Eça de Queirós: Tội lỗi của Cha Amaro
Giữa Borges và văn chương Bồ Đào Nha là mối quan hệ khắng khít, có qua có lại. Pessoa từng gọi Borges là tổ tiên của nền văn chương Bồ Đào Nha hiện đại, khi mà ông và các đồng nghiệp đều phải tựa lên giấy mực của Borges mà viết. Về phần mình, Borges chịu ơn không nhỏ hai cái tên Bồ Đào Nha: Camões với thơ ca và Queirós với tiểu thuyết. Những cuốn tiểu thuyết của Queirós được Borges xếp vào hàng kiệt xuất ở thể loại này, bên cạnh Don Quixote, những Voltaire, Stevenson và Conrad. José Saramago cũng gọi Queirós là tiểu thuyết gia Bồ Đào Nha lớn nhất, nơi ông đã học hỏi những đoạn văn dài miên man không thoại và cách thức châm biếm xã hội đầy tinh tế của bậc tiền bối.
O Crime do Padre Amaro (1875) là một trong những cuốn tiểu thuyết làm nên tên tuổi của của ông như một nhà văn hiện thực trào phúng, sau O Primo Basílio. Sau đây là chương I.
Vào Chủ nhật Phục Sinh, người dân Leiria hay tin cha xứ José Miguéis đã qua đời vì đột quỵ vào lúc rạng sáng. Vị cha xứ là một người to lớn, mặt đỏ, được giới giáo sĩ trong giáo phận biết đến với danh hiệu kẻ phàm ăn nhất trong những kẻ phàm ăn. Những câu chuyện khác thường về sự thèm ăn vô độ của ông thường được kể lại. Carlos – chủ tiệm thuốc – vốn ghét cay ghét đắng ông, hễ thấy cha xứ bước ra khỏi nhà sau giấc ngủ trưa, mặt mũi đỏ bừng và thân hình no căng thì khẩy trêu:
– Con trăn khổng lồ đang đi cho tiêu hoá hết bữa ăn của nó đấy. Rồi có ngày hắn sẽ nổ tung cho mà xem!
Và quả thật, ông đã nổ tung, sau một bữa tối toàn cá, ngay vào lúc Godinho, người sống đối diện, đang tổ chức sinh nhật và các vị khách của ông ta đang cuồng nhiệt trong điệu nhảy polka. Chẳng ai thương tiếc cái chết của ông, và chỉ có rất ít người tham dự đám tang của ông. Nói chung, ông không được kính trọng cho lắm. Về cơ bản, ông là một gã nhà quê với cung cách và cổ tay thô kệch của một tay bần nông; lỗ tai mọc đầy lông, tính tình cộc cằn, giọng nói khàn khàn và lời lẽ thì tục tằn.
Các bà ngoan đạo chẳng bao giờ ưa ông: ông ta thường ợ ngay khi nghe xưng tội và, do suốt đời chỉ sống ở các giáo xứ làng quê hoặc vùng núi, ông hoàn toàn mù tịt trước những góc khuất ẩn tàng phức tạp hơn của lòng mộ đạo. Vì vậy, ông gần như ngay lập tức mất hết các giáo dân nữ đến xưng tội, những người này đã chuyển sang cha Gusmão miệng lưỡi, vị cha xứ luôn biết cách nói sao cho đẹp lòng giáo dân.
Và khi những phụ nữ ngoan đạo vẫn còn trung thành đến gặp José Miguéis, nói về những mối lo ngại lương tâm và những ảo tưởng, ông sẽ làm họ kinh hãi bằng cách lầm bầm:
– Nhảm nhí, thưa bà! Hãy cầu xin Chúa ban cho chút lương thức và chất xám đi!
Ông thấy đặc biệt khó chịu với việc họ nhiệt thành thực hành chay tịnh.
– Sao lại thế, ăn uống thì có gì mà lỗi phải, cái bà này, ông thường gầm lên như thế, chẳng có gì sai trong việc đó hết.
Ông là một người ủng hộ trung kiên cho phe cánh của Hoàng tử Miguel, và do đó, quan điểm của các đảng phái tự do và các tờ báo của họ khiến ông tràn ngập một cơn giận dữ vô lý.
– Cái lũ chết tiệt bọn chúng! ông thường thốt lên, vung vẩy chiếc ô màu đỏ khổng lồ của mình.
