favorites
Shopping Cart
Search
Vitanova
Prev
Thu 2025
Next

Độc giả đọc: Lại một đường đời

27/10/2025 20:01

Baudelaire đã nói đúng: một gái già là cả một suối nguồn cho kẻ ưa chiêm nghiệm dưới buổi chiều chán nản.

Khi nói với người tình rằng cả hai hãy cứ đợi đến khi cha đồng ý, tiểu thư Sloper muốn mời gọi người tình cũng với mình giữ nguyên một tư thế, như đôi tượng đá cho đến vĩnh cửu. Ở lần đọc đầu, tôi đã thấy cô thật thụ động và nhút nhát, nhưng rồi tôi đã đổi ý khi nhận ra chẳng phải cô đã không hề run sợ trong khi chờ đợi hay sao, cô không hề thấp thỏm trong lo âu như anh chàng tình nhân gian manh, cô tin vào tình yêu nên cô không sợ và không run. Cô muốn một tình yêu platonic, nhưng muốn một tình yêu không dục vọng như thế cũng là không muốn gì cả, passion từng được Nguyễn Văn Vĩnh dịch là thị dục, ta thấy để rồi ta đến và chiếm đoạt, ta đoạt lấy tức là ta biến đổi cái ta yêu theo ý thích của ta - làm nó mất đi những yếu tố ban đầu khiến ta yêu nó, tình yêu dục vọng là sự xâm hại làm suy đổi cái đẹp, lòng ghen còn có thể có trường hợp ta ghen với chính bản thân cái ta yêu, tôi ghen với sự kiêu hãnh của người khiến người không lệ thuộc vào tôi. Nhưng tình yêu platonic, tình yêu hồn bướm mơ tiên của Khái Hưng, nó hài lòng nhìn hoa nở mà không hái hoa, tôi yêu không cần đáp trả điều chi, tôi hài lòng chiêm ngưỡng sự hiện diện của người như là chính người. Để có thể yêu tình yêu platonic, tiểu thư Sloper hẳn đã có một lòng tin mãnh liệt, có những trang của Henry James thật đẹp và thật chính xác khi miêu tả tình yêu của cô, cô thoả mãn hoàn toàn chỉ với việc nghe người yêu nói. Tình yêu dục vọng khiến người ta muốn sở hữu, cô chẳng hề muốn nắm lấy thứ gì của Morris Townsend, vì thế cho nên cô mới có thể kiên nhẫn chờ cha mình, khi người thực sự tin thì người chẳng hề phải chờ đợi, tôi tin món tiền nợ sẽ được trả lại cho tôi nên tôi sống với cảm giác đủ đầy mà món tiền đó sẽ đem lại. 

Khi người ta yêu như tiểu thư Sloper, người ta chẳng cần bằng chứng của tình yêu - một cái đám cưới, tình yêu không có thể động là cái thiếu, tình yêu là khoảnh khắc hiện hình của hạnh phúc chợt đến bên ngoài ý thức ta, ta không hề thấy thiếu tình yêu trước khi ta yêu (còn ta sẽ thấy đói trước khi no, và mệt trước khi ngủ). Vì thế, các tín đồ chỉ có thể tin Chúa bằng cách yêu Chúa, tình yêu hoá giải lòng tin, và lòng tin thực sự hoá giải sự chờ đợi mỏi mòn. Tình yêu khác gì với dục vọng, hay như C. S. Lewis viết: thần Eros khác gì với thần Venus? Trong thần thoại Hy Lạp, thần Zeus phải hoá thành thú vật để ân ái với con người, tình yêu tiền Kitô giáo như là dục vọng xác thịt, những cái thiêng liêng siêu hình phải đoạ lạc xuống tầng vật chất để hưởng thụ tình yêu, lấy hình hài thú vật (tượng trưng cho cái tự nhiên hạ đẳng) để yêu con người. Còn với nàng Ondine của La Motte-Fouqué, hay nàng tiên cá của Andersen, để yêu loài người, các nhiên thần cần phải có tâm hồn bất biến (hay một linh hồn bất diệt) - thứ chỉ duy nhất loài người mới có, khi đó, tình yêu là trạng thái tinh thần cao vời mà chỉ giống loài được chọn (con người) mới sở hữu. Và đó là thứ tiểu thư Sloper sở hữu.

