favorites
Shopping Cart
Search
Vitanova
Prev
Hạ 2025
Next

Elsa Morante: Aracoeli (phần 4)

11/06/2025 14:59

Phần 1
Phần 2
Phần 3

 

Và giờ đây, ở Andalusia, cũng như ở Milan hay bất cứ nơi nào khác, thật muộn màng và điên rồ nếu còn mong đợi điều gì từ những người sống ngoài sự dửng dưng đối với tôi; mà tôi cũng chẳng mong gì khác. Thật vậy, tôi còn biết ơn sự dửng dưng ấy vì nó cho phép tôi lặng lẽ đi ngang qua họ như một cái bóng vô tri. Trên chuyến xe buýt rời khỏi sân bay nhỏ hướng về trung tâm Almería, tôi ngồi một mình, như trước đó trên máy bay, ở hàng ghế cuối, tách biệt. Tôi không còn muốn nghe những tiếng hôn chụt chụt hay những lời đối thoại âu yếm; và tôi cất lại kính vào túi áo khoác để những hành khách khác trên chuyến xe chỉ còn là những bóng ma vô hình dạng. Bên ngoài khung kính bị mưa phủ mờ, thi thoảng tôi lờ mờ thấy những cánh tay của cây giang ra, bị gió quật mạnh, dọc theo một con phố hẻo lánh, có lẽ là một con đường quê chỉ được rọi sáng bằng đèn pha xe buýt. Ở Milan, trước khi đi, tôi đã ghi lại địa chỉ một khách sạn rẻ tiền (loại một sao) không xa cảng và trung tâm thành phố. Nhờ tấm bản đồ nhỏ của mình, tôi tìm được nơi đó không mấy khó khăn.

Trong tiền sảnh hẹp của khách sạn, tôi được đón tiếp bởi một ông lão đang ngồi sau quầy nghe radio bán dẫn. Tôi đưa cho ông ta túi xách và hộ chiếu, chẳng buồn nhìn căn phòng sẽ chứa tôi qua đêm. Trong lúc đó, tôi cảm thấy buồn tiểu; tuy nhiên, một loại nghi thức ngẫu phát nào đó đã phán quyết, đúng vào khoảnh khắc ấy, rằng tôi phải dâng dòng nước tiểu đầu tiên cho biển Almería. Thường khi tôi tự ép mình thực hiện những hành động bắt buộc như thế, một kiểu tống tiền mang năng lực phù phép vi tiểu, thứ quyền năng đen, vô tri giác và vô cớ, nhưng đe dọa sẽ trừng phạt nếu tôi bất tuân.

Ông lão sau quầy, có nét hao hao những giáo hoàng thời trung cổ, phồng to hai lỗ mũi rậm lông khi ông ta nói, để chỉ về phía cảng chỉ cách khách sạn vài chục thước nhưng hầu như mù mịt trong thời tiết xấu. Mũ trùm của chiếc áo khoác gió bằng vải dầu không đủ che tôi khỏi cơn mưa ngày càng nặng hạt, những giọt nước nhỏ xuống mặt tôi, làm mờ kính. Nhưng khi tôi bước vào khu cảng, tôi bất chợt nhận ra, bằng một chớp loé, rằng Aracoeli đã từng đi qua nơi này, và giờ đây đôi chân tôi bước lại những bước chân nhỏ bé của bà ngày ấy.

Ngay cả khi đã đeo kính tôi cũng không phân biệt nổi đâu là lằn ranh giữa đất và nước. Ngoại trừ một khối bóng to, phổ rộng mà tôi đoán là cầu cảng, những công tua cong của vài chiếc xà lan đen, toàn bộ vùng đất và nước hiện ra trước mắt như một mặt phẳng hóa đá duy nhất. Bến cảng chìm trong bóng tối, từ những đám mây chỉ có một ánh sáng thoi thóp rọi xuống, phản chiếu lại sắc xám y hệt phiến đá khổng lồ kia. Sau vài bước dò dẫm phân vân tôi thấy chân mình dẫm vào một vũng nước nông, có lẽ là nước mưa đọng; và chính tại đây, tôi đi tiểu, một hành động mà ngay khi đang thực hiện, tôi bất chợt hiểu ra ý nghĩa ẩn tàng của cái “nghi thức được phán truyền” (dù tôi đã thực hiện một cách cẩu thả). Đó là một tuyên ngôn sở hữu kiểu đực tính, cũng chính là thứ nghi thức ấy toan truyền đạt. Một trong những dấu hiệu quen thuộc của loài thú du mục: “Đánh dấu: Lãnh địa của ta bắt đầu từ đây.” Nó tương ứng với tiếng hót của loài chim vào mùa làm tổ; và vào khoảnh khắc ấy tôi có cảm giác rằng mình từng sử dụng chính dấu hiệu bản năng ấy trong những xung đột trẻ con nào đó có Chúa mới biết (trong giấc mơ chăng?) Một luồng khoái chí bất đồ sượt qua tôi. Và thính giác u tối nơi nội tâm, thứ mang về các giọng của người chết, đã khiến tôi nhận ra giọng của một người mà tôi chưa từng biết lúc sinh thời: cậu Manuel. Thời điểm hy sinh trong cuộc nội chiến, cậu còn chưa kịp lớn hết vóc người; nhưng giọng kia còn mang âm sắc non nớt hơn khiến tôi lẫn lộn với chính giọng mình hồi mới dậy thì, xanh và sắc lẻm. Thế nhưng không thể lầm được, chính là cậu, ngay cả qua mùi cũng có thể nhận ra, mùi của một muchachuelo, một cậu bé sống phần lớn thời gian ở ngoài trời. Và cậu đang đến để phản đối hành vi chiếm lãnh thổ của tôi. “Chính ta,” cậu tuyên bố, “đã đái ở đây trước!” Mắt tôi nhắm lại, tôi lại thấy cậu một lần nữa, sau vô số lần tưởng tượng về cậu. Manuel Muñoz Muñoz, người ký và viết tất cả số bưu thiếp gửi từ Almeria (bởi trong nhà cậu là người duy nhất biết viết). Có lẽ cậu cũng từng viết bậy lên tường, đọc truyền đơn, và có khi cả báo chí, cũng như thuộc lòng các khu ổ chuột, bến cảng và những đấu trường bò tót (“Em mẹ gan lắm; mỗi lần chơi đấu bò thì cậu ấy luôn luôn là tay kiếm chính, lớn lên cậu ấy sẽ trở thành một đấu sĩ thực thụ, hoặc nhà thám hiểm, hoặc tài xế xe tải”). Cậu sớm có máu hiếu chiến, dù tối nay chỉ hiện về như một thằng bé chẳng có bất cứ vũ khí nào trong tay. Gương mặt cậu gần như giống hệt chị gái (“Mẹ và cậu tuy hai mà một, được đúc ra từ một khuôn”), chỉ khác ở cái đầu cạo tróc theo lối cũ của đám trẻ chưa lên mười lăm. Đó chính là cậu và, tôi cũng chẳng tranh cãi quyền của cậu. “Vua xứ Almería” tôi sẽ gọi cậu như vậy, nếu cậu thực sự trở về bằng xương bằng thịt và đứng đối diện tôi nơi mép vũng nước này, hay “Thân vương và Bá tước của cả Sierra lẫn El Almendral.” Và tôi cũng sẽ không ngần ngại nói với cậu rằng: “Lãnh thổ này là của cậu.” “Của ta cũng là của cháu,” hẳn cậu sẽ đáp lại như vậy theo lối cư xử hào hiệp của những quý ông Tây Ban Nha. Và chúng tôi sẽ nhận ra nhau là máu mủ, phi biên giới, phi khác biệt, cùng tuổi, như sinh đôi. Giống như trẻ thơ, bởi một người từ cõi chết trở về thì chẳng nên màng đến tuổi tác hay phân loại xấu đẹp.