Về sau, ông trở nên ít vận động hơn và sống hoàn toàn một mình, ngoại trừ một bà đầy tớ già và một con chó tên Joli. Người bạn duy nhất của ông là trưởng ban thánh nhạc, Valadares, người lúc bấy giờ phụ trách điều hành giáo phận vì, suốt hai năm qua, Đức Giám mục Dom Joaquim đã nghỉ dưỡng tại trang viên của ngài ở Alto Minho, vì bị những cơn đau khớp hành hạ. Vị cha xứ rất kính trọng vị trưởng ban thánh nhạc, một người đàn ông khắc khổ với chiếc mũi to và thị lực kém, một người thần tượng Ovid, hay chu môi khi nói chuyện và thích điểm xuyết những điển tích thần thoại vào lời nói của mình.
Vị Trưởng ban Thánh nhạc ngược lại cũng khá quý vị cha xứ. Người này thường gọi cha xứ là Thầy Hercules.
– Hercules vì ông ta ăn khoẻ, gã giải thích, mỉm cười, còn Thầy vì ông ta phàm ăn.
Tại đám tang của vị ca xứ, chính Trưởng ban Thánh nhạc đã rảy nước thánh xuống ngôi mộ và, vốn có thói quen mời vị cha xứ một nhúm thuốc hít hàng ngày từ chiếc hộp thuốc bằng vàng của mình, gã lẩm bẩm với các kinh sư khác khi ném nắm đất đầu tiên theo nghi lễ lên quan tài:
– Kính ông nhúm thuốc cuối cùng!
Toàn thể hội đồng kinh sư cười ầm lên trước câu nói đùa của vị quản nhiệm giáo phận; kinh sư Campos nhắc lại câu chuyện đó ngay tối hôm đó khi uống trà tại nhà của dân biểu Novais, nơi nó được đón nhận bằng những tràng cười thích thú, và mọi người đều ca ngợi nhiều đức tính của trưởng ban thánh nhạc và nhận xét một cách đầy kính trọng rằng ngài Trưởng ban quả thực là người vô cùng hóm hỉnh.
Vài ngày sau đám tang, con chó Joli của vị cha xứ xuất hiện, đi lang thang qua quảng trường. Người hầu gái đã được đưa vào bệnh viện vì sốt, ngôi nhà đóng cửa im ỉm, và con chó bị bỏ rơi, lê bụng đói của mình từ cửa nhà này sang cửa nhà khác. Nó là một con chó lai nhỏ, rất mập, mang một nét hao hao giống người chủ cũ. Quen với việc quanh quẩn bên những chiếc áo chùng thâm và khao khát tuyệt vọng một ông chủ, hễ thấy cha xứ là nó lại rên rỉ chạy theo. Nhưng chẳng ai muốn nhận Joli tội nghiệp; họ xua đuổi nó bằng mũi ô, và con chó, như một kẻ cầu hôn bị từ chối, tru lên suốt đêm ngoài phố. Một buổi sáng, người ta tìm thấy con chó đã chết bên ngoài nhà tế bần; xe chở phân hốt nó đi, khi con chó cũng không còn được nhìn thấy trên quảng trường nữa, vị linh mục José Miguéis cuối cùng cũng bị người ta lãng quên.
Hai tháng sau, người dân Leiria biết được rằng một cha xứ mới đã được bổ nhiệm. Hình như đó là một thanh niên rất trẻ, vừa mới ra khỏi chủng viện. Tên anh là Amaro Vieira. Chuyện anh được bổ nhiệm lần này được cho là nhờ ảnh hưởng chính trị, và tờ báo địa phương, Tiếng nói Địa phương, vốn ủng hộ phe đối lập, đã viết một cách cay đắng về Núi Sọ, về tình trạng thiên vị ở triều đình và về giáo sĩ phản động. Một số cha bàng hoàng phải biết đối với bài báo, và họ dùng những lời lẽ bực bội nói về nó trước mặt trưởng ban thánh nhạc.
– Ồ, chắc chắn là có sự thiên vị, và hắn ta chẳng trật đường nào cũng có người bảo trợ thật, trưởng ban thánh nhạc nói. Người viết thư cho tôi xác nhận việc bổ nhiệm là Brito Correia – Brito Correia lúc đó là Bộ trưởng Bộ Tư pháp – ông ta thậm chí còn viết trong thư rằng cha xứ này là một chàng trai khôi ngô tuấn tú. Vì vậy, có vẻ như, gã nói thêm với một nụ cười tự mãn, Thầy Hercules có lẽ sẽ được kế vị bởi Thầy Apollo.
