favorites
Shopping Cart
Search
Vitanova
Prev
Xuân 2025
Next

Der Gehülfe: Roman von Robert Walser

28/04/2025 13:34

Thomas Bernhard nhìn Goethe còn Robert Walser thì nhìn Kleist: như vậy là đã có hai vạch của Lãng mạn. Nếu muốn đẩy thêm nữa: Bernhard viết Thầy cũ, còn Walser thì viết Der Gehülfe, về nhân vật phụ tá trẻ tuổi ở cùng nhà với chủ (một nhà phát minh), cũng có thể coi là thầy. Đây là công việc mà trong đời thực Walser từng làm, hồi ở Wädenswil, một thành phố gần Zurich (Walser viết tiếng Đức nhưng là người Thụy Sĩ chứ không Áo như Bernhard). Bernhard nhiều lần nhắc đến Walser và Kafka, gọi đó là những người thầy tinh thần của mình. Chính Kafka cũng đặc biệt ngưỡng mộ Walser.

Đó là một văn chương thuần khiết và nhẹ nhõm, sinh ra từ một sự giao mình, chấp nhận mọi thứ ngay từ đầu: một cuộc lang thang khắc kỷ và hoàn toàn tự do. Có điều gì đó giống như nỗi tò mò trẻ thơ trong cái nhìn chừng không bỏ sót điều gì ấy, trong sự tuân phục tuyệt vời ấy. Walter Benjamin từng nhận xét rằng những người hạnh phúc trong thế giới của Walser đều là người vừa khỏi bệnh. Chỉ trong sự êm dịu tìm lại được sau khi bị hành hạ bởi cơn sốt triền miên, người ta mới có thể nhìn thế giới như thế: mỉm cười mở mắt thật to, ngay cả khi đang chìm dần.

Der Gehülfe xuất bản năm 1908. Dưới đây là đoạn mở đầu. 

 

Der Gehülfe

- Robert Walser

Một buổi sáng, tám giờ, một thanh niên đứng trước cửa một ngôi nhà đơn độc và dường như rất thu hút. Trời đang mưa. “Gần như khiến mình kinh ngạc,” người đang đứng đó nghĩ, “chuyện mình lại mang theo dù.” Những năm trước đây, anh ta chẳng bao giờ có thứ gì như thế. Bàn tay buông thõng bên hông nắm một cái va li nâu, loại rẻ tiền nhất. Trước mắt người thanh niên, kẻ có vẻ vừa qua một hành trình nhiêu khê, là tấm bảng men sứ ghi: C. Tobler, Văn phòng Kỹ thuật. Anh ta chờ thêm một lúc, như thể mải chìm vào một suy nghĩ nào đó hẳn chẳng mấy liên quan, rồi mới nhấn nút chuông điện ở cửa. Một người - trông qua thì có vẻ là cô hầu - hiện ra mở cửa cho anh.

“Tôi là nhân viên mới,” Joseph nói; đó là tên anh. Cô hầu bảo anh vào nhà, đi thẳng xuống đó - cô ta chỉ - là tới văn phòng. Chủ nhà sẽ ra ngay.

Joseph bước xuống một cầu thang nhỏ, dường được làm ra cho gà hơn là cho người, rồi rẽ phải, đến văn phòng của nhà phát minh. Sau khi chờ một lúc, cửa bật mở. Nghe tiếng bước chân rắn rỏi trên những bậc gỗ và thấy cách cánh cửa bị đẩy tung, người đang đợi lập tức nhận ra chủ nhân. Diện mạo của người đàn ông chỉ càng củng cố sự chắc chắn đã có từ: đó đúng là Tobler, chủ nhân ngôi nhà, kỹ sư Tobler. Trên mặt ông ta hiện rõ vẻ ngạc nhiên, trông ông ta như đang bực - và đúng là thế.

“Tại sao,” ông ta hỏi, mắt trừng trừng như muốn trừng phạt Joseph, “cậu lại đến đây hôm nay? Theo lịch thì tận thứ Tư cậu mới phải có mặt cơ mà. Tôi còn chưa chuẩn bị xong. Cậu vội cái gì thế hử?”

Cái “hử” ấy nghe thật quá khinh miệt: một tiếng cụt lủn chẳng gợi chút thân thiện nào. Joseph đáp rằng Văn phòng Giới thiệu Việc làm đã chỉ định cho anh bắt đầu công việc vào sáng thứ Hai, tức là hôm nay. Nếu thông tin sai sót, anh mong được lượng thứ, vì sự hiểu lầm ấy hoàn toàn nằm ngoài khả năng kiểm soát của anh.

“Xem mình lễ phép đến thế nào kìa!” chàng trai nghĩ thầm, không nén được nụ cười kín đáo trước cách cư xử của mình.

Tobler dường như không có ý định tha thứ ngay. Ông ta tiếp tục xoáy vào chuyện đó, khiến gương mặt vốn đã đỏ au càng đỏ tợn. Ông “không hiểu” cái này cái nọ, nhiều chuyện khiến ông “ngạc nhiên”, vân vân. Cuối cùng, cơn sốc trước sự nhầm lẫn cũng dịu bớt, và không thèm nhìn Joseph, ông thản nhiên bảo đã đến rồi thì thôi ở lại.

“Giờ chẳng nhẽ tôi đuổi cậu đi?” Rồi ông tiếp: “Cậu có đói không?”

Joseph đáp rằng có. Ngay lập tức, anh thấy ngạc nhiên trước sự bình thản trong câu đáp của mình. “Mới nửa năm trước thôi,” anh vụt nghĩ, “một câu hỏi đe nẹt thế này hẳn đã làm mình run bắn!”

“Đi theo tôi,” kỹ sư nói. Và ông dẫn thư ký mới nhận lên phòng ăn ở tầng trệt. Văn phòng làm việc thì dưới tầng hầm. Trong phòng khách kiêm phòng ăn, ông chủ truyền:

“Cứ ngồi đi. Ngồi đâu cũng được. Ăn cho no vào. Đây, bánh mì đây. Cắt bao nhiêu tùy thích, không phải ngại. Cà phê cũng còn nhiều, cứ tự rót lấy vài cốc. Còn đây là bơ, như cậu thấy đấy, để ăn. Đây nữa, mứt, nếu cậu thích mứt. Cậu có muốn thêm khoai tây chiên không?”

“Ồ, dĩ nhiên, tôi rất vui lòng,” Joseph mạnh dạn đáp. Nghe vậy, Herr Tobler liền gọi Pauline, cô hầu, và bảo cô rảo cẳng đi làm khoai chiên theo yêu cầu. Sau khi bữa sáng kết thúc, đại khái cuộc đối thoại sau đây đã diễn ra giữa hai người, trong phòng làm việc ngổn ngang bàn vẽ, compa và bút chì:

Với giọng cộc cằn, Tobler tuyên bố rằng nhân viên của ông, tức Joseph, phải giữ cho đầu óc tỉnh táo. Ông không cần một cỗ máy. Nếu Joseph định làm việc theo cái kiểu mơ màng lơ đãng, đầu treo ngược cành cây thì tốt hơn hãy nói thẳng ngay từ đầu, để còn biết đường mà liệu. Ông, Tobler, yêu cầu ở nhân viên của mình sự nhanh nhạy và tự lập. Nếu Joseph cảm thấy mình thiếu những phẩm chất đó thì xin cứ vui lòng vân vân và vân vân. Nhà phát minh có vẻ mắc tật lặp đi lặp lại.

“Ồ,” Joseph nói, “nhưng tại sao tôi lại không thể giữ cho đầu óc tỉnh táo, thưa Herr Tobler? Về khả năng, tôi tin tưởng và thành thật hy vọng rằng tôi sẽ luôn có thể hoàn thành bất cứ việc gì ông yêu cầu. Và theo như tôi hiểu, hiện giờ tôi có mặt tại đây” (Tobler Haus nằm trên một ngọn đồi) “chỉ theo thỏa thuận tạm thời. Bản chất thỏa thuận đôi bên cũng hoàn toàn cho phép ông, nếu thấy cần, cho tôi đi ngay lập tức.”

Herr Tobler, đến lượt mình, thấy cần phải nhận xét rằng ông thật sự hy vọng mọi chuyện sẽ không đi đến chỗ ấy. Ông nói tiếp rằng Joseph không nên cảm thấy bị xúc phạm bởi những điều ông vừa tuyên bố. Chỉ là ông nghĩ tốt nhất là nói rõ, như thế sẽ có lợi cho cả hai bên. Mỗi người sẽ biết mình có thể trông đợi gì ở người kia, và đó là cách xử sự tốt nhất.

“Vâng, chính thế,” Joseph đồng tình.

Sau cuộc thảo luận ấy, cấp trên dẫn cấp dưới tới chỗ anh “có thể ngồi viết”. Đó là một cái bàn hơi quá hẹp, thấp lè tè và có ngăn kéo đựng hộp tem cùng vài cuốn sách nhỏ. Cái bàn - thực ra chỉ là một cái bàn thường, chẳng phải bàn làm việc đúng nghĩa - kê sát cửa sổ và sát đất vườn. Qua ô cửa đó, người ta có thể nhìn thấy sự mênh mông mặt hồ và bờ bên kia xa xa. Tất cả hôm nay chìm trong sương mù, vì vẫn đang mưa.

“Đi với tôi,” Tobler đột ngột nói, kèm một nụ cười mà Joseph thấy có vẻ gần như bất lịch sự, “vợ tôi cần phải gặp cậu. Đi nào, tôi sẽ giới thiệu cậu với bà ấy. Rồi cậu cũng nên xem qua phòng ngủ của mình.”

Ông dẫn Joseph lên tầng hai, nơi một dáng người cao, thanh mảnh tiến ra đón họ. Chính là “bà ấy”. “Một phụ nữ bình thường,” đó là ý nghĩ vội vàng đầu tiên của chàng thư ký trẻ, nhưng ngay lập tức anh bổ sung: “nhưng cũng không hẳn.” Người phụ nữ nhìn người mới đến bằng ánh mắt mai mỉa thờ ơ, tuy nhiên không có vẻ cố ý. Cả sự lạnh lẽo lẫn vẻ mỉa mai ấy dường như đều là bẩm sinh. Bà chìa tay cho anh một cách hờ hững, thậm chí uể oải; Joseph nắm lấy tay ấy và cúi người trước “bà chủ nhà”. Đó là tước hiệu bí mật anh tự đặt cho bà, không phải để nâng bà lên một vai trò đẹp đẽ hơn mà trái lại, như một sự xúc phạm thầm gọn ghẽ. Trong mắt anh, cư xử của người phụ nữ này rõ ràng là quá kiêu kỳ.

“Tôi hy vọng anh sẽ thích ở đây với chúng tôi,” bà nói bằng một giọng cao lanh lảnh, mày hơi nhíu lại.

“Phải rồi, cứ cho là thế đi. Tuyệt đấy chứ. Xem chúng tôi tử tế biết bao. Rồi sẽ sớm rõ thôi, phải không nào.” Đó là những ý nghĩ thầm mà Joseph cho là thích hợp khi nghe những lời nhân từ của người phụ nữ ấy. Sau đó, họ dẫn anh đi xem phòng mình, ở tít trên cao tòa tháp đồng - một căn phòng tháp, có thể nói vậy, một chốn cao quý lãng mạn. Và đúng là phòng rất sáng sủa, thoáng và dễ chịu. Giường sạch sẽ, gọn gàng - ồ phải, đây là một căn phòng người ta có thể sống được. Không tệ chút nào. Và Joseph Marti - đó là tên đầy đủ của anh - đặt cái va li anh đã tự tay xách lên xuống sàn gỗ.

Sau đó, anh được giới thiệu sơ về những bí mật trong hoạt động kinh doanh của Tobler, cũng như về những công việc anh sẽ phải đảm đương nói chung. Một điều lạ lùng đang xảy ra với anh - anh chỉ hiểu phân nửa những gì đang được nói. “Có chuyện gì với mình vậy?” anh tự trách: “Chẳng lẽ mình chỉ là thằng ba hoa rỗng tuếch? Mình đang lừa dối Herr Tobler sao? Ông ta yêu cầu sự tỉnh táo, còn mình hôm nay chẳng tỉnh táo chút nào. Có lẽ sáng mai sẽ khá hơn, hoặc có khi chỉ cần đến tối nay thôi.”

Anh thấy bữa trưa được dọn ra thật ngon miệng.

Lại lo lắng, anh nghĩ: “Sao thế này? Mình đang ngồi đây, ăn những món còn ngon hơn bất cứ thứ gì mình đã ăn suốt nhiều tháng qua, vậy mà chẳng hiểu đầu cua tai nheo gì về công việc kinh doanh của Tobler? Thế có phải là ăn cắp không? Thức ăn tuyệt vời làm mình nhớ nhà quá. Mẹ mình cũng nấu những món súp thế này. Rau củ chắc nịch, thịt cũng mềm và mọng nước. Ở thành phố làm gì được chỗ nào có đồ ăn như thế?”

“Cứ ăn đi, ăn nhiều vào,” Tobler động viên. “Nhà tôi ai cũng phải ăn no, hiểu chưa? Nhưng ăn xong thì phải làm việc đấy.”

“Như ngài thấy đấy, tôi đang ăn,” Joseph đáp bằng giọng ngượng ngùng đến mức chính anh cũng thấy tức tối. Anh nghĩ: “Liệu đến một tuần nữa ông ta có còn hối mình ăn thế này không? Thật xấu hổ khi mê mẩn thức ăn của người khác như vậy. Liệu mình có thể bù đắp cho sự háu ăn vô liêm sỉ này bằng năng suất lao động phi thường không?”

Anh xin thêm lần hai mỗi món trên bàn. Đúng thế, anh chỉ vừa đến đây từ tầng lớp dưới đáy xã hội, từ những xó xỉnh nghèo nàn, mờ tối của thành phố lớn. Đã mấy tháng nay anh chưa được ăn một bữa ra hồn.

Anh tự hỏi không biết có ai để ý không, rồi đỏ mặt.

Phải, rõ ràng nhà Tobler đã ít nhiều nhận ra điều gì đó. Người phụ nữ thỉnh thoảng lại nhìn anh bằng ánh mắt gần như thương hại. Bốn đứa trẻ - hai trai hai gái - cứ len lén ngó anh như một sinh vật xa lạ dị kỳ. Những ánh nhìn dò xét công khai ấy khiến anh bối rối. Những ánh nhìn như thế khiến người ta không thể quên rằng mình chỉ vừa đặt chân tới nơi xa lạ này và buộc anh phải chú ý tới sự ấm cúng của khung cảnh lạ lẫm vốn là mái nhà người khác, đồng thời khiến anh nhận ra sự vô gia cư của chính mình - chính anh, kẻ đang ngồi đó và có bổn phận phải nhanh chóng, tha thiết làm cho mình trở nên thân thuộc trong bức tranh ấm áp nhưng xa lạ ấy. Những ánh nhìn như thế làm người ta rùng mình ngay cả dưới ánh nắng ấm nhất; chúng xuyên thấu tâm hồn bằng sự lạnh lẽo, rồi còn vương vãi cái lạnh ấy trong lòng người ta một lúc lâu trước khi lạnh lùng bỏ đi, y như khi chúng đến.

