favorites
Shopping Cart
Search
Vitanova
Prev
Hạ 2025
Next

Hermann Broch: Cái chết của Virgil

25/05/2025 11:04

Joseph Roth-Robert Musil-Hermann Broch: đó là bộ ba vĩ đại của văn chương Áo vào đoạn đầu thế kỷ 20 (trước đó 100 năm là sự bừng nở dữ dội của văn chương Đức, những người lãng mạn). Cái chết của Virgil (Der Tod des Vergil) được Hermann Broch viết trong vòng khoảng mười năm, khởi đầu ở châu Âu và kết thúc ở Mỹ, in lần đầu vào năm 1945. Cuốn tiểu thuyết viết về cái chết của nhà thơ La Mã Virgil là kiệt tác lớn lao của Broch, với một lối viết không hẳn xa với James Joyce, nhân vật rất quen thuộc với Broch.

Quãng giữa thập niên 40 của thế kỷ 20 chứng kiến sự đồng loạt quay trở lại với lịch sử, nhất là với những hình tượng lớn của quá khứ, ở các nhà văn viết tiếng Đức. Chẳng hạn, ta có thể thấy là cũng vào quãng này, Thomas Mann viết kiệt tác Doktor Faustus của mình.

Dưới đây là đoạn mở đầu Cái chết của Virgil.


Nước - Đến nơi

- Hermann Broch
 

Xanh ánh thép và nhẹ, lay động trong một thứ gió đứng không thể nhận biết, sóng của biển Adriatic đã ào tới đội tàu đế chế khi nó, có ở bên trái những ngọn đồi dẹt của bờ biển Calabria đang dần xích lại, tiến về phía bến cảng Brundisium, và giờ đây khi sự cô đơn ngập nắng và thế nhưng đầy chết chóc của biển nhường chỗ cho niềm vui hòa bình nơi hoạt động con người, giờ đây khi các đợt sóng được nhẹ nhàng chuyển biến do sự xích lại gần của hiện diện và nơi ở của con người khiến có dày đặc các con tàu - những con tàu cũng đang đi về phía cảng và những con tàu vừa lên đường - giờ đây khi những thuyền đánh cá có các lá buồm nâu vừa rời, cho việc chài lưới ban đêm, những dải đê nhỏ của nhiều ngôi làng và thôn xóm nằm dọc các bãi biển màu trắng, biển đã trở nên phẳng lặng, gần như một tấm gương. Trên nước mở ra vỏ sò óng ánh xà cừ của bầu trời, bóng tối buông và người ta ngửi thấy mùi lửa củi cháy, mỗi lần nào những tiếng ồn của cuộc sống, tiếng một cái búa đập hay một lời gọi, được gió đưa từ bờ tới.

Trong số bảy con tàu cao thành nối đuôi nhau, chỉ tàu đầu và tàu cuối, hai tàu năm hàng chèo thanh mảnh, mũi nhọn hoắt, thuộc đội tàu chiến: năm cái còn lại, nặng hơn và bề thế hơn, gồm từ mười đến mười hai hàng chèo, có cấu tạo hào nhoáng, xứng danh triều đình Augustus, và tàu đi giữa, huy hoàng hơn cả, mũi mạ vàng gắn thêm đồng lấp lánh lên, cũng lấp lánh những cái đầu sư tử mạ vàng, xỏ nhiều vòng, gắn bên dưới các lan can, dây néo treo đầy cờ nhiều màu, tàu đi giữa có ở bên dưới những lá buồm máu tía, to lớn và trang trọng, lều của vị Caesar. Nhưng trên tàu đi ngay sát đằng sau lại có nhà thơ của Aeneid và dấu hiệu của cái chết đã được khắc trên trán ông.

