi bước vào xưởng vẽ của dì và trông thấy ngồi trên sàn một cô gái trẻ khỏa thân. “Nellie Casey,” dì Percy cất tiếng, “đây là cháu trai tôi, Ralph Warren.” Rồi dì tiếp tục phác hoạ. Cô người mẫu mỉm cười ngọt ngào - đó gần như là một nụ cười xã giao và dường như đã làm dịu đi phần nào vẻ trần trụi uy nghi của cô. Ngực cô rất đẹp, và hai núm vú, lơi lả và nhẹ sắc, lớn hơn cả đồng bạc đô-la. Bầu không khí chẳng hề gợi dục hay bỡn cợt, và tôi nhanh chóng đi khỏi.

Tôi đã mơ về Nellie Casey suốt nhiều năm. Những bức vẽ bìa tạp chí của Percy đã mang về đủ tiền để dì mua một căn nhà ở Cape, một căn ở Maine, một cái ô tô lớn, và một bức tranh nhỏ của Whistler từng được treo trong phòng khách bên cạnh một bản sao bức Europa của Titian mà dì Percy vẽ lại.

Con trai đầu lòng của dì, Lovell, chào đời vào năm thứ ba của cuộc hôn nhân. Khi cậu được bốn hay năm tuổi, người ta đã kết luận cậu là một thiên tài âm nhạc, và cậu bé quả thật có sự khéo léo lạ kỳ ở đôi tay. Cậu gỡ dây diều và dây câu rối rất giỏi. Cậu được cho nghỉ học, được gia sư dạy kèm và dành phần lớn thời gian để luyện đàn piano. Tôi ghét cậu ta vì nhiều lý do. Cậu ta cực kỳ tục tĩu, lại còn thoa dầu lên tóc. Anh trai tôi và tôi cũng sẽ chẳng bứt rứt hơn nếu cậu ta có đội cả vương miện bằng hoa lên đầu. Cậu không chỉ dùng dầu vuốt tóc, mà khi đến chơi còn để quên cả lọ dầu trong tủ thuốc nhà tôi. Cậu đã có buổi biểu diễn độc tấu đầu tiên tại Steinway Hall khi mới tám hay chín tuổi và lúc nào cũng chơi một bản sonata của Beethoven khi gia đình tụ họp.

Percy hẳn đã nhận ra, từ sớm trong cuộc hôn nhân của mình, rằng tính phóng đãng của chồng là bất trị và không thể cứu chữa, nhưng dì đã kiên quyết, như bất kỳ kẻ đang yêu nào, xác thực mối nghi ngờ của mình. Làm sao một người đàn ông mà dì say đắm lại có thể không chung thuỷ? Dì thuê một văn phòng thám tử, và họ đã lần theo ông ta đến một khu căn hộ gần ga tàu, tên là Orpheus. Percy tới đó và bắt gặp ông ta trên giường với một tổng đài viên đã thất nghiệp. Ông ta đang hút một điếu xì gà và uống whisky. "Này, Percy," người ta bảo ông đã nói thế, "sao em lại phải đi làm chuyện này?" Sau đó, dì tới nhà chúng tôi và ở lại chừng một tuần. Dì đang mang thai, và khi cậu con trai Beaufort ra đời, não hoặc hệ thần kinh của nó đã bị tổn thương nghiêm trọng. Abbott luôn quả quyết rằng con trai mình không có vấn đề gì, nhưng khi Beaufort được năm hay sáu tuổi, cậu bé bị gửi đến một trường học hay cơ sở nào đó ở Connecticut. Cậu thường về nhà vào các kỳ nghỉ, và đã học được cách ngồi xuyên suốt một bữa ăn của người lớn, nhưng chỉ có vậy. Cậu mắc chứng thích phóng hoả và đã từng phơi thân ở cửa sổ trên lầu khi Lovell đang chơi bản 'Waldstein'. Dẫu vậy, Percy chưa bao giờ cay đắng hay sầu muộn và vẫn tiếp tục tôn thờ chú Abbott.

Gia đình tôi thường tụ họp, theo như tôi nhớ, gần như mọi Chủ nhật. Tôi không rõ vì sao họ lại dành nhiều thời gian bên nhau đến thế. Có lẽ họ ít bạn bè, hoặc có lẽ họ đặt tình thân lên trên tình bạn. Đứng trong mưa ngoài cửa ngôi nhà cũ của Percy, chúng tôi dường như gắn kết với nhau không phải bởi huyết thống, cũng chẳng phải bởi tình yêu, mà bởi cảm giác rằng thế gian và mọi tạo tác của nó đều thù địch. Căn nhà tối om. Nó có một mùi ngai ngái.

