Elsa Morante: Aracoeli
Ngoài tập truyện ngắn đầu tay Il gioco segreto, Elsa Morante viết bốn cuốn tiểu thuyết quan trọng, trong đó cuối cùng là Aracoeli (in năm 1982), hơn bốn mươi năm sau tác phẩm thứ nhất. Menzogna e sortilegio (1948) và La Storia (1974) là hai tiểu thuyết đặc biệt dày - La Storia gây ra một cuộc tranh luận rất lớn; giữa đó là Hòn đảo của Arturo (1957). Aracoeli rất khác so với những tác phẩm trước đó của Morante. Dưới đây là đoạn mở đầu - tiếp tục do Thanh Nghi (nhiều nơi viết nhầm thành “Thanh Nghị”), cộng tác viên thân thiết của tạp chí Văn Bản và cũng đã được biết đến với bản dịch Ba lối tới hồ của Ingeborg Bachmann - dịch.
Aracoeli
- Elsa Morante
Mẹ tôi là người Andalusia. Trùng hợp thay, cả cha lẫn mẹ bà đều mang cùng họ: Muñoz. Và thế là, theo phong tục Tây Ban Nha, bà mang họ kép Muñoz Muñoz. Khi làm lễ rửa tội bà được ban cho tên thánh là Aracoeli.
Tôi thừa hưởng nước da và những đường nét khuôn mặt của mẹ, chỉ có màu mắt là từ cha tôi - một người Ý gốc Piemonte. Có một khúc hát đẹp đẽ từ thuở tôi còn nhỏ lại vang lên trong ký ức, một giai điệu êm dịu dành riêng cho những đêm trăng tròn mà chưa bao giờ tôi chán nghe. Mẹ tôi thường vui vẻ hát lại, vừa cất giọng vừa tung tôi lên cao, như thể muốn khoe tôi với người chị em song sinh bé nhỏ đang chờ đợi trên bầu trời.
Luna lunera
casacabelera
los ojos azules
la cara morena.
Trăng hỡi trăng rằm,
Mái tóc lấp lánh,
Đôi mắt xanh biếc,
Gương mặt rám nâu.
Khúc hát ấy, cùng những giai điệu tương tự trong kho tàng của bà, đã là bạn đồng hành suốt quãng đời thơ ấu hạnh phúc của tôi và cũng là các dấu vết ít ỏi sót lại giúp tôi lần tìm về cội nguồn văn hóa của mẹ. Trong ngôi nhà của chúng tôi ở Rome, bà hiếm khi nhắc đến quê hương, hoặc chỉ nói qua loa rồi nhanh chóng khép mình lại trong một vẻ cáu kỉnh. Như nhiều kẻ lam lũ nhưng mang lấy niềm kiêu hãnh kép, khi được tiến thân vào tầng lớp “cao hơn”, bà trở nên người đầu tiên thể hiện thái độ khinh miệt sắc lạnh, đầy kiểu cách, thậm chí có phần trưởng giả đối với quá khứ. Đó là thái độ không chỉ bị vấy bẩn bởi nỗi tủi hổ thô thiển không sao gột rửa, mà còn trộn lẫn sâu thẳm trong bản năng cùng dục vọng chiếm hữu dữ dội - một sự kiêu hãnh âm thầm nhưng tuyệt đối, khiến bà khép chặt vùng ký ức ấy khỏi người ngoài, như thể đó là thánh địa bất khả xâm phạm của dòng họ Muñoz Muñoz.
Thế nhưng, từ những lời kể dè dặt đầy vẻ nghi ngại của bà, người ta có thể mơ hồ hình dung quê hương bà như một vùng hoang mạc cằn cỗi, nơi gió nóng từ châu Phi thổi qua, hút cạn mọi sinh khí; nơi những bụi cây chỉ mọc toàn gai sắc, còn những đám cỏ hiếm hoi vừa kịp nhú đã quắt lại vì khát. Mỗi khi nghe bà kể chuyện, cô Raimonda - hay còn gọi là Monda (em gái của cha tôi) - lại tròn mắt sững sờ. Bởi trong hình dung của bà, Tây Ban Nha, nhất là Andalusia, lẽ ra phải là một khu vườn tràn ngập những cây cam sai trĩu, những bông nhài Ả Rập tỏa hương, những khóm hồng rực rỡ, những lễ Phục Sinh rộn rã, những tà váy xoay tròn, tiếng ghi ta réo rắt cùng tiếng phách ca-ta-nhét lách cách. Dẫu vậy, với sự tinh tế vốn có, cô Monda không tranh luận cũng không gặng hỏi thêm. Mỗi khi câu chuyện chạm đến gia thế của mẹ tôi - cuộc sống trước hôn nhân của bà với tư cách một cô gái quê - ngôi nhà lập tức bị bao trùm bởi bầu không khí trang nghiêm như thể đó là bí mật quốc gia được canh giữ cẩn mật. Cha tôi chính là người gìn giữ hợp pháp bí mật ấy, còn cô Monda chỉ là người được ủy thác, với vai trò giới hạn trong các tình huống thực sự cần thiết. Thực ra, đó là bí mật nhỏ, chẳng có gì đen tối hay đáng ngờ, song trí tưởng tượng của một đứa trẻ không cho phép một bí mật mà lại không bao phủ lên đó lớp sương mù huyền hoặc hay vầng hào quang rực rỡ - nếu bị phơi bày ra ánh sáng sẽ rất có nguy cơ tan biến hoàn toàn. Và thế là, với tôi, bí mật ấy vẫn nguyên vẹn, như một kho báu kỳ lạ mà tôi tự nguyện từ bỏ nỗ lực kiếm tìm chìa khóa mở ra. Trong quãng đời ngắn ngủi của tôi bên gia đình (vốn đã kết thúc từ thuở ấu thơ), chỉ có những mẩu chuyện rời rạc, mơ hồ vô tình lọt ra, nhưng luôn luôn bị mọi người - đặc biệt là cô Monda - nhanh chóng bỏ qua. Giá mà tôi có một tâm trí thực tế hơn, sự dè dặt đó có khi đã khơi gợi trong tôi chút tò mò, chút thôi thúc muốn tự mình điều tra, dù chỉ chút ít. Nhưng bản tính tôi vốn không thích điều tra mà nghiêng về các ảo ảnh cùng mộng tưởng. Và thế là, từng manh mối về quá khứ của mẹ tôi, cứ mỗi lần hiện ra, lại nhòa lẫn vào nhau tựa các vệt sáng thoáng lóe lên dưới mí mắt khi ta nhắm mắt trong bóng tối. Trước những lời xì xào của đám người hầu hay những kẻ lắm chuyện, tôi đều thản nhiên quay đi với một sự hờ hững bản năng, thậm chí có phần kiêu kỳ - lắm lúc còn phảng phất nét lạnh lùng, đe dọa. Thực tế, tôi sẵn sàng bảo vệ không chỉ gia sản quý giá của mẹ khỏi mọi sự tọc mạch thô thiển, mà còn kiên quyết giữ vững những khoảng không mênh mông của sự không-biết trước mọi ranh giới áp đặt.