Bị say sóng, lúc nào cũng ở dưới mối đe dọa thường trực sắp có thêm một cơn mới, suốt cả ngày ông đã không dám nhúc nhích. Tuy nhiên, có bị dính chặt xuống chỗ nằm đã được thu xếp cho ông ở giữa thuyền, thì ông, hay nói đúng hơn là cơ thể ông và cuộc sống thuộc cơ thể của ông, mà đã từ nhiều năm nay ông thấy khó mà coi là thuộc về mình, chỉ còn là một kỷ niệm duy nhất, một nỗ lực nhằm tìm lại và nếm hưởng trở lại sự nhẹ nhõm đã đột nhiên xâm chiếm ông, khi họ tới được vùng bờ biển êm ả hơn, và nỗi mệt nhiều sức xâm chiếm kia, vừa bình yên vừa gây bình yên kia có lẽ đã là một niềm sung sướng gần như hoàn hảo nếu, mặc cho không khí mạnh mẽ và khỏe khoắn của biển, cơn ho ám ảnh không xuất hiện trở lại, cùng cơn sốt gây trầm uất và những nỗi hoảng sợ buổi tối. Chính bằng cách ấy mà ông nằm đó, ông, nhà thơ của Aeneid, Publius Virgilius Maro, ông nằm đó, ý thức chấp chới, gần như xấu hổ với nỗi bất lực của mình, gần như nổi giận với số phận kia, và ông nhìn chằm chằm vào hình tròn lóng lánh xà cừ cái cốc bầu trời. Tại sao ông lại chịu thua trước những nằn nì của Augustus? Tại sao lại rời Athens? Đã biến mất, niềm hy vọng sẽ thấy Aeneid xong xuôi được dưới bầu trời thuần khiết và thiêng liêng của Homer, đã biến mất niềm hy vọng sẽ bắt đầu vào lúc đó một sự mới mẻ to lớn, niềm hy vọng về một cuộc đời tách hẳn khỏi nghệ thuật, vượt qua hết các công việc thơ ca, để dành hết cho triết học và khoa học tại thành phố của Plato, biến mất đi niềm hy vọng một lần nữa được giẫm chân lên đất của Iony, ôi, biến mất đi niềm hy vọng về phép mầu của hiểu biết và của cứu rỗi trong hiểu biết! Tại sao ông lại chối bỏ những cái đó? Theo lối chủ ý à? Không! Đã có như thể một mệnh lệnh từ các quyền năng kia của Số Phận, chúng không để cho mình bị đuổi đi, chúng chẳng bao giờ hoàn toàn biến mất, ngay cả khi trong một quãng thời gian chúng chìm sâu xuống vương quốc ngầm dưới đất, vô hình, vô thanh, mà vẫn cứ hiện diện và toàn vẹn - vẫn cứ là một mối đe dọa khôn dò về các lực mà người ta không bao giờ có thể trốn thoát, mà người ta luôn luôn phải quy phục; đấy là Số Phận. Ông đã để cho mình bị Số Phận đẩy đi, và Số Phận đẩy ông về phía kết cục của ông. Cuộc đời ông đã có lúc nào được tạo ra theo cách khác chưa? Ông từng có bao giờ sống theo cách nào khác chưa? Vỏ sò lóng lánh xà cừ bầu trời, đại dương đương mùa xuân, giai điệu của những ngọn núi, và giai điệu đang cất lên đầy đau đớn trong ngực ông, cây sáo của Thần, đối với ông từng có lúc nào chúng là gì khác ngoài một biểu hiện, nó, giống một dạng tàu của các tầng cầu, hẳn sẽ sớm đón ông để đưa ông vào vô tận? A! ông sinh ra là nông dân, một nông dân yêu sự bình yên của tồn tại nơi mặt đất, thấy rất ổn nếu có một cuộc đời đơn giản và chắc chắn tại cộng đồng nông thôn, người hẳn được tổ tiên đồng ý để có thể, để phải ở quanh quẩn nhà, và người, tuân theo một số phận cao hơn, mà vẫn không tách đi khỏi mảnh đất quê hương, đã không được giữ lại ở đó; ông đã bị trục xuất đi, xa khỏi cộng đồng, ông đã xâm nhập nỗi cô đơn trần trụi nhất, hung dữ nhất, hoang dã nhật của xoáy lốc con người, ông đã bị đuổi đi khỏi sự đơn giản nơi nguồn gốc của mình, bị đuổi ra khơi về phía một sự phức tạp luôn luôn lớn hơn: và từ đó đã có được gì khác ngoài một tăng lên và mở rộng của khoảng cách phân tách ông khỏi cuộc đời chính ông - bởi