Hermann Broch: Cái chết của Virgil (tiếp nữa)
Đúng là áo khoác thì kém quan trọng hơn so với cái hòm đựng bản thảo, mà hai người khuân vác xách, theo lệnh ông đi ngay bên cạnh cáng; tuy nhiên, một phần nhỏ trong sự cảnh giác mà ông cảm thấy mình có bổn phận phải có, và cho nó ông tự bắt mình với đầy đủ ý thức chiến đấu chống lại tất tật những cơn mệt mỏi cứ chăm chăm tìm cách khiến các giác quan của ông ngủ thiếp đi, cũng có thể được dành cho cái áo, và ông tự hỏi chàng thanh niên kia, đối với ông dường quen thuộc và biết rõ một cách lạ thường, có thể từ đâu hiện ra, trong khi ông đã không hề để ý thấy cậu ta trong suốt chuyến đi. Đấy là một cậu chàng, không xinh xẻo quá mức, có vẻ nặng nề nông dân, chắc chắn không phải một nô lệ, chắc chắn không phải là một trong những người hầu của ông, và đằng kia, đứng tựa vào hàng lan can, dáng dấp rất trẻ con, cặp mắt sáng trên khuôn mặt sạm nắng, chờ đợi, vì khắp nơi có các chen lấn do đám đông gây ra, thỉnh thoảng lại tung một ánh mắt lén lút về phía cái kiệu, ngoảnh mặt đi với vẻ dịu dàng, vui tươi và rụt rè, ngay lúc cảm thấy mình bị quan sát. Vở hài kịch của các con mắt? Hài kịch tình yêu? Ông, một kẻ ốm, ông có sẽ bị, thêm một lần nữa, lôi kéo vào vở hài kịch đau đớn của các quyến rũ ngớ ngẩn của cuộc đời; ông, một người đang phải nằm thượt ra, ông có sẽ, thêm một lần nữa, bị lôi kéo vào vở hài kịch của những kẻ khỏe khoắn? Ôi! trong tư thế đứng thẳng của mình, bọn họ không biết cái chết được dệt trong mắt và trên khuôn mặt bọn họ tới mức nào, bọn họ từ chối biết điều đó, bọn họ chỉ muốn tiếp tục đóng vở hài kịch những thu hút và những ôm ấp của bọn họ, những cơ sở cho các hôn hít của bọn họ; bọn họ dõi, với một sự quyến rũ ngớ ngẩn, ánh mắt của mình sâu vào ánh mắt và không biết rằng nằm xuống cho tình yêu thì cũng là nằm xuống để chết: nhưng một người phải nằm thượt ra hẳn thì biết điều này; ông gần như thấy xấu hổ vì xưa kia - lúc nào? từ cái hồi chẳng còn nhớ nổi, hay chỉ mới từ vài tháng? - chính ông cũng từng đứng thẳng và dự phần vào vở hài kịch đầy quyến rũ của cuộc đời, đầy ngập bóng tối và sự mù, và chính sự khinh bỉ mà đám tù nhân trong vở kịch ấy dồn lên ông, vì kể từ nay ông bị loại bỏ khỏi đó và nằm đờ không trợ giúp, sự khinh bỉ ấy đối với ông gần như là một lời ngợi ca. Bởi một sự thu hút dịu dàng thì đâu phải sự thật của con mắt, không, chỉ nhờ vào các giọt nước mắt của mình thì nó mới có được cái nhìn, chỉ trong nỗi đau đớn thì nó mới trở nên một con mắt nhìn được, chỉ nhờ vào những giọt nước mắt của chính nó thì nó mới đẫm đầy được những giọt nước mắt của thế giới, thì nó mới đẫm đầy được sự thật. Bởi nước mắt là thứ chất lỏng cho sự quên của mọi tồn tại, và chỉ sự thức dậy trong nước mắt thì mới chuyển hóa được cái chết trần thế, nơi đám tù nhân của vở hài kịch ở vào và bị buộc chặt vào, thành một cuộc đời chiêm ngưỡng cái chết, chiêm ngưỡng Toàn Thể. Và chính vì điều đó mà chàng thanh niên - vậy thì cậu ta có những đường nét như thế nào? các đường nét của một quá khứ thách thức ký ức, hay các đường nét của một quá khứ vừa mới? - phải, chính vì điều đó mà chàng thanh niên kia lẽ ra đã phải quay mặt đi và không muốn kéo dài một vở hài kịch, nó, nếu đấy là một trò qua thời gian, không phù hợp vào quãng thời gian này; thật quá mức thiếu ăn nhập khi ánh mắt ấy có thể mỉm cười mà lờ đi chất liệu cái chết từ đó nó được tạo ra, quá không ăn nhập khi ánh mắt ấy vươn lên về phía một người đang nằm, mà con mắt không còn có thể, hỡi ôi, không còn muốn đáp lại nữa, và quá thiếu ăn nhập, sự quyến rũ kia, nét duyên dáng ngớ ngẩn và đau đớn kia ở giữa một địa ngục tiếng ồn và lửa, bão hòa các bản năng mù quáng, một đảo lộn