Những vị khách thường có Bà tôi và Nanny Boynton già, em gái của bà ấy đã tuyệt thực đến chết. Nanny từng dạy nhạc trong các trường công lập ở Boston đến khi nghỉ hưu, lúc ấy bà chuyển về một trang trại ở South Shore. Tại đây, bà nuôi ong, trồng nấm, và đọc các bản tổng phổ - Puccini, Mozart, Debussy, Brahms, v.v. - mà một người bạn ở thư viện công gửi cho qua đường bưu điện. Tôi nhớ về bà với một cảm giác dễ chịu. Bà ấy nom, như tôi từng nói, giống một người da đỏ vùng Natick. Mũi bà khoằm, và khi ra chỗ tổ ong, bà trùm người bằng vải thưa và hát bài Vissi d’arte. Tôi từng nghe lỏm được ai đó nói rằng bà thường xuyên say xỉn, nhưng tôi không tin. Bà đến ở cùng Percy những khi thời tiết mùa đông trở nên khắc nghiệt và luôn mang theo một bộ Britannica, được đặt trong phòng ăn sau ghế của bà để giải quyết những tranh cãi.

Các bữa ăn ở nhà Percy rất nặng bụng. Khi gió thổi, lò sưởi phả khói. Lá và mưa rơi ngoài cửa sổ. Đến lúc lui về phòng khách tối om, ai nấy đều cảm thấy khó chịu. Lovell khi ấy thường được bảo chơi đàn. Những nốt nhạc đầu tiên của bản sonata Beethoven luôn biến căn phòng tối tăm, ngột ngạt, nặng mùi ấy thành một khung cảnh mang vẻ tuyệt mỹ phi thường. Một ngôi nhà nhỏ đứng giữa cánh đồng xanh bên dòng sông. Một người phụ nữ với mái tóc màu lanh bước ra khỏi cửa và lau tay vào tạp dề. Nàng gọi người yêu. Nàng gọi và gọi mãi, nhưng có điều gì đó không ổn. Một cơn bão đang kéo đến. Dòng sông sẽ ngập. Cây cầu sẽ bị cuốn trôi. Âm trầm rền vang, u uẩn báo điềm gở. Hãy coi chừng, Hãy coi chừng! Thương vong trên đường ở mức vô tiền khoáng hậu. Bão táp vào bờ tây Florida. Pittsburgh tê liệt vì mất điện. Nạn đói hoành hành ở Philadelphia, và không còn hy vọng cho bất kỳ ai. Thế rồi âm bổng trữ tình ngân lên một khúc dài về tình yêu và cái đẹp. Khi khúc nhạc ấy kết thúc, âm trầm lại trỗi dậy, nặng nề hơn với thêm phần tin dữ. Cơn bão đang tiến về phía bắc qua Georgia và Virginia. Thương vong cứ thế chồng chất. Dịch tả hoành hành ở Nebraska. Sông Mississippi đã tràn bờ. Một ngọn núi lửa vừa phun trào ở dãy Appalachians. Than ôi, than ôi! Âm bổng trở lại với phần lý lẽ của mình, đầy thuyết phục, hy vọng, và trong trẻo hơn bất kỳ giọng con người nào tôi từng nghe. Rồi hai giọng ấy bắt đầu đối đáp, và cứ thế ngân vang đến hết.

Một buổi chiều nọ, khi nhạc đã dứt, Lovell, chú Abbott cùng tôi lên xe lái vào khu ổ chuột Dorchester. Khi ấy là đầu đông, trời đã tối và có mưa, và những cơn mưa ở Boston đổ xuống với uy lực nặng nề. Chú đỗ xe trước một khu nhà gỗ và nói sẽ đi thăm một bệnh nhân.

"Anh nghĩ ông ta đi gặp bệnh nhân à?" Lovell hỏi.

"Ừ," tôi đáp.

"Ông ta đi gặp tình nhân đấy," Lovell nói. Rồi cậu bật khóc.