sự thật là chỉ mỗi khoảng cách ấy từng tăng lên; ông từng chỉ làm mỗi một việc là bước đi ở rìa các cánh đồng của mình, ông từng chỉ làm mỗi một việc là sống bên rìa cuộc đời ông; ông đã trở nên một con người đầy lo lắng, hay chạy trốn, tìm cái chết, tìm, trong khi chạy trốn công việc, một bản sinh của tình yêu và thế nhưng một bản sinh bị vây dồn, một con người lang thang giữa những dục vọng của thế giới bên trong và thế giới bên người, một người khách của cuộc đời chính ông. Và hôm nay khi, đã đến chỗ gần kiệt lực, ở cuối cuộc chạy trốn của mình, ở cuối cuộc tìm kiếm của mình, ông đã tự vạch cho mình một con đường và sẵn sàng cho khởi hành, ông đã tự vạch lấy một con đường để khởi hành và sẵn sàng chịu đựng nỗi cô đơn tối cao, giẫm lên con đường bên trong dẫn trở lại đó, thì Số Phận cùng các quyền năng của nó đã lại tóm lấy ông, lại cấm ông được hưởng sự đơn giản, cuộc trở về nguồn gốc của ông, và thế giới bên trong - chúng đã lại làm chệch đi con đường quay trở lại của ông, chúng đã đặt con đường của ông vòng đi về phía sự phức tạp của thế giới bên ngoài và đã dùng sức dẫn ông quay lại về phía cái lời nguyền đã làm u tối cả cuộc đời ông, thành thử hẳn có thể nói rằng sự đơn giản duy nhất mà số phận giữ sẵn cho ông, ấy là sự đơn giản của cái chết. Phía trên ông, những trục căng buồm kêu ken két trong đống dây dợ, và ở các quãng cách, ông nghe thấy tiếng rung uyển chuyển của các cánh buồm, tiếng bọt nước trượt dọc vỏ tàu và đợt nước ánh bạc trào lên mỗi lần các mái chèo được nhấc cao; ông nghe thấy tiếng kẽo kẹt nặng nề của chúng nơi những cái ngàm cùng tiếng róc rách khi cạnh sắc của chúng lại chém xuống, ông cảm thấy đà tiến uyển chuyển và đều đặn của con tàu đi theo nhịp của hàng trăm mái chèo, ông trông thấy cái đường thẳng diềm trắng của bờ và nghĩ tới những thân người bị trói của đám nô lệ chèo thuyền im lìm tại boong dưới ngột ngạt, có các luồng khí thổi qua, thối hoăng và ngập đầy tiếng gầm gào của sấm. Cùng tiếng gầm gào sượng đục, có nhịp điệu và giật cục, vây quanh là một phun trào của ánh bạc, đến với ông từ hai con tàu bên cạnh, tàu gần nhất và tàu gần cuối, như một vọng âm có thể nghe thấy trên tất tật các đại dương, được tất tật các đại dương hồi đáp, bởi khắp nơi chúng đi như thế, chở người, chở vũ khí, chở các loạt hạt và bột, chở đá hoa cương, dầu, rượu, hương liệu, nô lệ; khắp nơi sự đi thuyền đều trao đổi và buôn bán, một trong những sự băng hoại tồi tệ hơn cả trên đời. Ở đây, nói cho đúng, người ta đang không chuyên chở hàng hóa, mà là những kẻ háu ăn, đó là những người thuộc triều đình: thế cho nên toàn bộ phần sau con tàu, cho tới tận đuôi, được dành cho đồ ăn của họ; ngay từ tảng sáng đã vang lên những tiếng ồn bàn ăn và, cứ liên tục, các đám người đói khát vây lấy phòng ăn, rình mò một chỗ trống tại một triclinium, sẵn sàng gạt các đối thủ của mình ra để lao đến đó, hau háu muốn được nằm ra đó để rốt cuộc cũng bắt đầu hoặc tái khởi yến tiệc. Những người phục vụ, các thanh niên khỏe mạnh nhậm lẹ, ăn vận thanh lịch - giữa đó có nhiều người xinh xẻo tợn - vào khoảnh khắc đó trở nên xấu xí bởi mồ hôi và việc phục dịch mệt nhọc, không sao mà lấy lại hơi cho nổi, và chỉ huy của họ, một cái nhìn lạnh lẽo nơi khóe mắt, nhưng nụ cười thường trực nở trên môi và bàn tay lịch thiệp chìa ra nhận các món tiền bo, đẩy họ sang phải sang trái, đích thân lao từ đầu tới cuối boong, bởi, ngoài việc phục vụ bữa tiệc, còn phải chăm lo cho những ai - điều khá lạ thường - có vẻ đã no nê và đang giải khuây theo cách khác: một số đi dạo, hai tay chắp lại trước bụng hoặc sau lưng, những người khác, ngược lại, hoa chân múa tay bàn luận, một số thiu thiu ngủ hoặc ngáy to trên giường của mình, tấm choàng vắt lên mặt, những người khác ngồi trước một bàn bài bạc; cứ không ngừng phải phục vụ bọn họ, xăng xái quanh bọn họ, đưa cho bọn họ trên những cái khay bạc lớn các món lót dạ mà người ta chuyền tay nhau từ đầu này sang đầu kia boong, bởi bất cứ lúc nào cơn đói của bọn họ cũng có thể thức dậy, nhất là khi bọn họ thường trực rơi vào ham muốn nhồm nhoàm, thứ ghi dấu theo lối không thể xóa bỏ và chẳng tạo chút hồ nghi nào lên khuôn mặt tất tật, những người béo tốt và những người gầy, những người chậm và những người nhanh thoăn thoắt, những người bước đi và những người ngồi, những người tỉnh và những người đang ngủ, các khuôn mặt đôi khi được tạc bằng dùi của điêu khắc gia, đôi khi được khuôn hình như phù điêu ít nhiều nổi bật hẳn lên, với ít nhiều sự độc ác hay tốt tính, với biểu hiện của chó sói, cáo, mèo, vẹt, ngựa, cá mập, nhưng luôn luôn ngoảnh về độc một mục đích vốn dĩ chẳng là gì khác ngoài một sự tận hưởng bẩn thỉu tự khép kín vào chính nó, hau háu một sở hữu không sao thỏa, hau háu các trò thậm thụt, hau háu tiền, các chức vụ cùng vinh dự, hau háu sự bất hoạt động đầy náo nhiệt của cảnh giàu có. Khắp nơi đều có một kẻ như vậy đang nhét một cái gì đó vào mồm, khắp nơi lòng tham phủ kín, khắp nơi sự háu đói phủ kín, một sự háu đói ích kỷ, sẵn sàng ngấu nghiến, đang ngấu nghiến mọi thứ; hơi thở của hắn xâm chiếm boong, được chuyển đi theo nhịp của các mái chèo, và người ta không thể thoát được khỏi đó, người ta không thể loại bỏ nó. Toàn bộ con tàu bị vây quanh bởi những luồng hơi của sự háu đói. Ôi! bọn họ xứng đáng được một lần tái hiện đúng như vốn dĩ! Hẳn phải dành cho bọn họ một khúc ca về sự tham lam! Nhưng được gì đâu? Nhà thơ chẳng thể làm gì, ông không thể tránh bất kỳ sự xấu nào; người ta chỉ lắng nghe ông những khi ông vinh danh thế giới, chứ không phải lúc ông tái hiện nó đúng như nó vốn dĩ. Chỉ dối trá mới tạo ra được vinh quang, chứ không phải hiểu biết! Và có thể hình dung được là một sự hiệu quả nào khác, tốt đẹp hơn, được dành sẵn cho Aeneid chăng? Hỡi ôi, người ta sẽ ca ngợi nó, vì cho đến lúc này mọi thứ gì ông viết từng được ca ngợi, và cũng vì người ta sẽ chỉ nhặt lấy ở đó những gì dễ chịu, và vì chẳng có cả mối nguy lẫn cơ may nào về việc những lời hô hào có thể được lắng nghe; hỡi ôi, ông bị cấm ngặt, việc tự tạo ảo tưởng hoặc để mặc cho mình được các ảo tưởng ru ngủ, bởi ông biết quá rõ công chúng đó, đối với họ công việc nặng nhọc của nhà thơ cũng như công việc của nô lệ chèo thuyền chỉ là một đối tượng để hưởng thụ, một món cống nạp thuộc về kẻ tận hưởng, một món cống nạp mà sự tận hưởng thuộc về hắn, được chấp nhận một cách tự do, hắn không thấy và cũng không muốn thấy, ở cả hai, rằng sự hành hạ có tính cách khai phá vốn dĩ đặc trưng cho nhà thơ, và công việc nặng nhọc của nô lệ dưới đáy con tàu chất lên mình cùng nỗi cay đắng: người ta không nhìn thấy cái đó và người ta không muốn nhìn thấy cái đó. Vả lại, đâu phải chỉ toàn đám ký sinh trùng