không ngừng của những con người, nơi nhân tính đờ đẫn ra. Ba cái cầu được bắc dẫn từ tàu lên ke, cầu ở đuôi, dành cho hành khách, còn xa mới đủ để tiếp nhận đám đông đột nhiên trở nên sốt ruột; hai cái kia, ngược lại, được dành để bốc dỡ hành lý và hàng hóa, và trong khi đám nô lệ được giao làm việc này chạy trên boong, trên cầu, thành hàng dài, thường cặp thành đôi như lũ chó, với những cái vòng cổ buộc thòng dây xích - đám dân chúng nhiều màu trộn lẫn, ánh mắt bị trật cấp, là con người và thế nhưng chẳng còn gì thuộc con người nữa, chỉ là các sinh thể sống náo động lên và bị đè nén, những hình dáng tơi tả mặc áo sơ mi hay cởi trần, ròng ròng mồ hôi trong ánh sáng cứng rắn của các ngọn đuốc - trong khi bọn họ chạy và rời tàu qua cây cầu đằng mũi, người gần như gập lại thành góc vuông bên dưới gánh nặng những thùng, túi cùng hòm, các tay quản cơ, được cắt đặt mỗi người tại lối vào hai con đường làm bằng thanh lát, huơ bừa phứa cái roi nhỏ của bọn họ quật lên những cơ thể đang diễu qua trước mặt, giáng xuống chẳng chút phân biệt và bằng tất tật các sức lực, với sự tàn nhẫn ngẫu nhiên và gần như không tàn nhẫn của quyền lực không giới hạn, chẳng hề có bất kỳ ý đồ đặc biệt nào, bởi vì những người kia đang lao đi hết cả hơi, thậm chí còn không biết chuyện gì đang xảy đến với mình nữa, tới nỗi không còn co người lại những khi sợi dây da đập xuống, mà ngược lại nhăn nhở chào đón nó. Một người Syria da sạm nhỏ bé, bị đánh trúng ngay lúc lên đến trên boong, thờ ơ và chẳng hề để ý tới đường hằn vạch lên lưng mình, chỉnh lại mớ vòng buộc bằng vải mà anh ta đã chuyển xuống dưới còng cổ, để càng ít phải dùng mấy xương đòn càng tốt và chỉ cười khẩy; anh ta cười khẩy về phía cái kiệu dựng phía bên trên mình: "Xuống chút xem nào, ông vua vĩ đại, xuống chút xem nào, ông hoàn toàn có thể nếm một chút cuộc đời của chúng tôi đấy!" Cái roi lại giương lên thêm một lần, đó là toàn bộ lời đáp; tuy nhiên người đàn ông bé nhỏ, vốn dĩ đã trông đợi sẵn điều này, nhanh chóng nhảy vọt lên: sợi dây xích đột nhiên bị kéo căng ra và cú đòn rít lên đậu xuống vai người xích cùng anh ta đang bị lôi đi phía trước, một người Parthian tóc hung râu rậm, anh ta quay đầu lại gần như tỏ vẻ ngạc nhiên, để lộ ở nửa khuôn mặt mà anh ta bày ra, ở giữa một mạng lưới bợt màu những vết sẹo (chắc hẳn đấy là một tù binh), đỏ ối, vằn máu và không ánh mắt, một con mắt bị vỡ tung, bị giật hoặc bắn ra, không ánh mắt, và mặc cho sự mù, thực sự ngạc nhiên, bởi trước cả khi bị đẩy đi thêm bởi đoàn người với những sợi xích kêu ken két đang dồn về phía trước, sợi dây da, rõ ràng vì nó cứ thế giáng xuống không ngắt quãng, đã lại thêm một lần nữa rít lên trên đầu anh ta và cắt vào tai anh ta thành một vết đẫm máu. Toàn bộ chuyện này chỉ kéo dài trong khoảng thời gian một cú tim đập, và thế nhưng thế thì cũng đủ lâu để ngăn cản trái tim đập; thật xấu hổ làm sao khi nhìn mà không hề có toan tính nhỏ nhất nào nhằm can thiệp, không có khả năng và thậm chí có lẽ ít muốn can thiệp! Thật xấu hổ làm sao khi muốn lưu giữ sự kiện này hoàn toàn giống tất tật các sự kiện khác! Xấu hổ làm sao, một ký ức nơi ngay cả cái đó cũng sẽ được ghi nhận mãi mãi! Vốn không có ký ức, người Syria bé nhỏ đã cười khẩy, không ký ức, như thể chẳng có gì khác ngoài một hiện tại bị tàn phá, bức hại, không tương lai, vậy nên không quá khứ, không có gì đằng sau, vậy nên không có gì ở trước, như thể hai kẻ bị xích kia chưa từng bao giờ là trẻ con, những đứa trẻ con chơi đùa trên những cánh đồng tuổi trẻ, như thể tại tổ quốc của họ, không có các ngọn núi, không có các đồng cỏ, không có các bông hoa và thậm chí không có một dòng suối, thứ lắng nghe và thì thầm vào buổi