Chỉ có một người ở Leiria, kinh sư Dias, thực sự đã gặp vị cha xứ mới, vì vị kinh sư đã dạy anh ta môn Đạo đức học trong những năm đầu tại chủng viện. Vào thời điểm đó, vị kinh sư nói, vị cha xứ kia là một thanh niên nhút nhát, gầy gò và đầy mụn.
– Giờ tôi vẫn còn hình dung thấy cậu ta trong bộ áo chùng thâm sờn rách, trông cứ như thể đang bị nhiễm giun sán vậy! Nhưng nói đi cũng phải nói lại, cậu ta cũng ngoan ngoãn và sáng dạ.
Kinh sư Dias là một nhân vật nổi tiếng ở Leiria. Gần đây ông đã phát phì ra, cái bụng lồi lấp đầy chiếc áo chùng; và mái tóc muối tiêu, những quầng thâm nặng nề dưới mắt cùng đôi môi dày của ông gợi nhớ đến câu chuyện về các thầy tu dâm đãng và háu ăn.
Ông già Patrício, người có một cửa hàng ở quảng trường, một người theo chủ nghĩa tự do chính hiệu và thường gầm gừ như một con chó gác cửa mỗi khi đi ngang qua một cha xứ, và đôi khi, khi thấy vị kinh sư béo tốt băng qua quảng trường sau bữa trưa, chống cả trọng lượng cơ thể lên chiếc ô, ông ta sẽ gầm lên:
– Tên già gian kia có khác gì João Đệ Lục đâu chứ!
Vị kinh sư sống một mình với chị gái, bà Josefa Dias, và một người hầu gái, cũng là hình ảnh quen thuộc trên các con phố ở Leiria, lê bước trong đôi dép sục, chiếc khăn choàng nhuộm đen quấn chặt quanh người. Người ta đồn kinh sư Dias rất giàu; ông sở hữu nhiều bất động sản cho thuê gần Leiria, thường đãi tiệc tối với thịt gà tây và có một số loại rượu vang ngon trong hầm của mình. Tuy nhiên, điều chính yếu về ông – được bàn tán và xì xào nhiều nhất – là tình bạn lâu năm của ông với bà Augusta Caminha, người ai ai cũng gọi là São Joaneira, vì bà đến từ São João da Foz. São Joaneira sống ở phố Misericórdia và có mở phòng trọ cho thuê. Bà có một cô con gái, Amélia, một thiếu nữ hai mươi ba tuổi, xinh đẹp, khỏe mạnh và được nhiều người để ý.
Kinh sư Dias tỏ ra vô cùng hài lòng với việc Amaro Vieira được bổ nhiệm. Trong tiệm thuốc, ở quảng trường và trong phòng áo lễ nhà thờ chính tòa, ông ca ngợi sự chăm chỉ của Amaro thời còn là chủng sinh, cũng như sự thận trọng, vâng lời và âm giọng của cậu: “Nghe mới thú làm sao! Đây chính xác là thứ cần thiết để những bài thuyết giáo trong Tuần Thánh thêm phần truyền cảm."
Ông tự tin tiên đoán một tương lai vàng son, chắc chắn sẽ trở thành kinh sư, thậm chí có thể đạt tới vinh quang của chức giám mục!
Và một ngày nọ, với vẻ rất hài lòng, ông cho phó tế nhà thờ chính tòa – một sinh thể trầm lặng, nịnh hót – xem một bức thư ông nhận được từ Amaro Vieira ở Lisbon.
Hôm đó nhằm một tối tháng Tám, họ đang cùng nhau tản bộ trên cầu. Con đường mới xây nối vào Figueira lúc đó đang được xây dựng; cây cầu gỗ cũ bắc qua sông Lis đã bị phá hủy, và giờ đây ai nấy đều chọn đi trên cây cầu đang thi công, cây cầu Ponte Nova nhà nhà tấm tắc, với hai nhịp vòm đá rộng, vững chắc và kiên cố. Tuy nhiên, công trình đang dở dang thì bị đình chỉ – vì một lý do nào đó liên quan đến việc trưng thu đất đai bất hợp pháp. Người ta vẫn có thể nhìn thấy con đường giáo xứ lầy lội đã được lên kế hoạch cải tạo và nối dài; mặt đất phủ đầy những lớp đá ballast, và những con lăn đá nặng dùng để nện và san bằng bề mặt đường đá macadam nằm nửa lấp nửa ló trong lớp đất đen ướt sũng mưa.
