Hòn đảo của Arturo (tiếp)
tiếp tục từ kia
Vẻ đẹp
Những gì tôi biết về gốc gác của cha mình, tôi chỉ được nghe khi đã trưởng thành. Từ nhỏ, thỉnh thoảng tôi nghe người dân trên đảo gọi ông là “đồ con hoang”, nhưng trong trí óc non nớt của tôi, từ ấy nghe như một danh hiệu đầy uy quyền và bí ẩn, giống như “hầu tước” hay một tước hiệu cao quý nào đó. Suốt bao năm, không ai nói với tôi bất cứ điều gì về quá khứ của cha và ông nội. Người dân Procida vốn không phải kiểu người hay đưa chuyện, và bản thân tôi, noi gương cha, cũng luôn giữ khoảng cách với họ, không kết bạn với bất cứ ai trên đảo.
Costante, ngoài đầu bếp của gia đình, một hiện diện giống loài vật hơn là một con người. Trong suốt những năm dài ông ấy làm việc cho chúng tôi, tôi không nhớ đã từng có với ông một cuộc trò chuyện nào vượt quá hai câu. Thực ra, tôi cũng rất hiếm khi nhìn thấy ông. Lúc xong việc trong bếp, ông lại trở về trang trại; còn tôi, mỗi khi tùy hứng trở về nhà, chỉ thấy những món ăn đạm bạc mà ông đã nấu sẵn, nằm lạnh ngắt trong căn bếp vắng lặng.
Phần lớn thời gian, cha tôi sống ở một nơi rất xa. Ông chỉ trở về Procida vài ngày rồi lại đi, đôi khi vắng mặt suốt cả mùa. Nếu cuối năm tổng kết lại những lần hiếm hoi ông về đảo, có lẽ sẽ thấy rằng trong mười hai tháng, ông chỉ ở Procida với tôi chừng hai tháng. Vì thế, hầu như tôi đã lớn lên trong sự cô độc tuyệt đối; và sự cô độc ấy, bắt đầu từ thời thơ ấu (từ khi người bảo mẫu Silvestro của tôi ra đi), dường biến thành trạng thái tự nhiên của tôi. Tôi xem mỗi lần cha ở lại đảo là một ân huệ, một món quà hiếm hoi mà tôi luôn luôn cảm thấy tự hào.
Tôi nghĩ mình mới chập chững biết đi thì được cha mua cho một chiếc thuyền. Và một ngày nọ, khi tôi khoảng sáu tuổi, ông đưa tôi đến trang trại, nơi con chó cái của người nông dân đang chăm sóc lứa chó con vừa tròn một tháng tuổi, để tôi chọn lấy một con. Tôi chọn con mà tôi thấy hoạt bát nhất, với đôi mắt ấm áp và thân thiện nhất. Hóa ra đó là một con cái; và bởi nó có bộ lông trắng như ánh trăng, nó được gọi là Immacolatella.
Còn việc lo diện cho tôi giày dép hay quần áo, cha tôi hầu như chẳng mấy khi để ý. Vào mùa hè, tôi chỉ mặc độc một chiếc quần dài, và cả khi nhảy xuống nước cũng mặc nguyên như vậy, để rồi hong khô ngay trên người dưới ánh nắng và hơi gió. Đôi khi, tôi mặc thêm chiếc áo sơ mi cô tông ngắn cũn, rách bươm và xộc xệch. Trái ngược với tôi, cha tôi có một chiếc quần bơi kaki; nhưng ngoài chiếc quần ấy, vào mùa hè, ông cũng chỉ mặc thêm một cái quần cũ bạc màu và áo sơ mi đã mất hết cúc, luôn mở phanh ngực. Thỉnh thoảng, ông buộc quanh cổ một chiếc khăn họa tiết hoa, loại khăn mà những người phụ nữ nông dân thường mua ở chợ để đi lễ nhà thờ ngày Chủ nhật. Và cái khăn vải bông đơn giản ấy, khi ở trên người ông, lại hiện lên như dấu ấn của một thủ lĩnh, một vòng hoa tuyên bố chiến thắng vinh quang!
Cả ông lẫn tôi đều không có áo khoác. Vào mùa đông, tôi mặc hai áo len chồng lên nhau còn ông thì mặc một chiếc áo len bên trong và bên ngoài khoác áo khoác len kẻ sọc bạc phếch, rộng thùng thình, với phần vai nhồi đệm quá khổ, càng làm tăng thêm sự uy nghi của dáng người cao lớn. Việc sử dụng đồ lót gần như là khái niệm xa lạ đối với chúng tôi.
Cha tôi có một chiếc đồng hồ đeo tay (vỏ thép và dây đeo làm bằng các mắt xích thép nặng), không chỉ đo được từng giây mà còn có thể đeo khi xuống nước. Ông còn có một chiếc kính lặn để nhìn dưới nước khi bơi, một khẩu súng bắn cá và một cặp ống nhòm hải quân có thể nhìn rõ các con tàu ngoài khơi, thậm chí cả bóng dáng của các thủy thủ trên boong.
Tuổi thơ tôi tựa như một miền đất hạnh phúc, nơi cha tôi là vị vua tối thượng! Ông luôn là kẻ lữ hành, đến rồi lại đi; nhưng trong những khoảng thời gian ngắn ngủi ông lưu lại Procida, lúc nào tôi cũng bám theo ông như một chú chó con trung thành. Hẳn chúng tôi phải là một cặp đôi kỳ khôi trong mắt những ai bắt gặp trên đường! Ông sải bước mạnh mẽ, đầy quyết đoán, như một cánh buồm căng gió, với mái tóc vàng rực của một người ngoại quốc, đôi môi mím chặt và ánh mắt sắc lạnh, không nhìn bất cứ ai. Còn tôi, lẽo đẽo theo sau, kiêu hãnh ngoái nhìn sang phải, sang trái bằng đôi mắt đen láy láo liên, như muốn tuyên bố: “Hỡi người dân Procida, cha tôi đang đi qua đây này!” Khi ấy, chiều cao của tôi chỉ vừa vượt ngưỡng một mét, và mái tóc đen xoăn tít như của người gypsy chưa từng được chạm bởi bàn tay thợ cắt tóc. Khi tóc quá dài, tôi tự tay dùng kéo cắt nó đi, chỉ để không bị nhầm là con gái. Thỉnh thoảng, tôi mới nhớ ra là phải chải đầu. Và vào những ngày hè, mái tóc ấy lúc nào cũng bết đầy muối biển.
Hai chúng tôi hầu như luôn được dẫn bởi Immacolatella. Nó lao nhanh phía trước, quay lại, đánh hơi khắp các bức tường, thò mũi vào mọi cánh cửa và chào hỏi tất cả mọi người. Sự thân thiện quá mức của nó với những người trên đảo khiến tôi phát cáu, và bằng những tiếng huýt sáo uy quyền, tôi triệu hồi nó về hàng ngũ của nhà Gerace. Nhờ vậy, tôi có cơ hội luyện tập kỹ năng huýt sáo. Kể từ khi mất răng sữa, tôi trở thành bậc thầy trong nghệ thuật này. Chỉ cần đưa hai ngón tay vào miệng, tôi có thể tạo ra những âm thanh mạnh mẽ như tiếng kèn lệnh.
Tôi cũng có thể hát khá hay, và từ người bảo mẫu tôi học được nhiều bài hát. Thỉnh thoảng, khi tôi bước theo cha trên đường hoặc khi chúng tôi lênh đênh trên thuyền, tôi hát đi hát lại các bài như Phụ nữ Havana, Tabarin, Dãy núi Sierra Huyền bí hoặc những khúc ca Naples, chẳng hạn bài có câu: Tu si’ ’a canaria! Tu si’ ll’amore! (Em là chim hoàng yến! Em là tình yêu!). Tôi hy vọng rằng trong thâm tâm, cha sẽ ngưỡng mộ giọng hát của tôi. Nhưng ông chẳng bao giờ tỏ ra rằng ông nghe thấy. Ông luôn im lặng, thô lỗ, cáu kỉnh và chỉ miễn cưỡng dành cho tôi vài ánh nhìn thoáng qua. Thế nhưng với tôi, việc trở thành người đồng hành duy nhất mà ông chấp nhận trên đảo đã là một niềm vinh dự lớn lao.
Trên thuyền, cha tôi cầm chèo còn tôi ngồi ở đuôi hoặc vắt vẻo trên mũi thuyền, làm nhiệm vụ quan sát hải trình. Đôi khi, bị cuốn đi bởi cảm giác hạnh phúc thần thánh, tôi buông thả mình và bắt đầu ra lệnh đầy tự mãn: Bên phải! Tiến lên, bên trái! Lùi chèo! Nhưng chỉ cần cha tôi ngước mắt nhìn, vẻ uy nghi lặng lẽ của ông ngay lập tức khiến tôi nhận ra sự nhỏ bé của mình. Lúc đó, tôi cảm thấy mình chẳng khác nào một chú cá nhỏ giáp mặt một con cá heo to lớn.
Điều làm nên sự vượt trội của cha tôi so với mọi người khác chính là sự khác biệt - và đó cũng là bí ẩn lớn nhất của ông. Ông khác biệt hoàn toàn với tất tật đàn ông ở Procida, nghĩa là khác biệt với tất tật người mà tôi từng biết trên đời này, và (ôi cay đắng) cũng khác cả tôi nữa. Điểm khác biệt đầu tiên là chiều cao của ông. (Nhưng chiều cao ấy chỉ thực sự bộc lộ rõ khi ông đứng cạnh người khác. Còn lúc đứng một mình, trong sự tách biệt, dáng vóc thanh thoát và cân đối hoàn hảo ấy khiến ông tưởng như nhỏ bé hơn).
Ngoài chiều cao vượt trội, màu da của ông cũng là một nét khác biệt đầy cuốn hút. Vào mùa hè, làn da ông ngả sang màu nâu nhạt, tỏa ra ánh rạng ngời dịu dàng, như thể nó thấm đẫm ánh mặt trời, tựa lớp dầu loang bóng. Nhưng đến mùa đông, ông lại trở nên nhợt nhạt, trắng ngần như ngọc trai. Còn tôi, với làn da sẫm màu quanh năm, nhìn vào đó mà cảm thấy như ông mang trong mình dấu ấn của một giống loài không thuộc về trần thế - như thể ông là anh em với mặt trời và mặt trăng.
Mái tóc ông mềm mượt, óng ả, mang sắc vàng đục, đôi lúc ánh lên những tia lấp lánh tựa đá quý dưới ánh sáng. Và ở phần gáy, chỗ tóc được cắt ngắn, gần như cạo sát, sắc vàng ấy thực sự chói ngời như vàng ròng. Còn đôi mắt ông, một màu xanh tím thăm thẳm, tựa những dải biển sâu thẳm bị xâm lấn bởi mây đen.
Mái tóc tuyệt đẹp của ông, lúc nào cũng bám bụi và rối bù, buông từng lọn trên vầng trán nhăn, như muốn giấu đi các suy nghĩ nơi ông vào bóng của chúng. Và khuôn mặt ông, qua bao năm tháng, vẫn còn nguyên các nét ngang tàng từ thời trẻ, vừa khép kín lại vừa kiêu ngạo.
Đôi khi, một thoáng ánh lên trên khuôn mặt ông, đó là bóng dáng của những bí mật ganh ghét mà tâm trí ông dường luôn đeo đuổi: một nụ cười sượt qua, hoang dại, gần như khoái trá; một cái nhếch mép mỉa mai, xảo quyệt; một cơn khó ở thất thường. Với tôi, người không thể gán cho ông bất kỳ sự tùy hứng nào của con người, những trầm tư của ông mang một vẻ uy mãnh như bầu trời sẫm tối, báo hiệu chắc chắn về các biến cố bí ẩn, quan trọng chẳng kém lịch sử của cả nhân loại.
Những động lực của ông chỉ thuộc về riêng ông. Tôi không cố tìm lời biện giải cho những im lặng, những hân hoan, những khinh miệt hay những đau đớn nơi ông. Tất tật, với tôi, là bí tích: bí nhiệm và nghiêm cẩn, siêu vượt khỏi tất thảy thước đo trần tục cùng mọi sự phù phiếm.
Nếu, bỗng một ngày ông xuất hiện trong trạng thái say khướt, hoặc mê sảng, thì ngay cả khi ấy tôi cũng không thể hình dung một viễn cảnh nơi ông chia sẻ sự yếu đuối tầm thường cùng người phàm! Cũng như tôi, ông chưa bao giờ mắc bệnh, ít nhất là theo những gì tôi nhớ; thế nhưng, nếu có lúc nào đó ông đổ bệnh thật, thì trong mắt tôi căn bệnh đó không đơn thuần là biến cố bình thường mà tự nhiên gieo rắc. Nó hẳn mang ý nghĩa tựa nghi thức huyền nhiệm, nơi Wilhelm Gerace là nhân vật chính, và những thầy tế được triệu đến để chứng kiến sẽ nhận lãnh vinh dự được tôn phong! Tôi cũng tin chắc rằng mình sẽ không bao giờ hoài nghi việc một cơn náo động hùng vĩ của vũ trụ, từ cõi trần cho đến tận các vì sao, nhất định sẽ song hành cùng nghi thức thiêng liêng của người cha ấy.
Trên hòn đảo, có một khoảnh đất bằng phẳng được quây bởi các vách đá cao, vẳng những tiếng vọng. Thỉnh thoảng, nếu chúng tôi tình cờ đến đó, cha tôi thường thích thú hét lên những câu tiếng Đức. Mặc dù không hiểu ý nghĩa của chúng, tôi vẫn cảm nhận được, qua nét mặt kiêu hãnh của ông, rằng đấy là những lời kinh hoàng, táo bạo: ông quăng chúng ra bằng giọng thách thức, thậm chí phạm thượng, như thể đang phá vỡ một luật lệ thần thánh hay hóa giải một lời nguyền. Khi tiếng vọng vẳng lại, ông bật cười, rồi tiếp tục quăng về phía nó những lời dữ dội hơn. Bởi kính sợ uy quyền của ông, tôi chẳng dám phụ hòa, dù trong lòng đã rạo rực niềm háo hức tựa một chiến binh sẵn sàng xông pha trận mạc. Tôi chỉ lặng lẽ nuốt từng lời bí ẩn đó. Tôi tự thấy đây không đơn thuần là cuộc vui đùa ngô nghê mà chính là một trận đấu mang tầm vóc sử thi. Chúng tôi ở Roncesvalles, nơi mà bất chợt, Orlando sẽ xuất hiện trên cánh đồng, thổi vang chiếc tù và của mình. Cũng có thể là ở Thermopylae, nơi phía sau những vách đá, các kỵ sĩ Ba Tư trong chiếc mũ nhọn đang ẩn nấp rình rập.
Trong những chuyến lang thang qua vùng quê, chúng tôi sẽ gặp một con dốc, ông lập tức bị choán lấy bởi cơn nôn nóng và lao lên chạy, với quyết tâm của người đang thực thi một nhiệm vụ vĩ đại, tựa như ông đang trèo lên cột buồm của một con thuyền giữa đại dương. Ông chẳng màng liệu tôi có theo kịp hay không; song tôi vẫn liều mạng cắm đầu đuổi theo ông, cơn thích thú sôi sục trong dòng máu nhưng chân tôi lại quá ngắn. Cuộc đua này không giống những cuộc đua thông thường giữa tôi và Immacolatella diễn ra hàng chục lần mỗi ngày. Đây là một giải đấu huy hoàng. Ở trên kia, vạch đích với các tiếng hò reo đang đợi sẵn, cùng với sự hiện diện của ba mươi triệu vị thần!
Các điểm dễ bị tổn thương của ông cũng bí hiểm như chính sự thờ ơ của ông. Tôi còn nhớ, một lần khi chúng tôi đang bơi, ông bất đồ va phải một con sứa. Ai cũng biết hậu quả kế tiếp: một vết đỏ, nhỏ và không đáng kể trên da. Hẳn ông cũng biết, nhưng khi thấy lồng ngực mình hằn lên các vệt đỏ như máu, môi ông tái bợt kinh khiếp. Ngay tức khắc ông lao lên bờ, nằm ngửa xuống đất, hai tay dang rộng, như thể đã bị cơn buồn nôn của nỗi đau tử thần quật ngã! Tôi ngồi bên cạnh ông: chính tôi cũng không ít lần là nạn nhân của nhím biển, sứa biển và các sinh vật biển khác, nhưng tôi chưa bao giờ bận tậm đến các vết thương ấy. Nhưng ngày hôm đó, khi nạn nhân là cha, một cảm giác bi thương trang trọng bỗng xâm chiếm lấy tôi. Cả bãi biển và đại dương bỗng chốc chìm trong khoảng lặng mênh mông, và giữa sự tĩnh bặt đó, tiếng kêu của con hải âu vọng vào tai tôi như tiếng khóc than của nữ thần báo thù, một tiếng kêu ai oán và sầu não.