Thế là cô tiểu thư nhỏ bị kẹt ở đó, giữa hai lực lượng bạo chúa vốn là người thân nhất đời của nàng. Người cha là lý trí sắc lạnh, ông nhìn thấu mọi điều ngay từ lúc ban đầu, và tồn tại suốt truyện như dàn đồng ca Hy Lạp cất tiếng than trách số phận không thể đổi dời của con mình. Có một lần, suýt đánh mất sự điềm tĩnh của mình, ông gần như nổi điên vì ông không thể khuất phục tình yêu con gái, khi quá gần một lòng tin thực sự, có khi nào ông bị lôi kéo vào khát khao một phép màu cho con gái - tôi tự hỏi. Những người lý trí là những người ưa hoài nghi, họ không chịu nổi kẻ ngây thơ, vì gọi một người ngây thơ đồng thời cũng muốn nói người ta đang tin vào điều mình không tin. Còn người cô ruột, Mephisto ngọt ngào luôn ra sức khuấy động dục vọng của người cháu gái, người thỏ thẻ những ham muốn thầm kín nhất của nàng cho nàng hay, người cô là cơn cuồng nơi cảm xúc nàng, ngọt ngào nhưng tẩm độc. Quá khô khan và quá uỷ mị, nàng kẹt vào giữa duy lý và lãng mạn, giữa lý trí và tình cảm, nàng phải giữ một động tác vĩnh cửu ở ngưỡng cửa của văn minh và tự nhiên, nàng giữ một mức thật hẹp và thật khó của tình yêu, nàng phải tin chắc vào sự đầy đủ của mình trong khi giữ mình khỏi khổ hạnh và sa đoạ. Nàng thụ động, vì nàng lấy hết sức mình giữ khoảng giữa thật hẹp giữa sự buông thả sa đoạ của bản năng và khổ hạnh vô cảm của lý trí, và nàng đã giữ được đến cận kề cuối truyện.

