Giorgione và Turner
Tiếp tục Ruskin và tiếp tục chủ đề nhìn họa sĩ, kỳ gần nhất ở kia.
Họa sĩ hiện đại – với các nhìn nhận không chỉ về hội họa dựa trên mối quan hệ giữa nghệ thuật với tự nhiên, sự thật, luân lý – vốn là nguồn cho không ít nghệ sĩ như William Morris, các họa sĩ Tiền Rafael, Walter Pater… Thậm chí có thể tìm thấy nơi các mô tả về tranh vẽ cảnh biển của Elstir, họa sĩ hư cấu nổi tiếng của Marcel Proust, các nét trong hội họa của J.M.W.Turner, người vốn xuất hiện xuyên suốt trong tác phẩm của Ruskin.
Modern Painters
- John Ruskin
Phần IX
Chương IX
1. Sinh ra ở giữa núi và biển – chàng George trẻ tuổi của Castelfranco – của Lâu đài Dũng cảm: – George cường tráng, như người ta gọi cậu, George của mọi George, một tràng trai tuyệt đẹp – Giorgione.
Bạn đã bao giờ nghĩ về thế giới mà trước nó mắt cậu mở ra – đôi mắt sáng, kiếm tìm của tuổi trẻ? Cả một thế giới của sức sống hùng mạnh, từ chân núi đến bãi bể; – của cuộc sống đáng yêu nhất, khi cậu đi xuống, dẫu còn trẻ đến thế, thành phố cẩm thạch – và hòa mình vào nó như một trái tim rực lửa?
Một thành phố cẩm thạch, tôi đã nói thế ư? Không, đúng hơn là một thành phố bằng vàng, lát đường bằng ngọc lục bảo. Bởi quả thực, mỗi chóp nhọn và tháp đều lấp lánh hoặc phát sáng, dát vàng, hoặc nạm thạch anh. Bên dưới, biển không tì vết hít vào những hơi thở thật sâu, đều đặn liên lục, những cuộn sóng xanh lục. Sâu thẳm, uy nghi, hùng vĩ như biển, – con người của Venice di chuyển trong nhịp rung lắc của quyền lực và chiến tranh; tinh khiết như những cột trụ ngọc thạch, đứng trên đó là các bà mẹ và các thiếu nữ của thành phố; từ bàn chân lên vầng trán, hoàn toàn cao quý, các hiệp sĩ của nó bước đi; ánh lóe đồng xỉn của bộ áo giáp bị muối biển làm hoen gỉ giận dữ bắn tóe dưới những nếp gấp áo choàng xếp nếp đỏ như máu. Dũng cảm, trung thành, kiên nhẫn, không thể xuyên thủng, – mỗi lời là một định mệnh – làm thỏa lòng thượng nghị viện. Trong hy vọng và vinh dự, được ru ngủ bởi sóng vỗ quanh các đảo cát thiêng, mỗi đảo đều khắc tên và hình thánh giá bên sườn, thành phố yên nghỉ. Một mảnh diệu kỳ của thế giới. Đúng hơn, bản thân nó là một thế giới. Nó nằm dài trên mặt nước, không lớn hơn, như các thuyền trưởng nhìn thấy từ chỗ cột buồm của họ lúc chiều tà, so với một vệt hoàng hôn mãi không chịu tắt; nhưng, bởi quyền năng của nó, hẳn là họ dường thấy như thể đang lướt đi giữa dải rộng thiên đường, và đây là một vùng đất lớn, rìa phía đông trải rộng suốt tầng không. Một thế giới mà mọi lo toan tầm thường và những suy nghĩ nhỏ nhen đều bị xua đuổi, cùng với tất tật mọi yếu tố khốn khổ tầm thường của cuộc sống. Không có sự ô uế, cũng không náo động, trên những con phố rung động kia, dẫu no đủ, hay đổ nát, dưới ánh trăng; chỉ có âm nhạc rầm rì của sự đổi thay hùng vĩ, hay sự tĩnh lặng đến động lòng. Không một bức tường yếu nào có thể vươn lên cao ở đó; cũng không có mái nhà thấp lợp tranh, hay túp lều rơm nào. Chỉ có sức mạnh như đá tảng, và sự hoàn thiện của những viên đá quý nhất. Và bao quanh chúng, xa hết mức tầm mắt với tới được, vẫn là sự trôi chảy êm đềm của dòng nước không vết bợn, tinh khiết đầy kiêu hãnh; chẳng có hoa, cũng chẳng có cây gai hay kế dại nào mọc lên được trên những cánh đồng lóe sáng. Sức mạnh thanh thoát của dãy Alps, như trong giấc mơ, tan biến trong đoàn diễu hành cao vút bên kia bở biển Torcellan; những hòn đảo xanh biếc của những ngọn đồi Paduan, sừng sững phía tây vàng rực. Bên trên, gió lộng và mây rực lửa bay lượn thỏa chí; – ánh sáng đến từ phương bắc, hương thơm từ phương nam, và các vì sao đêm và sáng trong vắt dưới ánh sáng bất tận của vòm trời và vòng vây của biển.
Đó là trường học của Giorgione – đó là nhà của Titian.