Những chân lý tuyệt đối
Ông khinh khỉnh trước việc tìm cách chiếm lấy tình cảm của tôi. Ông để tôi mãi mù mờ về tiếng Đức, ngôn ngữ mẹ đẻ của ông; ở với tôi, ông chỉ dùng tiếng Ý, nhưng đấy lại là thứ tiếng Ý khác so với thứ tiếng mà Silvestro đã dạy cho tôi. Những từ ông nói dường vừa mới được sáng tạo, thô mộc và chưa được mài giũa; ngay cả những từ tiếng Napoli của tôi, mà ông thường dùng, khi thốt ra từ miệng ông lại trở nên táo bạo và mới lạ, tựa như những câu thơ. Ngôn ngữ kỳ lạ ấy, đối với tôi, mang đến cho ông một sức hút huyền bí tựa các nữ tiên tri Sibyl.
Ông bao nhiêu tuổi ư? Hơn tôi chừng mười chín tuổi! Bạn nói đúng, câu ấy cần một cách diễn đạt chính xác hơn. Tuổi tác của ông mang một vẻ nghiêm nghị và đáng kính, gợi lên sự bất phàm của các vị Tiên tri hay vua Solomon. Mỗi hành động, mỗi lời nói của ông với tôi đều giống định mệnh trầm hùng, không thể lay chuyển. Quả thật, ông là hiện thân của chân lý tuyệt đối, và tất tật những điều ông nói hay ông làm đều như sự phán quyết từ một luật phổ quát, nơi tôi tìm thấy những lời răn đầu tiên của cuộc đời mình. Chính đây là lực quyến dụ lớn nhất tỏa ra từ việc ở kề bên ông.
Khi sinh ra, ông thuộc về đạo Tin Lành; thế nhưng, ông chẳng tuyên xưng đức tin nào, chỉ trưng ra một thái độ lãnh đạm, trầm mặc trước sự Vĩnh hằng và những bí ẩn xoay quanh nó. Còn tôi, trái lại, đã là một người Công giáo từ khi mới tròn một tháng tuổi, nhờ sự tự quyết của người bảo mẫu Silvestro, người khi ấy đã chu đáo lo liệu để tôi được rửa tội tại nhà thờ giáo xứ ở bến cảng.
Đó, tôi nghĩ, là lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng tôi bước vào nhà thờ như một con chiên Công giáo đích thực. Đôi khi, tôi thích nán lại trong nhà thờ, như thể đang dừng chân trong một căn phòng quý phái, một khu vườn hay trên một con tàu. Nhưng tôi sẽ thấy hổ thẹn nếu phải quỳ xuống, thực hiện các nghi lễ hay cầu nguyện, dù chỉ trong ý nghĩ - như thể tôi thực sự tin rằng đó là ngôi nhà của Chúa, rằng Chúa giao tiếp với chúng ta, hoặc thậm chí rằng Chúa thực sự hiện hữu!
Cha tôi từng được học hành đôi chút, nhờ người mẹ trẻ đồng thời cũng là cô giáo của ông; từ bà, ông để lại cho tôi một gia tài nhỏ gồm vài cuốn sách, trong đó có những tác phẩm tiếng Ý. Thư viện gia đình khiêm tốn ấy sau này được bổ sung thêm bởi các cuốn sách mà một sinh viên văn trẻ tuổi - từng là khách của Romeo xứ Amalfi trong nhiều mùa hè - để lại tại Casa dei Guaglioni. Chưa kể đến những tiểu thuyết đầy sức hút với tâm hồn trẻ tuổi, từ truyện trinh thám ly kỳ đến các câu chuyện phiêu lưu đa dạng xuất xứ. Thế là tôi được thừa hưởng một thư viện khá oách, dù phần lớn toàn là những cuốn đã cũ và sờn rách.
Những cuốn sách phần lớn là tác phẩm kinh điển, sách giáo khoa hoặc sách học thuật: từ các tập bản đồ, từ điển, sách lịch sử, trường ca, tiểu thuyết, bi kịch, đến các tuyển tập thơ và bản dịch tác phẩm nổi tiếng. Ngoại trừ những cuốn viết bằng tiếng Đức, Latin hoặc Hy Lạp mà tôi không thể hiểu nổi, tôi đã đọc và ngấu nghiến gần như toàn bộ. Có những cuốn yêu thích mà tôi đọc đi đọc lại không biết bao nhiêu lần, đến nỗi cho đến tận hôm nay, tôi vẫn nằm lòng chúng.
Trong vô số bài học mà tôi lĩnh hội được qua các trang sách, tôi tự mình lọc ra một vài điều cuốn hút nhất - những bài học phù hợp với cảm nhận tự nhiên của tôi về cuộc sống. Cùng với các bài học ấy, và thêm vào đó cả những niềm tin sớm đã hằn sâu vào đầu tôi bởi cha, một Bộ Luật Chân Lý Tuyệt Đối dần thành hình trong ý thức, hoặc có lẽ trong trí tưởng tượng của tôi, với những điều luật quan trọng nhất có thể liệt kê như sau:
I. QUYỀN UY CỦA NGƯỜI CHA LÀ BẤT KHẢ XÂM PHẠM!
II. SỰ VĨ ĐẠI ĐÍCH THỰC CỦA MỘT NGƯỜI ĐÀN ÔNG NẰM Ở SỰ LIỀU LĨNH HÀNH ĐỘNG, KHINH THƯỜNG MỌI NGUY HIỂM, VÀ KHÍ PHÁCH ANH DŨNG TRONG CHIẾN ĐẤU!
III. HÀNH VI ĐÊ TIỆN NHẤT LÀ PHẢN BỘI. KẺ PHẢN BỘI CHA MÌNH, LÃNH ĐẠO MÌNH, HOẶC BẠN BÈ... SẼ RƠI XUỐNG ĐÁY CÙNG CỦA SUY ĐỒI!
IV. KHÔNG MỘT AI TRÊN ĐẢO PROCIDA XỨNG VỚI WILHELM GERACE VÀ CON TRAI ÔNG, ARTURO. ĐỐI VỚI NGƯỜI NHÀ GERACE, VIỆC HẠ CỐ ĐỂ TỎ RA THÂN THIỆN VỚI DÂN ĐẢO CHẲNG KHÁC NÀO HÀNH VI TỰ SỈ NHỤC.
V. KHÔNG CÓ TÌNH CẢM NÀO TRÊN ĐỜI CÓ THỂ SÁNH ĐƯỢC VỚI TÌNH YÊU CỦA NGƯỜI MẸ.
VI. NHỮNG BẰNG CHỨNG RÕ RÀNG NHẤT VÀ TẤT TẬT KINH NGHIỆM CỦA LOÀI NGƯỜI ĐỀU CHỨNG MINH RẰNG CHÚA KHÔNG TỒN TẠI.
Luật thứ hai
Những chân lý vững chắc của tôi thời niên thiếu không chỉ là điều tôi tôn thờ và yêu mến, mà còn là cốt lõi của thực tại duy nhất mà tôi có thể hình dung! Trong những năm ấy đối với tôi, việc sống ngoài chúng không chỉ bất kính mà còn là viễn cảnh tôi hoàn toàn không tưởng tượng nổi.
Tuy nhiên, vì thiếu một người đối thoại tin cậy để chia sẻ thân tình, tôi chưa từng hé nửa lời về các chân lý đó với bất cứ ai trên đời. Bộ Quy tắc của tôi vẫn luôn là bí ẩn mà tôi giữ rịt: điều này, chắc chắn, xuất phát từ lòng tự tôn và ý thức vượt trội, một phẩm chất đáng quý; thế nhưng, đó cũng là một phẩm chất khắc nghiệt. Một nét khắc nghiệt khác trong Bộ Quy tắc của tôi chính là sự kín kẽ. Không một điều luật nào trong đó, tôi muốn nói, trực tiếp đề cập điều tôi căm ghét nhất: cái chết. Sự kín kẽ ấy, với riêng tôi, là biểu hiện của lịch thiệp xen lẫn nỗi khinh bỉ dành cho thứ tôi căm ghét, thứ chỉ có thể lẻn vào các điều luật của tôi một cách mờ ám, như kẻ bị ruồng bỏ hay một tên gián điệp âm thầm lén lút.
Trong niềm hạnh phúc tự nhiên, tôi lánh xa mọi ý niệm về cái chết, như thể nó là một hình bóng không thể chạm tới, đầy những thói xấu kinh tởm: quái dị, khó lường, chất chứa sự tàn ác và ô nhục. Thế nhưng, càng căm ghét cái chết, tôi lại càng sung sướng và tìm thấy khoái cảm trong việc thử thách sự liều lĩnh của bản thân: thực tế, tôi chẳng ưa bất cứ trò chơi nào không nhuốm màu mạo hiểm. Và thế là tôi lớn lên với mâu thuẫn ấy: yêu sự liều lĩnh nhưng ghét cái chết. Tuy nhiên, đấy có lẽ không hẳn là mâu thuẫn.
Mọi thực tại bày ra trước mắt tôi đều rõ nét và sáng sủa: chỉ trừ vết nhơ khó hiểu của cái chết làm vẩn đục nó; vì thế, như đã nói, suy nghĩ của tôi kinh hãi rút lui mỗi khi chạm trán cái chết. Ngược lại, với nỗi kinh hãi tương tự, tôi dường nhận ra một dấu hiệu mang tính định mệnh của sự non nớt trong mình - một cảm giác nhục nhã, chẳng khác nào nỗi sợ bóng tối ngây ngô ở những cô gái trẻ (sự non nớt chính là nỗi nhục của tôi). Và tôi chờ, chờ mầm trưởng thành nảy nở, khi vết nhơ duy nhất kia - cái chết - biến tan vào sự sáng sủa của thực tại, như làn khói tan vào bầu không khí trong lành.
Cho đến ngày ấy, tôi chỉ có thể tự coi mình, về bản chất, là một kẻ tầm thường, một thằng nhãi; và trong khi đó, như thể bị cuốn vào lực cám dỗ mê hoặc của một ảo ảnh, tôi lao vào những trò nghịch không kiểm soát, trở thành một đứa phá hoại (như cha tôi vẫn nói), mê mải đủ trò quậy phá trẻ con... Song những hành động liều lĩnh này, dĩ nhiên, không thể nào, theo tôi nghĩ, nâng tôi lên vị thế đáng mơ ước, hay giải thoát tôi khỏi nỗi nghi hoặc sâu thẳm nhất về chính mình.
Thực ra, mọi thứ khi ấy chỉ xoay quanh những trò chơi; cái chết, đối với tôi, còn là kẻ xa lạ, gần như một ảo ảnh hư vô. Nhưng liệu tôi sẽ đối mặt thế nào với thử thách thực sự - chẳng hạn chiến tranh - khi vết nhơ mờ mịt, khủng khiếp ấy loang ra, mỗi lúc một rõ ràng và lớn dần ngay trước mắt?
Vì vậy, ngay từ đầu, trong những trò chơi trẻ con táo bạo của mình, tôi luôn giữ thái độ hoài nghi, chờ thử thách cuối cùng như một kẻ khiêu khích và cũng là đối thủ của mình. Phải chăng, chỉ vì tôi là đứa trẻ phù phiếm, không hơn (như W.G. từng buộc tội tôi)? Có lẽ, nỗi cay đắng sớm nở dành cho cái chết - nỗi ám ảnh luôn lảng vảng và cám dỗ tôi tìm kiếm sự cứu chuộc - chẳng qua chỉ là cơn thèm muốn điên cuồng được thỏa mãn mình, đến mức tự hủy hoại, giống như nỗi ám ảnh đã hủy diệt Narcissus?
Hoặc biết đâu, đó chỉ là cái cớ? Chẳng có câu trả lời thỏa đáng nào. Và hơn thế nữa, đây là việc riêng của tôi. Tóm lại: trong Bộ Quy tắc của tôi, Luật thứ hai (nơi mà sự kín đáo nổi tiếng ấy ẩn mình một cách tự nhiên nhất, như thể tìm thấy chốn trú ngụ hoàn hảo của nó) là điều then chốt.
Luật thứ tư
Luật thứ tư, ảnh hưởng từ thái độ của cha tôi, có lẽ cũng gắn với thiên hướng của tôi, chính là nguyên nhân gốc rễ của một đời sống cô độc trên mảnh đất Procida. Tôi có thể hình dung lại dáng vẻ nhỏ bé của mình ngày ấy, lang thang quanh bến cảng, giữa dòng người tấp nập ồn ã, với vẻ mặt vừa nghi hoặc vừa ngạo nghễ, như kẻ lạ lạc vào đám đông thù địch. Điều khiến tôi khinh miệt nhất ở đám đông ấy là sự lệ thuộc thường trực vào các nhu cầu thực dụng; và chính điểm ấy càng làm bật lên khí chất khác biệt đầy vinh quang của cha tôi, như thể ông thuộc về một giống loại vượt trội hơn hẳn!
Ở đó, cả kẻ nghèo lẫn người giàu đều quay cuồng bởi các lợi ích hoặc nguồn thu trước mắt: từ những đứa trẻ rách rưới tranh giành một đồng xu, một mẩu bánh mì, hay một viên sỏi màu, đến các chủ thuyền đánh cá, những người kì kèo giá cá như thể đó là ý nghĩa lớn lao nhất đời họ. Không ai trong số họ, hiển nhiên, có chút quan tâm nào đến sách vở hay những hành động vĩ đại! Đôi lúc, tôi nhìn thấy lũ học trò bị thầy giáo dàn hàng trên một bãi đất trống để tập các bài huấn luyện tiền quân sự. Nhưng thầy giáo thì béo phệ, chậm chạp, bọn trẻ thì chẳng có chút năng lực hay nhiệt huyết nào, và toàn bộ khung cảnh ấy - từ bộ đồng phục nhếch nhác đến những động tác lóng ngóng, vụng về - trong mắt tôi đều thật thảm hại, hoàn toàn chẳng có tinh thần võ bị nào. Cảnh ấy khiến tôi đau lòng đến mức phải lập tức ngoảnh đi. Tôi sẽ thấy tột cùng xấu hổ nếu cha tôi, tình cờ xuất hiện, bắt gặp tôi đang nhìn những cảnh và người như vậy!
Pháo đài nhà tù
Những cư dân duy nhất trên hòn đảo mà cha tôi không khinh khi hay ghét bỏ dường như là các tù nhân vô danh và vô hình trong tù. Thật ra, vài thói lãng mạn và bí ẩn của ông làm tôi tin rằng có một thứ tình huynh đệ, thậm chí một quy tắc ngầm nào đó, đã gắn kết ông không chỉ với họ mà còn với tất tật kẻ nào bị giam cầm và lĩnh án chung thân dưới gầm trời này. Và tôi, dĩ nhiên, thuộc về phe họ, không phải vì học đòi theo cha mà bởi chính thiên hướng bẩm sinh trong tôi - thiên hướng khiến tôi nhìn nhà tù như hiện thân của bất công và phi lý, một con quái vật đáng sợ chẳng khác nào cái chết.
Pháo đài nhà tù tựa một lãnh địa u ám mà linh thiêng, một nơi cấm kỵ; và tôi không nhớ rằng suốt thời thơ ấu hay tuổi mới lớn, tôi từng một lần lẻn tới đó một mình. Thỉnh thoảng, như bị mê hoặc, tôi leo lên con đường dẫn đến nơi ấy, nhưng ngay khi cánh cổng hiện ra trước mắt, tôi vội tháo chạy.
Tôi nhớ, trong những lần đi dạo cùng cha, có vài lần tôi đã đi qua cánh cổng của pháo đài và băng qua các khoảnh hoang vắng bên trong. Và trong ký ức thơ ấu của tôi, những chuyến đi hiếm hoi ấy giống như hành trình tới vùng đất lạ, tách biệt hoàn toàn khỏi hòn đảo tôi sông. Lẽo đẽo sau cha, tôi lén nhìn từ con đường hoang vu về phía những khe cửa sổ có song sắt, tựa các lỗ thông hơi, hoặc thoáng thấy sau chấn song của bệnh xá một sắc trắng phếch trên bộ đồng phục của tù nhân... và ngay lập tức tôi ngoảnh mặt đi.
Sự hiếu kỳ, hay thậm chí chỉ là chút hứng thú của những con người tự do và hạnh phúc, đối với tôi, chẳng khác nào một sự xúc phạm đối với các tù nhân. Ngay cả ánh nắng rọi xuống con đường ấy cũng thoáng ý khinh rẻ, và ở trên cao, tiếng gà trống gáy vang trên ban công những ngôi nhà, tiếng bồ câu gù trên những mái hiên càng khiến tôi bực bội - chúng phô ra cái vẻ xấc láo vô ý tứ. Chỉ có sự tự do của cha tôi là không mang lại cảm giác xúc phạm; ngược lại, nó như một nguồn an ủi, một lời hứa về hạnh phúc - niềm an ủi duy nhất tồn tại trên đỉnh cao u sầu ấy. Với dáng đi nhanh nhẹn, uyển chuyển, hơi lắc lư như một thủy thủ, và chiếc áo sơ mi xanh phấp phới trong gió, ông hiện lên trong mắt tôi như một sứ giả của những cuộc phiêu lưu chiến thắng, của một sức mạnh quyến rũ đầy mê hoặc. Tận sâu trong lòng, tôi gần như tin rằng chỉ có một sự khinh thường bí ẩn, hoặc một thái độ dửng dưng bất cần, mới ngăn ông thực hiện ý chí anh hùng của mình - đập tan cánh cổng ngục tù và giải phóng các tù nhân. Thật lòng mà nói, tôi không hình dung nổi bất kỳ giới hạn nào đối với quyền lực của ông. Nếu tin vào phép mầu, hẳn tôi đã nghĩ rằng ông là người tạo ra chúng. Nhưng, như tôi đã thừa nhận, tôi không tin vào phép mầu hay những quyền năng siêu nhiên mà một số người đã phó thác số phận của họ, giống như các cô gái chăn cừu tin vào các phù thủy hay tiên nữ!