Bao quanh cây cầu mới xây là vùng nông thôn yên tĩnh và thoáng đãng. Dòng sông bắt nguồn từ những ngọn đồi thấp, tròn trịa phủ màu xanh thẫm của những cây thông non; xa hơn, giữa những khu rừng rậm, là những nông trại nhỏ mang đến cho cảnh vật u sầu của vùng đất một chút sinh khí con người, với những bức tường quét vôi trắng sáng lấp lánh dưới ánh mặt trời, cùng làn khói từ toả ra từ úng rồi chuyển thành màu xanh lam trong bầu không khí trong lành, sạch sẽ. Ở hạ lưu, nơi dòng sông chảy qua những cánh đồng trũng và giữa hai bờ được lót bằng những cây liễu rũ màu xanh xám, đồng bằng rộng lớn màu mỡ của Leiria ngập nắng và được tưới tiêu tốt, trải dài đến tận những bãi biển đầy cát của vùng duyên hải. Từ cầu, người ta chỉ có thể nhìn thấy một phần nhỏ của thành phố – một phần nhà thờ chính tòa với những đường nét đá nặng nề kiểu Dòng Tên, một góc bức tường nghĩa địa mọc đầy cây tầm ma, và những ngọn nhọn đen sẫm của những cây bách; phần còn lại bị che khuất bởi ngọn đồi gồ ghề tua tủa những thảm thực vật thô sơ, trên đó đứng sừng sững những tàn tích lâu đài đổ nát, thấm đẫm hương vị quá khứ và, vào buổi tối, được vây bủa với những chuyến bay vòng quanh của cú mèo.
Dưới chân cầu, mặt đất thả dốc xuống một đại lộ chạy dọc một quãng ngắn men theo con sông. Đó là một nơi hẻo lánh, đầy những cây cổ thụ. Nó được gọi là Alameda Velha. Ở đó, thong thả dạo bước, trò chuyện nhỏ nhẹ, vị kinh sư đang thảo luận về bức thư của Amaro Vieira với phó tế và kể cho người đồng hành nghe về một ý tưởng mà bức thư đã gợi lên cho ông, một ý tưởng mà ông cho là tuyệt vời, tuyệt đối tuyệt vời. Amaro đã nhờ vả ông, với một thái độ khẩn thiết nào đó, dàn xếp cho mình một ngôi nhà thuê để ở, rẻ, vị trí thuận lời và, nếu có thể, có nội thất sẵn; đúng hơn, anh ta muốn nói về việc thuê một nhà trọ đàng hoàng. "Như thầy có thể thấy, thầy kính mến," Amaro viết, "đó sẽ là điều phù hợp nhất với con; dĩ nhiên, con không yêu cầu bất cứ thứ gì xa xỉ, một phòng ngủ và một phòng khách nhỏ là hoàn toàn đủ. Điều quan trọng là ngôi nhà phải đàng hoàng, yên tĩnh và ở trung tâm, với một bà chủ nhà tử tế và lấy giá phải chăng; con xin phó thác tất cả những điều này cho sự sáng suốt và tấm lòng của thầy, và con đảm bảo với thầy rằng những ơn huệ này con sẽ mãi khắc cốt ghi tâm. Mà quan trọng nhất, chủ nhà phải là người yên tĩnh và có giáo dục, thầy nhé.”
– Này Mendes, ý tưởng tôi mới nảy ra là thế này: cho cậu ta ở nhà của São Joaneira! vị Kinh sư nói một cách hồ hởi. Chẳng phải ý tưởng này thật là tuyệt vời sao?
– Xuất sắc! vị phó tế đáp bằng giọng điệu nịnh nọt của mình.
– Bà ấy có căn phòng ngủ ở tầng dưới, với một phòng khách ngay bên cạnh và một phòng ngủ khác mà cậu ta có thể dùng như phòng làm việc. Nó đã được trang bị đồ đạc đẹp đẽ, với bộ ga trải giường hàng xịn…
– Ồ, ga trải giường hàng xịn, vị phó tế nói với vẻ kính trọng.
Vị kinh sư tiếp tục:
– Đó cũng sẽ là một cơ hội tốt cho São Joaneira; bà ấy thoải mái mà tính giá sáu tostões một ngày cho phòng ở, ga trải giường, các bữa ăn và một người hầu. Đổi bà ấy sẽ có vinh dự có cha xứ ngay trong nhà mình.