2. Gần góc tây nam của Covent Garden, một hố gạch vuông hay là một cái giếng trời được tạo nên bởi một dãy nhà san sát, với những cửa sổ đằng sau để lọt vào vài tia sáng. Lối vào cửa hậu của nó dẫn đến từ Maiden Lane, đi qua một vòm thấp và cổng sắt; và nếu bạn đứng lại đủ lâu dưới mái vòm ấy để mắt quen với bóng tối, bạn có thể thấy bên tay trái một cánh cửa hẹp, trước đây là lối vào yên tĩnh của một tiệm cắt tóc đứng đắn, mà cửa sổ phía trước của nó, nhìn ra Maiden Lane, hiện vẫn còn tồn tại, nhưng vừa được bít kín trong năm nay (1860) bằng một hàng các chai lọ, vốn được chuyển tới từ, bằng cách nào đó đã không còn nữa, một cơ sở nấu bia. Khu phố này cách đây tám mươi năm, như người ta nói, từng thời thượng hơn bây giờ nhiều – và chắc chắn chưa bao giờ là một nơi vui nhộn – nơi một cậu bé ra đời vào ngày St. George, 1775, và ngay sau đó bắt đầu để tâm đến thế giới của Covent Garden, và tận dụng những cảnh tượng cuộc sống nó mang lại.
3. Không thấy hiệp sĩ nào ở đó, cũng không có, tôi tưởng tượng, nhiều quý cô đẹp; trạng phục của họ ít nhất cũng chẳng có gì ấn tượng, phụ thuộc rất nhiều vào mũ và lông, và vòng eo nhỏ; vẻ uy nghiêm của nam giới cũng tương tự như thế hoàn toàn dựa vào khóa giày và tóc giả; – đủ ấn tượng khi Raynolds cố gắng hết sức mình thể hiện; nhưng không gợi lên nhiều niềm vui lý tưởng cho một cậu bé.
“Bello ovile dov’ io dormii agnello:” về những điều đẹp đẽ, ngoài đàn ông và phụ nữ, những tia nắng đầy bụi trên phố vào những sáng mùa hè; những lá cải bắp nhăn nheo ở cửa hàng rau củ; sự tráng lệ của những quả cam trên xe cút kít quanh góc phố; và bờ sông Thames trong ba phút ngắn ngủi.
4. Chẳng có điều gì trong số những thứ này là quá huy hoàng; nhưng dẫu thế nào, đó là điều tuyệt nhất mà nước Anh dường có thể mang lại cho một cậu bé tài năng: kẻ, trước những thứ như thế, đã yêu mến chúng – không bao giờ, thật vậy, quên được chúng. Những vòng eo nhỏ tí đã chỉnh lại các viễn kiến cuối cùng của cậu về lý tưởng Hy Lạp. Tiền cảnh của cậu luôn luôn là một hoặc hai chùm rau xanh mọng nước ở các góc. Những quả cam mê hoặc lấp lánh trong Covent Gardens của Hesperides; và những con tàu lớn vỡ tan thành từng mảnh để rải rác các thùng đựng chúng trên sóng biển. Làn sương sớm mai của bình minh London phủ lên, hết lần này đến lần khác, bầu không trong trẻo của nước Ý; và bên bờ sông Thames, với những chiếc sà lan mắc cạn và những cánh buồm đỏ thắm, thân thương với chúng ta hơn cả hồ Lucerne hay đầm phá của Venice, – bên bờ sông Thames chúng ta sẽ chết.
5. Với hoàn cảnh vây quanh tuổi thơ như thế, chúng ta hãy cùng ghi nhận những ảnh hưởng thiết yếu nào đã tác động lên cậu bé. Tôi cho rằng cậu đã thừa hưởng sự nhạy cảm của Giorgione (và còn hơn cả Giorgione nữa, nếu có thể) đối với màu và hình. Tôi xin nói thêm, và điều này bạn có thể tin tưởng, rằng sự nhạy cảm của cậu với tình cảm và cảnh khốn cùng con người cũng sâu sắc chẳng kém cảm tri của cậu về vẻ đẹp thiên nhiên – tâm hồn cũng sâu sắc như thị giác.
Bởi vậy, cậu gắn chặt mình lối trung thành như tình yêu trẻ thơ với tất tật mọi thứ mang hình ảnh của nơi cậu sinh ra. Bất kể cảnh xấu tới đâu, – liệu nó có gì giống với Maiden Lane, hay bờ sông Thames hay không? Nếu có, nó sẽ được vẽ vì chúng. Bởi vậy, cho đến tận cuối đời, Turner vẫn có thể chịu đựng vẻ xấu xí mà chẳng ai khác, với cùng một tính dễ xúc động, có thể chịu đựng được dù chỉ một khắc. Những bức tường gạch trơ trụi, những ô cửa trống, những loại người như đàn bà chợ búa – bất cứ thứ gì dính nhớp và lấm bùn, giống như chợ Billingsgate hay Hungerford, đã hấp dẫn cậu rất nhiều; những chiếc sà lan đen thủi, những cánh buồm vá víu, và đủ mọi trạng thái khả thể của sương mù.