Những hành động anh hùng rỗng tuếch
Những cuốn sách tôi yêu thích nhất, hẳn không cần phải nói, là những cuốn ngợi ca, qua những ví dụ thực tế hoặc tưởng tượng, lý tưởng về tầm vóc vĩ đại của con người - một lý tưởng mà tôi thấy được hiện thân sống động nơi chính con người cha tôi.
Nếu là một họa sĩ, được giao minh họa cho những bài thơ sử thi hay những cuốn sách lịch sử, tôi nghĩ rằng trong hình dáng của các anh hùng chính, tôi sẽ luôn khắc họa chân dung cha mình, hết lần này đến lần khác. Và để bắt đầu tác phẩm, tôi hẳn sẽ phải rắc bụi vàng lên bảng màu, để nhuộm mái tóc của những nhân vật ấy sao cho xứng đáng với tầm vóc vĩ đại của họ.
Như những cô gái thường mơ về các nàng tiên tóc vàng, những vị thánh tóc vàng hay các nữ hoàng tóc vàng, tôi cũng tưởng tượng ra những vị tướng vĩ đại và những chiến binh huyền thoại có mái tóc ánh vàng rực rỡ, tựa các anh em của cha tôi. Nếu một nhân vật anh hùng mà tôi yêu thích trong sách, theo miêu tả, lại có mái tóc đen và vóc dáng trung bình, tôi sẽ vờ coi đấy là nhầm lẫn của nhà sử học. Nhưng nếu những miêu tả đó được ghi chép cẩn thận và rõ ràng, thì ngay lập tức, hình ảnh của anh ta phai nhạt trong lòng tôi, và anh ta không còn là hình mẫu lý tưởng để tôi ngưỡng mộ nữa.
Khi Wilhelm Gerace lại lên đường chu du, tôi tin chắc rằng ông ra đi để thực hiện những hành động phiêu lưu và anh hùng. Nếu ông nói rằng mình sắp chinh phục Bắc Cực hoặc Ba Tư như Alexander Đại đế, tôi hẳn sẽ tin ngay. Nếu ông bảo rằng bên kia biển cả, có những đoàn quân can đảm đang chờ ông chỉ huy, rằng ông là nỗi kinh hoàng của bọn cướp biển hoặc thảo khấu, hay ngược lại, rằng chính ông là một hải tặc vĩ đại hay một tướng cướp khét tiếng, tôi cũng sẽ không nghi ngờ. Ông chưa từng nói một lời nào về cuộc sống bên ngoài hòn đảo; và trí tưởng tượng của tôi mãi khao khát khám phá thế giới huyền bí, đầy quyến rũ ấy - một thế giới mà, rõ ràng, ông cho rằng tôi không xứng đáng được dự phần. Sự tôn trọng dành cho ý chí của ông lớn đến mức tôi không bao giờ dám, dù chỉ trong suy nghĩ, có ý định bí mật theo dõi hay bám theo ông; thậm chí tôi còn không dám đặt câu hỏi. Tôi chỉ mong giành được sự trân trọng, và có lẽ là cả sự ngưỡng mộ từ ông, hy vọng rằng một ngày nào đó, cuối cùng ông sẽ chọn tôi làm bạn đồng hành trên những chuyến hành trình của mình.
Khi ở bên ông, tôi luôn cố tìm cơ hội để chứng tỏ sự bạo dạn và gan dạ trước mắt ông. Chân trần, tôi lao mình trên những mỏm đá bỏng rát dưới ánh mặt trời, nhẹ nhàng như đang bay lướt trên các đầu ngón chân. Tôi nhảy từ những vách đá cao nhất xuống biển, thực hiện những màn nhào lộn ngoạn mục dưới nước, những động tác táo bạo và phô trương, thể hiện mọi kỹ năng bơi lội điêu luyện của mình như một nhà vô địch. Tôi lặn sâu đến nghẹt thở, rồi trồi lên mặt nước, mang theo chiến lợi phẩm từ đại dương: cầu gai, sao biển, vỏ sò. Nhưng từ xa, khi tôi tìm kiếm chút ngưỡng mộ, hay ít nhất là sự chú ý trong ánh mắt ông, tất thảy đều vô vọng. Ông ngồi trên bờ, lặng lẽ, chẳng buồn đoái hoài. Khi tôi cố giả vờ thờ ơ với các kỳ tích ấy và chạy đến chỗ ông, ông bất chợt đứng dậy, hờ hững và lãnh đạm, ánh mắt lơ đãng, đôi mày nhíu lại như thể có một lời thì thầm bí ẩn nào đó vừa vọng đến tai. Ông chậm rãi vươn tay, rồi lặng lẽ trượt mình xuống biển. Rồi ông bơi đi, thật chậm, như thể được biển cả ôm ấp, như thể biển chính là nàng dâu của ông.
Câu Chuyện về Con Dao Găm Algeria
Cuối cùng, một ngày nọ, tôi tin rằng cơ hội mà tôi hằng mong đợi để chứng tỏ bản thân đã đến! Chúng tôi đang bơi cùng nhau thì bất ngờ ông làm mất chiếc đồng hồ lặn nổi tiếng - một vật quý mà ông mà ông vô cùng tự hào và luôn đeo khi bơi. Cả hai chúng tôi đều tiếc; ông nhìn mặt biển với ánh mắt giận dữ, rồi lại nhìn vào cổ tay trống không, như thể không thể tin rằng chiếc đồng hồ đã biến mất. Khi tôi đề nghị lặn xuống tìm lại nó, ông chỉ khẽ nhún vai, vẻ như chẳng mấy hy vọng. Dẫu vậy, ông đưa cho tôi chiếc mặt nạ lặn, và tôi lao mình xuống biển, trái tim rung lên bởi tham vọng và cảm giác vinh dự. Ông đứng trên bờ, chờ tôi trở về.
Tôi lặn tìm khắp đáy biển trong khu vực mà chúng tôi đã bơi qua trước đó: nước không quá sâu, bị chia cắt bởi những bãi cạn và rạn san hô. Tôi tiếp tục cuộc tìm kiếm, trong khi các vách đá cao sừng sững che khuất tôi khỏi tầm mắt ông. Thỉnh thoảng, tôi ngoi lên lấy hơi và nghe thấy tiếng huýt sáo của ông gọi tôi quay về. Ban đầu, tôi không đáp, vì cảm thấy xấu hổ khi không thể mang lại chiến thắng. Nhưng cuối cùng, để ông khỏi lo rằng tôi cũng biến mất vào biển như chiếc đồng hồ, tôi huýt lại tiếng dài từ trên đỉnh một mỏm đá. Ông nhìn tôi lặng lẽ, không một cử chỉ nào; và tôi - nhìn thân hình rám nắng dưới ánh mặt trời mùa hạ cùng chiếc cổ tay hằn một vòng trắng chỗ đeo đồng hồ của ông - đã quyết định: “Hoặc là đem chiếc đồng hồ trở về, hoặc là chết!”
Tôi đeo lại mặt nạ và tiếp tục cuộc lùng sục. Lúc này, việc tìm thấy chiếc đồng hồ không còn là chuyện lấy lại một vật quý, cũng không đơn thuần là vấn đề danh dự. Cuộc truy tìm ấy đã mang một ý nghĩa khác hẳn, như thể vận mệnh đã dính chặt với nó. Thời gian trôi qua dường vô tận, và điểm kết thúc chẳng khác nào cột mốc định đoạt số phận tôi. Tôi lang thang giữa những tầng sâu kỳ ảo và huyễn hoặc của lòng biển, nơi nằm ngoài thế giới con người, từng phút trôi qua như thiêu đốt tâm can tôi với niềm hy vọng không gì sánh được: được tỏa sáng, như một kỳ tích, trong ánh mắt của Người! Đó chính là ván cược lớn lao nhất mà tôi đang dấn vào! Và tôi ở đó, hoàn toàn đơn độc - không một thiên thần, một vị thánh nào để bám víu hay cầu khẩn. Biển cả huy hoàng lạnh lùng và thờ ơ, giống hệt Người.
Cuộc truy tìm của tôi vẫn chìm trong vô vọng. Kiệt sức, tôi tháo mặt nạ, bám chặt vào một tảng đá nhô lên khỏi mặt nước để nghỉ. Tảng đá khuất tầm mắt tôi về phía bờ, và nó cũng giúp tôi giấu khỏi cha tình cảnh thảm hại lúc này. Tôi đơn độc, lạc lõng giữa trận địa vô phương hướng, thậm chí còn mờ mịt hơn cả mê cung.
Rồi, khi tôi cựa mình trên tảng đá, cố gắng giữ mình nổi, một tia sáng kim loại bất chợt lóe lên dưới ánh mặt trời và lọt vào tầm mắt tôi! Tì chặt tay vào tảng đã, tôi bật người lên và phát hiện chiếc đồng hồ nằm lấp lánh trong một hõm khô trên tảng đá. Nó vẫn nguyên vẹn, và khi áp vào tai, tôi nghe thấy tiếng tích tắc của nó.
Tôi siết chặt chiếc đồng hồ trong tay, chiếc mặt nạ còn lủng lẳng quanh cổ, và trong chớp mắt, tôi lao về phía bờ. Đôi mắt cha tôi rực sáng khi nhìn thấy tôi trở về trong chiến thắng. “Con tìm thấy nó rồi á!” ông thốt lên, gần như không thể tin nổi. Và bằng một cử chỉ quyết đoán của người sở hữu, ông giật lấy chiếc đồng hồ từ tay tôi, như thể đó là chiến lợi phẩm mà cả hai có thể tranh giành. Ông áp chiếc đồng hồ vào tai, lắng nghe, rồi hài lòng ngắm nghía.
“Chiếc đồng hồ ở đó, ngay trên tảng đá kia ạ!” tôi hét lên, vẫn thở hổn hển. Tôi mừng rỡ đến mức chỉ muốn nhảy cẫng lên, múa may sung sướng, nhưng rồi cố gắng kìm nén, giữ cho mình vẻ tự hào điềm tĩnh, như thể việc này chẳng phải điều gì to tát. Cha tôi nhìn về phía tảng đá, nhíu mày, như lạc trong dòng suy nghĩ:
“À,” ông nói sau một hồi trầm ngâm, “giờ cha nhớ ra rồi. Lúc tìm vỏ sò, cha tháo nó ra để gỡ vài con hàu mắc kẹt trên đỉnh tảng đá. Rồi con gọi cha để khoe con nhím biển mà con vừa bắt được, làm cha quên mất chiếc đồng hồ. Nếu con không nhất quyết khoe bằng được con nhím biển kia thì cha đã không quên như thế!”
“Thất lạc ư!” ông nói thêm, nhún vai với giọng mỉa mai. “Cha đã biết mà, biết chắc là nó không thể mất được. Cái móc của nó rất chắc chắn, đảm bảo an toàn.” Và, với vẻ thỏa mãn, ông cẩn thận đeo lại chiếc đồng hồ vào cổ tay.
Vậy là số phận đã giở trò, biến nỗ lực của tôi thành một điều gần như vô nghĩa. Sự thất vọng dâng lên như cơn sốt, khiến cơ mặt tôi run rẩy, còn đôi mắt thì nóng rát. Tôi tự nhủ: “Nếu khóc, mình sẽ mất hết danh dự.” Để bảo vệ bản thân khỏi sự yếu đuối, tôi giật mạnh chiếc mặt nạ khỏi cổ, giận dữ đưa nó cho cha.
Cha tôi nhận lại chiếc mặt nạ, liếc tôi bằng ánh nhìn kiêu ngạo, như muốn nói: “Này, nhóc con!” Còn tôi, không đủ can đảm nhìn ông sau hành động vô lễ đó, chỉ muốn bỏ chạy. Nhưng ngay lập tức, với vẻ trêu chọc, ông đặt bàn chân trần của mình lên chân tôi, giữ tôi lại. Khuôn mặt ông cúi xuống gần tôi, mỉm cười, và trong khoảnh khắc, ánh nhìn kỳ lạ ấy làm ông trông giống một con dê.
Ông giơ cổ tay đeo chiếc đồng hồ lên trước mắt tôi và nói bằng giọng nghiêm nghị:
“Con có biết nhà sản xuất chiếc đồng hồ này là ai không? Đọc đi, nó được khắc trên mặt đồng hồ.”
Trên mặt đồng hồ, với những chữ nhỏ tí ti, có in từ “Amicus”.
“Đó là một từ Latin,” cha tôi giải thích. “Con biết nó có nghĩa là gì không?”
“Bạn bè!” tôi đáp, tự hào vì có thể trả lời ngay lập tức.
“Bạn bè!” ông lặp lại. “Và chiếc đồng hồ này, với cái tên ấy, mang một ý nghĩa vô cùng quan trọng. Quan trọng đến mức liên quan đến cả chuyện sống và chết. Con đoán thử xem.”
Tôi mỉm cười, thoáng nghĩ rằng cha tôi, qua biểu tượng của chiếc đồng hồ, muốn khẳng định một tình bạn sâu sắc giữa chúng tôi: vượt qua cả sự sống và cái chết.
“Con không đoán được sao?” ông thốt lên, cùng cái nhếch môi thoáng chút khinh thường. “Con muốn biết không? Chiếc đồng hồ này là món quà từ một người bạn, có lẽ là người bạn thân nhất của cha. Con có từng nghe câu ‘hai thân xác, một tâm hồn’ không? Một lần, vào đêm giao thừa nhiều năm trước, cha ở một thị trấn lạ chẳng quen biết ai. Cha cô độc, cạn sạch tiền, và phải qua đêm dưới một cây cầu trong giá lạnh thấu xương. Đêm đó, người bạn của cha ở một thành phố khác, đã lâu không nhận được tin tức gì từ cha nên chẳng thể biết cha đang ở đâu hay trong tình cảnh như thế nào. Nhưng vì là đêm giao thừa nên anh ấy cứ băn khoăn suốt buổi tối: ‘Không biết giờ này cậu ta ở đâu nhỉ? Không biết cậu ta đang đón giao thừa cùng ai?’ Thế rồi anh ấy đi ngủ sớm, nhưng đến nửa đêm, anh bắt đầu run rẩy, một cơn lạnh lạ lùng. Anh ấy không bị sốt, đang nằm trong một căn phòng được sưởi ấm, trên giường, dưới những lớp chăn dày; vậy mà suốt cả đêm, anh ấy không ngừng run lên, như thể đang nằm trên mặt đất băng giá, không có lấy một nơi trú ẩn.
“Một lần khác, khi đang đùa giỡn với anh ấy, cha không may ngã và làm đầu gối bị thương vì một mảnh kính. Vậy mà người bạn ấy, chẳng nói lời nào, liền dùng con dao găm Algeria mà cha đã tặng, tự rạch vào đầu gối mình, tạo một vết thương ở đúng vị trí như của cha.
“Khi trao cho cha chiếc đồng hồ, anh ấy nói: ‘Đây, tôi đã khóa trái tim mình trong chiếc đồng hồ này. Hãy giữ lấy, tôi trao cậu cả trái tim tôi. Dù cậu ở đâu, gần hay xa, ngày chiếc đồng hồ này ngừng chạy cũng chính là ngày trái tim tôi ngừng đập.’”
Hiếm khi cha tôi dành cho tôi một bài nói chuyện dài và thân tình đến vậy. Nhưng ông không tiết lộ tên người bạn vĩ đại ấy, và ngay lập tức một cái tên lóe lên trong đầu tôi: Romeo! Thực ra, Romeo-Boötes là người bạn duy nhất của cha mà tôi từng nghe danh; nhưng ông ấy mất rồi, nên người mà cha nhắc đến hôm nay chắc chắn là một ai đó khác. Người này, trong trí tưởng tượng của tôi, mang tên "”Dao Găm Algeria”, sống ở phương Đông huy hoàng, từ đó cha tôi luôn luôn trở về: kẻ đứng đầu trong những người trung thành đi theo ánh hào quang rực rỡ của Wilhelm Gerace ở những miền Nam xa xôi. Người được sủng ái nhất! Trong thoáng chốc, tôi mường tượng ra anh ta: cô độc, bị bỏ lại ở đâu đó trong những căn phòng nguy nga nhưng nhuốm vẻ bi kịch, có thể là ở vùng Ural hùng vĩ, lẻ loi chờ đợi cha tôi. Khuôn mặt anh ta đầy mê đắm, mang vẻ đặc trưng người Semitic, đầu gối rỉ máu, trái tim trống rỗng như thể nó đã bị thay thế bởi một khoảng trống không.