Mưa càng lúc nặng hạt, rỉ vào bên trong lớp mũ trùm đầu; và khi tôi nâng mí mắt lên, bến cảng - qua cặp kính lấm tấm nước - tan chảy thành một khối đẫm sương, từng lúc lại bị hàm của đêm tối nuốt chửng. Quần bò đã sũng nước, dính cứng vào da thịt; chân tôi rũ lạnh trong đôi giày, và cơn cóng thuộc về mùa đông thấm dần vào xương cốt. Dĩ nhiên đây chẳng phải cái đêm Andalusia như trong tưởng tượng của người phương Bắc (hay chính tôi cũng từng mê muội nghĩ rằng ở Andalusia quanh năm chỉ có mùa hè?) Nhưng với tôi thế này tốt hơn nhiều. Thật khủng khiếp nếu tôi phải đặt chân xuống cái bến cảng nổi tiếng in trên bưu thiếp, nơi vịnh ngọc lam lóng lánh nằm dưới bóng Cổng Vàng, trong khi tất tật bọn họ đều đã vắng mặt. Thực ra, với họ, nơi này là đất lạ; còn với tôi, nó là sa mạc. Và nếu họ, vốn vô hình trước mắt tôi, lại hiện hình, thì ngược lại, hẳn họ sẽ thấy tôi thật nực cười: một kẻ đeo kính, loạng choạng bước quanh, long trọng thực hiện một nghi thức tiểu tiện mang tính thánh hóa rồi nhắm nghiền mắt giữa cõi trống không. Không nghi ngờ gì, nếu người chết có dõi theo chúng ta, thì hẳn họ đang cười nhạo chúng ta.

Tôi quyết định quay lại lối cũ. Ở phía đối diện của bến cảng, bên kia những thân cây cao lêu nghêu trông như cây cọ lấp ló những ánh lửa điện thưa thớt, một dãy đèn đường và khung cửa sáng đèn, chắc là quán rượu. Thực vậy, tôi nghe thấy những đoạn nhạc rẻ tiền, và khi đến gần, tôi nhận ra đó là những bản thu âm giống hệt như trong các máy jukebox ở Milan. Con đường dày đặc xe chuyển động, tôi không thực sự nhìn thấy được, mà chỉ cảm nhận qua tiếng của lốp xe trên mặt nhựa, những vệt âm vun vút méo mó dưới mưa. Tôi không ngờ lại có nhiều xe đến thế ở Almeria, nhất là ngoài mùa du lịch; nên tôi đoán hẳn có một cuộc tụ họp nhuốm màu sắc yêu nước nào đó - một lễ kỷ niệm, hoặc một vụ ám sát, hay là... tướng Franco chết rồi? Tôi gần như thấy được, lắc lư phía trên mui xe, những ngọn cờ đen thẫm hoặc màu của quốc kỳ; nhưng như thường lệ, đó chỉ là ảo ảnh do đôi đồng tử tật nguyền và cặp kính méo mó, ướt nhòe của tôi tạo ra. Thực ra, hẳn đó chỉ là những biển đèn neon trên bức tường phía đối diện, cùng với những ăng-ten, cột điện hay bóng cây vụt qua, đổ bóng lên nền xi măng. Đến đây, tôi lại tự hỏi một câu quen thuộc trong những tình huống như thế này: chẳng phải đã đến lúc tôi sắm cho mình một cây gậy trắng, như của người mù sao? Giống như ở Milan, việc băng qua vỉa hè bên kia ở đây cũng là một canh bạc sinh tử đối với tôi. Anda niño anda. Và như thường lệ, tôi lao vào cuộc hành trình nửa mù ấy như thể đi đến chỗ va đập, hay như một hành vi thách thức, lập tức trở thành mục tiêu cho những ánh đèn pha giận dữ và tiếng còi trách móc bủa vây. Mỗi lần, khi bàn chân tôi chạm đến vỉa hè mà không hề hấn gì, tôi đều thấy kinh ngạc trước Vận May luôn luôn tha mạng cho tôi.