6. Bạn sẽ thấy lòng bao dung và tình cảm này dẫn dắt hoặc nâng đỡ cậu đến giờ cuối cùng của cuộc đời; đáng chú ý nhất trong những chịu đựng như thế là đối với cái bẩn. Không có người Venice nào từng vẽ bất cứ cái gì bẩn thỉu; nhưng Turner đã dành hết bức tranh này đến bức tranh khác để minh họa những ảnh hưởng của những thứ cáu bẩn, khói, bụi, và bề mặt phủ bụi; mạn thuyền cũ, cỏ cây dại ven đường, những đống phân, bãi rơm, và tất tật mọi nhếch nhác dơ dáy của công việc lao động thường ngày.
Và còn hơn thế nữa, ông không chỉ chịu đựng được mà còn thích thú và tìm kiếm bãi rác, giống như xác tàu đắm Covent Garden sau phiên chợ. Tranh của ông thường đầy ắp những thứ ấy, từ bên này sang bên kia; tiền cảnh của chúng khác biệt với mọi tác phẩm khác ở vẻ tự nhiên mà các vật nằm rải rác trong đó. Ngay cả những cây cối phong phú nhất của ông trong tác phẩm lý tưởng, cũng lộn xộn; và ông thích thú với đá cuội, mảng vỡ rải rác, và những đống đá đổ. Những gì cuối cùng ông từng nói với tôi về một bức tranh là lời tán dương nhẹ nhàng về bức St. Gothard của ông: ”đống đá lộn xộn mà tôi đã cố gắng miêu tả.”
7. Kết quả lớn thứ hai của sự rèn luyện ở Covent Garden này là sự hiểu và quan tâm đến người nghèo, những người mà ở Venice ta thấy bị khinh miệt; những người ấy, ngược lại, Turner yêu mến, và còn hơn cả yêu – ông hiểu. Ông không nhìn họ lối mơ mộng, mà là không hề nhầm lẫn, khi đi loanh quanh, ngắm nhìn những hiệu ứng ban đêm trong những phố lạnh lẽo; không chỉ là người nghèo, mà về người nghèo trong những quan hệ trực tiếp với người giàu. Ông biết, dù tốt hai xấu, cả hai lớp người ấy nghĩ gì, và cách họ chung sống với nhau.
Reynolds và Gainsborough, lớn lên ở làng quê, học được ở đó lý thuyết đáng kính của trẻ con ở quê về “địa chủ,” và giữ chặt nó. Họ khắc họa địa chủ và phu nhân địa chủ như là trung tâm các vận động của vũ trụ, cho đến cuối đời họ. Nhưng Turner nhìn thấy vị địa chủ trẻ tuổi trong các khía cạnh khác ở con hẻm của ông, nổi bật lên giữa khung cảnh đêm, như một bóng đen, hoặc là một trong hai bóng đen, dưới ánh trăng. Ông cũng thấy hoạt động buôn bán của thành phố, từ những nhà kho dài bất tận, cao vút bên sông Thames, đến những phần sau của cửa hiệu trong hẻm, với những con cá trích ôi thiu – thứ này vô cùng thú vị; một trong những người bạn thân nhất của bố ông, mà sau này ông trìu mến viếng thăm ở Bristol, là một người bán cá và thợ nấu keo; điều này khiến chúng ta có một cái nhìn thân thiện về việc câu cá trích, săn cá voi, những bà hàng cá ở Calais, và rất nhiều những chủ đề khác để chúng ta lựa chọn ở kiếp sau; tất tật những thứ này liên quan đến khu rừng bí ẩn bên dưới London Bridge ở một bên; – và bên kia, với những đám đông quyền lực con người và của cải quốc gia đè nặng lên chúng ta, tại Covent Garden này, với một sức ép kỳ lạ, và lèn chặt chúng ta vào Hand Court chật chội.
8. “Khu rừng bí ẩn dưới cầu London” thì tốt cho cậu bé hơn là rừng thông, hoặc lùm sim. Cậu hẳn đã hành hạ những người chèo thuyền thật nhiều, van xin họ cho cậu ẩn nấp đâu đó đằng mũi thuyền, im như một khúc gỗ, chỉ để được lướt đi giữa những con thuyền, vòng quanh chúng, cùng với chúng, bên cạnh chúng, và ở bên dưới chúng, nhìn chòng chọc và leo trèo; – đó là những điều tuyệt đẹp duy nhất cậu có thể nhìn thấy khắp thế giới, ngoại trừ bầu trời; nhưng những thú này, khi mặt trời chiếu sáng trên những cánh buồm, căng phồng hay rũ xuống, bị làm xáo động luôn bởi thủy triều và sức căng của neo, đẹp không tả xiết; những con thuyền ấy cũng là nơi cư ngụ của những tạo vật huy hoàng – những thủy thủ mặt đỏ, cầm ống điếu, trồi lên trên mép thuyền, những kỵ sĩ đích thực, đứng trên bao lơn lâu đài – những sinh vật tuyệt diệu nhất trên toàn cõi London. Và trận Trafalgar diễn ra rất lâu trước khi chúng ta có thể vẽ tàu, tuy nhiên, chúng ta vẫn cố gắng dỗ ngọt tất cả thủy thủ bị thương kể lại những câu chuyện đang thịnh hành, cố gắng hết sức tái hiện cảnh tang lễ của Nelson trôi đi trên sông Thames; và thề rằng trận Trafalgar sẽ được tưởng nhớ vào một ngày nào đó. Việc tưởng niệm ấy, bởi vậy, đã được thực hiện – một lần, với toàn bộ sức mạnh của chúng ta, về cái chết của nó; hai lần, với toàn bộ sức mạnh của chúng ta, cho chiến thắng của nó; ba lần, trong lời vĩnh biệt đầy suy tư cho chiếc Temeraire cũ, và, cùng với nó, cho trật tự của mọi thứ.