tối, nơi thung lũng xa xôi - ôi! xấu hổ làm sao khi bị buộc chặt vào những kỷ niệm riêng của mình, khi chăm lo cho chúng và bồi bổ chúng! Ô, các kỷ niệm không thể xóa nhòa, đầy lúa mì lượn sóng, đầy cánh đồng, đầy khu rừng kêu inh ỏi, lao xao, với các vách lạnh mát ngập đầy những khóm cây của tuổi trẻ, sự say của mắt, vào buổi sáng, sự say của trái tim, vào buổi hoàng hôn, thứ màu lục khởi sự run rẩy kia, sự xám xịt vừa run rẩy xong kia, ôi! biết được nguồn gốc và sự quay về, các hào nhoáng của kỷ niệm! Và thế nhưng anh ta bị đánh đập, người thua cuộc, còn kẻ kia thì hét lên sung sướng, kẻ chiến thắng, và chính trong một không gian của đá mà chuyện ấy diễn ra; sự bỏng con mắt, sự bỏng của nỗi mù! Tồn tại bất khả nào cần khám phá đáng với nỗi khổ nhọc phải giữ cho mình tỉnh đây? Tương lai nào đáng với nỗi khổ nhọc không thể nói thành lời là phải làm kỷ niệm phong phú thêm nữa? Tương lai nào mà kỷ niệm còn phải xâm nhập? Trong một thế giới như thế nào có còn một tương lai chăng?
*
* *
Những thanh ván của cây cầu nặng nề lắc lư khi cái kiệu được khiêng lên, với bước đi thong thả của những người vác; bên dưới, ì oạp theo các quãng cách dài thứ nước đen, bị kẹp chặt giữa thân tàu màu đen nặng nề của con tàu và bức tường đen nặng nề của bờ ke; yếu tố nhẵn và sệt phả hơi, phả ra những rác rưởi, những lổn nhổn, những lá rau và những quả dưa thối, toàn bộ những gì bị nhúng ướt đằng kia bên dưới, bị mang đi bởi các làn sóng uể oải của một cuộc đời nặng nề, lờ lợ và nhiều thối rữa, của cái cuộc đời duy nhất có thể tồn tại giữa các hòn đá, cuộc đời bốc mùi cái chết và thế nhưng sống động nhờ hy vọng về một tái sinh phát xuất từ sự tan rã. Đấy là những gì hiện ra ở phía dưới. Bên trên, ngược lại, các đòn cáng của một công việc không khiếm khuyết, điểm trang những thứ mạ vàng, đè nặng lên vai đám thú vật chuyên chở đồ nặng mang bộ mặt con người, được nuôi như những con người, nói năng như những con người, ngủ, nghĩ như những con người, và trong phô tơi chạm trổ của cái kiệu, được làm hoàn hảo, mà lưng tựa cùng hai tay cầm được trang trí bằng các vì sao bằng kim loại mạ vàng, được đặt một người bị bệnh tật bẻ gãy, nơi sự tan rã đã rình rập. Toàn thể là một sự thiếu ăn nhập cực điểm, khắp nơi cái ác bị che giấu ẩn mình đi, sự nghiệt ngã của một sự kiện hoàn hảo hơn so với con người, dẫu chính con người dựng lên những bức tường, khắc chạm và giáng búa, tết các dây da cho cái roi và rèn xích. Không thể nào không bị thẩm thấu vào đó, không thể nào mà quên được cái đó. Và mọi điều mà người ta muốn quên đều luôn luôn quay trở lại, dưới một hình thức luôn luôn mới của thực tại, luôn luôn được trình hiện dưới vẻ ngoài của các con mắt mới, của các tiếng ồn mới, của các cú vụt roi mới, của một sự cứng nhắc mới, của một cái ác mới, cái nào cũng đòi không gian riêng cho mình, cái nào cũng ép sát và chế ngự cái khác trong một sự cận kề cận khủng khiếp, dẫu chúng được đan kết trong cùng tấm vải theo cách lạ thường nhất và tản mát nhất. Và ngay sự trôi đi của thời gian cũng đã trở nên thiếu ăn nhập y như nỗi cận kề của các vật, bởi những khoảng khác nhau của thời gian không còn muốn thích ứng vào với nhau nữa: khoảnh khắc hiện tại còn chưa từng bao giờ bị phân tách rõ nét đến vậy khỏi khoảnh khắc trước đó; được vạch thật sâu một vực thẳm trên đó người ta không thể bắc bất cứ cây cầu nào, điều đó đã biến giây phút hiện tại này thành một cái gì đó độc lập, đã phân tách nó theo lối không thể đảo ngược khỏi giây phút trước, khỏi chuyến băng ngang của toàn bộ những gì đi trước nó, đã bửa chính nó rời ra khỏi toàn bộ cuộc đời đã qua của nó, và thế nhưng, trong sự đung đưa nhè nhẹ của cái kiệu, hẳn gần như ông không