Tôi tự hỏi, đã từng bao giờ nhân loại lâm vào hoàn cảnh của nàng chưa, có lẽ ở thời hiện đại, tôi nghĩ. Ở buổi ban đầu, nhà cai trị là con thú hùng mạnh nhất bầy người, người ta nghe lệnh hắn vì hắn mạnh hơn, theo luật mạnh được yếu thua của tự nhiên. Sau rồi, các nhà hiền triết cổ đại Hy La và Trung Hoa khuôn đúc được khái niệm nghĩa vụ, nhà cai trị phải có nghĩa vụ với thần dân, và chính vì hắn có nghĩa vụ nên người ta mới tuân lệnh sự sai khiến của hắn để hắn hoàn thành nghĩa vụ của mình, tức là do hắn có nghĩa vụ nên hắn mới có quyền, một nghĩa vụ chỉ định một quyền. Rồi đến các triết gia Châu Âu bàn luận khế ước xã hội, Thomas Hobbes đúc được ý niệm quyền tự nhiên, rằng con người ở trạng thái tự nhiên có tất cả quyền, và các quyền chỉ bị thu hồi khi cộng đồng người cùng ký khế ước xã hội để có thể chung sống với nhau trong hoà bình, quyền không đồng nhất với nghĩa vụ nữa - mọi người bình đẳng trước pháp luật, dòng máu xanh quý tộc đã mất giá trị tự thân. Khuynh hướng tư duy này tạo thành một nghịch lý, vì nếu con người có quyền làm mọi thứ, và chỉ mất các quyền khi ký khế ước xã hội, thì tức là con người chỉ mắc tội khi vi phạm luật phổ quát, hay nói cách khác, luật tạo ra tội, chứ không phải tội tạo ra luật, có một sự đảo ngược xảy ra - buổi ban đầu không có tội ác vì con người tự nhiên có tất cả quyền. Không còn thẩm quyền của Thượng Đế quy định thiện ác bên ngoài lý trí con người nữa, thiện ác tạo bởi khế ước xã hội, khế ước xã hội tạo bởi sự thống nhất ý kiến chung trong nền phong hoá, và phong hoá thì mỗi thời mỗi khác, cái thiện không còn vĩnh cửu mà bị neo vào lịch sử. Cái thiện chỉ thể phát sinh từ luật pháp, người chẳng còn lý do gì để sống tốt hơn mức luật định đoạt vì chẳng có ý nghĩa gì trong hành động đó, và người ta cũng chẳng thể nào tạo được luật bảo vệ thiểu số hay giới vô sản vì luật là sự thống nhất ý kiến của đa số và tinh hoa có thẩm quyền người cha như Dr. Sloper (nếu không hoán đổi tờ khế ước thành một lời thề chưa được thực hiện như Karl Marx - tức người ta ký khế ước ở tận cùng lịch sử, hay viện đến một vị thế khởi nguyên đằng sau bức màn vô minh - tức người ta ký khế ước trước cả trạng thái tự nhiên như John Rawls, moment đầu tiên đã biến đổi công lý như tự do thành công lý như bình đẳng, và moment thứ hai (thứ là kết quả từ việc chủ nghĩa đế quốc khu biệt giai cấp vô sản vào dân tộc màu da ngoại lai (cũng như giới tính khác)), đã biến đổi công lý như bình đẳng thành công lý như công bằng), thứ đã kích thích nhiều phản ứng. Có thể kể đến Dostoyevsky và sự khác nhau giữa trừng phạt và chuộc tội, hay định đoạt thiện ác bằng giá trị của Nietzsche, và phản ứng của Kierkegaard với việc người ta đặt toàn bộ phân biệt thiện ác vào sự phát triển luật pháp theo lý trí (tức là sự thống nhất ý kiến của hội đồng giáo sư triết học ở cuối cùng lịch sử) mà không bằng một cú nhảy niềm tin duy nhất đạt đến cái toàn thiện ngay lập tức - cái thiện không cần phải chờ lý trí. Dẫu sao, sau thời kỳ Sáng và thời kỳ Lãng mạn, khi con người không còn quan tâm đến sự cứu rỗi vĩnh hằng nữa - không còn sợ ván cược Pascal nữa, cái thiện bị trật phẩm khỏi vị trí chi phối trong bộ ba chân thiện mỹ, và cái thiện thành nô lệ bị kẹp giữa lý trí và bản năng, tình thế con người hiện đại như tình thế tiểu thư Sloper. Một thế cục làm nảy sinh tôn giáo cái đẹp của dandyism, vì sao cần sống tốt - vì nó đẹp, cái thiện được hướng đạo bởi cái đẹp sẽ có đường vượt thoát khỏi lý trí và bản năng, khỏi luật pháp và dục vọng. Lõi của dandyism là khắc kỷ luận, triết học khắc kỷ của hoàng đế La Mã Marcus Aurelius uy nghiêm khác với triết học siêu hình Athens ở chỗ: “philosophy” không hiểu như “tình yêu cho sự thật”, mà đúng hơn, một cuộc kiểm thử sự thật bền bỉ, dùng chính cuộc đời mình làm chuột bạch. Các nhà khắc kỷ, rất khác với típ triết gia như Plato hay Aristotle, họ không tìm kiếm sự thật, họ chứng thực sự thật, họ ít e ngại những kẽ hở về mặt logic trong học thuyết của mình hơn là thực hiện một hành động phản bội học thuyết của chính mình trong lúc yếu lòng, tiểu sử của họ chính là tác phẩm vĩ đại nhất của họ, họ gần với Diogenes hay Epicurus hơn là Platon và Aristotle. Alain từng nói vẻ đẹp là câu đố của con nhân sư, tôi nghĩ tình yêu cũng là một ẩn ngữ như thế, tiểu thư Sloper đã dùng tình yêu để đối kháng với lý trí và dục vọng.