Tôi không ưa cậu ta. Tôi không có chút cảm thông nào dành cho cậu. Tôi chỉ ước mình có những mối quan hệ đúng mực hơn. Cậu lau nước mắt, và chúng tôi ngồi đó không nói gì cho đến khi chú Abbott trở lại, huýt sáo, mãn nguyện và toả mùi nước hoa. Chú đưa chúng tôi đến một hiệu thuốc để ăn kem, rồi chúng tôi trở về nhà, nơi dì Percy đang mở cửa sổ phòng khách để đón chút khí trời. Dì có vẻ mỏi mệt nhưng vẫn phấn chấn, dù tôi đoán rằng dì và mọi người khác trong phòng đều biết chú Abbott vừa làm gì. Đã đến lúc chúng tôi về nhà.

Lovell vào học tại Nhạc viện Eastman năm mười lăm tuổi và biểu diễn bản Concerto cung Sol trưởng của Beethoven cùng dàn nhạc Boston năm cậu tốt nghiệp. Dẫu được rèn giũa để  không bao giờ nhắc đến tiền bạc, thật kỳ lạ là tôi lại nhớ rõ các chi tiết tiền nong của buổi ra mắt ấy. Bộ đuôi tôm của cậu ta giá một trăm đô la, thầy luyện nhạc thu năm trăm, và dàn nhạc trả cậu ba trăm cho hai buổi diễn. Cả gia đình rải rác khắp khán phòng, nên chúng tôi không thể gom hết niềm phấn khích, nhưng ai nấy đều háo hức vô cùng. Sau buổi hoà nhạc, chúng tôi vào phòng chờ và uống sâm panh. Koussevitzky không xuất hiện, nhưng Burgin, trưởng dàn nhạc, thì có mặt. Các bài phê bình trên tờ Herald Transcript khá tích cực, nhưng cả hai đều chỉ ra rằng phần trình diễn của Lovell thiếu cảm xúc. Mùa đông năm ấy, Lovell và Percy đi lưu diễn miền Tây, tới tận Chicago, và đã có điều gì trục trặc. Có lẽ với tư cách bạn đồng hành, họ là những kẻ xung khắc; cậu ta có thể đã nhận về những đánh giá không hay hoặc lượng khán giả ít ỏi, và tuy chẳng ai nói gì, tôi nhớ rằng chuyến lưu diễn đã không vẻ vang. Khi trở về, Percy bán một mảnh đất liền kề nhà và sang châu Âu nghỉ hè. Lovell hoàn toàn có thể nuôi sống bản thân bằng nghề nhạc sĩ, nhưng thay vào đó, cậu đã nhận một công việc lao động tay chân cho công ty thiết bị điện nào đó. Cậu ghé thăm chúng tôi trước khi Percy trở về, và kể tôi nghe chuyện đã xảy ra vào mùa hè năm ấy.

“Bố không còn dành nhiều thời gian ở nhà sau khi mẹ đi,” cậu nói, “và hầu hết các buổi tối tôi chỉ có một mình. Tôi thường tự lo bữa tối và dành nhiều thì giờ ở rạp chiếu phim. Tôi từng thử làm quen gái, nhưng tôi gầy nhẳng và chẳng tự tin mấy. Rồi, một Chủ nhật, tôi lái chiếc Buick cũ xuống bãi biển. Bố đã cho tôi dùng chiếc Buick cũ ấy. Tôi trông thấy một cặp vợ chồng béo phịch cùng cô con gái trẻ. Họ trông cô đơn. Bà Hirshman rất béo, và bà ấy trang điểm như một chú hề, lại còn có một con chó nhỏ. Có một kiểu phụ nữ to béo lúc nào cũng có một con chó nhỏ. Thế là tôi nói gì đó về việc tôi yêu chó, và họ có vẻ vui khi nói chuyện với tôi, rồi tôi lao vào sóng, trổ tài bơi sải, rồi quay lại và ngồi cùng họ. Họ là người Đức, có một chất giọng ngộ nghĩnh, và tôi nghĩ tiếng Anh lơ lớ cùng thân hình béo ú đã khiến họ cô độc. Ừm, cô con gái của họ tên là Donna-Mae, và cô ấy quấn mình trong một chiếc áo choàng tắm, và đội mũ, và họ bảo tôi rằng cô có làn da quá trắng, đến mức phải tránh ánh nắng. Rồi họ bảo tôi cô ấy có mái tóc đẹp, và cô bỏ mũ ra, và tôi thấy mái tóc cô ấy lần đầu. Nó thật đẹp. Nó có màu mật ong và rất dài, và nước da cô ấy thật ngọc ngà. Có thể thấy là nắng sẽ thiêu cháy làn da ấy. Thế là chúng tôi nói chuyện. Tôi đã mua vài cái xúc xích cùng nước tonic, rồi dẫn Donna-Mae đi dạo bãi biển và thấy thật hạnh phúc. Rồi, khi hết ngày, tôi đề nghị chở họ về - họ đã đến bãi biển bằng xe buýt - và họ bảo đồng ý nếu tôi hứa sẽ ăn tối cùng họ. Họ sống trong một dạng khu ổ chuột, ông bố là một thợ sơn. Nhà họ khuất sau một căn nhà khác. Bà Hirshman nói, khi đang nấu bữa tối, sao tôi không lấy vòi nước tắm cho Donna-Mae? Tôi nhớ rất rõ khoảnh khắc ấy, bởi đó là khi tôi phải lòng.