nằm ườn ra nghễu nghện ở quanh Augustus, ngay cả khi ông buộc lòng phải dung thứ cho không ít kẻ như vậy trong số các tùy tùng; không, nhiều người trong số họ từng thực hiện đủ loại hành động nhiều công lao và nhiều lợi ích, nhưng trong sự rảnh rỗi của chuyến đi, bọn họ đã gần như trút bỏ hết những gì mà bọn họ vốn dĩ ở chỗ khác, tìm ra một tận hưởng đầy đủ để mà tự lột trần mình, và thứ duy nhất vẫn còn nguyên vẹn là lòng kiêu căng mù quáng của bọn họ trong bóng tối của sự háu đói, trong cơn thiếp ngủ tối om ngập đầy sự háu đói. Bên dưới, trong bóng tối lờ mờ, theo các rung chuyển đều đặn, theo những rung chuyển to lớn và hoang dã, theo những rung chuyển thú vật phi nhân và thế nhưng được thuần hóa, công việc của khối người chèo thuyền được thực hiện. Những người bên dưới không hiểu ông và chẳng lý gì tới ông, những người bên trên thì khẳng định là mình kính trọng ông, và thậm chí bọn họ còn tin ông; tuy nhiên, dẫu có là thế nào đi nữa, bọn họ bảo mình thích các tác phẩm của ông, vậy thì tức là nói dối về sở thích thật của mình, hay, theo một cách thức không kém phần dối trá, bọn họ khẳng định với ông sự tận tụy của mình vì ông là bạn của Caesar, thì ông, Publius Virgilius Maro, vẫn chẳng có gì chung với bọn họ, dẫu Số Phận đã đẩy ông vào vòng tròn của bọn họ; ông kinh tởm bọn họ, và nếu làn gió ven bờ, chào đón từ trước cuộc mặt trời lặn, không nổi lên, nếu nó không quét bay khỏi con tàu mùi hôi thối của tiệc tùng và nhà bếp, hẳn ông đã có một cơn say sóng mới. Ông kiểm tra xem cái hòm đựng bản thảo Aeneid có còn nguyên bên cạnh mình hay không, và vừa nháy mắt vừa nhìn vì tinh tú đang chìm xuống sâu về phía Tây, ông kéo áo lên tận cằm; ông lạnh giá.

Thỉnh thoảng, ông muốn ngoái đầu về phía mớ hỗn độn con người ầm ĩ ở sau lưng, gần như thấy tò mò về toàn bộ những gì bọn họ sẽ còn làm; nhưng ông không nhúc nhích, tốt hơn hết là không nhúc nhích, và thậm chí càng lúc đối với ông dường ánh mắt về phía sau kia là điều mà ông bị cấm làm.

Chính bằng cách ấy mà ông nghỉ ngơi, bình yên nằm đó. Hoàng hôn mới khởi bày ra luồng sáng của nó trên trời, bày nó ra thật tinh tế phía trên vũ trụ, vào lúc họ đến được lối vào con lạch trông như dòng sông dẫn vào Brundisium; đã lạnh hơn, nhưng cũng dịu hơn, và mùi muối trộn vào một không khí đẫm nhiều hương vị hơn, tại các khoảnh đất vây quanh con kênh nơi những con tàu, giảm tốc độ, lần lượt đi vào. Môi trường của Poseidon, mà không đợt sóng nào làm nhăn lại nữa, chuyển sang màu xám sắt, màu của chì. Trên các tường thành pháo đài, bên phải và bên trái kênh, quân đồn trú đã đứng sắp hàng vinh danh Caesar, có lẽ cũng nhằm trao ông lời chào sinh nhật đầu tiên, bởi Octavianus Augustus đang quay về cho bữa tiệc sinh nhật của mình. Có phải là hai hôm nữa không? Phải, quả đúng là vào ngày kia người ta sẽ ăn mừng ở Rome, và Octavian, đang đi trên con tàu đầu tiên, sắp tròn bốn mươi ba tuổi. Những tiếng hoan hô khản đặc của đám người dậy lên từ trên bờ, những người cầm cờ tại các cánh quân giơ vexillum màu đỏ của mình lên, bằng những động tác ngắn ngủi và kỷ luật, rồi ngay sau đó hạ nó xuống trước vị chúa tể, cán xiên nghiêng xuống đất; nói ngắn gọn, những gì đang diễn ra là nghi lễ của các vinh dự quân sự, đúng như điều lệ nhà binh quy định, và hoàn toàn đúng theo quy tắc, trong sự dữ dằn chiến binh của