thể nói chuyến đi vẫn tiếp tục, hay đã thực sự lên đến đất liền. Ông nhìn qua phía bên trên một đại dương đầu người, ông bồng bềnh trên một đại dương đầu người, vây quanh là một thủy triều con người, nhưng ông thấy dường không thể nào vượt qua nó; các toan tính đầu tiên trong việc khuất phục sự kháng cự lượn sóng kia tất tật đều đã thất bại, và người ta bị mắc cố định lại chỗ gờ của mình. Bởi ở đây, khi những con thuyền hộ tống cập bến, công việc trật tự ít chặt chẽ hơn nhiều so với ở đằng kia, để đón Augustus, và dẫu vài hành khách, nhờ chạy thật nhanh, đã thành công được trong việc tự mở cho mình một con đường về hướng đó - điều này cho phép bọn họ kịp hội được vào với đoàn rước trang trọng được hình thành đằng sau cái đập nhằm đưa Caesar vào thành phố cho tới cung điện của ông - một chiến công như vậy hẳn là tuyệt đối bất khả đối với đoàn khiêng kiệu; viên công chức đế chế mà người ta đã giao cho việc đi cùng đoàn người nhỏ, để dẫn nó, và có thể nói để canh gác nó, quá già, quá to béo, quá nhẽo nhợt và có lẽ cũng quá từ tâm thành thử không sao quyết định được việc dùng sức mà vạch lấy một lối, ông ta bất lực, và vì bất lực, ông ta phải hài lòng với việc phàn nàn về đám cảnh sát, cái bọn dung thứ cho những tụ tập của đám tiện dân và lẽ ra ít nhất cũng phải trao cho ông ta một đoàn hộ tống thích hợp, và chính bằng cách ấy mà rốt cuộc người ta bị ném đi và kéo vào quảng trường, không có bất kỳ cái đích nào, người ta bị cầm tù mất một lúc không thể nhúc nhích, người ta bị đẩy đi theo những đường dích dắc đầy do dự, khi thì ở đây, lúc lại ở kia, và người ta bị xô đẩy từ mọi phía. Đang như thế thì, đột ngột, hiện diện của chàng thanh niên ở bên cạnh họ tỏ ra là một sự giúp đỡ không được hy vọng; như thể cậu ta đã biết được ở đâu đó về tầm quan trọng của cái hòm đựng bản thảo - điều này thật lạ thường - cậu ta lo sao để đám người khiêng vác ở ngay gần cái kiệu, và trong khi vẫn ở bên cạnh, cái áo khoác vắt trên vai, cậu ta không bao giờ để cho mình bị đẩy lùi, cặp mắt sáng trong suốt thường tung về phía cái kiệu những nháy mắt vui thích và kính cẩn. Các mặt tiền nhà và các ngõ phả về phía họ một sự nóng ấm nặng nề của nhà kính, và dẫu nó ào đi thành các đợt sóng ngang rộng lớn, lúc nào cũng bị bẻ gãy bởi những tiếng hét và những tiếng rì rầm không điểm kết, bởi tiếng ong ong và tiếng gầm gào của con thú tập thể đang thở, thì nó vẫn không ngừng ở thế bất động: đó là luồng hơi thở của nước và luồng hơi thở thực vật, luồng hơi thở của thành phố, sự phả ra duy nhất và nặng nề của cuộc sống bị ép chặt giữa những khối đá, và sức sống thối hoăng giả dối của nó, thứ đất mùn của tồn tại, gần với sự tan rã, dâng lên đến vô tận, chui ra từ những cái lỗ của các tảng đá bị hun quá nóng, vươn lên tận đến các vì sao mà sự lạnh lẽo pha lê bắt đầu điểm xuyết đáy của cái cốc bầu trời, mau chóng sẫm đi thành một màu đen dịu dàng và thật đặc. Từ các độ sâu khôn dò, cuộc sống nảy mầm và trào ra, vạch lấy con đường cho nó xuyên qua những tầng cầu đá, đã chết trong chuyến đi của mình, chết, tan rã và nguội lạnh đi trong sự thăng lên của nó, trong đó nó đã bốc hơi, trong khi, khởi đi từ các độ cao khôn dò, cái Bất Suy Suyển đi xuống, luồng hơi mang cái lạnh của đá, luồng hơi có một lóe sáng u tối, nó, trong lúc đi xuống, kết tinh theo lối không thể cưỡng lại toàn bộ những gì mà nó chạm vào, luồng hơi thống trị dựng ra các vực thẳm đá của những độ sâu: cả ở đỉnh lẫn ở nền khoáng chất đều ngự trị, như thể nó là thực tại cuối cùng của thế giới này, và giữa dòng chảy đó và dòng chảy đối lưu đó, giữa đêm thuộc trời cao và đêm trần thế, cái này đỏ ửng, cái kia thì sáng sủa và lấp lánh, trong sự sáng sủa