9. Giờ đây việc giao du thân mật với các thủy như thế hẳn đã chia thời gian của cậu bé, với tôi dường là vậy, thành hai phần đều nhau giữa Covent Garden và Wapping (dành cho những chuyến đi chơi ngẫu nhiên đến Chelsea ở bên này, còn Greenwich ở bên kia), nơi cậu bé sẽ dành thời gian thoải mái, nhưng không quá xa hoa, vì túi tiền có hạn, và đi đến một kiểu cuộc đời “Poor-Jack” trên sông.
Về một số mặt, không cuộc sống nào có thể tốt hơn thế đối với một cậu bé. Nhưng điều đó không được tính toán để khiến cho tai cậu nhạy với những tinh tế của ngôn ngữ, cũng không định hình đạo đức của cậu trên một chuẩn mực hoàn toàn bình thường. Học được những mẩu tiếng Anh mạnh mẽ đầu tiên chủ yếu ở Deptford và trong các khu chợ, và những ý đầu tiên cậu có về sự dịu dàng và vẻ đẹp phụ nữ là ở giữa các nữ thần trên xà lan và xe cút kít, - một cậu bé khác hẳn đã, có lẽ, trở thành thứ mà người ta thường gọi là “thô tục.” Nhưng tầm vóc và bộ khung của tâm trí Turner từ đầu đã không thô tục, mà gần như là sự kết hợp giữa Keats và Dante, kết hợp sự ngang bướng thất thường, cởi mở mãnh liệt với thú vui tinh tế của giác quan, và sự thách thức nóng hầm hập đối với tiền lệ quen thói, với một sự dịu dàng, hào phóng, và khao khát vô tận đối với công bằng và sự thật – loại tâm trí này không trở nên thô tục, mà rất khoan dung với cái thô tục, thậm chí còn ưa chuộng nó ở một vài hình thức; và, ở bề ngoài, rõ ràng đã bị nhiễm đủ sâu sự thô tục ấy; kết quả kỳ lạ này, bởi sự kết hợp các yếu tố như vậy, đối với hầu hết mọi người hoàn toàn không thể hiểu. Giống như một sợi cáp được bện bằng tơ đỏ thắm như máu, rồi phủ hắc ín bên ngoài. Người ta sờ vào nó, hắc ín bong khỏi tay; những tia đỏ được trông thấy qua lớp phủ đen, tại những chỗ bị kéo căng. Phải chăng màu thổ hoàng? – người ta nói – hay chì đỏ?
10. Được dạy dỗ như thế về cung cách, văn chương, và các quy tắc đạo đức chung tại Chelsea và Wapping, cuối cùng chúng ta phải tìm hiểu về điều quan trọng hơn cả. Chúng ta đã thấy những khác biệt chính giữa cậu bé này và Giorgione, trong sự nhìn thấy cái đẹp, hiểu về sự nghèo đói, về việc buôn bán, và trật tự trong chiến đấu; rồi đến một nguyên nhân khác trong quá trình rèn luyện – không nhỏ, – về khía cạnh tôn giáo, cụ thể, ở khu phố Covent Garden. Tôi nói rằng về khía cạnh ấy; bởi đó là tất cả những gì cậu bé có thể đánh giá. Vốn học chủ yếu bằng mắt, trong vấn đề đặc biệt này cậu thấy rằng thực sực không có cách học nào khác. Bố cậu dạy cậu “tích cóp từng đồng.” Về sự dạy dỗ của bà mẹ, chúng ta không biết; còn về việc giáo dục của một giáo xứ làng quê, độc giả có thể đoán được mức độ.
11. Tôi chọn Giorgione thay vì Veronese trong so sánh này, bởi tôi không tìm thấy trong trong tác phẩm của Giorgione bất kỳ yếu tố quân chủ Venice tiền kỳ nào. Với tôi ông dường ngả nhiều hơn về một trường phái chiêm nghiệm trừu tượng. Tôi có thể nhầm về điều này, nhưng chẳng quan trọng; – giả sử đúng là vậy, và nếu ông ấy đến Venice với thái độ phần nào bất tuân phục, hoặc vô cảm, đối với các giáo lý thông thường của giới tu sĩ vào thời ấy, – thì tôn giáo ở Venice, từ một cái nhìn trí tuệ ở bên ngoài, đối với ông trông như thế nào?