Mẹ tôi, hơn nữa, ngay từ những ngày chúng tôi còn bên nhau trong thế giới riêng biệt, đã để mặc tôi với sự không-biết của mình. Có lẽ bà nghĩ rằng, cũng như cách bà thấu hiểu tôi hoàn toàn, tôi cũng theo bản năng mà hiểu tất tật về bà. Tiểu sử của bà được truyền cho tôi, ngay từ khi tôi nằm trong tử cung mẹ, qua cùng một thông điệp mã hóa đã in dấu sắc da nâu sẫm lên cơ thể tôi. Vậy nên, cố gắng diễn giải bằng ngôn ngữ trần tục điều mà tôi đã mang sẵn trong huyết mạch - một thứ đã được khắc sâu ngay từ lúc sinh ra, bằng chính mã huyền thoại của nó - chỉ là nỗ lực vô ích.
Mặt khác, bà rất thích thú mỗi lúc thì thầm kể cho tôi về những điều kỳ diệu mà bà để lại quê nhà, tất tật đều ít nhiều gắn với các khúc ca quen thuộc vốn hằn vào trí nhớ tôi và, đối với tôi cũng quyến rũ không kém. Bằng vẻ khoa trương của một nữ hoàng đang tự hào kể về huyết thống của mình, bà miêu tả cho tôi, chẳng hạn, con dê của bà, Abuelita (cái tên này được đặt vì nó là bà của một con dê nhỏ khác, một con dê mồ côi tên Saudade), rồi con mèo của bà, Patufè (có bộ lông đỏ như vàng), hay người hàng xóm, một bà lão nhỏ bé phi thường tên là Tia Patrocinio..., cùng vô số thứ khác. Nhưng trên cả những người hàng xóm, những người đồng hương hay bà con ruột thịt, thậm chí trên cả dân làng Andalusia và xứ Tây Ban Nha, là người em trai duy nhất của bà, Manuel, hay còn được gọi là Manolo hoặc Manuelito. Người cậu này của tôi (người mà số mệnh không cho tôi được gặp) thực ra trẻ hơn bà, nhưng bà luôn luôn coi ông là đích trưởng của gia đình. Dựa trên những gì có thể suy đoán, cậu dường nhỏ người, giống mẹ, nhưng trong mắt chị gái, trí tuệ và lòng can đảm đã nâng tầm ông trở nên hình mẫu vững chãi, đầy khí khái nam nhi. “Cậu cao hơn mẹ!” bà tuyên bố, giơ tay mô tả, như thể đang áng chừng một chiều cao hiếm có; và từ phía dưới ngước lên, tôi dõi theo hướng tay mẹ bằng ánh mắt ngưỡng mộ của một người chiêm ngưỡng những đỉnh núi Everest. Mỗi khi nhắc đến em trai - hay chỉ đơn giản là gọi tên ông - giọng bà lại rung lên với những âm sắc vừa hân hoan vừa như tế tự, nằm đâu đó giữa khúc đồng dao và tiếng hallelujah. Thế rồi ngay lập tức, cổ họng tôi cũng rung lên, hòa vào âm sắc ấy trong một tràng cười say mê, tựa tiếng vọng của dàn hợp xướng tán tụng. Tôi tin rằng, một cách tự nhiên, chẳng có bất cứ chàng thanh niên hay cậu bé nào ở những buổi đầu lại không chọn lấy, hoặc đúng hơn là nhận ra, vị ANH HÙNG của riêng mình. Vị anh hùng ấy có thể bước ra từ những trang sử, từ những câu chuyện hay huyền thoại, từ những sự kiện có thật, thậm chí các mẩu quảng cáo. Hình tượng ấy có thể mang dáng dấp của Bonaparte, hay Siegfried xứ Burgundy, hay Mao Trạch Đông, hoặc Cain, hay Beelzebub - chúa tể địa ngục, hoặc Casanova, Hamlet, Mahatma Gandhi, một ngôi sao bóng đá, một minh tinh màn bạc, hay một nhân vật truyện tranh... Và dĩ nhiên, hình tượng ấy có thể biến đổi theo muôn hình vạn trạng, tùy vào sự xoay vần của số phận, khí hậu và thị hiếu. Điều này, quả thật, là kinh nghiệm phổ biến; song không phải với tôi! ANH HÙNG của tôi kể từ lần đầu được nghe kể cho tới bây giờ vẫn chỉ có một: cậu Manuel. Dựa vào các tính toán sau này, tôi cho rằng vào thời điểm đó Manuel chỉ khoảng mười ba tuổi, còn tôi nhỏ hơn cậu mười tuổi. Và tôi tin, ít nhất phần nào, chính độ tuổi non nớt và sự vô tư khi ấy đã mang lại cho tôi một ân huệ đặc biệt từ Aracoeli, được bà chọn làm người duy nhất để gửi gắm những niềm tự hào thầm kín của bà, mà trên hết là các chiến công cùng vẻ đẹp của Manuel. Theo những gì tôi biết, thực ra bà chưa từng ban đặc ân này cho người nào khác, ngoài trừ đứa bé mà tôi từng là. Không ai khác, kể cả cha tôi! Tuy nhiên, trước mặt ông, tôi nghĩ chính sự khiêm nhường đã khiến bà không thể bộc lộ niềm kiêu hãnh thơ dại ấy. Vì trong mắt bà, chắc chắn ngay cả ánh hào quang rực rỡ của Manuel cũng không thể sánh với ánh sáng chói lọi tựa mặt trời của cha tôi.
Người duy nhất trong số chúng tôi có lẽ từng gặp Manuel ngoài đời, cũng như con mèo Patufè, và có lẽ cả dòng tộc Andalusia nhà Muñoz Muñoz, chính là cha tôi.
Ba mươi bảy năm đã trôi qua kể từ ngày mẹ tôi được an táng tại nghĩa trang Verano ở Rome (thành phố nơi tôi sinh ra). Tôi chưa từng quay lại viếng bà. Và cũng đã hơn ba mươi năm kể từ lần cuối cùng tôi nhìn thấy Rome, nơi tôi không nghĩ có bao giờ mình quay lại nữa.
Lần cuối cùng tôi trở về là vào đầu mùa hè năm 1945, khi chiến tranh vừa kết thúc. Lúc ấy tôi khoảng mười ba tuổi (nhưng cảm giác như tôi vẫn chỉ mới lên mười). Và trong chuyến đi đó tôi biết được, giữa các tin rời rạc, rằng trong một cuộc không kích vào thành phố, nghĩa trang Verano đã bị bom đạn tàn phá: nhiều ngôi mộ bị bật tung, bia đá đổ nát, những cây bách cổ thụ bị nhổ bật rễ. Tôi cũng biết ngày giờ của trận oanh tạc ấy: nó diễn ra vào khoảng trưa ngày 19 tháng Bảy năm 1943. Kể từ đó, trong hình dung của tôi, mảnh đất xa lạ hiện ra như một khoảng mênh mông của những ngày hè khắc nghiệt (trong tiếng Tây Ban Nha, “verano” có nghĩa là “mùa hè”). Một khu rừng khói lửa, nơi mẹ tôi hoảng hốt chạy trốn, mình đầy máu me, vẫn khoác trên người chiếc áo ngủ nhăn nhúm cũng chính là bộ đồ bà mặc vào lần cuối tôi đến thăm.