“Được rồi, trở lại làm việc nào!” Tobler kêu lên. Thế là hai người rời bàn ăn, thư ký lẽo đẽo theo sau chủ, trở xuống văn phòng để thực hiện mệnh lệnh và tiếp tục công việc.

“Cậu có hút thuốc không?”

Joseph đích thực là người nghiện thuốc.

“Lấy một điếu xì gà trong cái hộp xanh kia đi. Cứ hút khi làm việc, tôi cũng vậy. Giờ thì nhìn đây: cái này” - ông ta chỉ - “và nhớ xem kỹ đấy, là hồ sơ liên quan đến ‘Đồng Hồ Quảng Cáo’. Cậu có khá toán không? Nếu có thì càng tốt. Trên hết, vấn đề ở đây là” - ông ta ngừng lại - “cậu làm gì vậy? Cậu trẻ, tàn thuốc thì phải gạt vào gạt tàn chứ. Tôi muốn mọi thứ đâu vào đấy trong nhà. Được rồi, như tôi nói, trên hết là” - ông chỉ tay về phía hộp bút chì - “cậu phải ngồi xuống đây, lấy bút chì, rồi, nói thế nào nhỉ, lập bảng tính và tính toán thật chính xác mức sinh lợi của dự án này. Ngồi xuống đây đi, tôi sẽ cung cấp cho cậu tất cả những chi tiết cần thiết. Và làm ơn chú ý vào, tôi rất ghét phải nhắc đi nhắc lại.”

“Mình có đủ khả năng không?” Joseph nghĩ thầm. Dù sao thì chuyện được phép hút thuốc khi làm những công việc khó khăn cũng giúp anh phần nào. Nếu không có điếu xì gà thì, thành thật mà nói, anh hẳn đã bắt đầu nghi ngờ chẳng biết não mình còn ráp đúng chỗ không.

Trong lúc thư ký cặm cụi viết, ông chủ thỉnh thoảng lại ghé mắt nhìn qua vai để theo dõi tiến độ rồi thong thả đi tới đi lui dọc căn phòng, ngậm giữa hàm răng đẹp tuyệt vời và trắng đến chói lòa một điếu xì gà dài cán cong, vừa đi vừa đọc to đủ loại con số mà chàng thư ký còn non cần mẫn chép lại. Chẳng mấy chốc, một dải khói xanh đã quấn lấy hai bóng người đang làm việc, trong khi ngoài cửa sổ, nắng có vẻ cũng hửng dần; thỉnh thoảng Joseph ngẩng đầu lên nhìn qua ô kính, lặng lẽ quan sát những đổi thay đang diễn ra trên bầu trời. Có lúc con chó sủa ngoài cửa. Tobler bước ra ngoài một lúc để dỗ nó. Sau hai tiếng làm việc, bà Tobler cho một trong mấy đứa con tới báo rằng cà phê chiều đã sẵn sàng. Bàn được dọn ở nhà mát, vì thời tiết đã đẹp hơn. Ông chủ đội mũ lên và bảo Joseph rằng giờ anh nên ra uống cà phê, sau đó thì chép lại cho sạch sẽ tất tật những gì đã viết tháu nãy giờ, làm xong chắc cũng vừa tới giờ ăn tối.

Ông đi mất. Joseph đứng nhìn ông bước xuống đồi qua khu vườn dốc thoải. “Ông ấy trông oai vệ thật,” Joseph nghĩ, còn đứng lặng hồi lâu rồi mới thong thả ra nhà mát sơn màu xanh dịu để uống cà phê.

Trong lúc đang uống như thế, người phụ nữ hỏi anh: “Trước kia anh thất nghiệp à?”

“Vâng,” Joseph đáp.

“Lâu không?”

Anh kể cho bà nghe những gì bà muốn biết, và cứ mỗi lần anh nhắc đến một cảnh đời đáng thương, bà lại thở dài. Nhưng bà thở dài một cách hoàn toàn hờ hững, hời hợt, thậm chí giữ hơi dài ấy trong miệng lâu hơn cần thiết, như thể bà đang tận hưởng âm thanh và cảm xúc dễ chịu ấy.

“Một số người,” Joseph nghĩ, “có vẻ sung sướng khi ngắm nghía nỗi bất hạnh. Xem kìa, bà ta đang bày cái vẻ trầm tư. Bà ta thở dài y như người ta cười - cũng tự nhiên và tươi vui như thế. Và đây là người phụ nữ mà bổn phận mình là phải phục vụ sao?”

Sau đó, anh lao vào việc sao chép. Trời tối dần. Sáng hôm sau sẽ rõ liệu anh có phải là người tự lập hay là một kẻ vô tích sự, sáng dạ hay chỉ như một cỗ máy, nhanh nhẹn hay hoàn toàn ngẫn. Còn hôm nay, anh quyết định thế là đủ. Anh dọn dẹp công việc rồi lên phòng, vui vì được ở một mình trong chốc lát. Anh bắt đầu, không khỏi cảm thấy u hoài, mở va li, lần lượt lấy ra từng món tài sản ít ỏi, nhớ lại bao lần dọn nhà đã trông cậy vào cái vật nhỏ bé ấy. Người ta có thể gắn bó thế với những vật đơn giản, chàng thư ký trẻ tự nhủ. Mọi chuyện rồi sẽ ra sao? Anh vừa cẩn thận xếp mấy món đồ vải ít ỏi vào tủ áo vừa tự nhủ: “Dù tốt hay xấu, mình cũng đã ở đây rồi.” Âm thầm tự hứa sẽ cố gắng, anh ném xuống sàn một mớ chỉ thừa, vài mẩu dây, cà vạt cũ, cúc áo, kim khâu và vải vụn. “Nếu đã ăn ngủ ở đây thì trí óc và thân thể mình cũng phải làm hết sức,” anh lẩm bẩm. “Mình bao nhiêu tuổi rồi? Hai tư! Cũng đâu còn trẻ trung gì nữa.” Anh dọn trống va li rồi đặt nó vào một góc phòng. “Mình đã bị cuộc đời bỏ lại phía sau.”

Khi cảm thấy đã tới giờ, anh xuống nhà ăn tối, đi bộ ra bưu điện trong làng, rồi về ngủ.