Những lần ra đi
Hôm đó, cha tôi ra đi. Như thường lệ, Immacolatella và tôi đứng nhìn ông thu dọn hành lý, tùy tiện nhét vào va li những chiếc áo sơ mi mất cúc, chiếc áo len cũ, áo khoác dày cùng nhiều thứ khác. Lần ra đi, ông đều mang theo toàn bộ tủ quần áo của mình vì ông chẳng bao giờ biết mình sẽ đi bao lâu: có thể chỉ vài ngày, hoặc có khi là hàng tháng trời, đến tận mùa đông, thậm chí lâu hơn.
Ông luôn chuẩn bị cho chuyến đi vào phút chót, những động tác vội vàng như một cỗ máy, trong khi ánh mắt lơ đãng, như thể tâm trí ông đã rời khỏi hòn đảo từ lâu. Đột nhiên, khi nhìn ông đóng chiếc va li lại, một quyết tâm bất ngờ trỗi dậy trong tôi. Trái tim tôi quay cuồng và tôi buột miệng hỏi:
“Con có thể đi cùng cha không?”
Tôi đã không hề có ý định hỏi câu đó vào ngày hôm ấy và, ngay lập tức tôi nhận ra rằng ông thậm chí còn không buồn cân nhắc. Ánh mắt ông thoáng sẫm lại, đôi môi khẽ nhếch trong cái cau mày hầu như không thể nhận ra, như thể ông đang nghĩ về thứ gì khác
“Đi với cha!” cuối cùng ông đáp, nhìn tôi chằm chằm. “Để làm gì? Con chỉ là một thằng nhóc. Đợi đến khi con lớn rồi hẵng đi cùng cha.”
Ông nhanh chóng buộc một sợi dây quanh chiếc va li cũ, xác xơ và cố định nó bằng một nút thắt thủy thủ chắc chắn, đầy điêu luyện. Với Immacolatella và tôi lẽo đẽo theo sau, ông vội vã lao xuống cầu thang. Ông rời khỏi Casa dei Guaglioni với dáng đi dứt khoát, tay nắm một đầu sợi dây buộc va li, đôi má ửng đỏ, ánh mắt ngập vẻ nôn nóng và sốt ruột. Trong khoảnh khắc ấy, ông đã nên hình tượng huyền thoại, vượt xa khỏi tầm với của tôi, như một gaucho phi ngựa băng qua thảo nguyên Argentina kéo theo con bò hoang bị lasso trói chặt; hoặc một vị tướng Hy Lạp cưỡi cỗ xe chiến băng qua cánh đồng thành Troy, phía sau là xác kẻ thù bị kéo lê trên đất; hay một kỵ sĩ trên thảo nguyên, chạy sát bên con ngựa của mình, sẵn sàng nhảy lên lưng nó bất cứ lúc nào. Và nghĩ mà xem, da ông vẫn còn vương vị muối biển Procida, nơi sáng nay ông vừa bơi cùng tôi!
Dưới phố, cỗ xe ngựa đã sẵn chờ đưa cha tôi ra cảng và tôi ngồi bên cạnh ông trên chiếc ghế bọc lụa đỏ damask, trong khi, như thường lệ, Immacolatella hớn hở chạy theo, vui vẻ đua với con ngựa. Ngay từ khi khởi hành, nó đã nhanh chóng bỏ xa chúng tôi một quãng dài, rồi quay lại từ cuối con đường, đôi tai phấp phới trong gió, sủa vang như muốn chào đón và khiêu khích con ngựa. Nhưng con ngựa vẫn giữ nhịp nước kiệu chậm rãi, chẳng buồn đáp lại, hẳn nó nghĩ con chó kia bị cuồng.
Cha tôi lặng thinh và thỉnh thoảng nhìn đồng hồ, rồi ông lại ngước nhìn lưng người đánh xe và con ngựa, ánh mắt thoáng vẻ sốt ruột, như muốn thúc giục chiếc roi quất mạnh hơn để con ngựa chạy nhanh hơn. Trong lúc đó, trí tưởng tượng của tôi bốc cao lên ngọn lửa, hướng tới một chuyến đi khác mà hôm nay ông đã hứa hẹn. Nhưng lần này, tôi sẽ không ngồi trong xe để tiễn ông ra cảng, cũng không đứng trên cầu tàu vẫy tay chào khi ông bước lên tàu hơi nước, không! Lần này, tôi sẽ lên tàu cùng ông, cùng rời khỏi đây! Có lẽ đến Venice, Palermo, hoặc xa hơn nữa, tận Scotland, cửa sông Nile, hay Colorado! Để gặp lại Dao Găm Algeria và những người đồng hành khác, những người đang đợi chúng tôi ở đó.
Đợi đến khi con lớn rồi hẵng đi cùng cha. Câu nói ấy kích lòng phản kháng nơi tôi trước cái tuyệt đối của cuộc đời, thứ đã buộc tôi phải chịu đựng một “Siberia” vô tận của ngày và đêm dằng dặc trước khi thoát khỏi nỗi thống khổ này: cái kiếp làm một đứa trẻ. Trong lúc sốt ruột, tôi thậm chí đã nghĩ rằng, giá như có thể, tôi sẵn sàng chìm vào một giấc ngủ đông thật dài, để vượt qua những năm tháng thơ dại mà chẳng hề hay biết, chỉ nhằm thức dậy và thấy mình đột ngột trưởng thành, ngang hàng với cha. Ngang hàng với cha! “Đáng tiếc thay,” tôi nhìn ông và tự nhủ: “ngay cả khi con trưởng thành, con cũng chẳng bao giờ có thể bằng cha. Con sẽ không có mái tóc vàng, cũng chẳng có đôi mắt xanh tím biếc, và con sẽ không bao giờ đẹp bằng cha!”
Con tàu hơi nước từ Ischia, chiếc tàu sẽ đưa cha tôi đến Naples, vẫn chưa cập bến. Chúng tôi còn vài phút chờ. Cha và tôi ngồi trên cái va li, còn Immacolatella, mệt nhoài sau những màn đua tốc độ, nằm dài dưới chân chúng tôi. Dường như nó tin rằng khoảng dừng chân trên bến cảng này chính là điểm cuối hành trình của cả gia đình. Và rằng, giờ đây, khi đã đến được nơi này, chúng tôi có thể yên ổn nghỉ ngơi, mãi mãi bên nhau, không bao giờ phải chia ly nữa.
Khi cầu thang lên tàu được hạ xuống và cha tôi cùng tôi đứng dậy, Immacolatella cũng nhanh chóng bật dậy, quắn đuôi, không hề tỏ ra bất ngờ. Khi cha tôi rời xa hai chúng tôi, đứng trên con tàu đang dần rời khỏi bến, nó cất tiếng sủa vang, ánh mắt trách móc. Nhưng nó không làm ầm, cũng không quá đau buồn trước sự ra đi của cha tôi. Đối với nó, tôi mới là chủ nhân thực sự. Nếu người đi là tôi, chắc chắn nó sẽ không do dự mà nhảy xuống biển, cố bơi theo con tàu. Và khi không thể bắt kịp, nó sẽ quay trở lại bờ, nằm bẹp trên cầu cảng, tuyệt vọng, vừa gào khóc vừa gọi tên tôi, không ngừng, cho đến lúc chết.
Immacolatella
Từ giây phút cha rời khỏi Procida, ông lại trở thành một huyền thoại trong mắt tôi! Quãng thời gian chúng tôi bên nhau - gần như vẫn còn đó, vẫn thuộc về tôi, rực sáng trong ký ức - lơ lửng trước mắt, cuốn hút tôi một cách cay đắng với vẻ đẹp mong manh như hồn ma bóng quế. Rồi, giống như con tàu ma Người Hà Lan Bay, ký ức ấy tan biến, xoáy tròn với tốc độ chóng mặt. Những gì còn sót lại chỉ là một làn sương ảo huyền lấp lánh và những vọng âm rạn vỡ, đầy vẻ kiểu ngạo và chế giễu nam tính. Khoảng thời gian ấy dường như đã trở thành một sự kiện nằm ngoài thời gian, vượt khỏi lịch sử của Procida: không phải bị lãng quên, mà là chưa từng hiện hữu. Mỗi dấu vết về sự hiện diện của cha trong ngôi nhà - vết hõm do đầu ông lưu lại trên gối, chiếc lược gãy răng, gói thuốc lá trống rỗng - hiện lên trong tôi tựa các phép màu. Giống như chàng hoàng tử tìm thấy chiếc giày thủy tinh của Lọ Lem, tôi tự nhủ: “Vậy là ông thực sự tồn tại!”
Sau khi cha bỏ đi, Immacolatella cứ quấn lấy tôi trong Casa dei Guaglioni, sốt sắng trước vẻ u sầu và ơ thờ của tôi, cố gắng thúc giục tôi chơi đùa để quên đi quá khứ. Con chó hoang ấy đã bày ra biết bao trò! Nó nhảy vút lên không trung rồi đáp xuống đất như một vũ công ba lê. Thậm chí nó còn biến thành chú hề, và tôi là vị vua của nó. Nhưng khi thấy tôi vẫn dửng dưng, nó sốt ruột tiến lại gần, đôi mắt nâu đầy biểu cảm như muốn hỏi: “Cậu đang nghĩ gì vậy? Cậu nói cho tôi biết cậu buồn chuyện gì thế?” Nó khiến tôi nhớ đến những người phụ nữ - những người khi thấy đàn ông trở nên trầm mặc, thường nghĩ rằng anh ta bị ốm, hoặc đôi khi nổi cơn ghen, bởi các suy nghĩ nghiêm túc của anh ta dường là hành động phản bội đối với sự phù phiếm, nhẹ nhàng của họ.
Giống như cách người ta đối xử với một người phụ nữ, tôi cố tình lảng tránh nó, nói: “Để tôi yên một chút. Tôi cần suy nghĩ. Có những điều cậu không hiểu được đâu. Đi chơi một mình đi, lát nữa chúng ta gặp lại.” Nhưng nó bướng bỉnh, không chịu nghe theo; và cuối cùng, trước những trò nghịch ngợm cuồng nhiệt của nó, tôi dần lấy lại được niềm vui để hòa mình vào cơn cuồng nhiệt cùng nó. Nó đáng ra có quyền tự hào, nhưng trái tim nó tràn đầy niềm hạnh phúc giản đơn. Nó đón mừng tôi trở lại như một chiến thắng rực rỡ, tựa cú phi nước đại cuối cùng, tin rằng vẻ nghiêm nghị trước đó của tôi chỉ là một cách gây ấn tượng chẳng khác gì những điệu tarantella phô trương mà thôi.
Có người sẽ thắc mắc: “Sao lại nói nhiều về một con chó như thế?” Nhưng hồi còn nhỏ, tôi chẳng còn người bạn nào khác, và không thể phủ nhận rằng nó thực sự phi thường. Để trò chuyện với tôi, nó đã tự nghĩ ra một thứ ngôn ngữ riêng, như của những người câm điếc: qua ánh mắt, cái đuôi, tư thế, và những âm thanh trầm bổng từ giọng sủa, nó truyền đạt mọi ý nghĩ của mình; và tôi hiểu được tất cả. Dù là một con chó cái, nó yêu thích sự táo bạo và những chuyến phiêu lưu. Nó bơi cùng tôi và ở trên thuyền, nó làm hoa tiêu, sủa báo hiệu mỗi khi phát hiện chướng ngại vật. Nó theo tôi khắp nơi trên hòn đảo, và mỗi ngày, khi chúng tôi trở về trên những con đường thân thuộc đã đi qua không biết bao nhiêu lần, nó vẫn háo hức như thể đang cùng tôi khám phá các miền đất mới. Khi chúng tôi băng qua eo biển hẹp để đặt chân lên hòn đảo hoang Vivara, cách Procida chỉ vài mét, những con thỏ rừng liền bỏ chạy tán loạn, nghĩ rằng tôi là thợ săn còn nó là chú chó săn của tôi. Nó đuổi theo lũ thỏ một đoạn, chỉ để tận hưởng niềm vui được chạy nhảy, rồi lại quay về bên tôi, mãn nguyện với vai của một chú chó chăn cừu.
Nó có nhiều mối tình, nhưng mãi đến năm tám tuổi nó vẫn chưa từng mang thai.
Cháu trai của Mụ Yêu Tinh?
Có thể nói rằng, suốt những năm tháng tuổi thơ, tôi chẳng quen bất cứ một giống cái nào ngoài Immacolatella. Trong “Bộ Luật về Những Chân lý Tuyệt Đối” nổi tiếng của tôi, không hề có điều khoản nào dành cho giống cái hay tình yêu, bởi tôi chẳng có gì chắc chắn về họ (ngoại trừ tình mẫu tử). Người bạn thân nhất của cha tôi, Romeo-Boötes, căm ghét phụ nữ; nhưng liệu mẹ tôi, với tư cách là một người phụ nữ, có bị ông ta khinh miệt không? Câu hỏi ấy tạo nên một khoảng cách ngầm đầy ngờ vực giữa tôi và cái bóng của Amalfitano. Và câu hỏi đó mãi không có lời giải - vì tôi chưa từng nghe cha tôi nhắc đến Amalfitano hay phụ nữ. Nụ cười của ông mỗi khi người ta nhắc đến sự kinh hãi của phụ nữ dành cho Casa dei Guaglioni không phải là lời giải thích, mà chỉ là một bí ẩn khó hiểu.
Còn mẹ tôi, suốt cuộc đời, tôi chỉ nghe cha nhắc đến bà một hoặc hai lần, mà cũng chỉ thoáng qua, như vô tình. Ký ức duy nhất tôi giữ được là giọng nói của ông, trong khoảnh khắc ngắn ngủi ấy, dường như trở nên dịu dàng và tập trung một cách khác thường khi nhắc đến cái tên ấy, nhưng rồi ngay lập tức chuyển hướng, vội vàng sắc lạnh và né tránh. Biểu cảm của ông lúc đó khiến tôi liên tưởng đến một con mèo kiêu hãnh và xa lạ, lặng lẽ rảo bước trong màn đêm. Nó bất chợt dừng lại, liếc nhìn lớp lông lạnh giá của một con cái đã chết, chạm khẽ bằng bàn chân mềm như nhung, rồi bỏ đi.
Tôi rất mong cha kể cho tôi điều gì đó về người mẹ yêu dấu của mình, nhưng tôi tôn trọng sự im lặng của ông, hiểu rằng ký ức về cái chết của mẹ hẳn quá đau đớn để ông có thể chạm vào.
Về một cái chết khác, ông cũng giữ im lặng một cách cứng đầu: cái chết của bà tôi, người Đức. Thế nhưng, sự im lặng ấy dường ẩn chứa một lời trách móc nặng nề nào đó: ít nhất, đó là điều tôi suy đoán được từ một sự kiện ngắn ngủi.
Một hôm, khi đang lục lọi những cuốn sách trong tủ quần áo của ông, trong lúc ông đứng gần đó, mải mê hút thuốc, tôi tình cờ tìm thấy một bức ảnh mà trước đây chưa từng thấy. Bức ảnh chụp một nhóm các cô gái cùng tuổi, trong đó có một người được đánh dấu bằng mực hình dấu thập. Tất nhiên, ánh mắt tôi lập tức dừng lại ở cô gái ấy. Trong vài giây ngắn ngủi, tôi kịp nhận ra cô trông khá bình thường: mặc một chiếc váy và áo sơ mi, tóc buộc bằng dải ruy băng. Dưới chiếc áo sơ mi trắng cài kín đến cổ, bộ ngực đầy đặn của cô bị bó lại gợi lên vẻ nữ tính; nhưng vóc dáng của cô cũng như các đường nét trên khuôn mặt đều quá to, thô và cứng để có thể gọi là đẹp. Dẫu vậy, tư thế lãng mạn mà cô thể hiện lại bộc lộ một khát khao gần tội nghiệp: được cảm thấy yếu đuối và đáng yêu.
Bên dưới bức ảnh đề vài dòng chữ viết bằng tiếng Đức. Mặc dù cô gái trong ảnh có vẻ ngoài khá bình thường, tôi vẫn nhận ra một nét tương đồng mơ hồ, đặc biệt là trong ánh mắt và khuôn miệng, điều khiến tôi ngay lập tức đoán ra cô ấy là ai. Sự tò mò tự nhiên thôi thúc tôi tìm lời xác nhận từ cha. Tôi vội đưa bức ảnh cho ông, đầy hào hứng hỏi liệu người phụ nữ tóc vàng ấy có phải là bà nội người Đức của tôi không.
Cha tôi như bừng tỉnh khỏi dòng suy nghĩ mơ màng, liếc nhìn bức ảnh với vẻ cộc cằn, rồi thô bạo giật lấy nó từ tay tôi. “Con lục ra di vật gì thế này?” ông hỏi. Rồi, bằng một giọng điệu gắt gỏng, ông thừa nhận: “Phải, đó là bà nội của con. Là mẹ của cha.” Ông nhấn mạnh “mẹ của cha” bằng một giọng điệu lạnh lùng đầy vẻ khinh miệt lộ liễu. Qua hàm răng nghiến chặt, ông khẽ buông một câu: “Đúng hơn thì... may là chỉ từng là thôi.”