Một tiếng chuông từ đâu đó trên cao vừa điểm giờ, tôi chẳng buồn đếm xem có bao nhiêu tiếng. Tôi cũng không nhìn rõ giờ trên đồng hồ đeo tay; dù sao chắc cũng đã đến giờ ăn tối. Trên khung cửa kính của các quán rượu, ngay sát tầm mắt tôi, hiện ra các dòng chữ mời gọi: PESCADOS, MARISCOS, BOCADILLOS; nhưng tôi không thấy đói. Tôi chỉ khát một thứ rượu mạnh nhưng những quán rượu ấy, với thứ âm nhạc hỗn loạn phát điên bên trong, khiến tôi gớm tởm. Rẽ qua góc phố, tôi bước vào một đại lộ rộng lớn, nơi dòng xe kỳ dị còn dày đặc hơn cả con đường Paseo dọc bến cảng. Những lối vào cao và hào nhoáng của mấy tòa nhà gần đó mở ra những sảnh lớn sáng choang: có thể là rạp hát, rạp chiếu phim hạng sang, hoặc khách sạn bốn hay năm sao. Ngay lập tức tôi rút lui về mấy con phố nhỏ khu trung tâm, cố tìm một quán rượu yên tĩnh để lánh tạm và uống chút gì đó; nhưng ở đây cũng vậy, từ mấy quán nhỏ lẻ tẻ,  một thứ âm thanh cơ giới, hỗn tạp của nhạc rẻ tiền và ti vi gào rú lại bùng ra ngay khi tôi vừa ghé mắt qua cửa, như một bầy lũ thù địch nhất loạt khước từ và đẩy tôi trở ra vỉa hè. Từ cửa sổ của mấy quán ấy (PESCADOS, MARISCOS, BOCADILLOS), khói cùng mùi chiên lọc ra ngoài, mùi cá rán phảng phất. Và sâu bên trong, giữa đám khói, tôi thoáng thấy một cảnh hỗn độn của đầu người và tay chân vung vẩy trong một điệu bộ lễ hội lố lăng. Ở đây cũng vậy, như ở khắp mọi nơi, giữa kẻ giàu và kẻ nghèo, giữa cách mạng và bảo hoàng, giữa Phát xít, Cộng sản hay ôn hòa, tôi vẫn chỉ là một kẻ ngoại lai.

Những con hẻm nhỏ tôi đang đi qua không chỉ nghèo nàn mà còn bẩn thỉu. Nền lát bị gián đoạn bởi những hố trũng nơi nước mưa đọng. Trong ánh sáng thưa thớt, thỉnh thoảng tôi bắt gặp, ngang tầm mắt, một khoảng tường bị thời gian gặm mòn, loang lổ những vết bẩn, hoặc cánh cửa gỗ mục, hé mở dẫn vào một lối đi vô hình. Trong lúc đó, mưa đã gần như tạnh, tôi gạt mũ trùm ướt sũng ra phía sau và lau kính bằng chiếc áo lót len bên trong áo khoác. Quanh đây hầu như không có người qua lại, cũng hoàn toàn không có xe cộ. Trên mái các ngôi nhà - tất cả dính sát vào nhau, cao thấp lổn nhổn - những chiếc ăng-ten truyền hình nhô lên như bụi cây đen khô. Từ bên trong các căn phòng, ngay cả khi cửa sổ đã đóng, những giọng nói công nghiệp phát ra từ tivi vẫn đập vào các con hẻm, vọng dội từng bước một. Một khoảng lặng thoáng qua, rồi một cơn bão tiếng súng và những tiếng thét ghê rợn bùng lên, tiếp đó là một hồi còi dài: hẳn là người ta đang chiếu phim hình sự. Cùng lúc đó, một người phụ nữ bật tung một ô cửa sổ thấp gọi “Manola! Manola!” rồi lập tức đóng sầm lại. Cuối con hẻm, tôi nhìn thấy, bị chôn lấp một nửa giữa hai tòa nhà, tàn tích của một ngôi nhà cao vừa phải, gần như hoàn toàn sụp đổ vì bị phá bỏ hoặc đổ nát theo thời gian. Một phần vẫn còn trụ lại, không có mái, với đoạn cầu thang đá nửa chìm dưới mặt đất; và khoảng trống còn lại hiện lên trước mắt tôi một cách lạ lùng, đen ngòm và sâu như giếng. Cách đó không xa, nằm trơ trọi giữa một khoảng đất trống, tôi bắt gặp một phế tích khác, cũng giống như cái trước, bị ăn bào theo thời gian. Và trong sự lưỡng lự, tôi tự hỏi liệu những tàn tích này có từ thời Nội chiến xa xăm ấy không. Lại trồi lên trong tôi, từ những ngày đó, tiếng vọng của một mẩu tin từng chỉ được biết lờ mờ, tôi cũng chẳng nhớ rõ là từ đâu, nghe được ở căn nhà của chúng tôi trên khu Thượng lưu: Almeria từng bị pháo kích từ biển, bằng đại bác. Trong gian bếp, bác Monda nói chuyện với Zaira bằng giọng thì thầm, giải thích rằng theo ý bà, vụ pháo kích đó là hành động tự vệ cần thiết để chống lại chủ nghĩa Cộng sản, vì đáng tiếc là Almeria khi ấy vẫn chưa được giải phóng khỏi “lũ man di đỏ.”

Trong ký ức tôi, lời than phiền ấy của bác Monda vang lên suốt thời kỳ Nội chiến, như một bè trầm thấp kéo dài ở hậu cảnh. Thật vậy rằng chỉ đến ngày cuối cùng của cuộc chiến, sau khi các thành phố khác của Tây Ban Nha đã thất thủ, quân đội của Franco mới tiến vào Almeria.