Bà có thể chạy đi đâu nếu không phải là Andalusia? Và hôm nay, sau ngần ấy năm chia cách trong lãng quên, tôi đang hướng về nơi ấy, về Andalusia, để tìm mẹ.
Đôi khi - đặc biệt trong những khoảnh khắc cô đơn tột độ - một nhịp tuyệt vọng bỗng giật nhói lòng kẻ sống, thôi thúc họ tìm đến người chết không chỉ trong dòng chảy thời gian mà trong cả những miền không gian vô định. Có người lần theo dấu vết quá khứ, lại có người lao về phía ảo ảnh của một cuộc hội ngộ phía tương lai vĩnh hằng; và còn có những người, không biết phải đi đâu nếu thiếu họ, cứ mãi lang thang qua những nơi họ từng thuộc về, lần theo dấu vết mơ hồ còn sót lại. Tiếng gọi ấy có thể đến bất ngờ, mang theo cơn cuồng loạn, chẳng khác gì nỗi bấn loạn của một kẻ khốn cùng, vừa bước ra khỏi chứng quên, bỗng nhớ rằng mình từng sở hữu một viên kim cương giấu kín. Thế nhưng bây giờ, chính hắn cũng không còn biết viên kim cương ấy được giấu ở đâu; mọi dấu vết đã hoàn toàn bị xóa nhòa. Mọi nỗ lực tìm kiếm manh mối nhằm lấy lại đều vô ích, cũng như hắn sẽ chẳng bao giờ có được một báu vật nào như thế nữa.
Trong mùa thu mù sương này, suốt nhiều ngày qua tôi bị cám dỗ muốn đi theo dấu chân của cô bé Aracoeli rồi xuyên qua mọi chiều không gian và thời gian, ngoại trừ một hướng duy nhất tôi không tin: tương lai. Thực tế, nếu nhìn về phía tương lai của mình, tất tật những gì tôi thấy chỉ là một con đường ngoằn ngoèo nơi chính tôi - vẫn cô độc như thế và ngày một già nua - cứ lê la tới lui, như một kẻ say xỉn. Cho đến khi một cú huých dữ giáng xuống, chấm dứt mọi chuyển động. Đó là điểm tận cùng của tương lai. Một khoảnh khắc sáng lóa giữa trưa hay, một đêm tối mịt mù, nơi chẳng còn ai hết, kể cả tôi.
Khoảng hai tháng nay tôi có một công việc tạm thời tại một nhà xuất bản nhỏ, nơi tôi phụ trách dịch thuật hoặc đọc các bản thảo đang được xem xét và viết những báo cáo ngắn về chúng. Phần lớn đó là những tập sách mỏng hay các tác phẩm có tính phổ cập về khoa học thực tiễn, xã hội-chính trị, thậm chí mang màu sắc hàn lâm kiểu cách và giáo huấn.
Công ty, theo như tôi biết, gói gọn trong hai căn phòng nhỏ, kèm một nhà vệ sinh tối tăm không có cửa sổ. Một trong hai phòng chủ yếu được dùng làm kho chứa, còn phòng kia là nơi tôi làm việc. Dù Sếp (trong những lần xuất hiện hiếm hoi nhưng vội vã) đôi khi nhắc đến “đội ngũ nhân sự văn phòng”, theo những gì tôi thấy, nhân sự duy nhất ở đây chính là tôi. Cánh cửa kính ở lối vào đề dòng chữ YPSILON PUBLISHING, phía dưới có thêm chữ PUSH. Cánh cửa phát ra một tiếng rít dài và ngay sau đó một vị khách liền xuất hiện. Phần lớn họ là những tác giả đầy tham vọng - đa số luống tuổi - với dáng vẻ hốc hác nghiêm nghị, khiến không khí lạnh lẽo vốn có càng thêm ảm đạm và khiến tôi lập tức rơi vào cơn bối rối u uất.
Theo thỏa thuận, tôi phải có mặt ở văn phòng cả ngày, từ chín giờ sáng đến một giờ trưa, rồi từ bốn giờ chiều đến bảy giờ rưỡi tối.
Ban đầu, tôi đón nhận công việc này như một vận may bất ngờ (thật ra, thu nhập của tôi, vốn lúc nào cũng bèo bọt, chẳng đủ thuê nổi một căn phòng nhỏ có nội thất sơ sài); nhưng tôi nhanh chóng nhận ra rằng bộ não mình đã thẳng thừng tuyên án từ chối không thể cứu vãn công việc này. Khi đọc các chuyên luận nhỏ ấy, chỉ từ những dòng đầu, tôi có cảm giác như đang nuốt phải keo dính. Tôi hoàn toàn không quan tâm đến chủ đề của chúng; thực tế, tôi không tài nào hiểu nổi tại sao các bộ óc biết suy nghĩ lại có thể quan tâm đến những điều như thế. Thỉnh thoảng tôi lại bị văng khỏi mạch đọc. Và dù đã từ bỏ đủ loại chất kích thích, dù nhẹ hay nặng, thậm chí cả đồ uống có cồn - trong chừng mực có thể - tôi vẫn tái nghiện một thói quen tệ nạn: ngủ. Rồi bất chợt tôi gục xuống, miệng há hốc, thiếp đi ngay trên đống tài liệu của mình. Và tôi sẽ gắng gượng tỉnh dậy, đầy khó nhọc, khi nghe tiếng kẹt của cánh cửa, chỉ để thấy trước mặt mình một vị khách đã đứng sẵn đó với dáng vẻ ảm đạm, liếc nhìn tôi đầy ái ngại, ánh mắt dừng trên đôi mắt sưng húp và vệt nước dãi còn vương trên cằm. Đôi khi những cơn thiếp đi ấy còn kéo theo cả những giấc mơ, hay đúng hơn là những cơn mê sảng thoáng qua, vừa vô nghĩa vừa u ám. Chẳng hạn, những dòng chữ in ngay trước mặt tôi bỗng hóa thành vô số con bọ cánh tơ, ùn ùn bay ra khỏi trang giấy, rỉa nát chúng thành một lớp bụi trắng xóa.
Ngày nào những tập sách mỏng và bản in thử mới đều được chất đống trên bàn tôi. Chỉ cần vừa bước vào phòng, nhìn thấy những chồng giấy đó thôi tôi cũng đã thấy buồn nôn. Hiệu suất làm việc ì ạch của tôi chắc chắn không thể qua mắt được những cái liếc nhanh, tất bật nhưng sắc bén của ông sếp kiệm lời. Và hẳn là YPSILON PUBLISHING đã sớm dự liệu được viễn cảnh tôi sẽ bị sa thải.
Dù sao, đến cuối tháng Mười, tôi vẫn nhận được tháng lương thứ hai - một khoản tiền gần như vẫn còn nguyên trong túi cho đến kỳ nghỉ lễ quốc gia thường niên vào đầu tháng Mười một. Kỳ nghỉ năm nay kéo dài khá lâu, nhờ vào truyền thống nghỉ lễ của quốc giả. Bốn ngày trọn vẹn: từ thứ Sáu, ngày 31 tháng Mười (đêm trước lễ) đến thứ Ba, ngày 4 tháng Mười một (trước đây từng là một ngày lễ yêu nước). Và thế là sáng nay, Thứ Sáu ngày 31, tôi lên đường.