Không nói thêm lời nào, ông đi thẳng đến chỗ cái tủ, ném bức ảnh vào ngăn kéo dưới cùng rồi dùng chân đóng mạnh. Trong khoảnh khắc đó, khuôn mặt ông méo mó bởi cơn khó chịu, trông như một đao phủ tàn nhẫn. Động tác ấy như muốn nói: “Ở yên đó đi, hỡi người đàn bà khủng khiếp, độc địa, không thể chịu nổi. Và từ giờ trở đi, đừng bao giờ xuất hiện nữa!”
Chỉ vậy thôi, nhưng cũng đủ để khơi lên trong tôi một mối hồ nghi rằng bà nội tôi, khi còn sống, hẳn là một mụ yêu tinh hay một nỗi kinh hoàng nào đó tương tự. Về sau, khi tình cờ nhìn vào ngăn kéo ấy, tôi nhận ra bức ảnh đã biến mất. Có lẽ cha đã giấu nó ở một nơi còn u tối và bí mật hơn.
Tóm lại, những hiểu biết của cha tôi chẳng khai sáng chút nào cho tôi về sự bí ẩn của phụ nữ.
Phụ nữ
Hơn nữa, ngoài vai trò làm mẹ của mẹ tôi, chẳng điều gì trong thế giới mơ hồ của phụ nữ có vẻ quan trọng đối với tôi và tôi cũng không mấy hứng thú tìm hiểu những bí mật của họ. Mọi hành động vĩ đại cuốn hút tôi trong sách đều được thực hiện bởi đàn ông, không phải phụ nữ. Phiêu lưu, chiến tranh và vinh quang là đặc quyền của đàn ông. Còn phụ nữ, họ đại diện cho tình yêu; và sách vở thường tạo ra hình ảnh những người phụ nữ cao quý, lộng lẫy. Nhưng tôi nghi ngờ rằng những người phụ nữ như thế, thậm chí cả cảm xúc diệu kỳ mang tên tình yêu, chỉ là sản phẩm hư cấu của sách vở, không phải thực tế. Người hùng hoàn hảo thì tồn tại - tôi đã thấy điều đó trong chính cha mình. Nhưng tôi chưa từng biết đến một người phụ nữ rực rỡ nào, những nữ hoàng của tình yêu như trong các trang sách. Và vì thế, tình yêu, si mê - ngọn lửa vĩ đại ấy - có lẽ chỉ là một điều không tưởng, một giấc mộng hão huyền mà thôi.
Mặc dù tôi chẳng hiểu gì về những người phụ nữ ngoài đời thực, chỉ cần thoáng nhìn thấy họ, tôi đã có thể kết luận rằng họ chẳng có điểm gì chung với những người phụ nữ trong sách. Theo tôi, phụ nữ ngoài đời chẳng có chút vẻ lộng lẫy hay rực rỡ nào. Họ là những sinh vật nhỏ bé, chẳng bao giờ có thể cao lớn như đàn ông và suốt đời họ bị giam cầm trong bếp núc hay những căn phòng chật chội khác - điều này lý giải cho sắc da nhợt nhạt của họ. Quấn chặt trong những chiếc tạp dề, váy cùng lớp váy lót nặng nề, nơi mà họ luôn phải giấu đi cơ thể bí ẩn của mình như luật bất thành văn, họ hiện lên trong mắt tôi như các hình dáng vụng về, gần như không có đường nét sắc rõ. Lúc nào họ cũng tất bật, khó nắm bắt và có vẻ xấu hổ về bản thân mình - có lẽ vì họ quá xấu xí. Họ bước đi như những con vật buồn bã, hoàn toàn khác đàn ông, thiếu cả sự thanh lịch lẫn lòng can đảm. Họ thường tụ thành từng nhóm, bàn luận với các cử chỉ đầy nhiệt thành, mắt đảo quanh như sợ ai đó sẽ bắt gặp bí mật của họ. Chắc hẳn họ có rất nhiều bí mật chung, nhưng chúng có thể là gì? Chắc chắn toàn những chuyện trẻ con! Không một điều gì thuộc về chân lý tuyệt đối có thể khiến họ quan tâm.
Đôi mắt của họ, tất tật đều cùng một màu: đen láy! Tóc của họ, không có ngoại lệ, đều sẫm màu, xơ cứng và bù xù. Thành thực mà nói, tôi hoàn toàn chẳng bận tâm nếu họ giữ khoảng cách càng xa càng tốt với Casa dei Guaglioni: tôi không bao giờ có thể yêu một người trong số họ và càng không muốn cưới họ làm vợ.
Thỉnh thoảng, trên hòn đảo xuất hiện một vài người phụ nữ ngoại quốc. Họ xuống bãi biển, thản nhiên cởi đồ để bơi, chẳng e dè hay xấu hổ, như thể họ là đàn ông. Cũng như những người dân Procida khác, tôi không tò mò về những phụ nữ ngoại quốc ấy. Cha tôi thậm chí xem họ như bọn ngớ ngẩn, đáng ghét, và thường kéo tôi tránh xa những nơi họ lui tới. Chúng tôi sẵn sàng xua đuổi họ, vì không muốn ai làm phiền bãi biển của mình. Không ai trên đảo buồn nhìn họ. Với người dân Procida, và với tôi, họ chẳng phải là phụ nữ mà giống các sinh vật điên rồ từ mặt trăng rơi xuống. Thậm chí, tôi chưa từng nghĩ rằng những cơ thể không chút e dè ấy lại có thể ẩn chứa một vẻ đẹp nào đó.
Vậy đó, tôi nghĩ rằng mình đã kể gần như đầy đủ những suy nghĩ của mình về phụ nữ ở thời điểm ấy!
Khi một bé gái chào đời trên đảo Procida, gia đình thường không mấy vui vẻ. Và tôi nghĩ về số phận của phụ nữ. Khi còn nhỏ, các bé gái trông chẳng xấu xí hơn các bé trai, cũng chẳng khác biệt là mấy; nhưng chúng không có hy vọng lớn lên để trở thành một anh hùng vĩ đại, oai phong. Hy vọng duy nhất của họ là trở thành vợ của một anh hùng: để phục vụ anh ta, mang họ của anh như một biểu tượng danh giá, trở thành tài sản riêng của anh, được mọi người kính trọng và sinh ra một đứa con trai khôi ngô, mang dáng dấp của cha nó.
Mẹ tôi đã không có được niềm vui ấy. Bà chỉ kịp thoáng thấy đứa con trai tóc đen, mắt đen, hoàn toàn trái ngược với chồng bà, Wilhelm của bà. Và nếu, tình cờ, đứa con trai ấy - dù mang vẻ ngoài u tối - được định sẵn để trở thành anh hùng, bà cũng không thể nào biết được, vì bà qua đời quá sớm.
Chiếc lều Phương Đông
Trong bức ảnh chụp mẹ tôi duy nhất mà tôi biết, bà không đẹp hơn những người phụ nữ khác. Nhưng khi còn nhỏ, mỗi lần ngắm nhìn bức ảnh ấy, tôi chưa bao giờ tự hỏi liệu bà có đẹp hay không, cũng chẳng định so sánh bà với ai khác. Bà là mẹ tôi! Và tôi không thể diễn tả hết được những điều kỳ diệu mà sự làm mẹ đã mãi xa vời của bà từng mang ý nghĩa với tôi khi đó.
Bà đã qua đời vì tôi, như thể chính tôi đã giết bà. Tôi chính là sức mạnh và cũng là bạo lực của số phận bà; nhưng sự an ủi của bà đã hóa giải tàn bạo trong tôi. Đó là ân phước đầu tiên giữa chúng tôi: rằng nỗi ân hận của tôi hòa quyện vào sự tha thứ dịu dàng của bà.
Khi hồi tưởng lại chân dung của mẹ, tôi nhận ra rằng bà chỉ là một cô gái. Thực tế, bà chưa đầy mười tám tuổi. Vẻ mặt bà nghiêm nghị và trầm ngâm như một người trưởng thành, nhưng đôi mắt đầy tò mò ấy vẫn là ánh mắt của một đứa trẻ; và dáng vẻ thanh xuân của bà càng đậm nét hơn trong thân hình bị biến dạng, vụng về bọc trong những bộ quần áo thô kệch của một người phụ nữ mang thai.
Tuy nhiên, khi nhìn vào bức chân dung ấy, tôi chỉ thấy một người mẹ, chứ không phải một cô gái thơ ngây. Tuổi tác mà tôi gán cho bà - nếu ngẫm kỹ - có lẽ là một sự chín chắn, rộng lớn và bao la như bãi cát trải dài dưới cái nắng hè trên biển; nhưng đồng thời, cũng là một dạng vĩnh cửu, thuần khiết, dịu dàng và bất biến, tựa như ánh sáng của một ngôi sao. Bà là hình bóng được sinh ra từ các tiếc nuối của tôi, và vì thế, trong mắt tôi, bà hội tụ tất cả sự dịu dàng mà tôi hằng ao ước, với vô số biểu cảm cùng giọng khác nhau.
Nhưng trên hết, trong nỗi khao khát vô vọng tôi dành cho bà, tôi luôn luôn nghĩ về mẹ như hiện thân của lòng thủy chung, sự gần gũi, và những cuộc trò chuyện - tất cả những gì mà qua kinh nghiệm của tôi, những người cha không thể mang lại.
Trong trí tưởng tượng của tôi, người mẹ là người sẽ luôn chờ tôi ở nhà, ngày đêm mong ngóng về tôi. Bà sẽ lắng nghe và trân trọng từng lời tôi nói, ca ngợi mọi việc tôi làm và tự hào về vẻ đẹp vượt trội của một đứa con trai tóc đen, vóc dáng trung bình, hoặc thậm chí thấp bé.
Khốn thay cho kẻ nào dám thốt ra một lời không hay về tôi trước mặt bà! Trong mắt bà, tôi không còn nghi ngờ gì nữa, là con người vĩ đại nhất trên thế gian. Cái tên Arturo, đối với bà, là một biểu tượng cao quý, sáng ngời như vàng ròng! Bà tin chắc rằng chỉ cần nhắc đến cái tên ấy, ai cũngbiết bà đang nói về tôi. Còn những Arturo khác trên đời ư? Trong mắt bà, họ chỉ là những bản sao tầm thường và kém cỏi hơn hẳn.
Ngay cả gà mái hay mèo mẹ cũng có những âm điệu đặc biệt, dịu dàng khi gọi con mình. Vậy hãy thử hình dung xem, giọng bà sẽ ngọt ngào thế nào mỗi khi cất lên cái tên Arturo! Tôi chắc chắn bà sẽ gửi gắm vào đó mọi lời tán dương âu yếm nhất, những điều mà tôi, với vẻ cao thượng, sẽ từ chối, giống như Julius Caesar từng từ chối chiếc vương miện. Thực ra, khinh thường sự nuông chiều và tâng bốc là một phẩm chất cao quý; nhưng vì con người không thể tự nuông chiều bản thân, nên trong cuộc đời, một người mẹ là điều không thể thiếu.
Tôi lớn lên hoàn toàn xa lạ không chỉ với sự tâng bốc mà còn với cả những nụ hôn và cái vuốt ve ân cần - và tôi tự hào về điều đó. Nhưng đôi khi, nhất là vào các buổi tối cô đơn, khi tôi ngồi giữa bốn bức tường và bắt đầu nhớ mẹ, thì trong tâm trí tôi, mẹ chính là hiện thân của âu yếm dịu dàng. Tôi thèm thân thể vĩ đại, linh thiêng của bà, đôi bàn tay mềm như lụa, hơi thở ấm áp nơi bà. Những đêm đông giá rét, giường tôi lạnh buốt; để giữ ấm, tôi chỉ biết cuộn mình vào Immacolatella và chìm vào giấc ngủ.
Vì không tin vào Chúa hay các tôn giáo, tôi cũng không tin vào cuộc sống sau cái chết hay linh hồn của những người đã khuất. Nếu dựa theo lý trí, tôi biết rằng tất cả những gì còn lại của mẹ chỉ là còn là cái xác nằm sâu dưới lòng đất, trong nghĩa trang của Procida. Nhưng trước anh linh của bà, lý trí ấy biến tan, và dù không ý thức được, tôi đã thực sự tin rằng bà có một thiên đường của riêng mình. Thiên đường ấy, còn có thể là gì khác ngoài một chiếc lều Phương Đông huyền ảo, treo giữa trời và đất, đung đưa trong làn gió, nơi bà sống một mình, nhàn nhã và lặng lẽ chiêm nghiệm, đôi mắt hướng lên Thiên Đường, như một người đã được siêu thoát? Mỗi lần tôi nghĩ đến mẹ, hình ảnh ấy tự nhiên hiện ra trong tâm trí tôi. Nhưng rồi, một ngày kia, tôi ngừng tìm kiếm bà, và bà biến mất; ai đó đã gấp lại chiếc lều Phương Đông tráng lệ ấy và mang nó đi mãi mãi.
Hồi còn nhỏ, tôi thường hướng về mẹ vào những thời khắc mà người khác cầu nguyện, như một kẻ đa cảm. Trong tâm trí tôi, mẹ lúc nào cũng đang lang thang khắp hòn đảo, hiện lên sống động, lơ lửng trong không trung, đến mức tôi có cảm giác như mình đang trò chuyện với bà, giống cách người ta trò chuyện với một cô gái đứng ngoài ban công. Mẹ là một trong các phép mầu kỳ diệu của hòn đảo này. Tôi chưa từng đến mộ của mẹ, vì tôi luôn căm ghét nghĩa trang và tất tật dấu tích của cái chết; nhưng dù vậy, ngôi mộ nhỏ ấy lại là một trong những sợi dây vô hình ràng buộc tôi với Procida. Vì mẹ được chôn cất ở đó, tôi có cảm giác rằng hình bóng diệu kỳ của bà như bị giam cầm trong bầu không khí xanh biếc của hòn đảo, tựa chú chim hoàng yến trong chiếc lồng mạ vàng. Có lẽ chính điều đó đã khiến mỗi lần tôi ra khơi, tôi chẳng thể đi xa được lâu trước khi nỗi cay đắng của cảm giác cô đơn ập đến, buộc tôi quay về. Chính bà, như tiếng gọi mê hoặc của những nàng tiên cá, đã gọi tôi trở lại.
Chờ đợi và trở về
Nhưng thực ra, còn một lý do mạnh mẽ hơn khiến tôi, mỗi lần ra khơi, đều nhanh chóng quay mũi thuyền về lại Procida: nỗi lo rằng trong lúc tôi vắng mặt, cha tôi có thể bất ngờ trở về. Ý nghĩ không có mặt trên đảo khi ông trở về là điều tôi không thể chịu đựng. Vì vậy, dù thèm tự do và say mê những chuyến phiêu lưu vĩ đại, tôi chưa bao giờ rời khỏi vùng biển Procida để tìm đến những miền đất khác. Đã nhiều lần, tôi bị thôi thúc muốn bỏ trốn trên con thuyền nhỏ của mình để đi tìm ông. Nhưng rồi tôi nhận ra hy vọng tìm được ông giữa muôn trùng đảo và lục địa chỉ là điều viển vông. Nếu rời Procida, tôi có thể mất ông mãi mãi, bởi chỉ có một điều chắc chắn: ở Procida, sớm hay muộn ông cũng sẽ trở về. Không ai có thể đoán trước được khi nào ông sẽ trở lại. Đôi lúc, ông bất ngờ xuất hiện chỉ vài tiếng sau khi rời đi; nhưng cũng có khi, ông biến mất nhiều tháng trời bặt tin tức. Và mỗi ngày, vào lúc con tàu hơi nước cập bến, hoặc mỗi buổi tối khi tôi quay về Casa dei Guaglioni, tôi đều ôm lấy niềm hy vọng được nhìn thấy ông. Chính niềm hy vọng vĩnh cửu ấy là một trong những phép mầu nhiệm của Procida.
Một buổi sáng, Immacolatella và tôi, trên chiếc Tàu ngư lôi Antilles, quyết định đi xa đến tận Ischia. Tôi chèo thuyền gần một giờ đồng hồ; nhưng khi quay lại nhìn, Procida đã mờ dần phía sau, một nỗi nhớ nhà cay đắng siết chặt lấy tôi đến mức tôi không thể chịu nổi. Tôi quay mũi thuyền và trở về.
Cha tôi không bao giờ viết thư, chưa từng gửi tin tức hay lời hỏi thăm nào. Nhưng đối với tôi, chỉ cần biết ông vẫn còn sống đã là một phép mầu. Ý nghĩ rằng, trong mỗi khoảnh khắc tôi sống ở Procida, cha tôi cũng đang tồn tại đâu đó trên thế giới - tại một vùng đất xa lạ, trong một căn phòng nào đó, giữa những người bạn đồng hành mà tôi coi là cao quý và đáng ngưỡng mộ, chỉ bởi vì họ được ở bên ông - là điều khiến tôi cảm thấy được an ủi. (Tôi không hề nghi ngờ rằng được ở cạnh cha tôi chính là đỉnh cao của sự quý tộc trong bất kỳ xã hội nào.)