Ký ức, trong những trạng thái bất ổn của tâm trí, giống như một cơ thể bầm dập mà chỉ một cái chạm nhẹ cũng biến thành cú đánh. Từ khi còn là một thằng bé, mỗi lần đi ngang qua những khu vực bị chiến tranh tàn phá, tôi đã luôn luôn bị ám ảnh bởi mọi cảnh tượng đổ nát hay bị huỷ hoại dù là tình cờ, chúng làm tôi choáng váng như một cú đấm thẳng vào hông.

Băng qua khoảng đất trống cùng phế tích tồi tàn kia, tôi bước vào một con phố nhỏ yên tĩnh, từ đó có thể nhìn thấy lại, phía xa xa, khu cảng gần như vắng lặng. Dán trên cửa kính một quán rượu là tờ giấy viết tay hứa hẹn món Paella. Và tôi coi nó như một lời mời. Paella alla valenciana! Trong đời sống gia đình ngày trước của tôi, đó là món ăn duy nhất của ẩm thực Tây Ban Nha mà tôi biết. Và tôi lại nghe thấy giọng cha tôi, người, khi đã ngồi xuống bàn ăn giữa hai mẹ con, sẽ nói, nhân một dịp đặc biệt, “Khi Tây Ban Nha hoà bình trở lại, chúng ta sẽ đến Valencia ăn món paella thật sự.”

Với tôi, Valencia là một khúc hát cổ mà bác Monda vẫn ngâm nga bằng giọng hoài niệm (hơi đều đều):

Valencia,

vùng đất ngàn chuyện tình!

Trong khu vườn ngát hương hoa của em,

trái tim tôi đã tìm được hạnh phúc

và tình yêu!


Bên trong quán cà phê khá vắng và không có máy hát tự động. Chỉ có, được đặt cao gần như chạm trần, một chiếc ti vi đang phát và một diễn giả, tay chân khoa trương và có vẻ đầy uy quyền, đang tiến hành một kiểu diễn thuyết hùng hổ song chẳng ai để tâm. Căn phòng có vài chiếc bàn phủ ni lông, trơ trọi dưới ánh sáng đèn neon, và khi tôi bước vào chỉ có bốn người khách: hai người đàn ông đứng ở quầy bar, trạc tuổi tôi, nhìn dáng vẻ có thể đoán là công nhân bốc vác; và ở một bàn phía xa, hai cô gái, làn da tái ngăm, dưới ánh sáng neon trông như ánh xanh nhợt, đôi môi tô màu đỏ thâm gần như đen. Cả hai đều mặc váy ngắn bó sát, một kiểu mốt đã lỗi thời, và ngồi với dáng điệu uể oải, hơi vắt vẻo, không gọi món nào.

Ở quầy thu ngân có một người đàn bà lớn tuổi với bộ ngực đồ sộ đang ngồi, như đang cố ra dáng một bà chủ sang trọng. Bà ta mặc chiếc áo khoác màu tím kiểu quân sự, viền bím đen và đính khuy móc trang trí; trên đầu là một thứ gì đó cao vút - tôi không biết đó là mũ hay là một kiểu tóc được đánh rối cầu kỳ. Phía sau quầy, một phụ nữ trẻ hơn đang đứng làm việc, mặc quần dài và tạp dề, vẻ mặt dửng dưng, miệng há, ánh mắt đờ đẫn. Mải phục vụ hai người đàn ông đang đứng ở quầy, cô ta mất một lúc sau mới để ý đến tôi, lúc đó tôi đã ngồi xuống một chiếc bàn nhỏ ở góc khuất mà từ đó có thể nhìn nghiêng thấy màn hình ti vi.

Sau khi gọi một phần paella, tôi hỏi cô ta có grappa không. Nghe câu hỏi ấy, cô ta im bặt, nhìn tôi trân trân không chút biểu cảm. Rồi một trong hai khách đang đứng ở quầy bước lại, hỏi “Người Ý à?” Anh ta mỉm cười, nói tiếng Ý khá trôi chảy và gợi ý tôi nên thử một loại rượu Tây Ban Nha tên là chichón, thay vì grappa. Sau đó, anh ta giải thích rằng công việc lái xe tải thường đưa anh ta sang Ý.

Chichón là một loại rượu trắng đục, khá mạnh, có vị của hồi đắng. Và như thường lệ - tửu lượng của tôi ngày càng kém, nhất là khi uống lúc bụng đói - chỉ vài ngụm đầu tiên đã khiến tôi choáng váng như rơi vào trạng thái mơ hồ và mê sảng của những cơn sốt nhẹ buổi chiều. Cùng lúc đó người đàn bà mang ra phần paella nhưng tôi không sao quyết được có nên động đũa hay không, vừa vì không thấy đói, vừa vì cảm giác bối rối trước sự hiện diện của người tài xế xe tải. Anh ta vẫn nán lại, đứng ngay bên bàn tôi, chăm chú quan sát từng ngụm tôi uống với vẻ thân thiện, như thể việc tôi uống chichón là một thành tựu riêng anh ta. Anh ta dường còn muốn kéo dài cuộc trò chuyện, có lẽ để khoe khoang vốn tiếng Ý của mình.