Cô ấy mặc lại đồ tắm, và tôi cũng thay sang đồ tắm của mình, rồi tôi nhẹ nhàng xịt nước lên người cô bằng vòi. Cô kêu ré lên một chút, dĩ nhiên, vì nước lạnh, trời thì đang tối dần, và trong ngôi nhà bên cạnh, ai đó đang chơi Chopin cung Đô thăng thứ, Opus 28. Cái đàn bị lạc tông, người đó cũng đâu biết chơi, thế nhưng âm nhạc, làn nước, làn da ngọc ngà và mái tóc vàng óng của Donna-Mae, cùng mùi bữa tối toả ra từ bếp và ánh chạng vạng, tất cả dường như là một cõi thiên đường. Thế là tôi ăn tối cùng họ và về nhà, và tối hôm sau tôi đưa Donna-Mae đi xem phim. Sau đó tôi lại ăn tối cùng họ và khi tôi kể với bà Hirshman rằng mẹ tôi đang đi xa và tôi hầu như chẳng bao giờ thấy bố, bà bảo rằng họ có một phòng trống và sao tôi không ở lại? Vậy là đêm kế, tôi gói vài bộ quần áo và dọn đến căn phòng trống của họ và đã ở đó đến nay.

Không chắc rằng Percy có viết thư cho mẹ tôi sau khi trở về từ châu Âu, và nếu có thì bức thư hẳn cũng đã bị huỷ, bởi gia đình có một sự căm ghét bạo liệt với các kỷ vật. Thư từ, ảnh chụp, bằng cấp - bất cứ thứ gì xác thực quá khứ đều bị ném vào lửa. Tôi nghĩ đây chẳng phải, như họ từng khẳng định, là do không ưa bừa bộn, mà là một nỗi sợ cái chết. Ngoái nhìn về quá khứ là chết, và họ không định để lại dấu vết nào. Không có lá thư nào như vậy, nhưng nếu đã từng có, thì hẳn nó, theo những gì tôi được kể lại, sẽ như thế này:

Chị Polly thân yêu:

Lovell đã gặp em ở bến tàu hôm thứ Năm. Em đã mua tặng nó một bút tích của Beethoven ở Rome, nhưng trước khi kịp đưa thì nó thông báo rằng nó đã đính hôn. Nó không đủ khả năng để lấy vợ, dĩ nhiên, và khi em hỏi nó định nuôi gia đình kiểu gì, nó nói đang có việc làm ở một công ty thiết bị điện nào đó. Khi em hỏi chuyện âm nhạc, nó bảo vẫn sẽ tiếp tục chơi vào buổi tối. Em không muốn điều khiển cuộc đời nó, và em đã rất buồn bã khi phải nhận tin ấy ngay khi vừa xuống tàu. Rồi nó nói thêm rằng nó không còn sống cùng bố nó và em nữa. Nó đang sống với bố mẹ vợ tương lai.