Nhưng rồi, số phận cũng giáng xuống tiểu thư Sloper tội nghiệp, và khi ấy, cặp mắt của hai người thân của nàng lóe lên ánh nhìn háo hức hăm hở, ôi những cặp mắt sáng loá khủng khiếp, những đôi tai vểnh lên và những cặp mắt săm soi (của mọi người) rình rập bủa vây nàng, họ đang trông chờ cú ngã thảm hại và khuôn mắt lem luốc nước mắt của nàng. Các nhân vật phụ của Henry James đáng sợ nhất trong tư thế rình rập của họ, ánh nhìn hả hê như những mũi tên ghim vào cú ngã các nữ anh hùng của ông, một vòng tròn giao tế siết chặt dần bao vây con mồi cô thế. Thực ra, nữ thần Athena đã rất biết phải làm gì với Medusa sau sự việc với Poseidon, cái nhìn chế giễu khinh rẻ của người đời sắp sửa phủ trùm lên cảnh đời tội nghiệp ấy, món quà duy nhất đáng tặng là khả năng hoá đá những cái nhìn dám nhìn từ những kẻ soi mói lăng xăng kéo đến. Trở lại với tiểu thư Sloper - người đã không quỵ xuống sau cú ngã, bây giờ nàng khô héo khi mất đi tình yêu, nhưng nàng vẫn đứng vững một mình dù chỉ như thân cây chết, cuộc tình quá kịch liệt đã rèn luyện nàng độc lập khỏi sự tôn thờ cha mình, đồng thời khiến nàng nghi kỵ người cô ruột, nàng ngã nhưng không dựa vào ai để đứng lên. Sau khi nức nở, ngẩng đầu khỏi giường, nàng sống phần đời còn lại như người khắc kỷ, và nàng sống đầy kiêu hãnh, các dandy tôn thờ cái đẹp cũng không quan tâm luật pháp và thù ghét tự nhiên, mọi cái nhìn trông chờ đều bị thất vọng. 

Những nhà khắc kỷ, trên một phương diện, là những người cố gắng không có bí mật. Họ chấp nhận bí ẩn của thế gian, và họ còn cố hiểu nó trong lúc viết những văn bản suy tưởng, nhưng con người không có bí mật nào đáng để phải che dấu, kiếp người nào cũng phải chịu đựng những bẩn thỉu cuộc đời, bất hạnh nào cũng phổ quát, và không có gì quá riêng tư để mà che dấu. Với các triết gia siêu hình Hy Lạp, những cảm nhận của giác quan tạo sự vật giả, với các nhà Khắc Kỷ, những xúc cảm của tâm hồn tạo sự vật giả. Và vì thế, tôi nghĩ, triết gia siêu hình Hy Lạp đã giải mê những trùng ngôn buồn cười của ngôn ngữ: lửa cháy, sông chảy (lửa không cháy, sông không chảy, tồn tại không?). Còn các nhà khắc kỷ đã chứng minh rằng: chính cái chết mới là ngọn nguồn mọi cảm xúc, thật khó tin, một kẻ bất tử lại vui khi trúng sổ xố, hay buồn vì nhà cháy, chính hắn - kẻ bất tử không có mất mát vĩnh viễn hay sự bất khả trong việc đạt được vật. Có thể hiểu, với những nhà khắc kỷ thì mọi cảm xúc là cảm xúc về cái chết, sự vật tốt hay xấu, sự việc may mắn hay xui xẻo chỉ là trung gian, hoặc đúng hơn, ảo giác của cảm xúc, sứ giả của cái chết. Nàng sống phần đời còn lại nguội lạnh như thế, nhưng nàng độc lập sau chiến thắng trước hai người thân, nàng chỉ thất bại trước tình yêu.