Bấy lâu nay tôi sống cuộc đời tĩnh tại. Hơn nữa, khái niệm kỳ nghỉ hay du lịch luôn luôn khiến tôi hình dung tới một đám ồn ào nhếch nhác, say sưa giữa đống túi nhựa, lon Coca-Cola cùng chiếc máy thu nheo nhéo. Tôi chưa từng xuất ngoại, cho đến tận bây giờ. Và quyết định đi khỏi bùng nổ trong tôi với một cảm tri cực độ về rủi ro và điên loạn, nhưng cũng đồng thời của niềm hứng khởi lạ thường (enthousiasmos = sự chiếm hữu thần thánh). Ban đầu, dù sao đi nữa, tự tôi thấy ngờ vực. Trên thực tế, một nhân vật như tôi, sợ sệt và ghét người, và chẳng bao giờ tò mò về thế giới, sẽ đi được đâu? Và rồi enthousiasmos đã chỉ ra con đường duy nhất khả dĩ, thực ra là bắt buộc, dành cho tôi.
Anda niño anda
que Dios te lo manda.
Hãy đi nào cậu bé
vì chính Chúa đã ra lệnh cho cậu.
Và thế là bây giờ (khoảng mười một giờ sáng) tôi đã lên đường, đi khỏi Milan, đi tìm mẹ tôi, Aracoeli, theo chiều kép của quá khứ và không gian. Về tiểu sử của bà lúc ở Andalusia, tôi vẫn kệ mình dốt nát như thế, như hồi còn nhỏ. Và ngay cả bây giờ, với tôi, việc tìm kiếm bà không có nghĩa là ghi chép hay thu thập lời chứng, mà là tránh xa khỏi chốn này, lần theo dấu vết quang cảnh xưa, như một con thú lạc lần theo mùi của cái tổ.
Những thông tin ít ỏi mà tôi có về bà gồm vài chỉ dẫn quan trọng, cụ thể là, ngoài cái họ kép, còn có nơi sinh của bà nằm đâu đó ở Almeria và được gọi là El Almendral. Nhưng những bức thư hiếm hoi mà bà nhận được tại Rome từ gia đình của mình - tôi nhớ rất rõ - trên phong bì đóng dấu bưu chính Gérgal, cái tên mà tôi đã vô vọng tìm kiếm trong những atlas thông thường song cuối cùng lại tìm thấy trên tấm bản đồ lớn của Hội Địa lý. Hóa ra đó là một thị trấn nhỏ, biệt lập giữa lòng dãy núi sierra, cách biển một khoảng cách đáng kể.
Nhưng El Almendral, trái lại, tôi không thể tìm thấy nó trên bất kỳ tấm bản đồ nào. Thế nhưng chấm nhỏ bé vô danh ấy - bị địa lý bỏ quên - gần đây đã trở thành tọa độ duy nhất có thể dẫn lối cho thân xác lạc lối của tôi. Đó là một lời triệu hồi không hứa hẹn, không hy vọng. Tôi biết chắc, không chút hoài nghi, rằng nó không xuất phát từ lý trí mà từ một nỗi hoài niệm thuần tri giác - đến mức ngay cả sự chắc chắn về việc nó có tồn tại hay không cũng chẳng còn là điều kiện thiết yếu đối với tôi. Tình cảnh của tôi chẳng khác nào một con chó lai, khi còn bé xíu đã bị tách khỏi nơi trú ẩn, nhét vào bao tải, rồi quẳng bên lề đường vắng. Ai biết nó làm cách nào để sống sót? Xung quanh nó chỉ có các đàn lạ, nơi nó chính là kẻ xâm nhập mang theo bệnh dại. Thế rồi, bằng bản năng nhạy bén, nó lần ngược lại theo dấu vết cũ, hướng về điểm xuất phát (có lẽ để tìm lại một sự công nhận?).
Este niño chiquito
no tiene madre.
Lo parió una gitana
lo hechó en la calle.
Đứa trẻ bé bỏng này
Không có mẹ cha.
Một người đàn bà Di-gan sinh nó ra
Rồi ném ra đường xa.
Cám dỗ của chuyến hành trình gần đây đã chiếm trọn tôi bằng chính giọng của mẹ. Không phải là một ký ức mơ hồ tái hiện những khúc hát đầu đời của bà - những giai điệu đã bị chôn vùi theo tháng năm - mà là chính cái giọng ấy, hữu hình, mang theo dư vị ấm áp của cổ họng và nước bọt. Tôi lại cảm nhận trên vòm miệng mình làn da bà, phảng phất hương mận chín tươi; và trong những đêm lạnh giá ở Milan, tôi vẫn như thấy hơi thở non trẻ của bà thoảng qua, một luồng ấm dịu vương trên mí mắt già cỗi của tôi. Tôi không biết các nhà khoa học giải thích thế nào về sự tồn tại bên trong thân xác hữu hình của chúng ta, của những cơ quan tri cảm khác - vô hình, tách biệt với thế giới vật chất - nhưng lại có thể nghe, nhìn, cảm nhận mọi điều thuộc về tự nhiên, và cả những điều vượt xa hơn thế. Chúng dường được trang bị những chiếc ăng-ten và dây dò. Chúng hoạt động trong một không gian siêu linh nhưng lại có phạm vi chuyển động vô hạn. Và chính trong vùng đó - ít nhất là chừng nào ta còn sống - diễn ra cuộc phục sinh bằng xương bằng thịt của những người đã khuất.
Aracoeli. Những năm đầu sống bên mẹ, cái tên ấy vang lên thật tự nhiên. Nhưng khi hai mẹ con bước ra ngoài thế giới, tôi mới dần nhận ra rằng nó khiến bà trở nên khác biệt giữa những người phụ nữ của thành phố. Quả thật, những người phụ nữ quanh tôi thường mang những cái tên như Anna, Paola, Luisa, hoặc đôi khi là Raimonda, Patrizia, Perla hay Camilla. Nhưng “Aracoeli!” - các quý bà thường thốt lên. “Cái tên đẹp quá! Cái tên mới lạ làm sao!”
Sau này tôi mới biết rằng ở Tây Ban Nha, người ta thường làm lễ rửa tội cho các bé gái với cái tên như vậy, thậm chí cả những cái tên bằng tiếng Latinh, lấy từ nhà thờ hay thánh lễ. Dù vậy, theo năm tháng, cái tên Aracoeli dần hằn sâu vào ký ức tôi như một dấu ấn riêng biệt, một danh xưng độc nhất, nơi mẹ tôi mãi mãi tách biệt và khép mình lại, tựa như được bao bọc trong một khung viền xoắn nặng nề, dát vàng rực rỡ.
Hình ảnh về một khung viền như thế dường bắt nguồn từ tấm gương trong căn phòng bí mật, đầu tiên của chúng tôi, thế rồi nó theo chân tôi đến ngôi nhà mới ở The Heights. Và nó ở đó, trong phòng ngủ của cha mẹ tôi, lớn và bề thế nơi chính giữa bức tường, cho tới ngày gia đình tôi rơi vào cảnh túng quẫn. Sau đó tôi không biết số phận nó trôi về đâu, liệu nó được trao lại cho một người họ hàng hay bị bán tháo cùng các món đồ nội thất khác cho một tay buôn đồ cổ hoặc gã thu mua đồng nát nào đó. Song rất có thể nó vẫn ở đâu đó, tồn tại lâu hơn cả gia đình chủ nhân nay đã tan tác.