Anh ta chừng bốn mươi lăm tuổi, thấp hơn mức trung bình nhưng rắn rỏi và cân đối. Mái tóc đen tuyền, hơi thưa ở hai bên thái dương, được chải ép mượt đến mức như đội một chiếc mũ đen sát đầu. Hộp sọ của anh ta tròn trịa giống như đầu trẻ con, và khuôn mặt vẫn giữ nét ngây ngô trẻ dại dù có hai nếp nhăn hằn sâu kéo dài từ cánh mũi đến khóe miệng, có lẽ do nụ cười bám riết. Nụ cười của anh ta mộc mạc và rạng rỡ, đôi mắt nâu to, dài như mắt ngựa, không né tránh ánh nhìn của người đối thoại mà trái lại, chủ động kiếm tìm, thành thật và dịu dàng, không mưu mô. Thế nhưng tôi vẫn nhận ra - hoặc tin là mình nhận ra - ở anh ta vài điểm khiến tôi khó chịu và nghi ngờ rằng anh đang giễu cợt mình. Trước hết là nụ cười bám riết kia, luôn luôn phô ra kể cả lúc không thích hợp, lại bị chính hai nếp nhăn xếch ấy phản, dưới ánh đèn neon, với tôi chúng chẳng khác nào hai vết rạch đen đầy đe dọa. Thứ nữa là kiểu cung cách kệch cỡm, vô cùng biểu cảm nhưng chỉ giới hạn ở hai cánh tay, khiến chúng như đang diễn một vở kịch câm rời rạc trong khi những phần khác của cơ thể, kể cả gương mặt, vẫn bất động. Để bắt chuyện, anh ta hỏi tôi đây có phải lần đầu đến Almeria không. Trước sự im lặng của tôi (tôi chỉ mệt mỏi gật), anh ta bắt đầu thao thao liệt kê những điểm nên thăm ở thành phố này. Nụ cười đi kèm các gợi ý đó rất chừng mực, gần như mang tính nghi thức; tuy vậy anh ta lại vung vẩy hai cánh tay về mọi hướng, như thể đang vẽ lên không trung một tấm bản đồ du lịch khổng lồ.

Tôi nghe anh ta nhắc đến, trong số những địa điểm, Pháo đài của người Moor và Đại lộ tướng Franco; nhưng tôi chờ trong im lặng, vô vọng, không thấy anh ta đả động tới Puerta de Oro hay Nhà thờ-Pháo đài.

Những người khác chẳng ai chú ý đến anh ta, cũng chẳng quan tâm đến người dẫn chương trình trên tivi. Chỉ có cô gái ở quầy bar thỉnh thoảng đưa ánh mắt lơ mơ về phía anh rồi lại quay sang tôi. Diễn giải theo cách riêng một cái nhăn mặt nào đó của tôi, hay một chuyển động vu vơ của bàn tay, cô ta tiến đến rót đầy lại ly chichón giờ đã cạn, và tôi nốc cạn trong một hơi. Trong khi đó, người tài xế xe tải vẫn không rời khỏi bàn tôi, cũng không ngừng cười dù anh ta đã thôi không nói nữa. Và chính sự im lặng này khiến tôi bực bội hơn cả lúc anh ta huyên thuyên. Tôi chỉ muốn được yên thân trong xó của mình. Đột nhiên tôi hỏi liệu những dấu tích tàn phá ở khu cảng có phải có từ thời nội chiến hay không.

Nụ cười của anh ta hiện ra vẻ ngơ ngác khó hiểu. “Tôi không phải người ở đây,” anh ta giải thích, có phần ái ngại. “Tôi đến từ Málaga. Ngài biết Málaga không? Málaga, rượu ngon lắm!” Anh ta nhấn mạnh mấy từ ấy bằng nụ cười ẩn ý như một gã bán rong.

“Chuyện thời chiến ấy à,” anh ta tiếp lời, vẫn mang giọng ái ngại, “tôi nhớ chẳng được bao nhiêu. Khi ấy tôi còn bé lắm… chico, chico” (anh ta giơ tay cách mặt đất chừng hai gang để minh hoạ). “Cuộc thất thủ của Málaga,” anh ta kể thêm một lát sau, “ồ, chuyện đó thì tôi nhớ rõ! Los vencedores vào thành phố: một ký ức chung!” Anh ta vung hai tay lên một cách lơ đãng - “… tôi, chico, chico…” - rồi nói thêm, “Là người Ý đấy, los vencedores de Málaga!” - nụ cười anh ta sáng rỡ hẳn lên như dành riêng một tia sáng đặc biệt cho tôi, hệt như thể công trạng ấy thuộc về cá nhân tôi vậy.

Và ngay sau đó, không cần dạo đầu, anh ta trổ ra một màn tái hiện tận mắt “cuộc chiến lừng danh” ấy; nhưng lời anh ta nói đến tai tôi chỉ còn là những mảnh vụn lộn xộn, vừa vì anh ta nói như chạy đua, bằng thứ ngôn ngữ lai tạp Ý-Tây Ban Nha, vừa vì giọng anh ta bị át hẳn bởi tiếng người dẫn chương trình trên tivi, lúc này đang bước vào đoạn kết và cố tình nhấn nhá bằng chất giọng ngân vang lên một quãng. Trái lại, người tài xế giữ giọng đều đều, khô khốc và đơn điệu, như đang đọc bản tin vội vàng, trong khi tay anh ta vẫn không ngừng vung vẩy theo lối khoa trương quen thuộc, với một kiểu kịch câm co giật, giống khỉ đến mức khiến tôi nghi ngờ: có lẽ anh ta đang cố tình diễn trò cho tôi cười.

“Máy bay… tàu chiến… máy bay ném bom... tuta Málaga in fuego…” (hai cánh tay anh ta múa loạn như lửa bốc cháy) “... xe tăng Ý tiến vào… ” (hai bàn tay anh ta xòe ra, choải về phía trước đều đều, nặng nề như một đàn bò rừng đang rầm rập tiến tới) “... tất cả mọi người bỏ chạy theo đường lớn… anarcistos, các gia đình, nông dân, tất tật đều là phản bội, toàn phản bội… matanza de migliara… bố tôi chết… chú Mariano chết… em gái tôi chết…” (như thể đang nhại lại cảnh ai đó gục xuống chết, hai tay anh ta quờ quạng ngược ra sau một cách vụng về.) “... nosotros donde vamos?... mugliera y ninos… sin papà… sin comida… vamos…” (hai bàn tay anh ta lại choải về phía trước, các ngón cong lại như móng vuốt, mô phỏng dáng đi của thú rình mồi) “... vamos… Mira, mira... Málaga chỉ toàn khói với bụi… humo y polvo...”