Ngoại đề: hẳn sẽ có độc giả muốn hỏi tôi vậy ở phương Đông người ta quan niệm về quyền như thế nào? Ở phương Tây cổ đại, những người thông thái được xem là thông hiểu bản chất của muôn vật muôn loài, nên họ có thể hướng dẫn mỗi người sống đúng với bản chất của mình, vì sống theo bản chất là sống hợp ý Chúa, những nhà thông thái như vậy sẽ thành nhà cầm quyền, nhà lập pháp và hiền triết. Ở Trung Hoa cổ đại trong viễn kiến của Khổng Tử, chủ thể của đạo đức không phải đơn tử cá nhân mỗi con người, mà chỉ có thể là quan hệ giữa hai người, không thể có một con người sống đức hạnh bằng cách khổ hạnh, mà chỉ có một mối quan hệ đức hạnh tạo bởi quân-thần, phụ-tử hay phu-thê. Có thể nói, triết gia Hy Lạp định nghĩa tam giác gồm 3 điểm, còn nho sinh định nghĩa tam giác bằng 3 cạnh. Lễ cần được hiểu là một bộ nguyên tắc cần phối hợp giữa hai hay nhiều người khác nhau, tiếng nói “bình thân” của hoàng đế cũng cần phải nghiêm túc không kém động tác bái lạy của triều thần, một lễ đúng cần sự phối hợp của tất cả các bên để hoàn thành một mối quan hệ tốt đẹp, nếu không lễ sẽ vô nghĩa như chữ bị thiếu nét khi bậc trên không đáp bậc dưới theo đúng nguyên tắc. Tam cương ngũ thường, và tam tòng tứ đức đều là những đức hạnh không thể thực hiện một mình, trí theo cách hiểu Đông Á là khả năng giúp người chứ không dùng để chỉ một người biết bản chất của tự nhiên như ở Hy Lạp cổ đại. Nhất là hạnh trung và hạnh hiếu thì không thể hiểu nổi đối với người phương Tây, khi ta nói với họ đó là sự trung và sự hiếu không bao hàm sự đền ơn đáp nghĩa giữa hai cá thể, họ sẽ nhầm tưởng đó là sự mù quáng của ngu trung, nhưng thực ra hiếu dùng để chỉ việc hoàn thành tốt một mối quan hệ - thứ là đơn vị ý niệm của tư duy Nho giáo, đó là sự kính của hiếu và trung. Một người không có những quyền tự nhiên để rồi bị cấm, người chỉ có những hành động được thực hiện trong một mối quan hệ, vua ra vua thì thần ra thần và ngược lại, đó là sự nhập vai đóng kịch của hai cá thể khi bước vào một màn kịch - mối quan hệ, và đó là kiểu diễn của mặt nạ kịch Noh: người ta không trở thành phụ nữ mà người ta chỉ biểu đạt tính nữ, cả hai phía ông vua và đám quan đều phải gồng mình to lớn hơn để biểu đạt hoàng đế và quần thần trên sân khấu triều ca. Không phải người cha trở thành quân và người con trở thành thần, mà hai người cùng biểu đạt phụ-tử, rồi lúc khác lại cùng nhau biểu đạt quân-thần, thông qua con đường lễ. Đặc điểm Đông Á này tôi thấy rõ nhất ở nơi văn chương Dương Nghiễm Mậu, khi chủ thể tác phẩm của ông là mối quan hệ gia đình (hay bạn bè), có một sự Bildung nhưng là một mối quan hệ thực hiện Bildung, mối quan hệ ấy tiến lên trong lịch sử và vượt qua những biến động của lịch sử, mối quan hệ mới là thứ bị lịch sử thử thách, xã hội tấn công vào hạt nhân gia đình và xé toạc nó, khắp nơi trong văn chương ấy là tiếng thì thầm hỏi tin tức của người thân và con người cứ thi nhau mất hút đi giữa thời tao loạn, chủ đề sự tái lập mối quan hệ hay gia đình xuất hiện trong tác phẩm Lênh đênh qua cửa thần phù, khi người bố lộ mặt thật với người con sau khi lịch sử rút đi, khi tướng đã về hưu.

Viên Trường

favorites
Thêm vào giỏ hàng thành công