Mỗi khi tôi nghĩ, “Ngay lúc này đây, cha đang...”, một cảm giác mãnh liệt lại trào dâng trong tôi, như thể một bức màn đen trong tâm trí bị xé toạc, để lộ những câu chuyện kỳ diệu chui ra. Trong trí tưởng tượng ấy, cha tôi hầu như không bao giờ đứng một mình: xung quanh ông là các bóng hình mờ ảo của những người bạn đồng hành trung tín. Và luôn kề bên ông, như một cái bóng không thể rời, là kẻ ưu tú nhất trong số đó - Dao Găm Algeria.
Cha tôi, tay giơ cao khẩu súng lục đầy thách thức, lao lên mũi một con tàu chiến khổng lồ, trong khi Dao Găm Algeria, kiệt sức, có lẽ đã bị thương nặng, lê bước phía sau, cố trao cho ông những viên đạn cuối cùng. Cha tôi mở đường qua khu rừng rậm rịt, và Dao Găm Algeria, với con dao sắc bén trong tay, giúp ông mở lối xuyên qua những dây leo chằng chịt. Cha tôi nằm nghỉ trong căn lều chiến trận, trên chiếc giường dã chiến; còn Dao Găm Algeria, quỳ dưới chân ông, khẽ gảy những giai điệu Tây Ban Nha trên cây đàn ghi ta để làm ông nguôi lòng...
Đợi đến khi con lớn rồi hẵng đi cùng cha.
Đôi khi, trong những ngày cô độc, giác quan tôi đánh lừa mang đến ảo giác rằng cha đã trở về. Nhìn ra biển trong một ngày giông bão, giữa tiếng sóng gầm vang, tôi như nghe thấy giọng nói của cha gọi tên mình. Tôi quay ra bãi biển: trống trơn. Một buổi chiều, khi đến cầu cảng sau khi tàu hơi nước cập bến, từ xa tôi nhìn thấy một người đàn ông tóc vàng ngồi tại quán cà phê trên quảng trường. Tôi lao đến, tin chắc sẽ gặp cha - vừa từ tàu xuống, dừng lại để thưởng thức một ly rượu Ischia. Nhưng khi đến nơi, trước mặt tôi chỉ là một người đàn ông xa lạ, da ngăm đen, đội chiếc mũ rơm... Một buổi tối, khi đang ăn trong bếp, tôi thấy Immacolatella đột nhiên dựng tai, lao về phía cửa sổ. Tôi vội vàng chạy tới, hy vọng sẽ thấy cha bên ngoài, bất ngờ xuất hiện, nhưng tôi chỉ kịp nhìn thấy một con mèo, sau khi lén nhìn bữa tối của chúng tôi qua song cửa sổ, liền nhảy xuống và lẩn mất.
Mỗi ngày, Immacolatella và tôi đều có mặt gần như mọi lúc con tàu từ Naples cập bến. Những hành khách xuống tàu hầu hết là người quen: phần lớn là dân Procida đi từ sáng sớm và trở về vào buổi tối - nhân viên đại lý tàu biển, vợ của người thợ may, bà đỡ, hay ông chủ khách sạn Savoia. Rồi vào những ngày đặc biệt, sau khi các hành khách thông thường đã xuống hết, là những tù nhân bị chuyển đến nhà tù. Trong trang phục dân sự nhưng bị còng tay và đi kèm lính gác, họ được nhanh chóng đưa lên xe cảnh sát để chở đến pháo đài. Trong khoảnh khắc ngắn ngủi khi họ đi bộ ngang qua, tôi luôn tránh nhìn họ: không phải vì khinh miệt, mà vì lòng tôn kính.
Trong lúc ấy, các thủy thủ kéo cầu thang lên, con tàu hơi nước rời bến, tiếp tục hành trình đến Ischia. Và lần này, người đàn ông tóc vàng mà tôi mong chờ vẫn không xuất hiện.
Thế nhưng, một ngày nào đó, ông đã thực sự trở về. Có lẽ đúng vào một ngày mà vì lý do nào đó, tôi không có mặt ở cầu cảng khi tàu cập bến. Và rồi, khi trở về nhà, tôi bắt gặp điều mà tôi ngỡ chỉ tồn tại trong những giấc mơ: ông ngồi trên giường trong phòng, lặng lẽ hút thuốc, chiếc va li đặt dưới chân, vẫn còn đóng kín.
Nhìn thấy tôi, ông sẽ nói:
“Chào con. Con ở đây à?”
Nhưng ngay lúc đó, Immacolatella - con chó đã nấn ná ngoài đường - sẽ xộc vào phòng như một cơn lốc. Và cha tôi lại bắt đầu màn vật lộn quen thuộc với nó - con chó luôn quá khích mỗi khi chào đón ông. Tôi sẽ can thiệp, lớn tiếng quát: “Pup, đủ rồi!” Trong mắt tôi, lòng cuồng nhiệt của nó chẳng khác nào một biểu hiện của sự thiếu hiểu biết. Nó lấy đâu ra tự tin ấy? Ai biết được, suốt thời gian qua, cha tôi có thể đã gặp bao nhiêu con chó tốt hơn nó? Hơn nữa, tôi nghĩ rằng màn chào đón náo nhiệt ấy chẳng qua chỉ là cái cớ để gây ồn. Thực ra, việc cha trở về không phải điều quá quan trọng với nó. Đối với nó, tôi mới là chủ nhân thực sự.
Cuối cùng, Immacolatella cũng chịu yên. Cha tôi, thong thả rít điếu thuốc, quay sang hỏi tôi:
“Có gì mới không?”
Nhưng dường như ông chẳng mấy bận tâm đến những thứ tôi kể. Đôi khi, ông bất chợt ngắt lời, chêm một câu chẳng liên quan: “Thuyền vẫn ổn chứ?” Hoặc chợt chăm chú lắng nghe tiếng chuông điểm giờ, rồi so đồng hồ của mình và bực bội phàn nàn: “Cái gì? Chuông báo năm giờ kém mười lăm á? Không đúng, rõ ràng phải gần sáu giờ rồi! Đồng hồ này lúc nào cũng sai.”
Sau đó, ông bắt đầu bước đi, hai chúng tôi im lặng theo sau, trong bầu không khí vừa ngột ngạt vừa e dè. Ông đi khắp Casa dei Guaglioni, mở từng cánh cửa, từng khung cửa sổ, như thể đang tái khẳng định quyền sở hữu của mình. Và rồi, ngay lúc đó, Casa dei Guaglioni như biến thành một con tàu khổng lồ, ngậm gió biển, sẵn sàng ra khơi cho những chuyến hành trình kỳ vĩ.
Cuối cùng, vị thuyền trưởng của tôi lại trở về phòng, ngả người xuống giường, nằm ngửa, với nét mặt u sầu và đăm chiêu: phải chăng trong đầu ông đã bắt đầu nghĩ đến chuyến đi tiếp theo? Ánh mắt ông hướng lên bầu trời ngoài cửa sổ, khẽ nói: “Trăng non,” nhưng giọng điệu lại như muốn thở dài: “Vẫn là vầng trăng cũ. Vầng trăng quen thuộc của Procida!”
Thêm đôi điều về Amalfitano
Khi quan sát ông, tôi nhận ra những nếp nhăn nơi khóe mắt, giữa đôi lông mày và quanh khóe miệng. Tôi thầm nghĩ, với chút ghen tị: “Đó là dấu hiệu của tuổi tác. Khi con có những nếp nhăn ấy, chúng sẽ là minh chứng rằng con đã trưởng thành. Và khi đó, cha và con có thể mãi mãi ở bên nhau.”
Trong khi chờ đợi thời khắc huyền thoại ấy, tôi ôm một hy vọng khác - một hy vọng mà tôi chưa bao giờ dám thổ lộ với cha, vì nó dường như quá táo bạo. Cuối cùng, một đêm nọ, tôi lấy hết can đảm, mạnh dạn hỏi ông:
“Cha có thể, vào một lúc nào đó, đưa một người bạn của cha đến Procida không?”
Tôi nói “một người bạn”, nhưng trong lòng chỉ nghĩ đến người duy nhất (A.D.).
Ban đầu, cha không trả lời, chỉ ném về phía tôi một ánh nhìn nghiêm nghị khiến tim tôi lạnh buốt. Tôi cảm thấy bị tổn thương và xấu hổ, đến nỗi chỉ muốn rút về phòng, tìm sự an ủi từ Immacolatella. Nhưng rồi, khi tôi đang ngập ngừng, ánh mắt cha bỗng rực lên và tràn đầy sinh khí, như thể trong giây phút nhìn tôi, ông đã đổi ý.
Ông nở nụ cười, và tôi chộp được ngay nụ cười lạ thường, pha chút hoang dại như một con dê, lần trước nó cũng từng là dấu hiệu đầu tiên của sự đồng tình ấy.
“Bạn nào? Hãy nhớ rằng, ở đây, trên Procida, cha chỉ có một người bạn duy nhất, chỉ một người đó. Cha không cần ai khác. Và lệnh cấm này là vĩnh viễn!”
Nghe những lời ấy, tôi điếng người, tưởng như mình vừa được soi sáng. Ai là người bạn duy nhất của ông ở Procida? Có thể nào cha tôi thực sự đang nói đến tôi?
Ông nhìn tôi bằng ánh mắt nghiêm nghị, rồi tiếp tục:
“Nhìn kia! Con có biết ai trong bức ảnh đó không?”
Ông chỉ vào bức chân dung của Amalfitano, thứ luôn treo trong phòng ông.
Tôi khẽ đáp, “Romeo”, và ông thốt lên, giọng sắc bén và uy quyền: “Giỏi lắm, nhóc con.”
“Khi đặt chân đến Procida lần đầu tiên,” ông bắt đầu, mặt nhíu lại như đang nhớ về một ký ức chẳng mấy dễ chịu, “cha lập tức nhận ra... thực ra, cha đã biết điều đó ngay cả trước khi rời khỏi con tàu... rằng nơi này, đối với cha, chẳng khác nào một hoang đảo! Cha chấp nhận cái tên Gerace, vì một cái tên, suy cho cùng, cũng chỉ là một cái tên. Thậm chí, có một bài thơ từng nói về điều này, kiểu thơ mà các phụ nữ thường viết trong sổ lưu niệm:
“Cái tên có nghĩa gì đâu? Gọi hoa hồng
Bằng bất kỳ tên nào khác: liệu hương thơm nhạt bớt chăng?”
“Với cha, cái tên Gerace chỉ đơn thuần mang ý nghĩa: người thừa kế tương lai của những trang trại cùng các khoản thu nhập. Và thế là cha chấp nhận mang cái họ Procida đó. Nhưng trên hòn đảo hoang vu này, cha còn có một người bạn: ông ấy! Và nếu Procida trở thành quê hương của cha, thì không phải vì cái họ Gerace, mà chính là vì ông ấy!”
“Cha nhớ khi vừa đặt chân đến đây... mọi ánh mắt đều dồn lên cha đầy nghi ngại, như thể ta là một loài thú kỳ lạ nào đó... thì những kẻ duy nhất đón tiếp cha một cách xứng đáng lại chính là lũ chó của ông ấy. Có tám con tất cả, con nào cũng dữ tợn và thường tấn công bất kỳ ai đến gần. Vậy mà khi cha leo lên chỗ này để nhìn rõ chúng hơn... cha đã thoáng thấy chúng từ xa và bị thu hút bởi sự đa dạng, khỏe khoắn của chúng... cả tám con đều chạy ùa đến mừng đón cha, như thể chúng nhận ra cha và mặc định rằng cha đã là chủ nhân của nơi này. Đó cũng là lần đầu tiên cha gặp ông ấy. Từ ngày đó trở đi, hầu như không ngày nào cha không quay lại đây. Thú thực, cha quay lại không phải vì ông ấy mà là vì lũ chó. Dù ông ấy cố tỏ ra hoạt bát và vui vẻ, việc ngồi nghe một ông lão mù kể chuyện không phải điều gì thú vị. Nhưng dù cha yêu thích lũ chó hơn ông ấy, ông vẫn hài lòng, miễn là cha không bỏ rơi ông ấy!”
“Thỉnh thoảng, ông ấy nói với cha: “Tôi đã luôn gặp nhiều may mắn trong đời, và giờ đây, trước khi chết, tôi còn nhận được món quà lớn nhất. Lý do duy nhất khiến tôi hối tiếc vì không lấy vợ là bởi tôi không có một đứa con trai để yêu thương như chính bản thân mình. Và giờ đây, tôi đã tìm thấy, thiên thần của tôi, con trai của tôi: chính là cậu!”
“Ông ấy còn kể rằng, vào đêm trước khi gặp cha, ông ấy đã mơ liên tiếp nhiều giấc mơ, và tất cả đều mang ý nghĩa tiên tri. Trong một giấc mơ, ông thấy mình quay trở lại thời làm kẻ viễn chinh và nhận được ẩn danh một chiếc rương gỗ thơm ngát. Bên trong là các viên đá quý rực rỡ sắc màu và những loại gia vị phương Đông, tỏa ra hương thơm ngào ngạt như một khu vườn. Trong giấc mơ khác, ông vẫn khỏe mạnh, tràn đầy sinh lực, đi săn trên đảo Vivara. Những con chó săn của ông đuổi được một gia đình thỏ, nhưng không làm chúng bị thương. Giữa bầy thỏ ấy, có một chú thỏ con xinh đẹp như thiên thần, trên bộ lông đen tuyền của nó ánh một tia vàng lấp lánh. Ông cũng mơ thấy trong căn phòng của mình mọc lên một cây cam đắng thần kỳ, ánh trăng bạc phủ lấp lánh trên tán lá... và còn nhiều hình ảnh huyền diệu khác.”
“Cha cười nhạt mỉa mai khi nghe ông ấy kể những câu chuyện đó, vì cha biết quá rõ tất tật chỉ là những thứ hoang đường. Ông ấy muốn cha tin rằng, từ khi mù, ông có những giấc mơ kỳ diệu, rực rỡ hơn cả thực tại, rằng mỗi lần đi ngủ đều như bước vào một bữa tiệc xa hoa, một cuộc phiêu lưu đầy chất tiểu thuyết... nói cách khác, một cuộc đời thứ hai. Nhưng cha hiểu ông ấy quá rõ để bị lừa bởi những lời khoác lác ấy. Cha nhận ra ngay dấu vết quen thuộc của lòng tự tôn và phô trương. Rõ ràng, ông chỉ bịa ra tất cả để cha tin, để che giấu thực tế khốn khổ của tuổi già, không muốn ta coi ông như một ông lão đáng thương và tầm thường. Sự thật là, với ông, ngay cả giấc mơ cũng không còn là niềm an ủi. Như bao người già khác khi sức tàn lực kiệt, ông mắc chứng mất ngủ kinh niên, kèm theo những thói quen kỳ quặc, những cơn cuồng loạn và ám ảnh vô nghĩa, ngày đêm giày vò ông. Những điều đó ở Procida ai cũng biết. Nhưng ông không bao giờ thừa nhận với cha: trước hết là vì lòng tự ái; và sau đó, vì ông đoán rằng, nếu ông quen phàn nàn và than vãn, cha sẽ sớm rời bỏ ông ấy. Cha vốn là kiểu người như vậy, cha không có cái bản năng của một “nữ tu bác ái”. Ngay cả mẹ cha cũng thường trách: “Con là loại người mà Kinh Phúc Âm nói đến: nếu một người bạn xin bánh, con sẽ đưa cho họ hòn đá.”
“Giữa tất cả những lời khoe khoang của ông ấy, sự thật là giấc mơ đẹp nhất đời ông chỉ đơn giản là được có cha bên cạnh... không khó để nhận ra. Còn cha, dù đôi lúc cũng muốn thay đổi cho bớt nhàm chán, nhưng trên hòn đảo Procida này, cha chẳng có mấy lựa chọn để tiêu khiển. Cha không có bạn bè nào khác, chẳng có chỗ nào để đi, và hơn thế nữa, chẳng bao giờ có một xu dính túi. Thực ra, trước khi để cha thừa kế, ông nội con chưa bao giờ đưa cho cha một đồng nào, và cha cũng chẳng xin. Thay vào đó, cha thường hỏi vay Amalfitano, nhưng ông ấy lúc nào cũng cho rất miễn cưỡng, chỉ một ít vừa đủ để mua thuốc lá. Ông ấy sợ nếu có tiền, cha sẽ bỏ trốn khỏi hòn đảo này.”
“Thế nên, dù muốn hay không, ngày nào cha cũng quay lại đây.”