12. Ông hẳn đã thấy đó là một tôn giáo có sức mạnh không thể chối cãi trong các sự vụ con người; thường thì như thế rất tai hại; đôi khi nuốt chửng nhà cửa của các bà góa, và làm tiêu hao những kẻ khỏe nhất và đẹp nhất trong đám người trẻ tuổi; đóng băng chính sách của người già thành sự cố chấp tàn nhẫn: mặt khác, cũng khơi dậy lòng dũng cảm của dân tộc, và nâng lên các tâm hồn, hoặc những gì hèn mọn, trở thành anh hùng: nhìn chung, luôn luôn là một quyền lực thực và vĩ đại; được phục vụ bởi sự hy sinh hằng ngày về vàng bạc, thời gian, và suy nghĩ; đưa ra các tuyên bố, dẫu có đạo đức giả, chí ít cũng là một đạo đức giả trắng trợn, không hề để sót bất kỳ mẩu nào của nó trong nghi ngờ hay sợ hãi; và, chắc chắn, phần lớn là chân thành, tin vào chính bản thân, và được tin tưởng: hơn thế nữa còn là một hệ thống tốt đẹp ở bề ngoài; đẹp lộng lẫy, hài hòa, bí ẩn; – một thứ hoặc phải tuân theo hoặc phải chống lại, nhưng không thể bị khinh miệt. Một tôn giáo sừng sững trên khắp thành phố – rất nhiều cột trụ – rực rỡ với cẩm thạch oai vệ, như mái vòm của Đức Mẹ Che chở tỏa sáng trên biển; cũng có nhiều giọng, mang đến, trên khắp các vùng biển phía đông, cho lính canh khẩu hiệu của họ, cho lính chiến tiếng kêu cứu của họ; và, trên môi tất tật những kẻ đã chết vì Venice, hình hài tiếng thì thầm của cái chết.
13. Tôi cho rằng cậu bé Turner cũng đã xem xét tôn giáo thành phố của cậu từ điểm nhìn của một trí tuệ đứng bên ngoài.
Cậu đã thấy gì ở Maiden Lane?
Độc giả xin đừng phật ý vì tôi; tôi sẵn lòng để anh ta mô tả, tùy ý mình, những gì Turner đã thấy ở đó; nhưng với tôi, chuyện dường là thế này. Một tôn giáo thỉnh thoảng được giữ vững, suốt toàn bộ chiều dài con hẻm, bởi đầu cây gậy cảnh sát; nhưng đôi khi cũng được đặt dưới sự giám sát của người giữ đồ thánh, đằng sau những lan can sắt đen chẳng trang trọng của nhà thờ St. Paul, Covent Garden. Giữa những chiếc xe cút kít và trên các luống rau, không có sự thống trị rõ rệt nào của tôn giáo; trong những phố hẹp, náo nhiệt, cũng không; trong ngôn ngữ, hành động, nếp sống thường nhật của Maiden Lane, rất ít. Quả thực, cũng có phần nào đó trung thực, một sự cần cù kiểu Anh, lòng tốt, và ý niệm chung về công lý; nhưng đức tin, dù của bất kỳ sắc dân nào, đều bị đóng chặt từ Chủ nhật này sang Chủ nhật khác, không hề đẹp đẽ về mặt nghệ thuật ngay cả trong những buổi triển lãm ngày Sabbath; các phụ tùng linh tinh chủ yếu là các hàng ghế cao, lối diễn thuyết nặng nề, và thái độ lạnh lùng không thể lay chuyển.
Dẫu vậy thì những mảng sáng tối của nó – phụ thuộc chủ yếu vào ánh sáng nến – chúng ta sẽ vẽ cách thận trọng; không có sự tốt đẹp nào của huy hiệu, hay tư cách đáng tôn trọng nào bị bỏ sót, và những kết quả tốt nhất của chúng được thừa nhận, một bà già hiền lành và một đứa trẻ được đưa vào một băng ghế, việc đọc sách dưới ánh nến sẽ có ích.[1]
14. Về phần còn lại, tôn giáo này đối với cậu dường rất đáng ngờ - mất uy tín – không tin vào chính bản thân nó, thể hiện quyền lực của nó theo lối hèn nhát, thử xem nó có thể được chịu đựng đến mức nào, liên tục co cụm, chối bỏ, cản trở, giở mánh khóe; tự chia rẽ, chẳng phải bởi những kẽ hở ghê gớm, mà ở những vết nứt rất mảnh, và những mảng thạch cao bị xé rời khỏi tường. Không phải để cho một thanh niên thiếu hiểu biết nhưng sáng suốt tuân theo hay chống đối; chỉ để bị khinh miệt. Và lại không đáng khinh một chút nào, dù mái vòm dành riêng cho nó hiện ra cao vút trên dòng uốn lượn đằng xa của sông Thames; bởi tháp chuông nhà thờ St. Mark vươn lên, một mốc đẹp tuyệt, trên ảo ảnh của đầm phá. Bởi nhà thờ St. Mark đặt quy tắc cho cuộc sống; vị thánh của London thống trị cái chết; St. Mark thống trị quảng trường St. Mark, nhưng St. Paul thống trị nghĩa trang St. Paul.