Suốt ngày hôm sau, Joseph có cảm giác mình đã bước đầu hiểu được bản chất của “Đồng Hồ Quảng Cáo,” đã nắm được rằng thứ sinh lời này là một loại đồng hồ trang trí mà Herr Tobler dự định nhượng quyền khai thác cho các quản lý nhà ga, chủ nhà hàng, chủ khách sạn và những đối tượng tương tự. Một cái đồng hồ xét ra cũng khá bắt mắt như thế này, Joseph tính toán, sẽ được treo, chẳng hạn, trong một hoặc nhiều toa xe điện, ở những vị trí đặc biệt dễ thấy, để tất cả người đi xe có thể chỉnh lại đồng hồ bỏ túi và biết rõ giờ giấc trong ngày. Cái đồng hồ này thật sự không tồi, anh nghĩ rất nghiêm túc, nhất là vì nó có thêm ưu điểm là gắn liền với quảng cáo. Để phục vụ mục đích đó, đồng hồ được trang trí một hoặc hai bộ cánh đại bàng, trông như làm bằng bạc hoặc vàng, và có thể được tô điểm một cách tinh tế. Và còn gì có thể tô điểm xứng hơn những địa chỉ chính xác của các công ty đã thuê cánh hoặc ô - “ô” là thuật ngữ chuyên môn - để quảng bá sản phẩm và dịch vụ. “Một ô như thế sẽ có giá, và nhất thiết, như ông chủ của mình Herr Tobler đã chỉ ra rất đúng, chỉ nên tiếp cận những công ty sản xuất và thương mại thành công nhất. Các khoản phí sẽ được thanh toán trước, theo các hợp đồng sẽ còn phải soạn, bằng cách trả góp hằng tháng. Ngoài đó ra, Đồng Hồ Quảng Cáo cũng có thể được đặt hầu như ở bất cứ đâu, cả trong nước lẫn nước ngoài. Có vẻ Tobler đã đặt kỳ vọng lớn vào dự án. Dĩ nhiên, sản xuất những đồng hồ này, với phần trang trí bằng đồng và sắt tây, sẽ tốn rất nhiều tiền, và người vẽ chữ lên đồng hồ cũng sẽ cần thù lao, nhưng các khoản phí quảng cáo, người ta có thể hy vọng - và hy vọng với xác suất cao - sẽ đều đặn đổ về. Sáng nay Herr Tobler đã nói gì nhỉ? Rằng ông ta thừa kế được một khoản kha khá, nhưng đã ‘ném’ toàn bộ gia sản ấy vào cái Đồng Hồ Quảng Cáo. Thật kỳ lạ - ném mười hay hai mươi ngàn mark vào đồng hồ. Tốt nhất là mình nên nhớ cái từ ‘ném’ có vẻ rất đắt này, biết đâu sẽ đến lúc mình phải dùng nó trong thư từ.”

Joseph châm một điếu xì gà.

“Văn phòng kỹ thuật này thực ra cũng dễ chịu đấy chứ. Dĩ nhiên, phần lớn những cách thức kinh doanh ở đây vẫn còn rất khó hiểu với mình. Mình vốn luôn gặp khó khi phải hiểu những điều mới lạ. Mình biết rõ điều đó, ồ đúng thế. Người ta thường cho mình là thông minh hơn thực chất, nhưng không phải lúc nào cũng vậy. Mọi thứ kỳ lạ làm sao!”

Anh cầm một tờ giấy, gạch chéo tiêu đề bằng hai nét, rồi viết những dòng sau:

Frau Weiß yêu quý!

Thực ra, bà là người đầu tiên tôi viết thư từ nơi này. Ý nghĩ về bà là những ý nghĩ đầu tiên, dễ dàng nhất và tự nhiên nhất giữa muôn vàn suy nghĩ đang ong ong trong đầu tôi lúc này. Chắc hẳn ngày trước, khi tôi còn trọ chỗ bà, bà đã không ít lần ngạc nhiên trước cách hành xử của tôi. Bà còn nhớ đã bao lần bà phải lay tôi ra khỏi cuộc sống u uẩn, cô độc và những thói quen xấu xa của tôi không? Bà là một phụ nữ hiền hậu, tốt bụng và giản dị, và có lẽ bà sẽ cho phép tôi được yêu kính bà. Biết bao lần - đúng là gần như tháng nào cũng thế - tôi đến phòng bà, chỉ để trình bày ngắn gọn mong bà kiên nhẫn chờ tiền trọ của tôi. Chưa bao giờ bà làm tôi cảm thấy nhục nhã, hay đúng hơn, bà có làm tôi xấu hổ, nhưng hoàn toàn bằng lòng nhân hậu. Tôi biết ơn bà biết chừng nào và hạnh phúc biết bao khi có thể thốt ra những lời này. Mấy cô con gái tuyệt vời của bà giờ đang làm gì, sống ra sao? Cô lớn chắc cũng sắp lập gia đình rồi nhỉ? Còn Fräulein Hedwig, cô ấy vẫn làm ở công ty bảo hiểm nhân thọ chứ? Nhiều câu hỏi quá! Những câu hỏi thật ngớ ngẩn, phải không, bởi mới chỉ hai ngày trôi qua kể từ lúc tôi rời xa bà. Nhưng, Frau Weiß yêu kính, đối với tôi thì dường tôi đã sống bên cạnh bà suốt nhiều năm, bởi ý nghĩ về khoảng thời gian ấy êm đềm, dài lâu và đẹp đẽ biết bao. Có ai từng quen biết bà mà lại không buộc lòng yêu mến bà cho được? Bà luôn trách tôi phải thấy xấu hổ vì còn trẻ mà đã thiếu chí tiến thủ, bởi bà thường thấy tôi chỉ ngồi lì hoặc nằm trong căn phòng tối om. Gương mặt, giọng nói, tiếng cười của bà luôn là niềm an ủi đối với tôi. Bà gấp đôi tuổi tôi, có lẽ cũng gánh gấp mười hai lần lo âu, vậy mà lúc nào trông bà cũng trẻ trung, thậm chí bây giờ còn trẻ hơn cả hồi tôi còn sống cùng bà. Làm sao mà trước kia tôi lại luôn cứng họng trước mặt bà được nhỉ? Tiện thể, hình như tôi vẫn còn nợ bà tiền, phải không, và kỳ lạ thay, tôi lại gần như vui vì điều đó. Những ràng buộc bên ngoài có thể giữ cho những mối liên hệ bên trong sống mãi. Xin đừng bao giờ nghi ngờ lòng kính trọng của tôi dành cho bà. Tôi đang viết những lời thật ngớ ngẩn làm sao. Hiện giờ tôi sống trong một biệt thự rất đẹp, và buổi chiều, nếu trời đẹp, tôi còn được hưởng đặc ân ngồi uống cà phê trong nhà mát. Ông chủ tôi vừa mới ra ngoài. Ngôi nhà này nằm trên một ngọn đồi xanh, và ngay dưới chân đồi là con đường cùng đường tàu chạy qua, sát bên hồ. Phòng tôi trọ được bố trí trong một toà tháp cao, trông oai vệ lắm. Ông chủ tôi có vẻ là người trung thực, dù hơi khoa trương. Biết đâu sẽ có ngày giữa chúng tôi nảy sinh va chạm. Tôi không mong điều đó xảy ra. Thật sự tôi muốn được sống yên ổn. Tạm biệt, Frau Weiß. Hình ảnh tôi lưu giữ về bà thật đẹp và quý giá; nó không thể đóng khung, nhưng cũng không bao giờ có thể bị lãng quên.

Joseph gấp tờ giấy lại và cho vào phong bì. Anh mỉm cười. Ký ức về Frau Weiß mang một điều gì đó thật ấm áp, dù anh cũng không rõ vì sao. Và anh vừa viết thư cho một phụ nữ mà, dựa trên ấn tượng anh đã để lại cho bà, hẳn sẽ chẳng bao giờ ngờ tới một bức thư nồng nhiệt và nhanh chóng như vậy, và chắc chắn cũng không chuẩn bị tâm lý để đón nhận nó. Có thật là cuộc quen biết tình cờ ấy đã ảnh hưởng sâu sắc đến anh? Hay chỉ là anh vốn thích làm người khác kinh ngạc và mê đắm? Nhưng, khi lướt mắt kiểm tra lại bức thư, anh thấy nó hoàn toàn hợp lý, và liền lên đường ra bưu điện, vì dù sao cũng đã đến lúc rồi.