nhân đôi của đêm ấy, cái kiệu bồng bềnh như thể nó là một con thuyền nhỏ, đắm chìm vào chỏm các đợt sóng của cuộc sống thực vật và động vật, được nâng bổng lên về phía luồng hơi của sự mát mẻ không suy suyển, bị đẩy về phía những đại dương bí hiểm và xa lạ đến độ đối với ông, đang được chuyển đi ở trên đó, chuyến đi này như là một cuộc quay về. Ôi! tất tật các sóng kia, hết những đợt này tới những đợt khác, các khoảng rộng của sóng mà sống mũi con thuyền của ông đã dần nhừ tử, ôi! các khoảng rộng bồng bềnh của kỷ niệm, các khoảng rộng của sóng biển, chúng đã chẳng bao giờ trở nên trong suốt, và độ sâu của chúng nơi có khởi đầu của cái đã biết là không thể tri nhận được; chỉ câu đố còn lại, và phồng lên bởi bí ẩn, quá khứ tràn khỏi các bờ của mình để nhập vào hiện tại, thành thử ở giữa khói nhiều vị nhựa cây của những ngọn đuốc, ở giữa các hơi nước nặng nề và lợt lạt của thành phố, ở giữa sự sôi sục hoang dã và đầy thú vật của những cơ thể và những xung động u tối của chúng, ở giữa quảng trường đầy ngập cái không biết, ông ngửi thấy, không thể xóa bỏ và chẳng chút mù mờ nào, mùi của biển, tồn tại to lớn không thể bị hủy hoại của biển; sau lưng ông là các con tàu, những con chim lạ thường của cái không biết; các mệnh lệnh từ đó vẫn vẳng đến ông, rồi đó là tiếng cọt kẹt the thé và giật cục của một cái ròng rọc gỗ, rồi một tiếng chũm chọe trầm và ngân nga cứ thế kéo dài ra như vọng âm cuối cùng của tinh tú ban ngày đã biến mất đi vào biển, và sau lưng ông, có gió từ những khoảng rộng của biển, có sự náo động của hàng tỉ đợt sóng phủ mào trắng, nụ cười của Poseidon, lúc nào cũng sẵn sàng biến thành một tràng cười rú rít, những khi vị thần thúc lũ ngựa của mình, và đằng sau biển và được tắm bởi các sóng của nó, trải rộng những đất nước, tất tật những đất nước mà ông từng băng ngang, mà ông đã giẫm lên thứ đất mùn cùng các hòn đá tham gia thảm thực vật của chúng, nhân loại của chúng và thảm động vật của chúng, hòa lẫn vào với chúng, bất lực trước ngần ấy cái không biết, không có khả năng làm chủ nó, bị hòa vào và lạc đi trong các sự kiện và các vật, hòa vào và bị lạc đi tại các đất nước và những thành phố của chúng - ôi! sao mà toàn bộ những cái đó đã bị nuốt chửng đi và thế nhưng ở ngay gần, các vật, các đất nước, các thành phố! sao mà tất tật chúng đều ở đằng sau ông, bên trong ông, xung quanh ông! ôi! sao mà đối với ông chúng sạch sẽ, phủ bóng và ngập ngắng, ồn ào và khuya khoắt, được biết rõ và bí hiểm, Athens và Mantua, Naples và Cremona, Milan và Brundisium, và cả Andes nữa! Mọi thứ ùa đến ông, mọi thứ đều ở đó, vây quanh là các cuồng hoan của những ánh đèn bến cảng, vây quanh là sự thở của cái không thể thở, vây quanh là những rầm rĩ của cái không thể hiểu, được tập hợp lại trong một nhất thể duy nhất, nơi rất dễ dàng cái xa xôi trở nên gần, rất dễ dàng cái gần gũi trở nên xa, và khiến cho ông tới được, ông đây đang bồng bềnh ở quá đó, vây bọc là sự hoang dã, với một sự sáng suốt dễ dàng tách ra: nhìn thấy cái thế giới đang cháy lên trước mặt ông kia, biết là nó bị cháy do các ngọn lửa ngầm, ông cũng biết rằng đó cũng là hình ảnh của cuộc đời chính ông; ông biết cuộc đời ấy được chở bởi dòng chảy và dòng đối lưu của đêm, nơi chìm nghỉm quá khứ cùng tương lai, ông biết rằng nó đang ở đây nơi giao cắt này, trong hiện tại của bến đỗ, chìm vào trong các ngọn lửa, tắm trong các ngọn lửa, giữa quá khứ và tương lai, giữa biển và đất, và lồ lộ từ cái chỗ này giữa đó ông đã ở, cứ như thể ai đó đã muốn đặt ông vào trung tâm tồn tại của chính ông, nơi giao nhau của những thế giới của ông, ở trung tâm thế giới, được số phận quy định. Nhưng đó chỉ là quảng trường bến cảng, tại Brundisium.