15. Dưới sự ảnh hưởng như vậy những giờ phút suy tư đầu tiên của cuộc đời trôi qua, với những kết luận mà chúng có thể chạm đến được. Sau một cơn bệnh, cậu được đưa đến – tôi không chắc là năm nào – sống với một bà dì, ở Brentford; và ở đây, tôi tin, cậu được học hành một chút, và dường đã nắm bắt rất nhanh; có kiến thức, ít nhất là thông qua sự truyền đạt lại, về các tác giả cổ điển đẹp như tranh vẽ mà ông đã nhanh chóng áp dụng, như chúng ta sẽ thấy. Cũng bởi vậy, những chuyến dạo quanh Putney và Twickenham vào mùa hè đã giúp ông làm quen với quang cảnh đồng cỏ nước Anh trong những khu vực bị giới hạn bởi bãi cỏ và công viên; làm quen với những cây tròn trịa, lối vào uy nghiêm những ngôi nhà nổi bật: đại lộ ở Bushy, và cổng sắt cùng cột trụ chạm khắc ở Hampton, dường gây ấn tượng với cậu với nỗi kính sợ và ngưỡng mộ lớn; bởi vậy sau này ngôi nhà nhỏ vùng quê của cậu – trong số tất tật mọi nơi trên thế giới – nằm ở Twickenham! Từ những con thiên nga và bờ biển đầy lau sậu giờ đây cậu học được chuyển động nhẹ nhàng và bí ẩn xanh lục, theo cách không thể nào quên.
16. Vậy là rốt cuộc vận may đã định rằng cuộc sống đích thực của chàng trai sẽ bắt đầu; vào một tối mùa hè, sau những trải nghiệm tuyệt vời trong chuyến xe ngựa trên con đường phía bắc, việc rồi sẽ mang lại cho cậu tình yêu những chuyến xe ngựa mãi mãi về sau, cậu thấy mình đang ngồi một mình giữa những ngọn đồi Yorkshire.[2] Lần đầu tiên ấy, sự tĩnh lặng của Tự nhiên xung quanh cậu, tự do của nó được trao cho cậu, vinh quang của nó mở ra trước cậu. Cuối cùng cũng bình yên; không còn tiếng bánh xe lăn, cũng không còn những thì thào sưng sỉa ở mặt sau các cửa hiệu; chỉ còn tiếng chim dẻ giữa không gian thiên đường, và sự trôi chảy của dòng suối ngân lên như tiếng chuông bên tảng đá râm mát. Cuối cùng cũng tự do. Tường đổ, lan can tối xỉn, cánh đồng bị rào chắn, khu vườn có cổng, tất tật biến đi như trong giấc mơ của một tù nhân; và kia, ở đằng xa nơi chân có thể rảo tới và mắt còn nhìn thấy được, đồng cỏ, và mây. Vẻ đẹp, rốt cuộc. Nó đây, giữa những thung lũng hoang vắng! Không ở giữa con người. Những khuôn mặt nhợt nhạt, nghèo đói, hay tàn nhẫn ấy – nhân loại đông vô kể, thảm hại ấy – không phải là những thứ duy nhất Chúa đã tạo ra. Đây là thứ gì đó Ngài đã tạo ra mà không ai làm hỏng được. Niềm kiêu hãnh của các rặng đá tím, và những dòng sông xanh biếc, và vùng hoang dã dịu dàng của những hàng cây lấp lánh sáng, và những ánh đèn mờ ảo của buổi chiều trên những ngọn đồi mênh mông.
17. Đẹp, tự do, và yên bình; và còn có một người thầy khác, trang nghiêm hơn tất thảy. Ở đây rốt cuộc cũng vang lên bài giảng đúng đắn, ở hầm mộ Kirkstall, về số phận và cuộc sống. Ở đây, nơi hồ nước tối tăm phản chiếu những cột trụ thánh đường, và gia súc thảnh thơi nằm nghỉ, ánh nắng dịu nhẹ trên cơ thể lốm đốm của chúng, thay vì bộ lễ phục các tu sĩ; bộ lông thú trắng của chúng hơi gợn, dập dờn, bởi gió chiều, thoảng mùi xạ hương đồng cỏ.
18. Hãy suy xét thật sâu về ý nghĩa của điều này đối với cậu, lần đầu tiên câu trông thấy cảnh điêu tàn, và so sánh nó với hiệu ứng của kiến trúc trong tranh Giorgione. Quả thực có những tòa nhà cổ kính, ở Venice, vào thời của ông, nhưng chúng không đổ nát. Mọi phế tích đã bị gạt bỏ, và chỗ của chúng được lấp đầy cũng nhanh chóng như ở London của chúng ta; nhưng luôn được lấp đầy bởi kiến trúc cao cả và kỳ vĩ hơn những gì vốn chiếm chỗ, bản thân họa sĩ cũng vui vẻ làm việc với các bức tường của nó; đến nỗi ý về sự tàn lụi của sức mạnh con người và vẻ đẹp các công trình của họ không bao giờ xuất hiện trong đầu ông một cách nghiêm trang. Những thành phố của Ý trồi lên và mở rộng trên đồi và đồng bằng ngày càng rực rỡ hơn, trong ba trăm năm. Ông chỉ thấy sức mạnh và sự bất tử, không thể nào không vẽ cả hai; tưởng tượng hình thức của con người là bất tử, bình thản với sức mạnh, và rực cháy với sự sống.
19. Turner lại nhìn thấy điều chính xác ngược lại. Trong công việc hiện tại của con người, sự hèn hạ, không mục đích, khó coi: những ngôi nhà đất vách mỏng, lát ván, gác hẹp; những cái rạp của một Vanity Fair u ám, thấp kém đầy bận rộn.