Giữa làng, một chàng trai trẻ đen nhẻm từ đầu đến chân đột ngột dừng trước mặt Joseph, cười vang và chìa tay ra. Joseph làm bộ ngạc nhiên, bởi thực tình anh chẳng nhớ nổi đã từng gặp cái hình hài đen đúa này ở đâu và lúc nào trong quãng đời trước. “Ra cậu cũng ở đây à, Marti?” người kia kêu lên, và lúc đó Joseph mới nhận ra: đây là người bạn cùng khóa huấn luyện quân sự mà anh vừa hoàn tất không lâu. Anh chào đáp lại nhưng giả vờ có việc gấp rồi nhanh chóng cáo từ.

“À, quân đội,” anh nghĩ, chân vẫn rảo, “nơi buộc những con người từ đủ tầng lớp trong xã hội phải tụ lại trong một thứ tình cảm chung. Trong cả đất nước này, không có một cậu trai được nuôi dạy một cách tao nhã nào, miễn là khỏe mạnh, lại không một ngày kia phải từ bỏ môi trường riêng biệt của mình để sống lẫn với một bọn trẻ tuổi hỗn tạp - lao động phổ thông, nông dân, thợ lau ống khói, thư ký, thậm chí cả những tên vô lại. Và cái sự sống lẫn ấy mới kỳ quặc làm sao! Không khí trong doanh trại là như nhau cho tất cả - đủ cho con trai một bá tước lẫn một anh làm thuê quê mùa. Mọi phân biệt về địa vị và học vấn đều bị tàn nhẫn xô vào một vực thẳm rộng lớn, cho đến giờ vẫn chưa được thám hiểm hết, là tình đồng chí. Chỉ có tình đồng chí ngự trị, nó buộc mọi dị biệt lại với nhau. Chẳng ai nghĩ bàn tay đồng đội mình là bẩn thỉu, làm sao có thể nghĩ thế được? Thứ chuyên quyền mang tên Bình đẳng có thể đôi khi thật khó chịu, thậm chí không thể chịu nổi, nhưng lại là một nhà giáo dục, một người thầy vĩ đại. Tình huynh đệ có thể nhỏ nhen hay nghi kỵ vặt vãnh, nhưng cũng có thể vĩ đại, và quả thật nó vĩ đại, bởi nó sở hữu ý kiến, tình cảm, sức mạnh và động lực của tất cả mọi người. Khi một quốc gia có thể dẫn tinh thần lớp trẻ của mình vào vực thẳm ấy - một vực thẳm đủ rộng để chứa cả trái đất, chứ đừng nói chỉ một quốc gia - thì quốc gia ấy đã dựng được các pháo đài bất khả xâm phạm ở bốn bề biên giới, những pháo đài sống, có chân, có ký ức, có mắt, có tay, có đầu óc và có trái tim. Những người trẻ tuổi thật sự cần một sự rèn luyện khắc nghiệt...”

Ngay lúc đó, chàng thư ký cắt ngang dòng suy nghĩ của mình.

Thật buồn cười, anh tự nhủ, mình đang nói và nghĩ chẳng khác gì một vị tướng, rồi anh bật cười. Chẳng bao lâu sau, anh đã trở về nhà.