Nếu tôi ngẩng mắt lên, sẽ bắt gặp ánh nhìn cởi mở của anh ta, giống ánh mắt một con chó thân thiện, cùng với nụ cười tươi rói đầy thưởng. Anh ta chỉ là một gã hề nghiệp dư, hơi say và ngớ ngẩn, đang cố tỏ lòng hiếu khách địa phương bằng cách mua vui cho “kẻ chiến thắng” bằng những màn ứng biến vụng về kiểu hộp đêm? Thế nhưng hai vệt đen kéo dài hai bên miệng vẫn khiến tôi bứt rứt, như một nét tô vẽ đầy dụng ý. Có lẽ anh ta là một kẻ ba hoa hiểm độc, cố tỏ ra hài hước bằng cách lấy tôi làm trò tiêu khiển? Hay biết đâu anh ta là một mật vụ trá hình, được cử theo dõi tôi dựa vào vài manh mối lặt vặt hay lời báo mật từ đâu đó? (Không loại trừ khả năng trong những hầm lưu trữ sâu hoắm của chế độ vẫn còn sót lại một dòng ghi chú cổ xưa nào đó về MỐI THÙ lừng danh của tôi.) Tuy nhiên, một giả thuyết sau cùng (khó chấp nhận nhất) lại thì vẳng bên tai rằng gã tài xế lắm lời kia thực ra là một dạng ác quỷ báo oán, đang bới lên từ nấm mồ, dưới hình thức hài kịch, những tai ương chết chóc, để rồi, như đám diễn viên trong Hamlet, lén lút đem chúng ra giễu cợt tôi, như thể đó là tội do chính tôi gây ra!

(Chắc chắn đây không phải lần đầu tiên tôi có cảm giác bị buộc tội vì những tội ác đẫm máu quy mô toàn cầu: từ trại sát nhân đến các cuộc chiến tranh đế quốc, diệt chủng, tra tấn của cảnh sát, vụ ám sát Che Guevara, các cuộc đảo chính ở Nam Mỹ, những âm mưu của CIA. Đã không ít lần, khi tôi cố gắng biện hộ một cách vụng về, thì đáp lại, trên gương mặt non trẻ của những thiếu niên thân yêu, tôi lại thấy hiện lên cái biểu cảm đã quá quen thuộc của gớm tởm khắc dấu tôi: Giống nòi tư sản! Vô ích khi cố ngụy trang kẻ cải đạo. Không một phép rửa tội nào có thể chuộc nổi tội tổ tông của thân xác tôi. Phải chăng tội ấy cũng là sản phẩm của người thợ may bất tử?)

Tôi bắt đầu gãi ngực dưới lớp áo lót như một con chó hoang mắc ghẻ. Và tôi quét ánh nhìn qua cặp kính quanh quán, nghi ngờ rằng những người khác ở đây có thể là đồng bọn của gã tài xế đang âm mưu trục xuất tôi khỏi đất nước này, như con dê bị đuổi khỏi đất Israel. Nhưng ngay cả bây giờ, dường chẳng ai thật sự quan tâm đến hắn hay đến tôi. Gã bạn đi cùng, tì tay lên quầy, đang rướn cổ liếc trộm hai cô gái. Hai cô gái (mà lúc bước vào tôi đã thầm đoán là gái điếm) vờ như không để tâm đến mấy trò tán tỉnh, vừa trò chuyện nhàn nhạt, vừa ra vẻ như đang trong một phòng khách kiểu cách nào đó. Cô gái đứng quầy quan sát cả ba người với ánh mắt lơ mơ thường thấy, tay cầm chiếc giẻ lau bẩn thỉu. Còn bà chủ ngồi ở quầy tiền vẫn giữ nguyên tư thế cũ: môi mím chặt, mắt nhìn thẳng, bộ ngực phồng cao như sư tử đá canh giữ cổng nhà thờ.

Cuối cùng, giọng của người diễn thuyết trên tivi vang lên thành một tiếng gầm điếc óc, đến mức tôi chỉ còn thấy những chuyển động vặn vẹo của cánh tay gã tài xế mà hoàn toàn không nghe được lời hắn nói. Tôi tháo kính ra, mọi vật xung quanh tan biến như một vở kịch bóng mờ. Bà chủ ngồi ở quầy tiền giờ chỉ còn là một vệt đỏ lấm bùn, và căn phòng, dưới ánh đèn neon, hóa thành một kho chứa lộn xộn những vật liệu không thể nhận dạng - chỗ thì lập loè, chỗ lại cử động. Chỉ còn mỗi gã tài xế, nhờ đứng gần, là tôi còn phân biệt được. Tôi thấy anh ta bất ngờ buông tay xuống, đứng nghiêm theo tư thế lính chào, đúng lúc trên màn hình nhỏ, sau khi người dẫn chương trình kết thúc bài phát biểu, một bản hành khúc yêu nước vang lên. Không thêm một cử chỉ nào, bây giờ anh ta đang khép lại chuỗi hồi tưởng cá nhân bằng vài lời lầm bầm khó nghe, trong đó chỉ có một câu cuối cùng lọt đến tai tôi: “chuyện của trăm năm trước”; và ngay khoảnh khắc ấy, tôi bỗng đánh mất hoàn toàn cảm tri về thời gian. Tôi không còn biết mình đã đặt chân đến đất nước này bao nhiêu ngày, hay bao nhiêu tháng, hay bao nhiêu năm trước, cũng chẳng nhớ nổi trong chừng ấy thời gian đã xảy ra những gì. Một cách máy móc, tôi đeo kính trở lại và lập tức bắt gặp ánh nhìn của gã tài xế, anh ta mỉm cười với tôi, ngập ngừng, như thể đang chờ một cử chỉ cho phép rút lui từ phía tôi. Rồi đột nhiên, từ chiếc tivi vang lên một khúc thánh ca Gregoriano, và trong tầm mắt tôi thoáng thấy trên màn hình nhỏ phía trên kia một dáng người trong lễ phục giáo sĩ đang vác một cây thánh giá lớn. Ngay lúc ấy, tôi thấy bà chủ quầy tiền giơ tay làm dấu thánh một cách thành kính, và tôi cất giọng hỏi to, “Francisco Franco chết chưa?”