Và ngay cả khi đấy có là trung tâm thế giới, thì cũng chính vì thế mà không thể nào lưu trú ở đó: đi vào quảng trường dưới những gì trong suốt được rọi sáng bởi các dòng chữ vui tươi, các ngõ không ngừng khạc ra các đám đông mới, chúng càng lúc càng dồn đống thêm và cũng ngáng đường những người khiêng kiệu; bọn họ bị dồn, thêm một lần nữa, về phía giữa quảng trường, thành thử bọn họ không thể hội vào được với hàng lính và đoàn diễu của Augustus, vừa rùng rùng đi qua giữa những tiếng kèn đồng. Tiếng ồn đã càng phồng to lên đáng kể hơn, bởi vì các tiếng hét, các tiếng hú, những tiếng huýt sáo giờ đây thắng thế âm nhạc; và cùng lúc với tiếng ồn, lớn thêm lên sự tàn bạo và trơ khấc với đó người ta xô nhau và người ta đẩy nhau, như thể đám đông đã không có cả mục đích nào khác lẫn trò vui nào khác, nhưng mặc cho toàn bộ sự tàn bạo ấy, dường như sự sáng suốt vừa nhẹ lại vừa dễ xuyên thấu vào ông được thông truyền cho cả quảng trường, giống một sự rọi sáng thứ hai, nó, tự thêm vào sự rọi sáng của các ngọn đuốc, không thay đổi điều gì nơi lóe sáng cứng rắn của nó, vốn dĩ đang làm những cái bóng nhảy múa; ngược lại, nó còn đào sâu thêm cái đó, trong lúc khám phá một mối quan hệ tồn tại thứ hai trong hiện diện hiển hiện của các đồ vật, bởi giấc mơ tỉnh, mang toàn bộ những cái đó, ôm trùm những quan hệ tồn tại xảy ra nơi cái tối hậu xa xôi, và chính những quan hệ ấy là thứ mà ông phát hiện được ở ngay sát kề, thậm chí ngay sát sạt và cụ thể hơn cả. Và hẳn người ta gần như có thể nói rằng chính là nhằm cho thấy sự hiển nhiên nhẹ và xa của mối quan hệ thứ hai này mà chàng thanh niên đột nhiên ở vào vị trí dẫn đầu đoàn hộ tống, dẫu người ta không thấy được là từ khoảnh khắc nào, cậu ta khẽ vẫy, như trong một trò chơi, một ngọn đuốc mà rõ ràng cậu ta đã giật lấy từ một kẻ nào đó, và dùng nó như một thứ vũ khí để mở một con đường băng ngang đám đông. “Nhường chỗ cho Virgil đi”, cậu ta vui vẻ nói vào mặt người ta, “Nhường chỗ cho nhà thơ của các người đi”, và nếu người ta nhường bước cho cái người mà người ta đang vác vì ông thuộc vào nhà của Caesar, hay vì họ bị rối trí trước cặp mắt sáng ngời cơn sốt trên khuôn mặt xám xịt của ông, thì thế nhưng chính nhờ người dẫn lối nhỏ bé mà sự chú ý của họ được đánh thức và có thể nhúc nhắc tiến lên được. Có, quả là vậy, các khối ken đặc chống lại đó cả sự dư dả láu lỉnh của chàng thanh niên đã nhặt lấy cái áo khoác lẫn những đe dọa từ ngọn đuốc của cậu ta chẳng thể làm gì, và trong các quãng dừng ấy, vẻ mặt gây lo lắng của người ốm cũng không giúp được gì; ngược lại, mối ác cảm đầy thờ ơ với đó thoạt tiên người ta quay mặt đi khi đó không khỏi tăng cường độ thành một nỗi kinh tởm lộ rõ đối với cảnh tượng gây lo lắng, thành một tiếng thì thào nửa rụt rè nửa gây hấn; nó biến thành một trạng thái tinh thần gần như thù địch, mà một kẻ thích đùa tồi tệ có tâm trạng vui vẻ nhưng đầy ác ý tìm ra được biểu đạt phù hợp lúc hét to lên: “Một nhà ảo thuật, nhà ảo thuật của Caesar! - Tất nhiên rồi, đồ đần, chàng thanh niên hét đáp trả, anh còn chưa từng bao giờ nhìn thấy một nhà ảo thuật như người này đâu, anh