Em bận rộn ổn định cuộc sống, lại phải vào Boston mấy lần để tìm việc nên không thể tiếp đãi hôn thê nó cho đến khi đã trở về được một hai tuần. Em mời con bé trà. Lovell dặn em đừng hút xì gà, và em đồng ý. Em hiểu ý thằng bé. Nó rất ái ngại về cái mà nó gọi là "chủ nghĩa bohemian" của em, và em muốn tạo ấn tượng tốt. Hai đứa đến lúc bốn giờ. Tên con bé là Donna-Mae Hirshman. Bố mẹ là dân nhập cư gốc Đức. Con bé hai mốt tuổi và làm nhân viên ở một văn phòng bảo hiểm nào đó. Giọng the thé. Cười khúc khích. Thứ duy nhất đáng khen là bộ tóc vàng rực. Em đoán Lovell dường như bị thu hút bởi vẻ trắng trẻo của con bé, nhưng điều đó khó mà đủ chính đáng để kết hôn. Nó cười khúc khích khi được giới thiệu, rồi phịch xuống cái sofa đỏ và ngay khi nhìn thấy bức Europa, lại rúc rích. Lovell không thể rời mắt khỏi nó. Em rót trà cho con bé và hỏi nó muốn dùng chanh hay kem. Nó bảo nó không biết. Em liền lịch sự hỏi con bé thường cho gì vào trà, thì nó bảo chưa bao giờ uống trà. Rồi em hỏi nó thường uống gì, thì nó nói chủ yếu là nước tonic, và thỉnh thoảng cả bia. Em đưa nó trà pha với sữa và đường, rồi cố nghĩ ra chuyện gì đó để nói.

Lovell phá tan bầu không khí bằng cách hỏi em rằng mái tóc con bé không đẹp sao. Em bảo là rất đẹp. “Vâng, tốn công lắm”, con bé nói. “Cháu phải gội đầu hai lần một tuần bằng lòng trắng trứng. Ôi, bao lần cháu đã muốn cắt phăng nó đi. Người ta không hiểu. Người ta nghĩ rằng nếu Chúa ban cho ta một mái tóc đẹp thì ta nên trân trọng nó, nhưng nó cũng nhọc công như một bồn rửa ngập bát đĩa vậy. Phải gội đầu, phải sấy khô, rồi dùng lược chải mượt, rồi vấn lên vào ban đêm. Cháu biết nghe thật khó hiểu, nhưng thề với Chúa, có những ngày cháu chỉ muốn xén nó đi, nhưng Mẹ đã bắt cháu thề trên Kinh thánh rằng cháu sẽ không làm vậy. Cháu sẽ xoã ra cho cô xem nếu cô muốn.”

Em nói thật đấy, Polly. Em không hề phóng đại đâu. Con bé bước tới gương, tháo cả đống ghim khỏi tóc và xõa xuống. Tóc nó rất nhiều. Em đoán là nó có thể ngồi lên tóc cũng được, dù em không hỏi. Em đã nói đi nói lại rằng tóc nó rất đẹp. Rồi con bé bảo nó biết em sẽ trân trọng mái tóc đó, vì Lovell từng nói với nó rằng em có khiếu nghệ thuật và yêu cái đẹp. Con bé trưng bày mái tóc một lúc, rồi bắt đầu công cuộc nhọc nhằn là đưa nó lại xếp đặt cũ. Đúng là vất vả. Sau đó, con bé tiếp tục kể rằng có vài người tưởng tóc nó nhuộm, và chuyện đó khiến nó nổi điên, vì nó thấy rằng đàn bà mà nhuộm tóc là vô đạo đức. Em hỏi con bé có muốn thêm một tách trà nữa không, và nó bảo không. Rồi em hỏi nó đã bao giờ nghe Lovell chơi piano chưa, và nó nói chưa, nhà nó không có đàn. Sau đó, con bé nhìn Lovell và bảo đến giờ phải đi rồi. Lovell chở nó về, rồi quay lại, em đoán, để xin vài lời tán thành. Dĩ nhiên trái tim em như vỡ làm đôi. Một sự nghiệp âm nhạc xán lạn đã tiêu tan chỉ vì một mái tóc. Em nói với nó rằng em không bao giờ muốn gặp lại con bé ấy nữa. Nó bảo nó sẽ cưới con bé, và em đáp là em không quan tâm nó làm gì nữa.

Lovell đã cưới Donna-Mae. Chú Abbott đến dự đám cưới còn Percy đã giữ lời và không bao giờ gặp lại con dâu dì. Lovell về nhà bốn lần một năm để thăm mẹ theo lệ. Cậu tuyệt đối không lại gần cây đàn piano. Cậu chẳng những từ bỏ nghiệp âm nhạc mà còn căm ghét cả âm nhạc. Thói ưa tục tĩu thiển cận của cậu dường như đã chuyển hoá thành một lòng mộ đạo cũng ngờ nghệch không kém. Cậu đã chuyển từ Episcopal sang giáo đoàn Lutheran của nhà Hirshman, nơi cậu dự lễ hai lần mỗi Chủ nhật. Lần cuối tôi nói chuyện với cậu, họ đang gây quỹ để xây một nhà thờ mới. Cậu nói về Đấng Tối Cao một cách thân tình. 'Ngài đã giúp đỡ chúng tôi trong những lúc gian nan, hết lần này đến lần khác. Khi mọi chuyện tưởng như vô vọng, Ngài đã ban cho chúng tôi niềm an ủi và sức mạnh. Ước gì tôi có thể làm cho anh hiểu Ngài tuyệt vời ra sao, yêu Ngài là một ân huệ lớn đến nhường nào...' Lovell qua đời trước khi tròn ba mươi tuổi, và bởi tất cả mọi thứ hẳn đã bị thiêu huỷ, tôi không nghĩ còn sót lại dấu vết nào về sự nghiệp âm nhạc của cậu.