– Tôi chỉ không chắc về Amélia, vị phó tế nhận xét một cách rụt rè. Người ta có thể dị nghị. Cô ấy vẫn còn là một phụ nữ rất trẻ... và người ta nói vị linh mục mới cũng rất trẻ. Ông biết thừa ở vùng này lời đồn thổi gì cũng lan nhanh như lửa còn gì.
Vị kinh sư ngừng bước
– Vớ vẩn! Cha Joaquim sống dưới một mái nhà với mẹ đỡ đầu của mẹ ông ấy, có phải không? Còn kinh sư Pedroso sống với em dâu và một trong những người chị em của em dâu ấy, một cô gái mười chín tuổi. Thật là...
– Ý tôi chỉ là..., vị phó tế bắt đầu.
– Không, tôi không thấy có vấn đề gì cả. Mà São Joaneira thỉnh thoảng vẫn cho thuê phòng đấy thôi, thành thử nó gần như đã là một nhà trọ rồi chứ gì nữa. Ngay cả ngài chánh văn phòng cũng đã ở đó vài tháng!
– Nhưng một giáo sĩ..., vị phó tế gợi ý.
– Người ta còn cần thêm bảo đảm gì nữa, hỡi Mendes! vị kinh sư kêu lên. Rồi, dừng lại một lần nữa và nói với giọng điệu thân tình, Và anh thấy đấy, nó rất tiện cho tôi, Mendes ạ. Nó tiện cho tôi chết đi được, bạn thân ạ!
Một khoảng im lặng ngắn ngủi. Hạ giọng, vị phó tế nói:
– Vâng, ông rất tốt với São Joaneira.
– Tôi chỉ làm những gì có thể, hỡi anh bạn thân mến, tôi chỉ làm những gì có thể, vị kinh sư nói. Và bằng một giọng dịu dàng, ấm áp đầy vẻ bề trên, ông ta thêm vào, Và bà ấy cũng xứng đáng được như vậy. Bà ấy là người có tấm lòng nhân hậu, bạn tôi ạ. Ông ta dừng lại và đảo mắt. Anh biết đấy, hễ ngày nào mà không có mặt ở nhà bà ấy đúng chín giờ sáng là bà ấy lại bắt đầu bồn chồn. Này người con đáng mến của ta, tôi nói với bà ấy, chẳng có lý do gì để phải bối rối như vậy hết. Nhưng tính khí bà ấy là thế. Khi tôi bị đau dạ đề hồi năm ngoái, bà ấy thực sự còn sút cân nữa đấy, hỡi anh bạn Mendes! Và bà ấy rất chu đáo. Đến mùa giết lợn, những miếng ngon nhất luôn dành cho cha thánh, đó là cách bà ấy gọi tôi.
Đôi mắt ông ta sáng lên, và ông ta nói với vẻ mãn nguyện gần như chảy nước dãi.
– À, Mendes, ông ta nói thêm, bà ấy là một người phụ nữ tuyệt vời!
– Và cũng rất xinh đẹp nữa, vị phó tế nói với vẻ kính trọng.
– Ồ, đúng vậy, vị Kinh sư kêu lên, lại dừng bước một lần nữa. Bà ấy chắc chắn là người rất biết nâng niu nhan sắc, dù bà ấy không còn trẻ nữa, anh biết đấy, nhưng trên đầu bà ấy không có một sợi tóc bạc nào, không một sợi! Và làn da của bà ấy... Rồi ông ta nói nhỏ hơn và với một nụ cười thèm thuồng: Và phần này đây, Mendes, ông ta chỉ vào vùng cổ dưới cằm bằng cách vuốt ve nó một cách chậm rãi với bàn tay mập mạp của mình: Đúng là hoàn hảo! Vả, bà ấy còn giữ mọi thứ trong nhà sạch sẽ bóng loáng! Thật là chu đáo nữa chứ! Không ngày nào mà bà ấy không gửi cho tôi một món quà, một lọ mứt nhỏ, một bát cơm ngọt hay một ít dồi đen ngon tuyệt từ Arouca! Hôm qua bà ấy gửi cho tôi một chiếc bánh táo. Anh nên thấy nó mới được! Những quả táo mịn màng và thơm béo đến thế! Ngay cả chị tôi Josefa cũng nói: Nó ngon đến mức người ta có thể nghĩ bà ấy đã nấu những quả táo trong nước thánh! Rồi ông ta đặt một tay lên trái tim: Chính những thứ ấy đã chạm đến trái tim của chúng ta, Mendes ạ. Tôi biết mình không nên nói như vậy, nhưng đó là sự thật.