“Đôi lúc ông ấy nói với cha: “Thử nghĩ xem, trước đây tôi đã từng thấy bao cảnh sắc, bao con người... tôi có thể tạo ra cả một quốc gia chỉ bằng những người tôi đã gặp. Vậy mà, người bạn thân thiết nhất của đời tôi, chính là cậu, tôi lại chỉ gặp khi đã mù. Để nói rằng tôi đã biết hết vẻ đẹp của cuộc đời, chỉ cần nhìn thấy một người duy nhất là đủ... chính cậu. Vậy mà chính cậu lại là người mà tôi không thể nhìn thấy. Giờ đây, khi nghĩ đến cái chết, đến việc rời bỏ thế gian này và rời xa hòn đảo Procida xinh đẹp, nơi tôi đã tìm thấy mọi hạnh phúc và bình yên, tôi chỉ còn một niềm ủi an... Có những người tin rằng khi chết đi, linh hồn có thể nhìn thấy mọi thứ. Ai dám khẳng định điều đó là không đúng? Và nếu điều đó là sự thật, sau khi chết, tôi sẽ được nhìn thấy cậu. Điều đó giúp tôi không còn sợ cái chết nữa. Cậu nghĩ sao?” Cha đáp lại ông ấy: “Cứ hy vọng, cứ hy vọng đi, Amalfi,”... đó là cách cha thường gọi ông ấy... “nếu người chết thực sự có thể nhìn thấy, vậy thì ông có thể yên lòng mà chết. Chỉ để nhìn thấy tôi thôi cũng đã đáng rồi. Nhưng tiếc là thực tế lại không như vậy... ông có muốn biết sự khác biệt giữa một người mù như ông và một người chết không?” “Khác thế nào cơ? Nói tôi nghe xem nào.” “Một người mù như ông vẫn còn đôi mắt, nhưng không thể nhìn thấy; còn một người chết thì chẳng có thị giác, cũng chẳng còn đôi mắt. Hãy nhớ điều này, Amalfi... ông chưa bao giờ nhìn thấy tôi, và cũng sẽ không bao giờ thấy, mãi mãi.”
“Ông ấy thường xuyên hỏi cha về diện mạo của cha... khuôn mặt, đôi mắt, và liệu cha có những vệt màu trong mống mắt hay vòng sáng quanh đồng tử không. Nhưng cha không muốn dễ dàng thỏa mãn sự tò mò của ông ấy, nên mỗi lần lại bịa ra một câu chuyện khác. Có lần cha bảo mình có đôi mắt đỏ rực như mắt hổ; lần khác, cha nói một mắt cha màu xanh còn mắt kia màu đen. Hoặc cha nói rằng trên má cha có một vết sẹo, rồi ngay lập tức căng cơ mặt để khi ông ấy chạm vào má cha rồi kiểm chứng, ông ấy sẽ lần thấy một hõm sâu trên đó, đến mức ông ấy tin sái cổ lời cha nói.”
“Rồi ông ấy nói với cha: “Nhưng nghĩ lại, có lẽ tốt hơn là tôi không nên nhìn thấy cậu khi tôi đã chết. Tôi có thể trông đợi được gì ngoài nỗi cay đắng, khi phải chứng kiến cậu kết bạn với những người khác và ở bên họ, như trước đây cậu từng ở bên tôi? Tôi sẽ nhìn thấy cậu cùng bạn bè mới, có lẽ ngay trên chính hòn đảo này, nơi mà tình bạn của chúng ta đã khắc sâu vào đá, hòa lẫn trong không khí!” “À, chuyện đó thì ông có thể hoàn toàn yên tâm,” cha trả lời. “Bạn bè của người chết thì thuộc về thế giới bên kia. Còn tôi, tôi đang SỐNG, và tôi sẽ tìm kiếm bạn đồng hành giữa những người còn sống. Tất nhiên, tôi sẽ có nhiều việc thú vị hơn để làm trong đời, thay vì ngồi chăm sóc hoa cúc trên mộ người đã khuất!” Ông ấy cố không để lộ nỗi đau mà câu nói của cha gây ra, nhưng cha vẫn nhận ra khuôn mặt ông tái nhợt, và trong thoáng chốc, những nét già nua, mệt mỏi hằn rõ. Với ông ấy, nỗi đau này còn khắc nghiệt hơn với bất kỳ ai, bởi suốt phần lớn cuộc đời mình, ông chưa từng biết đến nó. Trước đây, cuộc sống của ông chỉ toàn niềm vui và những trò tiêu khiển vô tư lự. Ông ấy chưa từng hiểu rằng người ta có thể chịu đựng đau khổ vì ai đó khác. Vậy đấy, chính cha đã dạy ông ấy bài học đó!”
“Điều giày vò ông ấy nhất là nỗi sợ rằng một ngày nào đó, vì mất kiên nhẫn, cha sẽ đi khỏi Procida. Chỉ cần cha đến muộn hơn thường lệ một chút, ông ấy lập tức nghi ngờ rằng cha đã âm thầm bỏ đi và thậm chí đã cách rất xa hòn đảo. Thế nhưng, suốt hai năm cuối đời ông ấy, cha chưa từng rời Procida lấy một lần. Cho đến một đêm, khi cha đang ngủ, như mọi khi, ở nhà ông nội của con, ông ấy đã ra đi đột ngột, ngay tại đây, đơn độc, không kịp nói lời tạm biệt. Sáng hôm sau, mọi thứ với cha trở nên thật xa lạ.”
“Lúc đó, cha cố ép mình tin rằng ông chỉ ngất đi, và thậm chí còn trút hết lên bác sĩ, gào lên rằng ông ta chỉ là một gã bác sĩ quê vô dụng, một kẻ ngốc, nên mới dám nói rằng không còn cách nào cứu chữa! Nghĩa vụ của ông ta là phải tìm ra cách chữa trị ngay lập tức! Một loại thuốc, một mũi tiêm, bất cứ thứ gì! Đó là trách nhiệm của ông ta, và cha ra lệnh! Cha khăng khăng yêu cầu ông ta phải làm ông ấy lập tức tỉnh lại. Cha hoàn toàn mất kiểm soát. Rồi khi bác sĩ đi khỏi, để cha một mình đối diện với thi thể ấy, cảm giác như thần kinh cha bị giáng một đòn nặng nề... khi đó, cha vẫn chỉ là một đứa trẻ... và cha bật khóc nức nở. Nhưng chính việc khóc ấy lại khiến cha thêm phẫn nộ.Cha chửi mắng ông ấy, gọi ông là kẻ hèn nhát, gã ngốc, đồ đáng ghét, vì đã chết mà không để lại một lời từ biệt. Điều đó với cha dường không thể tha thứ. Cha không hiểu tại sao lời từ biệt ấy lại quan trọng đến vậy đối với cha, nhưng nó giống như một nỗi mất mát không thể bù đắp. Cha cũng tức giận khi nghĩ đến tất tật những lần trước đây, chỉ vì tính thiếu kiên nhẫn hay để tỏ ra kiêu hãnh, cha đã cố ý bỏ ông ấy lại một mình, khiến ông phải chờ đợi trong vô vọng suốt cả ngày, dù thực ra cha chẳng bận. Nhưng giờ nghĩ lại, cha tự nhủ rằng cha đã làm đúng: không nên nuông chiều người khác quá mức; đôi khi cũng phải để họ phát bực lên, nếu không thì mọi thứ sẽ sụp đổ. Cuộc sống sẽ trở nên nặng nề, giống như một con thuyền chất đầy đá ballast, kéo cả hai chìm xuống đáy biển rồi nghẹt thở... Song vào khoảnh khắc đó, thần kinh cha không còn nghe theo lý trí nữa: tất cả những giờ phút, những ngày cha từng phung phí để lang thang đâu đó, để ông ấy chờ đợi trong sự lo lắng và buồn bã, bỗng hiện ra như kho báu vô giá mà cha phí hoài một cách ngu ngốc và không thể tha thứ.”
(Đến đoạn này trong dòng hồi tưởng, cha tôi ngước nhìn bức chân dung của Amalfitano với ánh mắt chất chứa tình thân dịu dàng; nhưng ngay sau đó, ông bật cười, một tiếng cười bất kính, khoa trương, như muốn chế giễu người đã khuất.)
“Khi ấy, cha cảm thấy không ai, không điều gì trên thế gian này xứng đáng để dành thời gian hơn Romeo Amalfitano. Cha hoàn toàn tin chắc rằng mình sẽ không bao giờ gặp được một con người nào cuốn hút, tuyệt diệu đến thế... một con người đẹp đến mê hồn! Đúng vậy, dường như không thể phủ nhận, không thể nghi ngờ rằng chỉ có ông ấy mới hội tụ tất cả những nét đẹp thực sự. Nếu ngay lúc ấy, người ta đưa Nữ hoàng Sheba, thần Mars, hay thậm chí cả nữ thần Venus đến trước mặt cha, cha cũng sẽ xem họ chỉ là những hình mẫu tầm thường, những vẻ đẹp như bước ra từ quán cà phê hay bưu thiếp, khi so sánh với ông ấy! Còn ai có thể sở hữu nụ cười vừa phảng phất vẻ sốt nhẹ, vừa tinh quái mà lại đầy duyên dáng như ông ấy? Một dáng người cao lớn nhưng lại có đôi bàn tay nhỏ nhắn, luôn vung vẩy theo từng câu nói, đặc biệt là khi ông đang thao thao những chuyện chẳng đâu vào đâu. Và đôi mắt ấy, đôi mắt làm nên sức hút đáng sợ nhất của ông ấy, vì chúng như mang theo nỗi đau, ánh nhìn lạc lõng, vô hồn, không hề có sự phán xét, hoàn toàn khác xa ánh mắt của con người bình thường.”
“Và phong thái của ông ấy! Vừa bất lực, bối rối, vừa đầy mặc cảm... vì ông ấy luôn cay đắng về sự mù lòa của mình... nhưng đồng thời lại toát lên vẻ cao quý không thể chối cãi! Ngay cả sự duyên dáng của những vũ công đẹp nhất hay các thiên thần cũng trở nên tầm thường so với ông!”
“Thậm chí, những lọn tóc xám xoăn nhẹ buông sau tai như bờm sư tử, hay cái cách ăn mặc quê mùa với chiếc quần bó trông buồn cười của ông, giờ đây trong mắt cha cũng hóa biểu tượng của sự tinh tế tột đỉnh! Chính dáng vẻ thanh lịch và phong cách ấy lại khiến cha thêm tuyệt vọng! Đồ mù lòa ngu xuẩn! Nếu địa ngục thực sự tồn tại, tôi hy vọng ông ấy bị đày đến đó!”
“Chỉ nghĩ đến sự hiện diện của ông, hôm qua còn vững chắcmà bây giờ đã hoàn toàn tan biến, điều đó khiến cha giận đến mức quỵ xuống sàn, khóc nức nở và cắn vào khung sắt giường của ông ấy. Cha hét lên, “Amalfi! Amalfi!” và các ký ức về những lần cha đối xử tệ bạc với ông ấy ùa về. Cha hối hận, nhưng đồng thời cũng không nhịn được mà bật cười lúc nhớ lại các trò nghịch ngợm của mình, chẳng hạn như những lần ông đang hào hứng kể chuyện, với những cử chỉ phóng khoáng đầy say mê, còn cha thì bất đồ lặng lẽ bước đi, trốn vào một góc, giả vờ biến mất như sương mù. Sau một lúc, ông ấy nhận ra cha không còn đó, liền bối rối gọi tên cha, lần mò qua từng căn phòng, cây gậy gõ vào tường tìm kiếm. Còn lũ chó, bị cha ra hiệu bằng những cái gật đầu, thay vì giúp ông ấy, lại làm náo loạn cả lên, như thể chúng cũng đang cùng cha đùa cợt ông. Có lẽ, sau này chúng cũng cảm thấy hối hận, và điều đó có thể giải thích cho cái chết bi thảm của chúng, nếu đúng là chúng đã chọn cách tự kết liễu mình, như người ta đồn.”
“Và giờ đây, chính ông ấy lại để cha gọi mãi mà không đáp. Nếu ông ấy có thể tỉnh dậy, chỉ một tiếng thôi, ông sẽ nghe cha nói những điều tuyệt vời, tất cả đều là sự thật, không chút giả dối, và ông ấy sẽ có lý do để tự hào! Nhưng bây giờ, ông ấy sẽ không bao giờ còn nghe hay nhìn thấy ai nữa, cho đến tận vĩnh hằng. Cha biết điều đó rõ lắm. Song dù vậy, bằng mọi giá, cha phải để lại một dấu ấn, một minh chứng, một lời cam kết để cứu lấy tình bạn của cha khỏi sự hủy diệt của cái chết.”
“Vậy nên, cha đặt bàn tay mình lên bàn tay lạnh cứng của ông ấy, một bàn tay đeo đầy những chiếc nhẫn lộng lẫy như tay một vị sultan, và cha thề rằng, dù sau này cha có bao nhiêu người bạn khác đi nữa, cha cũng sẽ không bao giờ để họ đặt chân đến Procida! Trên hòn đảo này, nơi từng chỉ có tình bạn của bọn cha mang lại sự sống, ký ức về ông sẽ mãi là người bạn duy nhất của cha. Cha đã thề với ông ấy như vậy. Thế nên, tại Procida này, nơi mà cái tên Wilhelm và Romeo đã được khắc sâu vào từng phiến đá, từng ngọn gió, cha sẽ không bao giờ mang một người bạn nào khác đến đây. Nếu làm thế, cha đang tự biến mình thành kẻ phản bội, chà đạp lên lời thề của chính mình và sẽ kết án tình bạn của bọn cha bằng cái chết!”
Giấc mơ của Amalfitano
Sau lời tuyên bố đầy trang trọng, cha tôi nhìn bức chân dung của Amalfitano với ánh mắt đầy ác ý, như muốn nói: “Ông có hài lòng không, hỡi kẻ đã khuất, với lời tri ân dành cho sự cố chấp ngông cuồng của ông?”
Rồi ông thở dài.
Và thế là, trên hòn đảo này, cha tôi luôn có Romeo bên cạnh, một người bạn đồng hành trung thành, giống như ở những nơi xa hòn đảo, ông luôn có Dao Găm Algeria bên mình! Họ chia sẻ tình yêu của ông, những bí mật của ông; và cả hai, đối với tôi, vẫn luôn là những con người xa lạ, không thể với tới. Tôi thầm nghĩ, tuổi thơ luôn là nguồn gốc của định mệnh cay đắng trong đời tôi. Cái chết của Romeo và sự trưởng thành của Dao Găm Algeria đã bỏ lại tuổi thơ tôi phía sau, bị gạt ra ngoài, xa khỏi những vương quốc đầy mê hoặc của cha tôi.
Tôi im lặng một lúc, rồi lên tiếng:
“Hai năm liền, cha không rời Procida! Dù chỉ một lần!’ (Trong lòng tôi tự nghĩ: “Khoảng thời gian hạnh phúc ấy! À, vì khi đó tôi vẫn chưa ra đời chăng?”)
“Không lần nào!” cha tôi xác nhận. “Con nghĩ sao? Đó là một trường hợp hiếm hoi! Mà, thực ra, không chỉ vì hoàn cảnh. Đúng hơn là vì Amalfi. Ông ấy như một phù thủy, biết cách giữ chân cha ở lại Procida. Và mặt khác, cha nghĩ, “Ông ấy già rồi, chẳng mấy chốc sẽ qua đời, cha có thể dành cho ông ấy một chút thời gian.” Nhất là khi điều đó còn có lợi cho cha! Ít nhất, nó giúp cha thừa kế được ngôi nhà tuyệt đẹp này!” Cha tôi cười phá lên, một cách tàn nhẫn, như thể đang thách thức Amalfitano. Nhưng rồi, có lẽ hối hận, ông nhìn bức chân dung bằng một nụ cười ngây thơ, hồn nhiên như một cậu bé. Và, để mặc mình cuốn vào dòng ký ức, ông tiếp tục câu chuyện:
“Khi tuyên bố để lại ngôi nhà này cho cha, ông ấy đã soạn một bài diễn văn trang trọng, hệt như trong một cuốn tiểu thuyết vĩ đại: “Palazzo này,” ông ấy nói, “là thứ quý giá nhất mà tôi sở hữu trên đời, và vì thế, tôi để lại nó cho cậu. Tôi cũng để lại cho cậu một khoản tiền trong ngân hàng ở Naples, và khi cộng thêm vào tài sản của cha cậu, cậu gần như sẽ trở thành một quý ông. Nghĩ đến việc cậu không phải lao động vất vả khiến tôi mãn nguyện, bởi lao động không dành cho quý ông đích thực mà chỉ dành cho lũ ngốc. Một sự nỗ lực đôi khi mang lại niềm vui, miễn đấy không phải là công việc. Một nỗ lực vô tư có thể vừa hữu ích, vừa dễ chịu, nhưng lao động thì vô nghĩa và bóp nát trí tưởng tượng. Dù sao, nếu vì lý do nào mà số tiền này không đủ và cậu buộc phải làm việc, tôi khuyên cậu nên chọn một nghề nào đó giúp nuôi dưỡng trí tưởng tượng nhiều nhất có thể, chẳng hạn như làm kẻ viễn chinh. Song, tốt hơn vẫn nên sống mà không cần nghề... có khi chỉ cần bằng lòng với một mẩu bánh mì không, miễn là nó không phải do cậu tự kiếm ra.”