Mặt gương sáng loáng như đồ mới được chế tác; nhưng khung viền của nó, với lớp mạ vàng đã bạc màu theo thời gian, lại mang phong cách uy nghiêm của thế kỷ 17. Phong cách ấy hoàn toàn đối lập với không gian hiện đại (khi đó được gọi là “duy lý”) làm chủ đạo của căn nhà; và thực ra, giống như tấm thảm Pháp trải dưới chân hay một vài món đồ rải rác khắp nơi, chiếc gương này - từ nhà ông bà nội tôi ở Turin - đã theo Raimonda đến đây.
Theo lời một số thầy đồng cốt, các tấm gương là những vực thẳm không đáy, chúng nuốt chửng song chẳng bao giờ tiêu hóa những ánh sáng của quá khứ (và có lẽ cả tương lai). Và giờ đây, viễn cảnh sau khi tôi chết, thứ đã làm nền cho những năm tháng của tôi, không trực tiếp hiện ra trong ký ức tôi (hay có lẽ chỉ là một ký ức giả?) mà phản chiếu qua tấm gương ấy và, được bao bọc trong khung viền quen thuộc. Liệu có thể chăng nó vẫn cố định ở đó, trong lòng mênh mông nước của tấm gương, để rồi hôm nay trở lại, các nguyên tử của nó đã được tái hợp từ cõi hư không? Người ta vẫn nói rằng ký ức của chúng ta không thể quy hồi quá năm thứ hai hoặc năm thứ ba; vậy mà khung cảnh kia - nguyên vẹn và gần như bất động - lại hiện về từ một điểm còn xa hơn thế.
Bạn sẽ thấy trong khung cảnh ấy một người phụ nữ ngồi trên chiếc ghế bành nhỏ bọc nhung vàng óng - vật hết sức thân quen với tôi - tay ôm một đứa trẻ đang bú. Người phụ nữ đặt một bàn chân trần lên giường; và dưới sàn nhà, trên tấm thảm Pháp, có chiếc dép bị úp ngược. Tôi không thể nhìn rõ chiếc váy bà mặc (một chiếc áo choàng dài, màu hồng vân anh), song tôi nhận ra cách bà mở khuy cài trước ngực, cẩn thận chỉ để lộ đầu ngực, đó quả là một vẻ kín đáo buồn cười: một người mẹ mà lại tỏ ra nhũn nhặn ngay cả với con cún con của mình. Thực ra, lúc đó chỉ có hai chúng tôi trong phòng ngủ; và tôi chính là đứa trẻ sơ sinh với cái đầu đen nhỏ thỉnh thoảng ngước mắt lên nhìn bà.
Lúc này, tấm gương cùng với khung viền của nó bất đồ biến mất. Giờ đây, từ hình ảnh phản chiếu kia, tưởng chừng chỉ là một bức họa, những chi tiết thân quen dần hiện rõ, trở nên hữu hình đến nỗi tôi của hiện tại như đang nhìn thế giới bằng chính đôi mắt của đứa trẻ bé bỏng đang ngây ngất vùi mặt vào ngực mẹ. Liệu đó có phải ký ức giả không? Trong quá trình hoạt động liên tục, cỗ máy trí óc tôi không ngừng dệt nên những hồi ức hư ảo - đôi khi xa vời và huyễn hoặc như một fata morgana [Một hiện tượng ảo ảnh quang học. Cách gọi này xuất phát từ truyền thuyết về Morgana le Fay, một phù thủy trong huyền thoại về vua Arthur, được cho là tạo ra những ảo ảnh để đánh lừa con người], song có lúc lại gần gũi đến mức chiếm hữu rồi khiến tôi hoàn toàn nhập thân vào chúng. Dù sao đi nữa, một vài ký ức giả sau này hóa ra còn chân thực hơn cả sự thật.
Và đây chính là một ký ức như thế. Từ đôi mí mắt khép hờ ngày ấy, tôi lại nhìn thấy bầu ngực của mẹ, phơi trần và trắng muốt, nổi các đường tĩnh mạch xanh và, xung quanh núm vú là một quầng nhỏ màu cam hồng. Bầu ngực tròn, không lớn nhưng căng đầy; và đôi tay bé nhỏ của tôi thường quờ quạng tìm kiếm nó khi đang bú, chạm vào bàn tay bà - bàn tay đang ấp lấy tôi, vừa vạch ra cũng vừa cố che lại. Bàn tay bà, cũng như cổ và khuôn mặt, có sắc độ sậm hơn nhiều so với bầu ngực - về sau, theo thời gian, làn da ấy bợt dần. Bàn tay đó ngắn và múp, với bộ móng ngắn hình chữ nhật. Bởi một vết thương từ thời con gái, các đốt ngón út và ngón áp út vẫn sưng và hơi biến dạng.
Sữa bà có vị ngọt, ấm, giống như nước dừa nhiệt đới vừa được hái. Thỉnh thoảng, đôi mắt say đắm của tôi ngước lên như muốn gửi lời cảm tạ đến khuôn mặt bà, khuôn mặt cũng dịu dàng cúi xuống, đầy trìu mến, giữa những lọn tóc xoăn đen, rối nhẹ, buông chạm vai (bà chưa từng muốn cắt chúng; đó là một trong những cách bà cho thấy mình không quy phục).
Trán bà phủ kín những lọn tóc xoăn dài xuống tận chân mày. Khi vén tóc để lộ vầng trán, bà mang tướng mạo khác hẳn của một trí tuệ lạ lùng và vẻ sầu muộn bẩm sinh, vô thức. Còn không, vẻ mặt bà nguyên vẹn các nét hoang sơ của tạo hóa: giữa tin tưởng và phòng thủ, giữa tò mò và bướng bỉnh. Dù thế nào đi nữa, trong huyết mạch bà vẫn không ngừng rung lên một niềm hân hoan thuần khiết - niềm hạnh phúc đơn sơ chỉ từ chính việc được sinh ra.
“Đôi mắt như đêm sao” nghe có vẻ văn thơ, song tôi chẳng thể nào nghĩ ra cách khác để diễn tả đôi mắt bà. Tròng mắt đen nhánh, và theo tôi nhớ, sắc đen ấy dường lan rộng ra ngoài mống mắt, rung lên trong những giọt nước nhỏ cùng tia sáng lấp lánh. Đôi mắt ấy to, thuôn, với mí mắt dưới dày, tựa những bức tượng cổ. Hàng chân mày rậm (mãi sau này bà mới học cách tỉa mỏng bằng dao cạo) nối liền, tạo thành hình dấu mũ, khiến đôi khi bà cúi xuống, trông bà có vẻ nghiêm nghị gần như cau có. Sống mũi bà thanh tú, thẳng và tự nhiên. Khuôn mặt bà có hình bầu dục đầy đặn, và đôi má vẫn còn phúng phính như má một đứa trẻ.