Vị phó tế lặng lẽ lắng nghe với vẻ ghen tị.
– Tôi hoàn toàn ý thức được, vị Kinh sư nói, lại dừng bước và cân nhắc từng chữ. Tôi hoàn toàn ý thức được những lời đồn đại lan truyền khắp nơi... Nhưng đó là một sự vu khống hoàn toàn và trắng trợn! Tôi chỉ rất tình cờ phải lòng quý mến gia đình ấy. Tôi đã như vậy ngay cả khi chồng bà ấy còn sống. Ông biết điều đó mà, Mendes.
Vị phó tế gật đầu.
– São Joaneira là một người phụ nữ đáng kính, Mendes ạ! vị kinh sư kêu lên, chọc mũi ô xuống đất. Một người phụ nữ đáng kính!
– Miệng lưỡi thiên hạ xưa nay vẫn thế mà, thưa ông, vị phó tế nói một cách ủ rũ. Và sau một khoảng im lặng, người này nhẹ nhàng đế vào: Nhưng tất cả chắc hẳn rất tốn kém cho ông đây.
– Chính xác, bạn tôi ạ. Kể từ khi vị chánh văn phòng rời đi, người phụ nữ tội nghiệp đã để ngôi nhà trống không chẳng còn kinh doanh gì nữa, và tôi phải ra tay giúp đỡ bà ấy.
– Bà ấy có cái nông trại nhỏ đó mà, vị phó tế nhận xét.
– Chỉ là một dải đất mọn thôi, bạn thân mến ạ, chỉ là một dải đất mọn. Và rồi còn có thuế phải nộp và tiền công thuê người làm. Đó là lý do tại sao vị cha xứ mới lại là một món quà trời ban. Với sáu tostões mà anh ta trả cho bà ấy hàng ngày, cộng thêm một chút trợ giúp nhỏ từ tôi và với những gì bà ấy kiếm được từ việc bán rau từ nông trại, bà ấy có thể sống khá. Và điều đó sẽ giúp tôi nhẹ nhõm lắm lắm, Mendes ạ.
– Thật là nhẹ nhõm lắm lắm! vị phó tế lặp lại.
Họ im lặng. Buổi chiều đang dần buông xuống; bầu trời không một gợn mây có màu xanh lam nhạt và không khí trong vắt thì hoàn toàn tĩnh lặng. Dòng sông vào mùa này nước cạn thấy đáy; những doi cát nhỏ lấp lánh lác đác và làn nước nông thì thầm êm đềm khi lăn tăn chảy qua những viên sỏi.
Ở bờ đối diện, hai con bò, được một cô bé mục đồng dẫn dắt, đi xuống con đường lầy lội chạy dọc theo một bãi cây mâm xôi; chúng lội chậm rãi xuống sông và, vươn những cái cổ đã tróc lông do đeo ách, chúng uống nước một cách thanh nhã, không một tiếng động; thỉnh thoảng chúng lại ngẩng những cái đầu hiền lành lên và nhìn xung quanh với sự bình thản thụ động của những sinh vật mãn nguyện, và những tia nước, nhấp nhánh trong ánh mặt trời, từ khóe miệng chúng rớt xuống. Khi mặt trời lặn, mặt nước không còn trong vắt như mặt gương, và những cái bóng do các vòm cầu in xuống trở nên dài hơn. Một màn sương hoàng hôn bốc lên từ những ngọn đồi, và, điểm tô cho đường chân trời, về phía biển, là những đám mây đỏ máu pha màu cam báo hiệu một quãng nóng nực sắp tới.
– Buổi chiều mới đẹp làm sao!, vị phó tế nói.
Vị kinh sư ngáp một cái, làm dấu thánh giá trước cái miệng đang há rộng của mình, nói:
– Chúng ta nên quay về kịp giờ Kinh Truyền Tin.
Không lâu sau, khi họ đang leo các bậc thang lên nhà thờ chính tòa, vị kinh sư dừng lại và, quay sang vị phó tế, bình phẩm:
– Vậy là quyết định rồi nhé, Mendes, tôi sẽ sắp xếp cho Amaro ở nhà São Joaneira! Tôi chắc chắn điều ấy với tất cả chúng ta cũng như một món quà trời ban vậy.
– Một món quà trời ban thực sự, vị phó tế đồng ý một cách kính cẩn.
Và họ bước vào nhà thờ, làm dấu thánh giá.
Bùi Gia Bin dịch