nó, dẫu có vậy thì nó vẫn dịu dàng đến lạ, nhiều tính cách hoàng hôn đến lạ; hẳn gần như có thể nói rằng nó tắm mình trong một giấc mơ, vì những tiếng hét vụn nhỏ đi trong khi vươn mình lên trong sự lớn lao của ánh sáng, vì màu đỏ của các lá cờ, sẫm tối đi do màu xám của bầu trời đã gần tắt lịm, khoác lên mình những tông nhạt của mùa thu. Lớn hơn mặt đất là ánh sáng, lớn hơn con người là đất, và sẽ chẳng bao giờ con người sống sót được, chừng nào anh ta không được thở làn gió tổ quốc của mình, không quay trở về nơi ở mặt đất của mình, không lấy lại được ánh sáng trên con đường trần thế - nhận lấy ánh sáng trên mặt đất, trên con đường trần thế, và được đón nhận bởi ánh sáng, bởi trung gian duy nhất, mặt đất, cái mặt đất trở thành ánh sáng. Và chẳng bao giờ sự xích lại gần nhau của đất và ánh sáng thiết thân hơn, chẳng bao giờ đất gần với ánh sáng theo lối thiết thân hơn, chẳng bao giờ ánh sáng gần gũi với đất một cách thân thuộc hơn so với trong hoàng hôn mới khởi nơi hai đường biên giới của đêm. Đêm vẫn còn ngủ ở sâu dưới nước, nhưng nó đã bắt đầu sùi lên thành những luồng sóng nhỏ tí và lặng câm; khắp nơi trên tấm gương của biển, mà người ta không thể thấy rõ cả bề mặt lẫn độ sâu, trồi lên các luồng sóng im lìm và mịn màng của nền đêm, các luồng sóng của sự mênh mông thứ hai, sự mênh mông lớn hơn, nhiều sức sinh sôi và sức nảy mầm, và hết sức nhẹ nhàng chúng bắt đầu phủ sự yên tĩnh lên mọi thứ gì nhấp nháy. Ánh sáng không còn phát xuất từ trên cao nữa, nó chẳng còn nhờ vào gì nữa, và nó vẫn lóe lên, nhưng không còn rọi sáng gì nữa, thành thử ngay cả phong cảnh phía trên đó nó bập bềnh cũng có vẻ chẳng còn ánh sáng nào khác ngoài thứ ánh sáng, thật lạ thường, phát xuất từ chính phong cảnh đó. Tiếng dế nỉ non, vô số kể, nhưng the thé trên một tông duy nhất, du dương và xuyên thấu mạnh, nhưng im lặng do quá mức đơn điệu, đổ tiếng ong ong của chúng lên vùng nông thôn trong cảnh hoàng hôn. Phía dưới các bức thành, cho tới bờ sông lổn nhổn đá, những vạt đất phủ một thứ cỏ gầy guộc, và gầy guộc đến nỗi nó, thảm thực vật kia, là sự yên bình, tĩnh lặng của đêm, bóng tối của các rễ, sự tối tăm của đất, được bày cả ra dưới ánh sáng đang trốn mất. Sau đó, sắc lục bớt rải rác đi và dồi dào thêm lên, có màu thẳng thắn hơn, và rất mau chóng trộn lẫn với những cây nhỏ, trong khi phía trên cao, trên triền các ngọn đồi, giữa những bức tường đá khô khẳng viền quanh các khu trại của nông dân, hiện ra những cây ô liu đầu tiên, xám như sự tỏa rạng mù mịt, nhỏ như một luồng gió hoàng hôn đang trở nên dày hơn. Ôi! ông cảm thấy một ham muốn không thể kìm hãm mới lớn làm sao, được chìa hai tay về phía những bờ hỡi ôi thật xa xôi kia, được đưa tay xuyên vào bóng tối lợ nhợ của đám cây, được cảm thấy giữa những ngón tay mình tán lá, sinh ra từ đất, được vĩnh viễn giữ lấy nó ở đó - ham muốn run rẩy nơi hai bàn tay ông, run rẩy trong những ngón tay ông - thật không thể cưỡng lại, ham muốn những cái lá xanh của ông, cái cành dễ uốn của chúng, sự sắc cạnh êm dịu các gờ của chúng, kết cấu cứng và sống động của chúng: ông cảm thấy những cái đó kèm niềm hoài nhớ, khi nhắm mắt lại, và ấy là một nỗi hoài nhớ thuần túy nhục cảm, một nhục cảm ngây thơ, tóm chặt, giống hai nắm tay nông dân cứng khỏe của ông, với những cái xương thô, một nỗi hoài nhớ phong phú sự hân hưởng và các