Trước câu hỏi của tôi, dường như tôi nhận ra một cái nhìn sửng sốt đầy phẫn nộ từ bà chủ quầy tiền. Trong khi đó, sự chú ý của gã tài xế đã bị xao lãng - ánh mắt anh ta đang dõi theo người bạn đồng hành, kẻ vẫn đứng tì vào quầy bar và bắt chuyện với hai cô gái. Bằng một nụ cười cuối cùng, hờ hững như thể còn đang vướng trong cơn kinh ngạc mơ hồ, anh ta trả lời tôi bằng giọng hiển nhiên ngây ngô, “El Generalísimo vẫn còn sống.”

Rồi, quên tôi ngay tức thì, anh ta rời bàn nhanh chóng để nhập bọn với nhóm nhỏ bên mấy cô gái. Bà chủ quầy tiền trở lại dáng vẻ ban đầu, bất động và kiểu cách. Khúc thánh ca Gregoriano, với những làn sóng vang vọng vượt ngoài tầm đo đếm, lại xô tôi trở về với sự chật hẹp của bản thân như một kích thích phản tác dụng. Tôi quyết định ăn vài thìa paella lấy lệ bây giờ đã nguội ngắt: một phần cơm quá chín, vàng vàng, với vài miếng gà nhạt nhẽo. Khi ra về, lúc đi ngang quầy tính tiền, tôi lại thấy gã tài xế và người bạn của anh ta vẫn đang chuyện trò rôm rả với hai cô gái, quay lưng về phía tôi. Nhưng ngay khi tôi vừa bước ra ngoài con hẻm, tôi nghe thấy tiếng bước chân sau lưng, và khi quay lại, tôi có cảm giác mình vừa nhận ra, qua khuôn mặt tròn trịa, gã tài xế kia. Tuy nhiên, tôi lập tức nhận ra mình đã nhầm; người đàn ông này có mái tóc hoa râm rũ xuống trán và vài chiếc răng đã rụng. Hắn tiến lại gần tôi, lầm bầm những lời khó hiểu đầy vẻ đồng lõa; và khi nghe loáng thoáng thứ tiếng Anh bập bõm của hắn âm “hash”, tôi hiểu hắn đang gợi ý bán ma túy. Tôi vội bước sang bên, lắc đầu từ chối giận dữ. Ngoài chuyện túng tiền và nỗi sợ cảnh sát phe Franquista, đã một thời gian tôi ghê tởm ma túy, thậm chí cả thuốc ngủ, như thể chúng là một lối giả cái chết rẻ tiền và thảm hại (cũng từ dạo ấy, khi quyết cai thuốc, tôi bắt đầu tìm đến rượu như một chỗ dựa). Thế nhưng gã đàn ông kia vẫn không chịu buông, tiếp tục bám riết tôi một đoạn, cho đến khi tôi quay lại, vung tay xua đuổi hắn như xua một con vật phiền nhiễu. Hắn có vẻ giơ nắm đấm lên dọa tôi; và nắm đấm ấy, như một khúc cùi cụt, được bọc trong một chiếc găng da hoặc một băng vải lớn, đen kịt và dính máu.

Khi tôi rẽ qua góc hẻm, gã đàn ông biến khỏi tầm mắt. Có lẽ đó chỉ là một bóng hình tôi tưởng tượng ra. Và cả chuyến đi phi lý này ở Andalusia - giống như tấm gương kỳ dị, giờ cũng đã biến mất giữa vòng hoa baroque - chỉ là một bóng ma mộng mị của cơn u uất; và kỳ thực, cơ thể tôi đang ngủ mê trong một căn phòng trọ rẻ tiền nào đó ở Milan, mê mệt vì thuốc ngủ. Con đường lớn trước mắt, giờ đây đã vắng lặng và nhá nhem, chỉ là hình chiếu hay bản sao của những đại lộ quen thuộc nơi mỗi buổi chiều, người ta lao đi từ đầu này đến đầu kia chỉ để va phải chính mình. Tất cả các thành phố đều là một chuỗi lặp lại đơn điệu, nơi tôi bắt gặp chính mình, vẫn là cái tôi ấy như ở Milan, ở Rome, và ở bất kỳ đâu. Tôi nhìn đồng hồ; mới chỉ mười giờ ba mươi. Và dù cơn mệt rũ đêm khuya khiến đôi chân tôi nặng trĩu, làm dấy lên ham muốn được quăng mình xuống một chiếc giường, thì ý nghĩ phải trải qua quá nhiều giờ đồng hồ đơn độc, trong căn phòng trọ tạm bợ của một khách sạn xa lạ, lại khiến tôi kinh hãi. Trời đã tạnh mưa; vài chiếc xe vẫn lướt trên mặt nhựa đường, vài người đi qua khẽ sượt qua bức tường. Và tôi tự nhủ, có lẽ nếu là người khác, giờ này họ đã lang thang trong những con hẻm này, ít nhất là để tìm một chút bầu bạn, một cơ thể đói khát đang rao bán. Nhưng với tôi, những cuộc mua bán xác thịt xưa nay luôn luôn là chuyện buồn. Mong muốn đầu tiên và tuyệt vọng nhất của tôi, thật ra, là được yêu. Và nếu, bằng một khả thể phi lý nào đó, tôi được quyền lựa chọn, thì trong hai vai trò, tôi thà là món hàng còn hơn là người mua. Một món hàng quý giá, dĩ nhiên: một cơ thể huy hoàng. Và ở đây, trong một trò chơi nghèo nàn thỉnh thoảng vẫn cám dỗ tôi từ bóng tối, tôi cho phép mình trong vài khoảnh khắc giả vờ làm người khác. Tôi là chàng thủy thủ tuấn tú bước ra từ tiểu thuyết, toàn thân xăm trổ, sực mùi biển mặn, đang lang thang giữa cảng Almería.