Ngay cả bây giờ tôi vẫn nghĩ rằng thiên nhiên, với toàn bộ sự đa dạng của nó, khó mà tạo tác nên được một gương mặt đẹp hơn thế. Thế nhưng, nếu tôi kiên quyết gõ mạnh vào ký ức của mình - tự nhắc nhớ về vẻ đẹp độc nhất vô nhị kia - thì trên gương mặt ấy vẫn có các nét khiếm khuyết và bất cân xứng: vết sẹo mờ do bỏng ở dưới cằm; hàm răng nhỏ và hơi thưa; môi dưới hơi trề ra khiến bà, khi nghiêm nghị, dường đang lơ lửng trong câu hỏi nào đó, còn khi mỉm cười, lại có chút gì bất lực và ngơ ngác. Cũng như vậy, khi hồi cố lại thân hình bà thuở ấy, những gì đầu tiên sống dậy trong tôi, cùng niềm thương nhớ không sao khỏa lấp, lại chính là các nét bất đối xứng, sự vụng về, thậm chí cả những khiếm khuyết mà ngày đó tôi chẳng hề nhận ra: cái đầu có lẽ hơi to so với đôi vai mảnh dẻ; cặp chân thô chắc, đậm chất thôn dã với bắp chân nở nang, trái ngược hẳn với thân hình và đôi tay gầy guộc; dáng điệu nom vụng về (nhất là khi bà tập đi giày cao gót); hai bàn chân ngắn và bè, các ngón chân gồ ghề, hơi vẹo, móng chân thì lởm chởm. Ngay cả sau khi sinh tôi, thân thể bà vẫn vẹn toàn vẻ trinh nguyên, với các công tua của một thiếu nữ cùng chuyển động rụt rè, bỡ ngỡ như con thú bị tách khỏi môi trường sống của nó.
Những lời ru của bà (vốn, thực tế, là ngôn ngữ con người đầu tiên tôi được nghe) trong những “ký ức huyền thoại” của tôi luôn luôn gắn liền với hình ảnh bà vừa trao bầu sữa vừa nhẹ nhàng đung đưa tôi. Giọng bà dịu dàng, hơi khàn, dấp nước bọt, cất lên các điệu hát thôn quê thân thuộc. Bà xen lẫn vào đó những tiếng âu yếm gọi tôi hoặc tràng cười khẽ. Và trong khoảnh khắc ấy, đầu lưỡi bà dường linh hoạt hơn, như thể cất lên điều gì đó chỉ dành riêng cho tôi. Hồi đầu, trong căn phòng nhỏ của chúng tôi, nằm sâu tại một khu hẻo lánh của thành phố, bà hầu như nói bằng tiếng Tây Ban Nha, nhất là trong những phút bộc phát bản năng. Chắc chắn tôi còn nhận ra rõ âm sắc Tây Ban Nha nơi giọng bà, thứ vẫn văng vẳng bên tai tôi. Dẫu vậy, tôi lại chẳng hiểu câu nào: tôi chỉ đón nhận những âm thanh, thứ rót xuống tôi từ đôi môi rạng rỡ như tiếng gù vọng từ cõi trên. Và rồi bất thình lình một tri cảm kinh hoàng chạy dọc khắp người, như thể trong những tiếng bập bẹ vô nghĩa kia, bà đang gửi đến tôi lời cảnh báo không thể thốt thành lời. Đây không còn là ký ức “huyền thoại” thông thường; có lẽ, nó chính là hồi quang muộn của chứng bệnh không tên vẫn âm thầm gặm nhấm tôi từ ngày tôi chào đời.
Và rồi tôi tự nghĩ rằng có lẽ đó là lý do vì sao, khi tuổi già cận kề, bà cứ dai dẳng hiện về, ôm tôi trong vòng tay như thuở tôi còn là một hài nhi: như thể, bằng vòng tay ấy, bà muốn đưa tôi trở lại tổ ấm của bà mãi mãi, giống như cơn gió cuốn theo hạt giống đang khao khát về với lòng đất.
Mặc dù tài chính eo hẹp, tôi vẫn quyết định chọn phương án di chuyển bằng đường hàng không, đặt trước một chỗ trên chuyến bay của Iberia khởi hành vào buổi sáng và hạ cánh xuống Almería vào buổi tối, sau vài tiếng quá cảnh ở Madrid. Sau khi lo liệu xong hộ chiếu, tôi gần như đã chuẩn bị xong xuôi. Suốt mấy tháng qua tôi đã liên tục thay đổi chỗ ở, mang theo tất tật tài sản gói gọn trong chiếc ba lô mỗi dần dịch chuyển. Lần gần nhất tôi nghỉ chân tại một khách sạn nhỏ ở khu Porta Ticinese, song tôi không có ý định quay lại đó sau khi trở về. Vả lại, ngay cả cuộc trở về ấy - dù đã được định sẵn, vì công việc, trong vòng ba hoặc bốn ngày tới - lúc này cũng chỉ hiện ra lờ mờ trước mắt tôi như điều gì xa vời, chập chờn tựa dải ngân hà. Bước ra khỏi khách sạn lần cuối, tôi có cảm giác nhẹ bẫng như vừa được giải thoát khỏi điều gì đó. Và rồi tôi vội vã đến bến trung chuyển hàng không từ rất sớm, nơi có các chuyến xe buýt chở hành khách ra sân bay.
Tòa nhà ga, thấp và úa vàng, đứng chơ vơ giữa một khoảng đất rộng lớn, uể oải, với các công trình lộn xộn, rời rạc, trông như các bức tường được dựng tạm sau một trận đại hồng thủy. Tách biệt khỏi tiếng ồn ã của các con phố trung tâm, vùng ven thành phố này - với vẻ nhếch nhác, tù mù của nó, không nhà thờ, không biển hiệu - đón tôi như một cửa sông mở ra miền tĩnh lặng và nhẹ nhõm. Nơi đây, những đám đông thở dốc - suốt mấy năm qua vẫn tràn qua thành phố - không kéo đến, những kẻ ấy gào thét cho một cuộc cách mạng nào đó, mà dưới con mắt u tối của tôi, chẳng khác nào một thứ tiếng ồn, một cơn cuồng nộ mù quáng. Đó là trận hỗn chiến của những khẩu hiệu và cái tên mà tôi chẳng tài nào giải mã, những âm thanh hô vang nhịp nhàng, đồng thanh; và với tâm trí vốn đã chai sạn của tôi, chúng như những lời đe dọa báo thù, dù là nhắm vào ai, hay là vào chính tôi, thì Chúa mới biết được. Đã đôi lần tôi vô tình cuốn vào dòng người, bị chính nỗi sợ của mình quyến dụ như thể nghe thấy tiếng gọi của một nàng tiên cá. Và rồi, thân hình cồng kềnh của tôi bị xô dập, trơ ra giữa cơn bạo động, chỉ để ngay lập tức bị quăng ra ngoài bởi nỗi hoảng loạn quen thuộc - một nỗi sợ khốn khổ vẫn bám riết lấy tôi, những rễ rối rắm của nó đâm sâu vào tận cùng lương thức tôi. Những lý do để tôi trở thành đối tượng của sự trừng phạt công khai không phải là ít; song tất tật đều mọc lên từ cùng một củ đắng...