Nhưng trên đồi Whitby, và bên suối Bolton, vẫn còn dấu vết của những công trình làm bằng tay người. Những con người có thể xây dựng đã ở đó; và họ cũng đã làm việc, không chỉ cho mỗi thời của họ. Nhưng nhằm mục đích gì? Niềm tin mạnh mẽ, đôi tay vững vàng, tâm hồn nhẫn nại – vậy thì, liệu đây có thể là tất cả những gì bạn để lại! đây là tổng số những gì bạn làm trên trái đất! – một cái tổ nơi cú đêm có thể rên rỉ tìm suối, và một bộ xương của mái vòm đã bị thiêu rụi, thoáng hiện trên những tầng sương mù ảm đạm, từ vách đá xuống biển?
Giống như sức mạnh của con người hiện ra trước Giorgione, chỉ còn sự yếu đuối và hèn hạ của họ là có thể thấy rõ đối với Turner. Bản thân họ, chẳng xứng đáng hoặc chóng tàn; công việc của họ, đáng khinh hoặc rữa nát. Trong mắt họa sĩ Venice, mọi vẻ đẹp đều phụ thuộc vào sự hiện diện và lòng kiêu hãnh của con người; trong tranh của Turner, vẻ đẹp phụ thuộc vào sự cô độc cậu đã bỏ lại, và nỗi nhục mà cậu đã chịu.
20. Và như thế số phận và chủ đề tất tật tác phẩm của cậu đã ngay lập tức được định đoạt. Cậu phải là một họa sĩ vẽ nên sức mạnh của tự nhiên, không có vẻ đẹp ở đâu khác ngoài đó; cậu phải vẽ sự lao động, nỗi buồn và suy tàn của con người; đây chính là sự thật lớn về loài người hiển hiện với cậu.
Công việc nặng nhọc, nỗi buồn, và cái chết của họ. Hãy ghi nhớ ba thứ này. Công việc nặng nhọc; trên nước và đất, nơi đồng ruộng và thành phố, ở lò rèn và lò nung, bên bánh lái tàu và bên cái cày. Không một sự biếng nhác mục đồng hay niềm kiêu hãnh cổ xưa nào đứng chắn giữa cậu và sự hỗn loạn của thế giới; càng không phải chắn giữa cậu và công việc khổ nhọc của đất nước cậu – nước Anh mù, đau khổ, không biết mệt, kỳ diệu.
21. Cũng như Nỗi buồn của họ; Tàn tích mọi công trình vinh quang của họ, sự lụi tàn những suy tư và danh dự của họ, ảo ảnh của niềm vui, Ngụy tín của Hy vọng; cỏ dại mọc trên bậc thềm đền thờ; sóng vỗ trên bãi biển vắng; tiếng khóc than của bà mẹ cho những đứa trẻ, sầu não vì đứa con đầu lòng của bà thở hổn hển trên phố,[3] những đứa con bị giết, giữa đám thú vật ngoài đồng.[4]
22. Và Cái chết của họ. Lại là câu hỏi Hy Lạp cổ xưa ấy; – vẫn chưa có lời giải đáp. Bóng ma bất khả chiến bại vẫn lướt đi giữa những tán cây rừng lúc nhập nhoạng tối; nhô khung xương trên bờ cát biển; – màu trắng, một Aphrodite kỳ lạ, trồi lên từ bọt biển; duỗi ra những cánh xám chẻ đôi giữa các tầng mây; biến ánh sáng hoàng hôn của chúng thành máu. Cảnh này cần được xem xét kỹ, và trong một hình hài khủng khiếp hơn nhiều so với những gì Salvator hay Durer từng trông thấy. Sự sụp đổ của một đất nước tội lỗi không thể luận ra sự điêu tàn của tất tật mọi đất nước khác, và không nhất thiết gây ra nỗi kinh hoàng chung có liên quan tới các quy luật của vũ trụ. Sự nối tiếp nhau cách rập khuôn và hạn hẹp của niềm vui và nỗi buồn trong nội bộ một cộng đồng người Đức nhỏ bé cũng không làm nảy sinh đòi hỏi về sự rộng, hay về bất kỳ hình dạng nào không được giải quyết, trong tâm trí của Durer. Nhưng cái chết của người Anh – cái chết của châu Âu thế kỷ mười chín – lại mang một phạm vi và sức mạnh khác; khủng khiếp gấp ngàn lần sự kìm kẹp và nỗi đau thuần về thể xác; khủng khiếp hơn, không thể đong đếm, về sự bí ẩn và tủi hổ của nó. Nỗi dằn vặt ngẫu nhiên của tên cướp, hay cơn thịnh nộ của cuộc giao tranh chớp nhoáng, có là gì so với công việc của rìu, gươm, và nạn đói, vốn diễn ra suốt thời niên thiếu của con người này trên khắp các ngọn đồi và đồng bằng thuộc lãnh thổ Cơ Đốc giáo, từ Moscow đến Gibraltar. Cậu mười tám tuổi khi Napoleon trừng phạt Arcola. Nhìn vào bản đồ châu Âu, và đếm những vệt máu trên đó, ở giữa Arcola và Waterloo.