Trước khi nhập ngũ, Joseph từng làm việc trong một xưởng sản xuất vải co giãn. Giờ anh nhớ lại quãng thời gian tiền quân đội ấy và thấy trước mắt một tòa nhà cũ kỹ, dài ngoẵng, một con đường sỏi đen, một căn phòng chật hẹp và một khuôn mặt giám đốc nghiêm khắc đeo mục kỉnh. Ở đó, anh chỉ được nhận làm tạm thời, như người ta vẫn nói, chỉ là giải pháp trước mắt. Toàn bộ sự hiện diện của anh ở đó dường như chỉ là một gấu áo thừa, một cái nút buộc tạm để dễ tháo khi cần. Ngay từ khi mới nhận việc, hình ảnh ngày phải đi đã hiện lên sống động trong anh. Cậu học việc ở xưởng vải tỏ ra vượt trội anh về mọi mặt. Joseph phải liên tục hỏi xin lời khuyên từ cậu thanh niên non nớt ấy. Nhưng kỳ lạ là điều đó chẳng khiến anh tổn thương. Ồ, anh đã quen với đủ loại tình huống tương tự. Anh làm việc như người mất trí, phải thú rằng mình thiếu nhiều kiến thức căn bản. Những điều mà người khác nắm bắt dễ dàng thì với anh lại vô cùng khó nhớ. Biết làm sao được. Niềm an ủi duy nhất của anh là ý nghĩ rằng công việc này chỉ là tạm thời. Anh thuê trọ chỗ một cô gái già, mũi và miệng nhọn, sống trong một căn phòng kỳ quặc sơn màu lục nhạt. Trên giá sách bày vài cuốn sách cũ lẫn mới. Cô gái ấy dường như là một nhà lý tưởng chủ nghĩa - không phải kiểu bừng bừng nhiệt huyết mà là một kẻ đã đông cứng hoàn toàn. Joseph sớm phát hiện ra rằng cô ta đang có một mối thư từ nhiệt thành - anh tình cờ thấy một bức thư dài nằm thuỗn trên cái bàn tròn - với một thợ in hay thợ vẽ kiến trúc đã di cư tới Graubünden, anh cũng chẳng nhớ rõ. Anh đọc nhanh bức thư ấy, cảm giác rằng hành động đó cũng không phải bất công gì quá lớn. Vả lại, bức thư chẳng có gì bí mật hay khó hiểu đến mức phải giấu giếm - có dán nó lên mọi cột trụ trong thành phố cũng chẳng sao. Nội dung thư giống hệt những cuốn sách thiên hạ vẫn đọc: những mô tả cảnh vật, chuyến đi với những nét táo bạo và tỉ mỉ. “Thế giới thật tuyệt vời,” bức thư viết, “nếu người ta chịu khó đi bộ khám phá nó.” Rồi thư lần lượt tả bầu trời, mây, sườn đồi, đàn dê, đàn bò, tiếng chuông bò cùng núi non: những điều quan trọng làm sao. Joseph thuê một căn phòng nhỏ ở phía sau, nơi anh thường đọc sách. Chỉ cần bước vào căn phòng ấy, anh đã thấy những trang sách như bay lượn quanh đầu mình. Anh đọc một trong những tiểu thuyết dày cộm mất cả tháng mới xong. Còn bữa ăn thì anh chung với nhóm sinh viên trường kỹ thuật và học việc thương mại trong một nhà trọ. Joseph rất khó hoà nhập với đám thanh niên ấy, nên phần lớn thời gian anh lặng thinh. Mọi chuyện đối với anh đều thật nhục nhã. Ở đó, anh cũng chỉ như một cái cúc lỏng lẻo, chẳng ai buồn khâu lại vì ai cũng biết cái áo cũng chẳng mặc được lâu. Đúng vậy, tồn tại của anh chỉ là một cái áo tạm, một bộ đồ không vừa. Gần thành phố có một ngọn đồi trồng nho, không cao lắm, đỉnh phủ đầy rừng. Đó là nơi lý tưởng cho những buổi dạo chơi. Joseph đều đặn dành sáng Chủ nhật của mình trên đó, và trong những khoảng nghỉ ngơi ấy, anh đắm chìm trong những giấc mơ xa xăm, đẹp đến mức gần như bệnh hoạn. Dưới nhà máy, mọi thứ kém đẹp hơn nhiều, dù mùa xuân đã bắt đầu nở rộ những kỳ diệu thơm ngát trên cây cối. Một hôm, giám đốc mắng Joseph thậm tệ - còn gọi anh là đồ lừa đảo - và vì cái gì cơ chứ? Chỉ là sự trì trệ của đầu óc anh. Đúng là một cái đầu rỗng có thể gây thiệt hại nghiêm trọng cho một công ty buôn bán. Người ta có thể tính toán tồi hoặc, còn tệ hơn, hoàn toàn không tính toán gì cả. Joseph đã gặp rắc rối khi kiểm tra một bảng tính lãi suất được lập bằng bảng Anh. Anh thiếu những kiến thức cần thiết, và thay vì trung thực thừa nhận điều đó - điều mà anh thấy xấu hổ - anh lại dối trá xác nhận bảng tính đó. Anh dùng bút chì ghi chữ M bên cạnh con số cuối cùng, như thể xác nhận đó là kết quả đúng. Rồi chỉ vì một câu hỏi nghi ngờ từ phía giám đốc, sự thật bị phơi bày: Joseph hoàn toàn không đủ khả năng tự tính bảng tính đó. Anh không hiểu gì về bảng Anh. Giám đốc tuyên bố rằng anh đáng bị đuổi đi trong ô nhục. Không hiểu thì chẳng phải điều gì nhục nhã, nhưng giả vờ hiểu thì là ăn trộm. Không thể gọi khác đi được. Joseph nên biết tự xấu hổ. Ồ, trái tim anh hôm ấy đã đập điên cuồng. Một làn sóng đen sì như muốn nhấn chìm toàn bộ tồn tại của anh. Chính tâm hồn - mà anh vẫn tưởng là không đến nỗi tồi - đang siết lấy anh từ mọi phía. Anh run rẩy đến mức những con số anh vừa viết ra trông to lớn, lệch lạc và xa lạ khủng khiếp. Nhưng chỉ sau một giờ đồng hồ, anh lại dịu đi. Anh đi bộ ra bưu điện, lúc đó trời đang đẹp, anh cứ bước đi, và dường như tất cả mọi thứ đang hôn lên anh. Những lá non dịu dàng dường như bay đến phủ lên anh một hào quang rực rỡ. Những người qua đường bình thường nhất bỗng trở nên đẹp đẽ, khiến anh chỉ muốn lao vào ôm chầm họ. Anh ngắm nhìn các khu vườn, ngước lên bầu trời rộng mở. Những đám mây trắng mới tinh, bầu trời xanh ngắt, đẹp lạ lùng. Joseph không quên những gì vừa xảy ra, vết nhơ ấy anh vẫn mang theo với nhiều hổ thẹn, nhưng nó đã hóa thành một nỗi đau nhẹ nhõm, phó mặc, như một định mệnh. Anh còn run lên và nghĩ: “Vậy ra phải bị làm nhục thì mới biết vui với thế giới của Chúa?” Tan ca, anh ghé vào tiệm bán xì gà quen. Chủ tiệm là một người đàn bà - có lẽ, thậm chí gần như chắc chắn - hành nghề mua vui. Joseph thường tối nào cũng tới đó, ngồi xuống một cái ghế, hút một điếu xì gà và chuyện với bà chủ. Anh nhận ra rằng bà ta có vẻ thích mình. “Nếu thật là mình làm bà ấy vui thì thường xuyên ngồi đây cũng là một cách đáp lại,” anh nghĩ và làm đúng như thế. Bà ta kể cho anh nghe cả tuổi trẻ và những vui buồn trong đời. Bà đã có tuổi, mặt phấn son khá vụng nhưng đôi mắt vẫn ánh lên hiền hậu, và Joseph nghĩ: “Cái miệng ấy hẳn đã khóc biết bao lần.” Anh luôn lịch sự, ân cần, như thể điều đó là đương nhiên. Một lần, anh vuốt má bà và thấy rõ niềm vui của bà, bà ửng lên và môi run như muốn nói: “Quá muộn rồi, bạn ạ.” Có hồi bà từng làm bồi bàn nhưng điều đó giờ còn nghĩa lý gì, khi tất cả rồi cũng chỉ là một nút thắt tạm thời, sớm muộn cũng bị cắt đứt. Khi chia tay, giám đốc nhà máy vẫn cho Joseph một khoản thưởng, bất chấp bê bối với bảng Anh, và chúc anh may mắn trong quân ngũ. Rồi đến chuyến tàu băng qua vùng đất mùa xuân rực rỡ và sau đó chẳng còn gì: anh chỉ là một con số, nhận đồng phục, túi đạn, dao găm, súng trường, mũ lưỡi trai và đôi giày hành quân nặng trịch. Không còn gì riêng tư nữa: chỉ còn là một mảnh vâng phục và luyện tập. Người ta ăn, ngủ, tập thể dục, bắn súng, hành quân, và cả nghỉ ngơi cũng phải theo quy định. Cảm xúc cũng bị kiểm soát nghiêm ngặt. Ban đầu xương cốt tưởng như sắp gãy, nhưng dần dần cơ thể được rèn luyện, đầu gối mềm trở thành bản lề thép, đầu óc trống rỗng, tay và cánh tay quen với cây súng luôn kè kè bên mình. Trong giấc mơ, Joseph nghe những tiếng hô lệnh và tiếng súng nổ rền. Tám tuần cứ thế trôi qua - không phải vĩnh cửu, nhưng đôi khi đối với anh, nó dài như vĩnh cửu.

Nhưng tất cả những điều đó giờ còn nghĩa lý gì, khi anh đang sống trong nhà Herr Tobler.

Hai ba ngày chưa thể gọi là một khoảng dài. Thời gian ấy thậm chí còn không đủ để quen hẳn một căn phòng, huống chi là một ngôi nhà bề thế như vậy. Joseph vốn chậm hiểu - ít nhất thì anh nghĩ thế, và những ý nghĩ như vậy chẳng bao giờ hoàn toàn vô căn cứ. Thêm nữa, Tobler Haus lại tách ra hai phần: khu nhà ở và khu nhà làm việc, và nhiệm vụ cùng bổn phận của Joseph là phải học cách am tường cả hai loại nhà ấy. Ở nơi mà gia đình và công việc gần nhau đến mức có thể nói là chạm vào nhau về thể xác, người ta không thể quen thuộc kỹ càng với cái này mà lại làm ngơ cái kia. Bổn phận của một nhân viên trong một ngôi nhà như vậy không được phân định rõ ràng là ở chỗ này hay chỗ kia mà là khắp mọi nơi. Giờ giấc làm việc cũng không cố định - đôi khi kéo sâu vào đêm, có lúc lại đột ngột ngừng một quãng ngay giữa ban ngày. Kẻ nào đã có vinh dự được uống cà phê buổi chiều ngoài nhà mát, bên cạnh một phụ nữ cũng chẳng đến nỗi nào, thì không nên phật lòng nếu buổi tối, sau tám giờ, lại phải vắt chân lên xử lý một việc khẩn cấp nào đó. Kẻ nào đã được ăn bữa trưa thịnh soạn như Joseph thì phải cố bù đắp bằng cách làm hăng gấp đôi. Kẻ nào đã được phép hút xì gà trong giờ làm việc thì không nên càu nhàu nếu bà chủ nhà thỉnh thoảng nhờ vả một việc gia đình hay việc riêng, ngay cả khi giọng của bà nghe giống ra lệnh hơn là nhờ cả. Kẻ nào có thể luôn đòi hỏi mọi thứ vừa dễ chịu lại vừa tâng bốc mình? Kẻ nào có thể cho mình quyền ngạo mạn đòi thế giới chỉ đem đến những cái gối mềm mại để tựa đầu, mà không nghĩ rằng những gối nhung lụa nhồi lông mịn ấy phải bỏ tiền mua? Nhưng Joseph chưa bao giờ trông chờ những điều đó. Phải nhớ rằng cả đời Joseph chưa từng có nhiều tiền trong tay.