... Trong muôn vàn ân phước mà con người thèm khát, suốt cuộc đời, tôi chỉ cầu xin một điều duy nhất: được yêu thương. Thế nhưng từ rất sớm, tôi đã nhận ra rằng mình không thể nào trở nên cuốn hút với bất cứ ai, bởi tự tôi cũng thấy mình chẳng có gì hấp dẫn; và dù vậy tôi vẫn không sao dứt bỏ được ảo tưởng cố chấp - đúng hơn là một đòi hỏi; và mong cầu ám ảnh ấy càng bện chặt với mặc cảm tội lỗi và tủi hổ, không thể tránh khỏi. Rốt cuộc, tôi dứt bỏ cả mong cầu ấy; song mặc cảm tội lỗi và tủi hổ thì vẫn còn đó. Thật vậy, có thể nói rằng chúng chính là bản chất nguyên thủy cấu thành tôi, là hình hài tôi mang, một hình hài tự nó đã là lời báo với thế giới. Và vì vậy, mỗi khi tôi bị cuốn vào giữa đám đông, tôi có cảm giác mình chính là đối tượng được định sẵn để đem ra hành quyết. Phán xét áp đảo của Tập thể nhắm những con ngươi bừng sát khí của nó lên thân thể tôi.
Giờ đây nữ thần báo ứng tàn nhẫn và hiểm độc (song chẳng phải là không quyến rũ) đã chọn ra những kẻ sẽ hành quyết tôi, theo chủ ý, trong số những gã trai trẻ, chừng hai mươi tuổi. Chúng, phần lớn thuộc về lực lượng dân quân của cuộc cách mạng này, những kẻ chứng kiến cuộc tháo chạy của tôi, vừa kinh khiếp vừa say mê dữ dội, như thể một gã helot bị đuổi khỏi quê hương. Chúng từng toán tiến lên, giơ cao các dấu lệnh và, giữa những lọn tóc dài bết bẩn thỉu, các khuôn mặt nhẵn nhụi của chúng, phi ký ức và trí tuệ, rực lên vẻ phấn khích cuồng nhiệt bởi sự bất tuân hiếm có như thể vừa lao vào một cơn say ngày Chủ nhật. Có phải cái nhìn lệch lạc của tôi đã biến đổi những con người này, hay thực sự tất tật bọn họ đều đẹp? Sự đồng phục hóa các đặc tính khiến tên này lẫn với tên kia, như các con thú trong cùng một bầy. Và với dáng sải bước ngang tàng cùng cái miệng non nớt há hốc tận cổ, trong tiếng kêu kinh hoàng, rủa sả của chúng, chúng chẳng khác gì những đấu thủ đang bị kích động bởi một môn thể thao khát máu.
Trong những tiếng la hét kết tội, các danh hiệu và họ tên liên tục được lặp lại, lọt vào tai tôi vô nghĩa và xa lạ. Tuy nhiên, giữa những tiếng hô TỬ HÌNH vang dội, một cái tên cứ lặp đi lặp lại, lần nữa giáng xuống tôi như điều gì quá đỗi quen thuộc, khét tiếng, một vọng thanh cũ kỹ. Và than ôi, cái tên ấy thì tôi hiểu. Tướng Franco! El Caudillo! Nhưng bây giờ, khi nghe thấy nó, tôi chỉ cảm thấy nỗi kinh ngạc ngớ ngẩn, buồn cười như bị cù, khi nghĩ rằng hồi còn là cậu bé, lão già khốn khổ bụng phệ ấy từng là Kẻ Thù lớn nhất của tôi.
Thú thật, tôi chưa bao giờ gặp hay đến gần hắn; cũng chẳng thể quy rằng mâu thuẫn giữa tôi và hắn đến từ các xung đột chính trị (trước giờ tôi vẫn luôn luôn mù tịt chuyện chính trị). Không, lý do nằm ở chỗ khác: Hắn trở thành Kẻ Thù của tôi (bí mật và không đội trời chung) từ giây phút tôi biết hắn là Kẻ Thù của cậu Manuel.
Franco - kẻ chiến thắng, chủ nhân toàn cõi Tây Ban Nha! Chừng nào tôi còn tồn tại, hắn còn tồn tại. Những người trong gia đình tôi - thực ra, hầu như đều trung thành với Franco - đã lần lượt nằm xuống từ lâu (người cuối cùng là cô Monda, chết cách đây mười một năm). Và thế là từng nhân vật lớn nhỏ trong vở kịch này, toàn bộ đều đã chết. Chỉ còn lại một mình Ngài Tổng tư lệnh. Trên các con phố của thành phố này, giữa vô số lời nguyền rủa và tung hô được bôi nguệch ngoạc trên tường, vẫn có thể đọc được: “ĐẢ ĐẢO FRANCO - TỬ HÌNH TÊN SÁT NHÂN FRANCO!” Ở nhiều nơi, vẫn còn đó một tấm áp phích - được dán lên chưa lâu, song bạc màu bởi thời tiết - được viền sơn đỏ, với các bức ảnh chụp một nhóm du kích Basque bị kết án thắt cổ bằng garrote vì tội âm mưu chống phá Franco. Một trong số họ - nom trẻ tuổi nhất - có đôi mắt rất lớn, mở rộng, nhạt đến mức trên tấm áp phích, chúng dường trắng bệch, không có đồng tử. Và dù chẳng mấy quan tâm đến thời cuộc, chỉ cần nhìn vào đôi mắt trắng dã ấy, tôi cũng có thể đoán được bản án dành cho cậu ta đã được thi hành. Vậy là cuối cùng, chàng trai Basque đã hoán thế, bỏ xa khỏi Bilbao và Madrid, đến một nơi không ai có thể chạm tới và, được cậu tôi là Manuel người Andalusia chào đón rồi tiếp đãi bằng những nụ hôn và tiếng cười.
Những thân thể thanh tân của họ vẫn nguyên vẹn, và cả chàng trai Basque lẫn người Andalusia giờ đây đều không còn nhớ đến cái tên Caudillo Generalissimo nữa. Kẻ ấy, trong khi đó, đã ngoài tám mươi, vẫn đang phải vật lộn trong lớp vỏ trần tục với chính sự mục ruỗng của mình, một sự suy tàn nay đã kề cận.
Bất đồ tôi bật cười, thích thú, nhớ lại rằng trong những ảo tưởng ngô nghê thời thơ ấu, thỉnh thoảng tôi hay ấp ủ một kế hoạch lý tưởng là trốn sang Tây Ban Nha để tự tay hạ sát Kẻ Thù khét tiếng kia mà không nhận ra (vốn chỉ cần dựa vào đường nét trên cằm và sống mũi hắn) rằng hắn được định phải lĩnh một kết cục khác. Chết gục dưới nhát kết liễu của một bàn tay trẻ tuổi còn là sự giải thoát quá nhân từ. Một đặc ân tột độ mà chính hắn cũng từ chối.
Ngay cả khi mười hai Sứ giả của Cái Chết cùng hợp lực cũng không thể khiến một người phàm rẽ khỏi con đường đã được vạch sẵn. Với kẻ này, đó là cái chết đột ngột, dữ dội và yểu mệnh. Với kẻ khác, đó là sự hoại tử chậm rãi của tuổi già, từng chút một rút cạn sự sống, như một lớp băng gạc bấu chặt vào vết nhiễm trùng. Và với vài kẻ khác nữa, đó đơn giản chỉ là một cú ngã nhẹ nhàng không trọng lượng, như của lá cây. Có kẻ gục trên thập giá, có kẻ lại bị hủy hoại bởi bệnh phong - hoặc bởi cái đói, hay bởi một vết muỗi đốt... Nhưng trong vô số khả thể của sự biến đổi nơi vật chất, không một kết cục nào, nếu nhìn kỹ, là sản phẩm của ngẫu nhĩ mù quáng. Trái lại, tất tật đều đã được tính toán. Có lẽ, nếu nhìn thật sâu vào bức ảnh chàng du kích Basque, một đôi mắt tinh tường sẽ đọc ra được đấy là tướng mạo của một kẻ tự sát.