còn chưa bao giờ được nhìn thấy trong cuộc đời ngu độn của anh, đấy là nhà ảo thuật lớn nhất, nhà ảo thuật lớn nhất trông số các nhà ảo thuật của chúng ta!” Vài bàn tay giơ lên, những ngón tay xòe ra nhằm tự bảo vệ khỏi ánh mắt hiểm độc, và một cô gái điếm, mặt đánh phấn trắng toát, bộ tóc giả màu vàng đội xiên xẹo trên đầu, the thé về phía kiệu: “Cho tôi một cái bùa yêu đi! - Phải, giữa hai chân nhé, và thật dữ vào”, một giọng giả khác đế vào, nhằm bắt chước cô ta, một anh chàng da sạm, trông giống một con ngỗng con do dáng điệu, thấy rõ là một thủy thủ, và từ hai cánh tay xăm trổ màu xanh của mình, anh ta tóm lấy mông cô gái, cô ta hú lên vì thỏa mãn trìu mến: “Một cái bùa như thế, cả tôi nữa, tôi cũng có thể cho cô một cái rất tốt, và lại còn rất sẵn lòng! Dễ lắm ấy! - Nhường đường cho nhà ảo thuật, nhường đường!” chàng thanh niên ra lệnh; cậu ta dùng một cú thúc cùi chỏ đầy kiên quyết đẩy con ngỗng kia ra và, với một cử chỉ kiên định theo nghĩa nào đó rất đáng kinh ngạc, cậu ta quay người sang phải, về phía rìa quảng trường; hết sức ngoan ngoãn, những người khiêng cái hòm đựng bản theo đi theo sau cậu ta, có chút kém ngoan ngoãn hơn là viên công chức phụ trách đoàn người; và cái kiệu thì đi theo, cùng phần còn lại của các nô lệ, như thể đứa trẻ kia buộc tất tật sau lưng mình vào một sợi xích vô hình. Đứa trẻ dẫn đến đâu? Từ độ sâu nào của kỷ niệm cậu ta đã trồi lên? Quá khứ nào, tương lai nào quy định cậu ta? Tất yếu bí hiểm nào? Và chính ông, chui ra từ bí ẩn đã qua nào cũng chẳng biết, ông được đưa tới bí ẩn tương lai nào? Chẳng phải đúng hơn ấy là một cuộc đi thuyền không ngưng nghỉ trong một hiện tại không có giới hạn à? Ông được vây quanh bởi những cái miệng thích ngốn ngấu, những cái miệng hay hú hét, những cái miệng đang hát, những cái miệng đầy ngưỡng mộ, những cái miệng há ra trên các khuôn mặt đóng kín, và tất tật chúng đều mở, chúng há hoác ra, được trồng những cái răng đằng sau các cặp môi đỏ, nâu và nhợt nhạt, được trang bị vũ khí là những cái lưỡi; phía dưới, ông nom thấy những cái đầu tròn, phủ một thứ mút như len, đám nô lệ khiêng vác, ông nhìn thấy từ phía bên cạnh các quai hàm của bọn họ, và làn da lấm chấm các cặp má của họ, ông biết thứ máu đang đập bên trong bọn họ, thứ nước bọt mà bọn họ phải nuốt vào, và trong những cỗ máy thô thiển, vụng về, không được phanh hãm kia, được làm nên từ các dạ dày cùng cơ bắp, ông biết rõ những ý nghĩ, chúng - mất đi, nhưng lại vĩnh viễn không bao giờ chết - tế nhị và sượng đục, trong suốt và tối tăm, sùi ra từng giọt, để rơi xuống và biến mất, những giọt của tâm hồn; ông biết nỗi hoài nhớ không cách nào giảm nhẹ, ngay cả trong sự hăng hái dục tình tàn bạo và xác thịt theo lối đau đớn hơn cả, thứ vốn dĩ là bẩm sinh ở tất tật những người đó, đối với con ngỗng cũng như đối với cô điếm, nỗi hoài nhớ không thể bị phá hủy của con người, thứ kháng cự sự hư vô hóa và là thứ, dẫu nó khá thường để cho mình bị chệch về phía sự độc ác và thù địch, vẫn cứ là hoài nhớ. Và ông, tách ra và thế nhưng gần gũi với thế giới theo lối không sao mà nói nổi, ông, bồng bềnh phía