23. Không chỉ riêng những vệt máu trên tuyết dãy Alps, và sắc lam của đồng bằng Lombard. Cái chết của người Anh cũng hiện ra trước mắt cậu. Không phải là cái chết tử tế, có thể tính toán, được an ủi; không phải sự ra đi để được yên nghỉ như những người dân thành thị cao tuổi của thị trấn ở Nuremberg. Không có đám rước lịch thiệp đến nghĩa trang giữa các cánh đồng, những huy hiệu bằng đồng hằn sâu trên bia tưởng niệm, và tiếng chim chiền chiện hót bên trên họ ở giữa cánh đồng ngô. Nhưng cuộc sống bị chà đạp trong bùn lầy đường phố, bị nghiền nát thành bụi giữa tiếng gầm bánh xe, vô số lần bị quẳng vào cơn gió đông hút hét dọc suốt năm trăm dặm bờ biển lởm chởm đá. Hoặc, tệ hơn hết thảy, mục ruỗng dưới những nấm mồ bị lãng quên sau nhiều năm kiên nhẫn chẳng ai biết, và vô vọng tìm kiếm sự giúp đỡ con người, tìm kiếm nơi Chúa – nỗi khát khao yếu đuối, bất toàn, như những trẻ mồ côi mẹ chết đói lúc bình minh; hoàng tộc bị áp bức của tư tưởng giam cầm, những cơn rét run chập chờn của nỗi tuyệt vọng ảm đạm, kinh hãi.
24. Một bức tranh phong cảnh tuyệt đẹp, dành cho chàng trai để vẽ, và dưới một ánh sáng tuyệt đẹp. Ánh sáng đủ rộng, và đủ trong; không còn vực thẳm gớm ghê của Salvator trên đường chân trời lởm chởm, hay những đốm nắng lập lòe ngả trên hàng rào và cánh đồng; mà là ánh sáng bao trùm khắp thế giới. Quả cầu khiếp hãi giờ đây sáng rực, một nhà xác nhợ nhạt – quả cầu rải rác tro người, sáng lóe trong sự lắc lư cân bằng dưới ánh mặt trời, tất tật trắng lóa mắt với cái chết từ cực này đến cực kia – cái chết, không chỉ của vô số thân xác khốn khổ, mà còn của ý chí, lòng thương xót, và lương tâm; cái chết, không giáng xuống xác thịt một lần, mà hàng ngày, bám chặt vào tinh thần; cái chết, không im lặng hay nhẫn nại, chờ đợi giờ định đoạt, mà vang dội, đầy nọc độc; cái chết với lời chế nhạo, cú siết thiêu đốt, và vết chích hằn sâu.
“Hãy tra lưỡi hái vào, vì mùa gặt đã đến.” Lời chúng ta thuộc lòng này liên tục vang lên với những người gặt lúa hơn là với các thiên thần – với những bộ xương bận rộn không bao giờ biết mệt vì phải cúi xuống. Khi cái xấu đã đầy, và dường như một ngày nào đó sẽ xuất hiện sự ăn năn và cứu rỗi, – “hãy tra lưỡi hái vào.” Khi cuộc sống trẻ trung đã bị hủy hoại hoàn toàn, và đôi mắt vừa mở ra đã thấy những dấu vết của hủy diệt, và một quyết tâm yếu ớt dâng lên trong tim hướng đến những điều cao quý hơn, – “hãy tra lưỡi hái vào.” Khi những đòn nghiệt ngã nhất của số phận đã được chịu đựng thật lâu và đầy dũng cảm, và bàn tay chỉ cần vươn ra nắm lấy mục tiêu, – “hãy tra lưỡi hái vào.” Và khi chỉ còn lại rất ít trong một dân tộc, để bảo vệ, hay để hạy, hay để yêu mến; và tất cả sự sống của nó được gói gọn trong vài bông lúa vàng, – “hãy tra lưỡi hái vào, hỡi những người gặt yếu ớt, và đổ tràn chất độc cần cho bữa tiệc thu hoạch ở nhà.”
Đây là cảnh tượng mở ra trước đôi mắt trẻ trung, đây là khẩu hiệu vang lên trong trái tim của Turner thời trẻ.
Được dạy dỗ như vậy, và được chuẩn bị cho công việc nhọc nhằn cả đời, cuối cùng chàng trai được ngồi một mình trên các ngọn đồi nước Anh; và bắt đầu vẽ, với sự lao động cần mẫn, những tảng đá, những cánh đồng, những dòng suối róc rách, và những đám mây trắng mềm của thiên đường.
[1] Liber Studiorum. “Nội thất nhà thờ” (Turner). Điều đáng chú ý là Giorgione và Titian luôn vui mừng khi có cơ hội vẽ các tu sĩ. Giáo hội Anh có lẽ nên chấp nhận nó như một lời chúc mừng bởi đây là lần duy nhất Turner vẽ chân dung một mục sư.
[2] Tôi không có ý nói đây là lần đầu cậu làm quen với vùng quê này, mà là lần đầu cậu ấn tượng và cảm động, sau khi trí óc cậu đã được khuôn định. Những phác thảo từ rất sớm tôi tìm thấy trong bộ sưu tập quốc gia đều là ở Clifton và Bristol; tiếp theo đó là ở Oxford.
[3] “The Tenth Plague of Egypt.”