Ở điểm kết của một vài số phận, có thể nói rằng ngay từ đầu, chính chúng ta, theo một quy luật hữu cơ nào đó, đã lựa chọn không chỉ cách sống, mà cả cách chết. Chỉ đến khi màn diễn cuối khép lại, bức tranh mà mỗi người âm thầm vẽ nên trong cuộc đời thường nhật mới hiện ra trọn vẹn và nhất quán, nơi mọi hành động trước đó đều tìm được lời giải thích của riêng nó. Và sự lựa chọn ấy - dù bị che giấu, ngụy trang hay mơ hồ đến đâu - vẫn luôn luôn định hình những lựa chọn khác, dẫn dắt chúng ta đến với những biến cố, khắc dấu lên từng chuyển động của thân thể, uốn nắn chúng theo ý. Ta mang nó trong mình, không thể xóa, ngay cả trong từng tế bào. Một người tinh tường, nếu quan sát kỹ, có lẽ sẽ đọc thấy dấu vết của nó trong từng cung cách, từng nét mặt, từng nếp gấp da thịt. Người đó không thể, thực sự, tìm thấy bất kỳ sai sót, trở ngại hay mâu thuẫn nào trong kết cấu ấy. Thật vậy, nếu đọc nó từ đầu đến cuối, người này sẽ nhận ra rằng nó tuân theo một logic riêng, chặt chẽ và nhất quán trong từng điểm, chắc chắn và không chệch choạc. Tuy nhiên, không người phàm nào có thể hiểu được mật mã ấy hay những dòng chữ đã khắc sẵn trong đó. Nhờ bản tính tự nhiên, chúng ta cứ mãi vô tri trước khởi nguyên lẫn kết thúc. Và hiếm hoi là các trường hợp khác thường, khi một người, tự nguyện (hoặc dưới ảo tưởng đó), ý thức rõ ràng mà vượt qua ranh giới cuối cùng. Như một quy luật, hết ngày này sáng ngày khác - quá khứ, hiện tại và tương lai - chúng ta sống bên ngoài sự nhận thức về những lựa chọn của chính mình, cũng như của tất tật người xung quanh.
Vô tri: đó mới là tiêu chuẩn được khao khát. Thế nhưng, có những lúc một cảm giác chắc chắn vô danh bỗng giáng xuống ý thức chúng ta, ầm ập như tiếng bước chân của một đạo quân ngoại bang đang tràn qua biên giới, mang theo thảm họa không tả xiết - thảm họa ấy chúng ta không lý giải nổi cho đến khi, tiếng thì thầm của kẻ do thám bật mí rằng chính ta đã triệu hồi nó.
Một vài mảnh hồi ức. Mùa hè năm 1945. Cha tôi, trong lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng tôi đặt chân đến căn hộ của ông ở quận Tiburtino - nơi bị bom tàn phá phân nửa, với toàn bộ cửa sổ đóng kín bưng, quẩn mùi hôi ngọt lợ. Nước da ông bợt bạt dưới màn râu chưa cạo. Mồm ông nhóp nhép. Bàn tay lạnh toát mồ hôi khẽ rút lại... Ông nở nụ cười bi thống...
Trước đó, trong cùng ngày hôm ấy. Tiếng cười của cô Monda kêu lên, lúc cúc như tiếng gà mái, khi cô đứng trước gương, thử đội lên trên khuôn mặt hốc hác chiếc mũ mới kỳ lạ, giống của cô nhài; và rồi bất chợt cô ấy giật phắt nó khỏi đầu, một sự đoạn lìa...
... Và xa hơn nữa, khoảng năm 1940, ở Rome, một buổi hoàng hôn muộn ngày Chủ nhật. Mẹ tôi, phơi đầu trần (một hành vi thách thức báng bổ) trong căn nhà thờ quen thuộc nhưng xấu xí của chúng tôi trên Corso d’Italia. Hiệu ứng kỳ lạ của bóng tối trong gian giữa, nơi ánh sáng duy nhất tỏa ra từ một ban thờ nhỏ với những ngọn nến cầu nguyện phía sau chúng tôi. Đôi mắt trũng sâu của mẹ tôi trông giống các hốc tối đen khổng lồ trống rỗng. Và trên vầng trán, đôi lông mày giao nhau thành đường ngang tựa vết cắt huyền bí...
... Và lùi xa hơn nữa về quá khứ. Ngày mồng 4 tháng Mười một, bốn mươi ba năm về trước, vào lúc ba giờ chiều. Đó là ngày và giờ tôi chào đời, lần chia cắt đầu tiên giữa tôi và bà. Khoảnh khắc những bàn tay xa lạ xé tôi ra khỏi âm đạo của bà rồi phơi bày tôi trước sự lăng mạ của chúng. Và chính khi đó, tiếng khóc đầu tiên của tôi vang lên: tiếng ngoe ngoe của con cừu non mà theo các bác sĩ, chỉ là phản ứng sinh lý đơn thuần - một lời giải thích hết sức vô lý. Tôi biết, chắc chắn, đó là tiếng khóc đúng nghĩa, tiếng khóc của tuyệt vọng tang thương: tôi không muốn lìa khỏi mẹ. Hẳn là ngay khoảnh khắc ấy tôi đã linh cảm được rằng sự chia lìa đẫm máu đầu tiên đó sẽ kéo theo vô số những lần chia ly khác, hết lần này đến lần khác, cho đến lần cuối cùng - lần tàn khốc nhất trong tất cả. Sống tức là kinh qua những cuộc chia ly, và tôi hẳn đã hiểu điều đó ngay từ ngày mồng 4 tháng Mười một đó khi cử động đầu tiên của đôi tay tôi chính là quờ quạng tìm kiếm mẹ. Từ giây phút ấy, thực sự, tôi chưa bao giờ thôi tìm bà, và từ ấy trở đi, tôi chỉ có một quyết tâm duy nhất: trở về bên bà. Cuộn tròn trong bà, trú trong nơi duy nhất thuộc về tôi, nơi bây giờ đã bặt tăm đâu đó, giữa vực sâu thẳm nào.
Este niño chiquito
no tiene cuna.
Đứa bé nhỏ xíu này,
không có nôi.
Thanh Nghi dịch
Thanh Nghi
Elsa Morante và Alberto Moravia
Elsa Morante: Hòn đảo của Arturo
Ford Madox Ford: Chỉ Joseph Conrad mới làm được điều đó
Ford Madox Ford về Joseph Conrad
Joseph Conrad và Ford Madox Ford
Correspondence: Paul Celan và Ingeborg Bachmann (phần 2)
Henry James: Câu chuyện về một kiệt tác
Henry James: Một ca vô cùng lạ
Thư và nhật ký chiến tranh của Ingeborg Bachmann (phần 2)
Ingeborg Bachmann: Nhật ký chiến tranh