Frau Tobler nhận thấy ở anh điều gì đó lạ lùng, có thể nói là khác thường, nhưng không vì thế mà đánh giá anh tốt hơn. Bà thấy anh khá nực cười trong bộ com-lê cũ kỹ, bạc màu, nhuộm xanh đậm, và cả trong cách cư xử của anh, bà cũng nhất quyết phát hiện ra điều gì đó buồn cười - và ở một khía cạnh, bà không hẳn là sai. Đúng là rất buồn cười, cái vẻ thiếu quyết đoán của anh, sự thiếu tự tin mồn một và cả những điệu bộ nữa. Nhưng cũng cần lưu ý rằng Frau Tobler, một bourgeoise chính cống, vốn rất dễ thấy mọi thứ buồn cười - chỉ cần chúng hơi khác một chút so với thế giới quen thuộc của bà. Nếu đã vậy thì chuyện một phụ nữ như thế thấy một chàng trai như thế buồn cười cũng chẳng có gì đáng rộn; tốt hơn là cứ thuật lại họ đã chuyện trò với nhau ra sao. Hãy hình dung khung cảnh trong nhà mát vào buổi chiều, lúc năm giờ.

“Ngày hôm nay thật tuyệt vời,” Frau Tobler nói.

Ồ vâng, thực sự rất tuyệt, người trợ lý cũng lên tiếng đồng tình. Anh ngồi bên bàn, quay nửa người lại và nhìn ra khoảng xa mờ xanh. Mặt hồ nhạt hẳn đi. Một tàu hơi nước đang chạy ngang qua, ngân những khúc nhạc rộn rã. Người ta có thể thấy lờ mờ những mùi xoa phấp phới của những người đang đứng ngắm cảnh ấy. Khói từ con tàu bị gió thổi ngược ra sau và tan dần trong không khí. Những ngọn núi bên kia bờ chìm mờ trong làn sương mà ngày đẹp trời ấy trải ra khắp mặt hồ, hầu như không còn thấy rõ. Trông chúng như được dệt bằng lụa. Thật vậy, cái cảnh tròn trặn ấy như nhuộm suốt một màu lam, cả màu xanh cận kề của cây cối hay màu đỏ của những mái nhà cũng ánh một sắc xanh mơ hồ. Người ta chỉ nghe một tiếng âm âm, như thể toàn bộ không gian trong suốt, toàn bộ không khí, đang khẽ ngân nga một khúc hát. Cả tiếng âm âm ấy, cả khúc ngân ấy dường như cũng màu lam, hoặc gần như vậy! Cà phê hôm nay sao ngon thế. “Tại sao mỗi lần uống thứ cà phê kỳ lạ này, mình lại tưởng đến quê nhà, đến thời thơ ấu?” Joseph thầm nhủ.

Frau bắt đầu kể về kỳ nghỉ hè năm ngoái ở hồ Vierwaldstätter. Năm nay, bà nói, thật tiếc là sẽ không có chuyện đó. Thôi còn nghĩ làm gì! Mà ở đây thực ra cũng rất đẹp. Thực ra cũng chẳng cần kỳ nghỉ hè, nếu có thể sống trong như bà hiện tại. Suy cho cùng, con người gần như lúc nào cũng thiếu khiêm nhường, lúc nào cũng ước ao - điều đó cũng rất tự nhiên thôi - Joseph gật đầu - nhưng đôi khi đó lại là ngạo mạn trắng trợn.

“Bà ta cười kỳ lạ thật,” anh chàng cấp dưới nghĩ, “Chỉ từ tiếng cười này thôi, nếu ai đó chịu tập trung, cũng có thể đọc ra cả một địa dư. Nó cho biết chính xác vùng đất nơi bà ta sinh ra. Một tiếng cười tàn tật, bật ra từ miệng không hoàn toàn tự nhiên như thể từ nhỏ đã luôn bị một nền giáo dục quá mức nghiêm ngặt kìm kẹp. Nhưng tiếng cười ấy vẫn đẹp và nữ tính, thậm chí còn có chút gì đó phóng túng. Chỉ những phụ nữ cực kỳ đoan chính mới có thể cười như thế.”

Trong lúc đó, người phụ nữ tiếp tục nói, kể về kỳ nghỉ hè thật sự lý tưởng và đầm ấm ấy. Ngày nào, một chàng trai trẻ người Mỹ cũng chèo thuyền gondola đưa bà ra giữa hồ. Một quý ông thực thụ. Và đối với một phụ nữ có gia đình như bà, được sống vài tuần hoàn toàn một mình, lại ở nơi tuyệt đẹp như thế, quả là mới mẻ và hấp dẫn. Không chồng, không con cái. Và tất nhiên chẳng cần phải nghĩ tới điều bất chính làm gì. Suốt ngày chỉ làm những việc vô thưởng vô phạt: ăn những món tuyệt ngon, nằm dài dưới bóng mát, dưới một cây dẻ tán rộng tuyệt đẹp, như cái cây nơi bà ở năm ngoái. Cây thế mới là cây! Bà cứ thấy nó mãi và thấy mình nằm dưới bóng nó. Bà còn có một con chó nhỏ lông trắng, lúc nào cũng cho nó ngủ chung trên giường. Một sinh vật nhỏ bé, sạch sẽ, đáng yêu biết bao. Con chó ấy càng làm tăng thêm cảm giác dễ chịu mà bà tự huyễn mình: rằng bà là một quý bà, một quý bà thực sự. Sau này, bà đã phải đem nó cho người khác.

“Tôi phải quay lại công việc,” Joseph nói và đứng dậy.

Anh chăm chỉ đến thế kia ư?

“Thì, người ta làm những gì mình cho là bổn phận.” Với những lời đó, anh đi. Trong văn phòng, một hình bóng vừa vô hình vừa hữu hình hiện ra trước mắt anh: cái Đồng Hồ Quảng Cáo. Anh ngồi xuống bàn và bắt đầu viết thư. Người đưa thư đến, mang theo một bưu phẩm thu tiền: một khoản nhỏ, Joseph rút tiền riêng ra trả. Rồi anh viết thêm vài bức phục vụ cho Đồng Hồ Quảng Cáo. Thật không thể tưởng tượng được người ta phải bỏ ra biết bao công cho một cái đồng hồ như vậy!