Nhưng bóng tối trong ngôi nhà cũ dường như càng trĩu nặng  mỗi khi chúng tôi trở về. Abbott vẫn tiếp tục thói trăng hoa, nhưng khi ông đi câu vào mùa xuân hay đi săn vào mùa thu, Percy lại đau khổ đến tột cùng vì thiếu vắng ông. Chưa đầy một năm sau cái chết của Lovell, Percy mắc phải một chứng tim mạch nào đó. Tôi nhớ một cơn phát bệnh trong bữa tối Chủ nhật. Mặt dì tái mét, hơi thở khò khè và gấp gáp. Dì xin phép rời bàn, và vẫn đủ lễ độ để nói rằng mình quên gì đó. Dì đi vào phòng khách và đóng cửa, nhưng tiếng thở dồn dập cùng tiếng rên đau đớn của dì vẫn nghe thấy được. Khi quay trở lại, bên má dì loang lổ những vết lớn màu đỏ. 'Nếu bà không đi khám bác sĩ, bà sẽ chết,' chú Abbott nói.

'Ông là chồng tôi và là bác sĩ của tôi,' dì nói. “Tôi đã nói bà bao lần rằng tôi sẽ không nhận bà làm bệnh nhân.”

“Ông là bác sĩ của tôi.”

“Nếu bà không tỉnh ra, bà sẽ chết.”

Ông ta nói đúng, dĩ nhiên, và dì biết điều này. Giờ mỗi lần khi nhìn lá rụng, tuyết rơi, khi nói lời tạm biệt với bạn bè ở các ga tàu và tiền sảnh, lúc nào dì cũng cảm giác rằng mình sẽ không làm điều này thêm lần nữa. Dì qua đời lúc ba giờ sáng, trong phòng ăn, nơi dì đã bước vào để lấy một ly gin, và cả gia đình đã tụ họp lần cuối trong tang lễ của dì.

Còn một chuyện nữa. Tôi đang chuẩn bị bay ở sân bay Logan. Khi băng qua phòng chờ, một người đàn ông đang quét sàn dừng chân tôi lại.

‘Biết anh mà,’ anh ta nói với giọng khàn đặc. ‘Tôi biết anh là ai.’

‘Tôi không nhớ ra,’ tôi đáp.

‘Tôi là em họ Beaufort,’ anh ta nói. ‘Tôi là em họ Beaufort của anh đây.’

Tôi thò tay lấy ví và rút ra một tờ mười đô.

‘Tôi không muốn tiền,’ cậu nói. ‘Tôi là họ hàng anh. Tôi là em họ Beaufort của anh. Tôi có việc làm. Tôi không lấy tiền.’

‘Cậu sao rồi, Beaufort?’ tôi hỏi.

‘Lovell và Percy chết rồi,’ cậu đáp. ‘Người ta đã chôn họ dưới đất rồi.’

‘Tôi muộn rồi, Beaufort,’ tôi nói, ‘Tôi sẽ lỡ chuyến bay mất. Rất vui được gặp cậu. Tạm biệt.’ Và thế là tôi ra khơi.


Tâm Nguyên dịch

nước Mỹ ấy

Hawthorne (1804–1864)

Edgar Allan Poe (1809–1849)

Thoreau (1817–1862)

Melville (1819–1891)

William James (1842–1910)

Henry James (1843–1916)

Thorstein Veblen (1857–1929)

Edith Wharton (1862–1937)

Gertrude Stein (1874–1946)

Ezra Pound (1885–1972)

John Cheever (1912–1982)

James Baldwin (1924–1987)

Philip Roth (1933–2018)

Marilynne Robinson (1943)

favorites
Thêm vào giỏ hàng thành công