cảm tri, giống các dây chằng mảnh của chúng và sự tế nhị gần như nữ tính nơi các đường gân của chúng; ôi! bãi cỏ, ôi! tán lá, ôi! vỏ cây nhẵn và vỏ cây xù xì, sự phập phồng sống động của cuộc đâm chồi, hiện thân vô số và rẽ nhiều nhánh của sự tối tăm mặt đất! Ôi! bàn tay, thứ cảm thấy, sờ vào, nhận lấy, nhốt lại, ôi! các ngón tay cùng đầu của những ngón tay, thô cứng, tinh tế và dịu dàng, làn da sống động, cái vỏ tối hậu của bóng tối tâm hồn, mở toang ra những khi người ta nhấc tay lên! Luôn luôn, ông từng cảm thấy xung động lạ thường đó, gần như giống núi lửa, nơi hai bàn tay mình, luôn luôn từng đi cùng ông dự cảm về một cuộc đời riêng lạ thường của hai bàn tay ông, cái dự cảm mà ông đã cấm, một lần là xong luôn, được vượt qua ngưỡng của hiểu biết, như thể một mối nguy mù mờ rình đợi ông nơi hiểu biết ấy, và những khi, như ông hay có thói quen, đúng lúc này ông cũng đang làm thế, ông xoay cái nhẫn đeo ở bàn tay phải, một cái nhẫn được chế tác tinh xảo tới nỗi gần như người ta có thể thấy nó có chút nữ tính, ông thấy dường như thông qua đó mình có thể giải trừ ham muốn nơi hai bàn tay ông và cách nào đó đưa chúng đến chỗ tự chế ngự, bằng cách làm dịu đi nỗi hoảng sợ của chúng, nỗi hoảng sợ nhuốm hoài nhớ của những bàn tay nông dân sẽ chẳng bao giờ còn nắm lấy cái bừa cũng như hạt giống nữa, những bàn tay đã học cách nắm lấy cái không thể nắm bắt. Cứ như thể ông làm dịu đi được dự cảm đầy khiếp sợ của hai bàn tay mình, mà ý chí sáng tạo, bị tước đoạt khỏi đất, đã chẳng còn lưu giữ gì nữa ngoài cuộc sống riêng của chúng trong Cái Toàn Thể không thể nắm bắt, hai bàn tay ông, bị đe dọa và đe dọa, chìm thật sâu vào Hư Vô và cảm thấy những mối nguy mà nó chứa đựng mạnh đến mức dự cảm đầy hoảng sợ kia, theo cách nào đó được thăng hoa, trở thành một nỗ lực không thể cưỡng, một nỗ lực nhằm lưu giữ nhất thể của cuộc đời con người, nhằm bảo vệ lấy nhất thể của nỗi hoài nhớ con người, bằng cách nhờ như vậy mà phòng ngừa sự tản mát của nó thành các cuộc đời phân mảnh, bị biến trở thành bé xíu do các nỗi hoài nhớ bé xíu của chúng; bởi không hề đủ, nỗi hoài nhớ của hai bàn tay, nỗi hoài nhớ của con mắt, khi mà chỉ là đủ, ham muốn của trái tim và của suy nghĩ trong cộng đồng của chúng, ham muốn tổng thể, nhìn ngắm, lắng nghe, chạm vào, hít lấy vô tận từ thế giới bên ngoài và bên trong, trong một nhất thể được làm nên từ một xung động kép. Chỉ nhờ vào toàn thể ấy thì ông mới được cho phép vượt qua sự mù rối tung và không hy vọng của sự phân nhỏ đầy hoảng sợ, chỉ ở nó thì mới được biểu hiện cuộc bừng nở kép kể từ các rễ thuộc tồn tại của hiểu biết, và chính đó là điều ông dự cảm và từng lúc nào cũng dự cảm được. Ôi! nỗi hoài nhớ của kẻ luôn luôn chỉ là một tên xa lạ, nỗi hoài nhớ của người chẳng bao giờ có thể là gì khác ngoài một người xa lạ, nỗi hoài nhớ của con người! Đấy từng lúc nào cũng là dự cảm của tai ông, của hai lá phổi ông, của tinh thần ông, từ đó sự nghe, sự thở và suy nghĩ ùa vào đợt sóng ánh sáng của Cái Toàn Thể, hiểu biết bất khả xâm nhập của Cái Toàn Thể, sự tiến lại gần không thể hiện thực hóa với Cái Toàn Thể vô tận, mà ngay cả diềm xa xôi cũng bất khả xâm nhập, thành thử bàn tay, trong ham muốn nhuốm hoài nhớ của mình, thậm chí còn không dám chạm vào đó. Tuy nhiên, sự tiến lại gần ở bên trong ông; suy nghĩ của ông vẫn cứ là một