“Ngôi nhà mà tôi để lại cho cậu từng là cung điện của những huyền thoại, là thiên đường giữa trần thế. Ngày ta buộc phải rời xa nó, ý nghĩ rằng nơi đây trở thành nhà của cậu chính là niềm an ủi lớn với ta. Ta cũng chấp nhận một ý nghĩ khác... rằng cậu sẽ không sống ở đây một mình, mà sẽ có một người vợ bên cạnh. Nghe có vẻ lạ, nhưng cậu là kiểu cần có một người vợ đang chờ ở đâu đó, nếu không, trái tim cậu sẽ chao đảo, lạc lối. Điều đó cũng tốt thôi, tôi không chống lại số phận hay trí tưởng tượng của cậu... hãy đưa vợ con đến đây, về ngôi nhà này. May thay, tôi sẽ chẳng còn ở đây nữa, tôi thà đối mặt với đao phủ trước lúc trút hơi thở cuối cùng còn hơn phải đối diện với một người đàn bà. Với đôi mắt mù, chỉ cần nghĩ đến việc có một người đàn bà trước mặt cũng đủ khiến cái chết trở nên sai lầm... tôi sẽ không được chết như một người hấp hối, mà gục xuống như kẻ bị đốn hạ! Thực ra, có lẽ tôi có thể tha thứ tất tật cho đồng loại, ít nhất là vào giây phút lâm chung, nhưng sự xấu xí thì không! Bất kỳ thứ gì xấu xí, khi nghĩ đến, cũng trở nên dễ chịu hơn nếu đem so với sự xấu xí của đàn bà. Lạy Chúa, đàn bà mới xấu làm sao! Và có nơi nào trên thế gian lại tồn tại giống loài xấu đau đớn đến thế? Đặc biệt xấu? Cái xấu mà dù không nhìn thấy, không chạm đến, chỉ cần biết nó tồn tại cũng đủ khiến tôi tởm lợm như vậy?”
“Tốt nhất là quên đi. Thế là đủ... cậu, Wilhelm của tôi, rồi sẽ cưới vợ, sẽ đưa vợ về đây, sẽ xây dựng một gia đình... đó là số phận đã định sẵn cho cậu. Còn tôi, như tôi đã nói, tôi không phản đối. Đó là chuyện của cậu, không liên quan đến tôi. Tôi chỉ mong một điều duy nhất... rằng ít nhất, trong ngôi nhà này và, trên hòn đảo Procida này, cậu vẫn giữ lại cho tôi một chốn của tình bạn!”
“Nhưng thôi đủ rồi... đây là nhà của cậu và tôi biết chắc rằng cậu sẽ luôn quay về, bởi con người, cuối cùng vẫn sẽ trở lại nơi gọi là nhà. Và với cậu, hòn đảo này cũng là một khu vườn huyền diệu.”
“Cậu sẽ quay về, đúng thế. Nhưng tôi cũng biết rằng cậu sẽ chẳng nán lại lâu đâu. Về điều này, hỡi cậu chủ nhỏ bé của tôi, tôi không nuôi ảo tưởng. Những kẻ như cậu, trong huyết quản mang hai dòng máu, sẽ không bao giờ có được sự bình yên hay hạnh phúc trọn vẹn... lúc ở đây thì cậu lại muốn đi nơi khác, vừa trở về thì cậu đã khao khát bỏ đi. Cậu sẽ phiêu bạt từ vùng đất này sang vùng đất khác, như kẻ vừa thoát khỏi ngục tù, hay như kẻ cứ mãi rượt đuổi một bóng hình; nhưng thực ra, cậu chỉ đang chạy theo những số phận đối nghịch chảy trong huyết quản mình. Máu cậu giống như máu của một sinh vật lai tạp, một con nhân sư hay một nàng tiên cá, vĩnh viễn không thuộc về đâu. Và trên hành trình ấy, cậu sẽ tìm thấy những kẻ hợp với mình giữa bao gương mặt xa lạ trên thế gian. Nhưng rồi, rất nhiều khi, cậu sẽ cô độc. Kẻ lai hiếm khi cảm thấy mãn nguyện giữa các cộng đồng, luôn có một thứ gì đó phủ bóng lên hắn. Nhưng thực ra, chính hắn mới là kẻ tạo ra bóng tối ấy, như tên trộm và kho báu, luôn cài bóng vào nhau.”
“Nhân đây, tôi muốn kể cho cậu nghe giấc mơ tôi thấy đêm qua. Tôi mơ mình là một chàng trai trẻ phong nhã, rực rỡ như ánh bình minh. Tôi sắp trở thành tể tướng vĩ đại, hoặc một bậc quyền quý nào đó. Trên người tôi là một bộ y phục Thổ Nhĩ Kỳ bằng lụa óng ánh, sặc sỡ như những cánh hướng dương, nhưng không, không chỉ là hướng dương! Đẹp hơn thế nhiều! Một sắc màu rực rỡ đến mức chẳng gì trên đời có thể sánh kịp! Trên đầu tôi, một chiếc khăn xếp quấn cao, cài chiếc lông vũ kiêu hãnh; dưới chân tôi, đôi hài mềm mại của vũ công. Tôi vừa đi vừa khe khẽ ngân nga, băng qua những cánh đồng hoa hồng trải dài bất tận, giữa miền châu Á bí ẩn, không một bóng người. Cả cơ thể tôi tràn trề sức sống, tràn trề niềm hạnh phúc ngây ngất, trong miệng như còn vương vị ngọt lịm của thứ gì đó thần diệu. Và xung quanh, thoảng vang những tiếng thở dài. Nhưng điều kỳ lạ của giấc mơ là thế này... tôi không hề ngạc nhiên trước những tiếng thở dài ấy. Trong tâm trí tôi, tôi đã có lời giải thích rõ ràng, hợp lý cho chúng. Và lạ thay, ngay cả khi đã tỉnh giấc, tôi vẫn còn nhớ nó. Một lý lẽ không chỉ hợp logic mà còn mang dáng dấp của một tư tưởng triết học sâu sắc... Không hiểu sao, tôi luôn có những giấc mơ phi thường như thế!... Nghe này, xem thử ý này có hay không:”
“Vậy là dường như mỗi linh hồn trên đời đều có một trong hai số phận... có kẻ sinh ra làm ong, kẻ sinh ra làm hoa hồng. Đàn ong, dưới sự dẫn dắt của ong chúa, bay đi khắp nơi, hút mật từ muôn ngàn bông hồng, rồi mang về tổ, về những căn phòng nhỏ của chúng. Còn hoa hồng? Hoa hồng tự mang trong mình mật ngọt... mật hoa hồng, thứ mật tinh túy nhất, đáng khao khát nhất! Điều ngọt ngào mà nó hằng ao ước đã có sẵn trong chính nó, chẳng cần tìm ở nơi khác. Nhưng đôi khi, những đóa hồng, những tạo vật thần thánh ấy, lại thở dài trong cô độc! Những đóa hồng ngây thơ không hiểu được chính điều kỳ diệu của mình.”
““Bông hồng đầu tiên trong muôn loài chính là Thượng Đế.””
““Giữa hai số phận, hoa hồng và ong, tôi cho rằng kẻ may mắn hơn chính là ong. Và như thế, ong chúa là kẻ hạnh phúc nhất trong muôn loài!
““Còn tôi, tôi sinh ra là ong chúa.””
““Cậu thì sao, Wilhelm? Theo tôi, số phận của cậu vừa ngọt ngào nhất... lại cũng cay đắng nhất.””
““Bởi vì cậu vừa là ong, vừa là hoa hồng. ”””
Giấc mơ của Arturo
Giờ đây, khi nhớ lại những cuộc trò chuyện với cha và hồi tưởng về những khung cảnh của một thời xa xăm, tôi bỗng thấy mọi thứ khoác lên mình một ý khác hẳn. Và tôi nhớ đến câu chuyện ngụ ngôn về người thợ làm mũ, kẻ lúc nào cũng khóc cười chẳng đúng lúc, bởi hắn chỉ được phép nhìn thấy thực tại qua hình ảnh phản chiếu của tấm gương ma thuật.
Ngày ấy, tôi chẳng thể hiểu hết những lời cha nói - dù chúng có vẻ hài hước, bi thương hay bông lơn - ngoài một điều duy nhất mà tôi tin tuyệt đối: rằng cha là hiện thân của sự hoàn hảo và hạnh phúc hoàn toàn! Có lẽ, phải thú thực rằng chính cha cũng nuôi dưỡng niềm tin trẻ dại ấy của tôi khi ông luôn thể hiện mình dưới ánh sáng rạng rỡ nhất. Song ngay cả nếu (giả sử một điều không tưởng) cha có tự ý bôi nhọ mình, thốt ra những lời thú nhận đen tối nhất, hay tự nhận mình là một kẻ đốn mạt đi nữa thì với tôi, mọi thứ chẳng có gì thay đổi. Những lời cha nói, đối với tôi, không gắn với bất cứ lý lẽ hay giá trị trần tục nào. Tôi nghe chúng như người ta nghe một buổi thánh lễ: nơi ấy bi kịch chỉ là biểu tượng và chân lý tối hậu được ngợi ca chính là niềm hạnh phúc vĩnh hằng. Ý nghĩa sau cùng ấy là một điều huyền nhiệm, chỉ những kẻ được ban phước lành mới có thể hiểu, tìm kiếm lời giải thích bằng lý trí chỉ là vô ích mà thôi.
Như một kẻ mộ đạo, tôi không mong cha giảng giải điều gì mà chỉ khao khát được đặt trọn niềm tin nơi cha. Tôi chỉ mong một ngày nào đó, lòng tin của tôi sẽ được đáp đền; và thiên đường mà tôi khát khao vẫn dường xa vời đến mức (tôi không hề nói quá) ngay cả trong những giấc mơ, tôi cũng chẳng thể nào chạm tới.
Thường thì, nhất là những khi cha vắng nhà, tôi hay mơ thấy cha. Nhưng chưa bao giờ đó là những giấc mơ có thể, theo cách nào đó, bù đắp cho hiện thực, hay ít nhất cũng đánh lừa tôi bằng các chiến thắng giả tạo. Những giấc mơ ấy luôn tàn nhẫn, như thể cố tình chế giễu nỗi bất hạnh của tôi, không chút khoan nhượng mà rút lại tất tật lời hứa ban ngày mà tôi tin là thật. Và trong những giấc mơ ấy, tôi cảm nhận được nỗi đau một cách sắc lạnh, rành rọt - một nỗi đau mà, vì còn quá ngây thơ, tôi vẫn chưa thực sự trải qua trong đời.
Có một giấc mơ đã in hằn trong ký ức tôi:
Cha và tôi đang đi trên một phố hoang vắng. Cha cao lớn lạ thường, toàn thân bọc trong bộ giáp sáng lấp lánh. Còn tôi, chỉ là một đứa bé nhỏ thó, cao đến hông ông, một tân binh lóng ngóng với những dải vải quấn quanh bắp chân cùng bộ quân phục xám xanh rộng thùng thình.
Cha sải những bước dài còn tôi tất tả chạy theo. Không buồn nhìn tôi, ông ra lệnh, giọng cộc lốc:
“Ra mua bao thuốc.”
Được cha sai bảo, tôi phẩn khởi tự hào. Tôi chạy vội đến quầy thuốc lá và trước khi đưa gói thuốc cho ông, tôi lén đặt một nụ hôn lên nó.
Nhưng dù không nhìn thấy tôi làm vậy, chỉ vừa chạm vào gói thuốc, quét mắt một lượt, cha lập tức nhận ra điều gì đó khiến ông khinh bỉ. Và với giọng lạnh lùng như một nhát roi quất thẳng, ông quát: “Thằng ranh ủy mị!”
Những sự kiện cuối
Thế là tuổi thơ của Arturo trôi qua. Khi tôi sắp tròn mười bốn, Immacolatella - lúc ấy mới tám tuổi - đã có bạn tình. Đó là một con chó đen, lông xoăn, đôi mắt đắm đuối, sống khá xa về phía Vivara; mỗi chiều nó đều lặn lội đến đây, như một vị hôn phu trung thành, để thăm Immacolatella. Nó nắm rõ thói quen của nhà tôi và luôn đến đúng giờ cơm tối để chắc chắn sẽ gặp được bạn nó. Nếu thấy cửa sổ bếp vẫn còn tối, nó kiên nhẫn chờ; còn nếu ánh đèn đã sáng, nó sẽ sủa vang từ xa để báo hiệu, rồi cào cửa đòi vào. Vừa bước vào, nó sủa dõng dạc, vang rền như kèn hiệu của sứ thần hoàng gia, rồi nó lao quanh bếp ba, bốn vòng như một đấu sĩ vừa bước lên võ đài. Nó cư xử đầy khí khái và phong nhã: trong suốt bữa ăn, nó chỉ ngồi đó, đuôi phe phẩy, chẳng hề xin xỏ, như thể muốn chứng tỏ rằng nó đến đây không phải vì đồ ăn mà vì tình cảm. Nếu tôi quẳng cho nó một khúc xương, nó cũng chẳng vội lao đến, mà kiên nhẫn đợi đến khi Immacolatella đớp lấy trước. Hẳn nó mang trong mình dòng máu của một giống chó săn thượng hạng: lúc nào cũng ngẩng cao đầu, dáng đi hiên ngang và khí chất táo bạo.
Immacolatella thì hoàn toàn hài lòng. Tôi để Immacolatella ra ngoài chơi với nó dưới bầu trời đầy sao, rồi lặng lẽ đứng sang một bên. Nhưng chỉ một lát sau, Immacolatella bỏ nó lại, quay về bên tôi, rúc đầu vào tay tôi, dịu dàng liếm lên những ngón tay tôi, như muốn nói: “Cậu mới là cả thế giới của tôi.”
Vào mùa sinh sản, Immacolatella mang thai lần đầu. Nhưng có lẽ nó đã quá già, hoặc vốn đã mang khiếm khuyết nào đó: nó chết trong cơn vượt cạn.
Nó để lại năm chú cún con: ba con trắng, hai con đen. Tôi hy vọng có thể cứu sống chúng, liền sai Costante đi khắp đảo tìm một con chó mẹ có thể cho chúng bú. Mãi đến nhiều tiếng sau, anh ta mới trở về, dắt theo một con chó cái gầy gò với bộ lông hung đỏ như cáo. Nhưng có lẽ đã quá muộn, đám cún con không chịu bú. Tôi cũng nghĩ đến việc cho chúng uống sữa dê, như Silvestro từng làm với tôi, nhưng tôi không kịp thử. Chúng quá yếu, sinh non và chẳng bao lâu cũng chết. Thế là tôi chôn chúng cùng mẹ chũng dưới gốc cây carob trong vườn.
Tôi quyết định không nuôi thêm một con chó nào. Tôi thà ở một mình, giữ lấy ký ức về Immacolatella, còn hơn để một con chó khác chiếm chỗ của nó trong tim tôi. Gặp lại con chó đen ngày trước khiến tôi thấy ghê tởm. Nó vẫn thong dong trên đảo, hồn nhiên như thể chưa từng có một Immacolatella nào trong đời. Mỗi khi nó mon men đến gần, quấn quýt, rủ rê tôi vui đùa như ngày trước, tôi chỉ lạnh lùng xua đuổi.
Một thời gian sau, khi cha trở về Procida và cất câu hỏi quen thuộc - “Có tin gì mới không?” - tôi chỉ quay mặt đi, im bặt. Tôi không thể thốt lên rằng: “Immacolatella đã chết.”
Costante là người nói với cha. Cha buồn khi nghe tin ấy bởi ông yêu động vật và luôn dành một tình cảm đặc biệt cho Immacolatella.
Lần đó, cha chỉ ở lại Procida vỏn vẹn một buổi chiều và một đêm: ông trở về chỉ để lấy vài giấy tờ ở Tòa thị chính. Sau đó, ông lại đi, biệt tăm suốt một tháng, rồi bất ngờ xuất hiện trở lại, cũng chỉ ở đúng một ngày, vừa đủ để nhận một khoản tiền từ người tá điền, rồi lại lên đường. Nhưng lần này, trước khi từ biệt, lần đầu tiên trong đời, ông nói cho tôi biết nơi ông sẽ đến và ngày ông trở về.
Cha bảo rằng suốt mấy tháng qua, ông đã đính hôn với một phụ nữ ở Naples và lần này ông trở lại thành phố là để kết hôn. Lễ cưới được ấn định vào thứ Năm tuần đó, và ngay sau khi thành hôn, ông sẽ đưa vợ mới về Procida.
Ông dặn tôi phải có mặt ở bến cảng chờ đón họ vào thứ Năm tới; họ sẽ cập bến trên chuyến tàu hơi nước lúc ba giờ chiều.
Thanh Nghi dịch
sự lớn lên của các cậu thiếu niên
cái giai đoạn đối với nhiều người giống như một vết thương vĩnh viễn không bao giờ lên sẹo