trên mặt đất do cứ tỉnh mãi, cùng lúc lại bị trộn lộn vào bầu không khí thối inh, ông trông thấy sự ngu xuẩn của các cơ thể không mặt, ném đi tinh dịch và thấm đẫm tinh dịch, những dương vật của bọn họ phồng to lên và cứng lại, ông nhìn thấy và ông nghe thấy các bí ẩn bị che giấu, những thăng những trầm của các hùng hổ nhục cảm của sự gặp nơi bọn họ, sự thơ thới man dã ở các ghép đôi phối giống vô nhân xưng của bọn họ, thật giống với nỗi đờ đẫn của đánh trận và cũng như cái đó dẫn đến một sự héo úa thật ngẫn, tiền triệu cho tuổi già và hiếm khi cho sự thông thái, và ông thấy gần như là có vẻ toàn bộ hiểu biết đó, dẫu sinh ra từ mắt và tai, xét về chính yếu đã được truyền sang cho ông qua cái mũi, rằng ông hít thở nó cùng lúc với các làn hơi vô số phả ra bởi lũ thú người cùng các món đồ ăn mà ngày nào chúng cũng tập hợp lại, mà ngày nào chúng cũng nhai; tuy nhiên, những làn hơi gây buồn nôn và nhiều sức kích thích ấy tan loãng đi lúc người ta tiến lên và - sau khi rốt cuộc cũng đã vạch được một con đường xuyên qua đám đông - người ta lại gần được giới hạn của quảng trường nơi không chỉ những ánh đèn trở nên ít hơn và rốt cuộc mất hút đi vào bóng tối, mà ở đó sự vô số của con người cũng biến mất một cách hoàn toàn hơn, và dẫu các mùi của nó vẫn còn dai dẳng thêm một lúc nữa, lúc này chúng chịu thua trước mùi hôi thối nhẵn lì, rực rỡ và hoăng lên của các cái bàn chợ cá, những thứ, về phía này, định giới hạn quảng trường bến cảng, và trải rộng im lìm và bị bỏ mặc vào cái giờ khuya khoắt này. Lờ lợ và cũng rất thối, mùi của chợ hoa quả cũng trộn vào đó, đầy những làn hơi của sự lên men, dẫu người ta chẳng thể nào phân biệt rõ được ở đó mùi của lũ nho tím, mơ vàng sáp, táo vàng ruộm, vả đen kịt, vì chúng bị trộn lẫn vào với nhau và bị làm cho trở nên không thể phân biệt trong sự tan rã chung, và đá lát đường sáng ánh lên và trượt đi do những thứ mềm oặt bị giẫm nát dây bẩn lên. Giờ đây, trung tâm của quảng trường đã ở rất xa đằng sau, rất xa các con tàu ở ke, rất xa, biển, rất xa, nhưng không mất đi mãi mãi; tiếng gầm rú của con người đằng kia chỉ còn là một tiếng ong ong xa xôi, và người ta không còn nghe thấy gì từ đám kèn đồng nữa.
Với một sự chắc chắn to lớn, và như được hướng lối bởi một hiểu biết rất chính xác về địa điểm, đứa trẻ đã đưa đoàn người của mình vào mê cung các lán trại của chợ, để giờ đây xâm nhập vùng của các nhà kho và công trường, mà những tòa nhà hắc ám và không được chiếu sáng nằm ngay sát chợ, cái vùng gần như không thể nhận ra trong bóng tối, mà người ta có thể tri nhận độ rộng to lớn khởi đi từ chỗ này.
Lê Công Tăng dịch
viết tiếng Đức
Johann Wolfgang von Goethe (1749–1832)
E. T. A. Hoffmann (1776–1822)
Friedrich de la Motte Fouqué (1777–1843)
Heinrich von Kleist (1777–1811)
Karl Kraus (1874–1936)
Thomas Mann (1875–1955)
Rainer Maria Rilke (1875–1926)
Robert Walser (1878–1956)
Robert Musil (1880–1942)
Georg Lukács (1885–1971)
Walter Benjamin (1892–1940)
Hermann Broch (1893-1982)
Joseph Roth (1894–1939)
Paul Celan (1920–1970)
Ingeborg Bachmann (1926–1973)
Thomas Bernhard (1931–1989)
Sebald (1944–2001)