lắng nghe chăm chú, phồng to lên bởi luồng hơi của sự sống, hướng về phía vực thẳm kép của tầng cầu Vulcan và tầng cầu Poseidon, và ông biết chúng được hội tụ lại bên dưới vòm trời của Jupiter. Người ta có thể hít thở hoàng hôn như không khí, người ta cảm thấy nó, giống hoàng hôn này, được mở về các không gian, người ta cảm thấy nó như thứ chất lỏng nơi thân các con tàu chìm vào, và ấy là một chất lỏng nơi thế giới bên ngoài và bên trong tắm mình, nơi tâm hồn tắm, một chất lỏng bay bổng và trượt đi, nó chảy từ thế giới này sang thế giới bên kia, từ thế giới bên kia sang thế giới này, một chất lỏng của ánh sáng lúc hoàng hôn khiến người ta thoáng thấy lối vào của hiểu biết mà không phải là chính hiểu biết đó, thế nhưng là hé lộ đầu tiên của nó, dự cảm đầu tiên về nó, một dự cảm tăm tối về con đường mà tàu sẽ đi trong bóng tối. Ngay phía trước mũi tàu, một tiếng hát vang lên, được gió đưa về phía ông. Chắc hẳn, những người tụ tập lại ở đó, mà tiếng ồn ĩ đã bị sự im lặng của buổi tối hút vào, có lẽ họ cũng bị dự cảm về cuộc trở về lớn túm lấy, đã sai dẫn tới một trong những nô lệ trẻ tuổi làm công việc nhạc công trên các con tàu: sau một quãng nghỉ ngắn để lên dây cây đàn lyra và một khoảng im lặng ngắn, như nghệ thuật vẫn đòi, giọng của chàng trai kia đã cất lên, và bài hát không tên của người nô lệ trẻ tuổi không tên dịu dàng tỏa ra, bập bềnh như các màu của một cầu vồng trên cái vòm của đêm; sự tỏa rạng, bài hát, sự tỏa rạng, âm nhạc của cây đàn lyra, tinh tế như ngà; cả hai đều là tác phẩm của con người, nhưng vượt qua được nguồn gốc ấy, vượt qua được tầng cầu của con người, chúng thoát đi khỏi nỗi đau đớn và bước vào các tầng cầu trời cao, thứ ê-te đang tự hát. Bóng tối dày thêm, những khuôn mặt trở nên thiếu rõ nét hơn, các bờ nhạt đi, con tàu trở nên thiếu rõ nét hơn, chỉ còn lại cái giọng; nó trở nên rõ hơn và hống hách hơn, như thể nó muốn dẫn con tàu cùng nhịp các mái chèo của tàu đi, cái giọng dẫn đường của một nô lệ trẻ tuổi; nhưng đó đã là một cái giọng mà người ta quên mất nguồn gốc, vì không còn là nó nữa, mà bài hát vốn dĩ được đặt lên chính nó đã trở thành một kẻ dẫn lối: bởi chỉ cái gì được đặt lên chính nó thì mới mở vào vĩnh cửu và có khả năng trở nên một kẻ dẫn lối, bởi chỉ giây phút độc nhất, được rút ra hay nói đúng hơn được cứu khỏi sự trôi chảy của mọi sự mới mở vào vô tận, chỉ những gì mà người ta nắm được - chỉ những gì người ta thực sự nắm, dẫu chỉ là trong một giây phút độc nhất trong đại dương của hàng triệu năm, mới trở thành thời độ phi thời gian, trở thành một bài hát dẫn đường, trở thành một đường dẫn; ôi! chỉ một giây phút của cuộc đời, được mở rộng ra cho tới tận toàn thể, được mở rộng ra cho tới tận vòng tròn của hiểu biết toàn thể, mở vào vô tận! Ôi! chính ông có bao giờ từng có được vòng ôm thực sự dẫn lối như vậy chưa? Tít bên trên bài hát đang tỏa ra, tít bên trên hoàng hôn đang tỏa ra, bầu trời thở, cái bầu trời mà sự êm dịu mùa thu với một luồng sáng hắc chói đã lặp đi lặp lại chẳng chút thay đổi nào từ hàng nghìn năm và hẳn sẽ lặp lại không hề thay đổi hàng nghìn năm nữa - bầu trời duy nhất, tuy vậy, ở vị trí của nó và trong giây phút của nó, và phản chiếu sáng bừng mượt mà cái vòm tròn của nó được phủ lên nỗi im lặng của đêm đang khởi sự.

Lê Công Tăng dịch

favorites
Thêm vào giỏ hàng thành công