Tôi thấy mình đang đứng trước cảng, nơi ấy mặt biển khuất tầm nhìn dường đã bị phù sa vùi lấp. Dưới tầng mây thấp, không có cái gương baroque nào, cũng chẳng có cánh cổng vàng. Chỉ có tôi, với cơn nôn nao còn chưa dứt hẳn, chờ đến lúc mình lại được nằm trên chiếc giường đơn độc như mọi tối quen thuộc khác. Trong một cơn ghen không dục vọng, tôi nghĩ đến số phận của những người “bình thường” - như gã tài xế đến từ Málaga và người bạn của hắn - có lẽ giờ này đang nằm trong một gian buồng gần đó với hai cô gái điếm. Chắc chắn sau những bức tường tại các con hẻm này là nơi ẩn náu của những gái điếm cảng trứ danh mà tôi chỉ biết qua lời đồn. Trên một trong những cầu thang nhỏ ấy, thấp thoáng sau cánh cửa khép hờ, chắc hẳn có lối vào sáng đèn của một nhà chứa. Tôi chưa từng bước vào một nơi như thế; nhưng từ những năm tháng chập chững đầu tiên, hình ảnh không thể chạm tới được của nó đã giăng đầy nỗi lo âu đối với tôi.  Tôi ngoảnh khỏi như người ta quay mặt trước một tấm khăn phủ xác mà người ta không dám vén lên vì sợ sẽ thấy thứ bên dưới. Nỗi khiếp sợ ấy mang bản tính hoang dã đến mức có thể làm méo mó cả mặt đất và khiến bầu trời nứt toác; vì trong cái xác đó, tôi sợ mình sẽ nhận ra một gương mặt thân yêu và thần thánh, mà chính trong sự phân rã của nó lại trở nên càng thiêng liêng hơn với tôi. Mùi phân hủy của nó, phát sinh từ chính sự ghê tởm ấy, lại sinh ra một thứ dịu dàng xé lòng và một niềm dè giữ siêu phàm, mong manh đến độ ngay cả lòng trắc ẩn cũng như đang hãm hiếp nó.

Ở ngưỡng cửa tuổi thơ tôi có một cánh cổng, theo phong cách art nouveau rởm; nhìn xuyên qua đó, bên kia khu vườn hẹp trang trí bằng những bức tượng nhỏ cười nhếch mép, người ta thấy giữa các mảng vữa trắng một cánh cửa sơn màu vàng úa, viền quanh bởi dây tử đằng. Cánh cổng ấy bị đánh dấu bằng cấm đoán và lời nguyền, từng là - với tôi thuở nhỏ - cánh cửa dẫn vào Cung điện Nghìn lẻ Một Đêm. Nhưng tối nay tôi buộc phải bỏ nó lại phía sau. Tựa như qua một ống kính thiên văn đã trượt trục, những vì sao muộn khác giờ đây choán toàn bộ tầm mắt, phóng đại đến méo mó bởi thời gian: NHỮNG NGƯỜI ĐÀN BÀ CỦA TÔI.

“Hop done! Soyez-moi ballerines 

pour un moment!”

[Đủ rồi! Hãy làm vũ công ba-lê của ta

chỉ trong khoảnh khắc này!]

Tự nhiên, thông thường, ban cho các loài động vật trên cạn, dưới nước và trong không trung những tri giác tinh nhạy giúp chúng định hướng. Vì thế, việc một con én nối bước đàn bay về châu Phi, hay một con lươn non rời biển Sargasso để cùng những con khác lần ngược dòng sông là điều hoàn toàn tự nhiên. Bản năng sơ khai của mọi sinh vật là sánh bằng - hoặc bắt chước - đồng loại của cùng loài, tự định hướng trong môi trường chung bằng những công cụ phù hợp vốn có. Tuy nhiên, nếu những công cụ ấy bị biến dạng bởi một mầm mống bí ẩn, con non, vô tri trước nguyên nhân và hậu quả, sẽ chỉ nhận thức được một cách khó nhọc và muộn màng. Và trong khi ấy, nó lững thững dò dẫm theo đàn vốn đã bỏ xa phía trước, không chút xác tín, loay hoay ở những ngã rẽ và chẳng thể nào đọc nổi các dấu chỉ đường.

Thanh Nghi dịch

 

Elsa Morante

Hòn đảo của Arturo (1957)
Chương 1 (Thanh Nghi)
Chương 2 (Huỳnh Bất Thức)
Chương 3 (Anh Hoa)

Aracoeli (1982)
Phần 1
Phần 2
Phần 3

Elsa Morante và Alberto Moravia
Agamben: Sổ xưởng
Về sự phong tình trong văn chương

 

một Ý

Casanova (1725 – 1798)
Leopardii (1798 – 1837)
Carlo Emilio Gadda (1893 – 1973)
Pavese (1908 – 1950)
Elsa Morante (1912 – 1985)
Natalia Ginzburg (1916 – 1991)
Angelo Maria Ripellino (1923 – 1978)
Italo Calvino (1923 – 1985)
Pietro Citati (1930 – 2022)
Claudio Magris (1939 – )
Giorgio Agamben (1942 – )
Emanuele Trevi (1964 – )

favorites
Thêm vào giỏ hàng thành công