“Nó giống như một đứa trẻ, nhỏ hoặc lớn, cái đồng hồ này,” anh nhân viên nghĩ, “như một đứa trẻ bướng bỉnh, cần một sự chăm sóc kiên trì, đầy hy sinh, mà lại chẳng hề biết ơn. Liệu cái doanh nghiệp này có thực sự phát triển, đứa trẻ này có lớn lên không? Người ta chẳng thể thấy gì nhiều. Một nhà phát minh thì yêu những phát minh của mình. Cái đồng hồ tốn kém này đã gần như trở thành thiết thân với Tobler. Nhưng người khác thì nghĩ gì về ý tưởng ấy? Một ý tưởng phải có sức cuốn hút, phải áp đảo người ta, nếu không thì thực hiện nó sẽ rất gian nan. Còn về phần mình, mình tin tưởng chắc chắn vào khả năng hiện thực hóa ý tưởng ấy - và mình tin như vậy bởi vì đó là bổn phận của mình, bởi vì mình được trả công cho việc ấy, dù nghĩ cho kỹ thì tiền lương của mình giờ thế nào nhỉ?”

Về điểm này, thực ra vẫn chưa có thỏa thuận rõ ràng.

Cho đến Chủ nhật, mọi chuyện đều yên ổn. Mà cũng có gì có thể xảy ra đâu? Joseph cư xử rất ngoan và cố gắng giữ vẻ mặt vui vẻ. Mà tại sao anh lại phải tỏ ra khó chịu, trong khi trước mắt anh chỉ toàn lý do để hài lòng? Trong quân ngũ, anh cũng đâu có được nuông chiều. Về cái Đồng Hồ Quảng Cáo, anh ngày càng nắm rõ và tin rằng mình đã hoàn toàn hiểu được nó. Còn chuyện hai tờ hối phiếu, mỗi tờ trị giá bốn trăm mark, chưa được thanh toán thì sao? Người ta chỉ dời ngày đáo hạn của hai tờ phiếu đó thêm một tháng. Thậm chí, đối với Joseph, việc được phép viết cho người phát hành các tờ hối phiếu một bức thư như thế này còn là một chuyện hết sức thú vị: “Xin vui lòng kiên nhẫn. Việc tài trợ cho các bằng sáng chế của tôi sẽ chỉ còn chậm trễ trong một thời gian rất ngắn. Đến lúc đó, tôi sẽ có thể thanh toán đầy đủ các khoản nợ đến hạn.”

Anh phải viết nhiều bức như vậy và thấy vui mừng trước sự thành thạo dễ dàng của mình trong phong cách thương mại.

Anh đã gần như khám phá hết nửa ngôi làng. Mỗi lần đi ra bưu điện đối với anh là một niềm vui lớn. Có hai con đường: một chạy dọc theo hồ, trên con lộ lớn, và một băng qua đồi, cắt ngang những vườn cây ăn quả và trang trại. Anh gần như lúc nào cũng chọn con đường thứ hai. Mọi thứ đối với anh dường thật đơn giản.

Chủ nhật, anh nhận được từ Tobler một điếu xì gà Đức hảo hạng cùng năm mark tiền tiêu vặt, để có thể “tự thưởng cho mình chút gì đó” khi cần.

Ngôi nhà nằm đó, rực rỡ trong nắng. Đối với Joseph, nó dường như là một ngôi nhà Chủ nhật thực sự. Anh đi xuống vườn, quần tắm vung vẩy trong tay, tiến ra hồ, thoải mái thay đồ trong chòi tắm cũ kỹ, thấy nắng lọt vào qua những kẽ hở trên ván. Rồi anh lao mình xuống nước. Anh bơi thật xa, cảm thấy vô cùng dễ chịu. Có ai đang tắm, đang bơi, mà lại không khoan khoái, nếu như không bị chết đuối? Joseph có cảm giác mặt hồ tươi sáng, ấm áp, phẳng lặng ấy như đang uốn cong và bao bọc lấy mình. Nước mát lành ấm áp. Chừng đâu đó, một cơn gió nhẹ lướt qua mặt hồ hoặc một con chim vụt qua trên đầu anh, rất cao trên trời. Một lần, anh bơi gần một cái thuyền nhỏ có một người đang ngồi câu, đung đưa trong sáng Chủ nhật yên bình. Ôi sự mềm mại ấy, ánh sáng lấp lánh ấy. Và với đôi tay trần rung động, người ta quạt từng nhát, cắt vào cái nguyên tố ẩm ướt, sạch sẽ, hiền hòa ấy. Mỗi cú đạp chân lại đẩy anh tiến lên một đoạn trong làn nước đẹp sâu thẳm. Từ dưới sâu, những dòng ấm lạnh luân phiên nâng anh lên. Anh nhấn đầu xuống nước, để tưới mát sự hăng hái đang căng tràn lồng ngực, nhắm chặt mắt, miệng và mũi, đắm mình hoàn toàn vào thế giới ướt át diệu kỳ, cảm nhận nỗi đê mê ấy lan khắp thân. Khi bơi, người ta muốn thét lên, hoặc ít nhất là kêu, là cười, là nói gì đó - và người ta thực sự làm vậy. Và từ phía bờ vọng lại những âm thanh, những dáng hình cao vút, xa xăm. Những màu rực rỡ tuyệt vời của một sáng Chủ nhật như thế này. Người ta đập nước bằng cả tay chân, lơ lửng đứng trong nước như thể đang buông mình theo xích đu, hai tay lúc nào cũng phải chuyển động để giữ thăng bằng. Và không hề có chuyện chìm xuống. Rồi thêm một lần nữa anh nhắm nghiền mắt, ép mình chìm sâu vào khối lỏng màu lục chắc nịch, không đáy ấy - và bơi vào bờ.

Sung sướng biết bao!

Trong lúc đó, khách bữa trưa đã tới.

Chuyện về những vị khách là thế này: người tiền nhiệm của Joseph trong công việc tên là Wirsich. Nhà Tobler đã rất quý Wirsich. Họ nhận thấy ở anh ta một con người gắn bó trung thành và rất coi trọng sự tháo vát của anh. Wirsich làm việc rất chính xác, nhưng sự chính xác ấy chỉ tồn tại khi anh ta tỉnh táo. Chừng nào còn tỉnh, anh sở hữu gần như tất cả, thậm chí có thể nói là tất cả, những phẩm chất cần có ở một nhân viên. Anh vô cùng ngăn nắp, có kiến thức cả trong thương mại lẫn pháp luật, siêng năng và đầy nhiệt huyết. Anh luôn biết cách đại diện cho ông chủ mình trong hầu hết các trường hợp với một phong thái đáng tin cậy và thuyết phục. Ngoài ra, chữ anh cũng rất đẹp. Thông minh, có óc quan sát sống động, Wirsich đã dễ dàng điều hành công việc của ông chủ một cách độc lập, khiến Tobler hoàn toàn hài lòng. Trong việc sổ sách, anh ta thậm chí còn là hình mẫu lý tưởng. Thế nhưng tất cả những phẩm chất ấy đôi lúc tan biến hoàn toàn - trong cơn say. Wirsich không còn trẻ, đã khoảng ba lăm tuổi, và đó là cái tuổi mà nếu ai không sớm học được chế ngự dục vọng của mình thì nó sẽ phát triển thành một thứ khủng khiếp và ghê gớm. Mỗi lần uống rượu, nghĩa là thi thoảng, Wirsich lại biến thành một con thú hoang ngu ngốc, không thể trông cậy được. Nhiều lần Herr Tobler đã đuổi anh ta đi, ra lệnh thu dọn đồ đạc và cấm quay trở lại. Và Wirsich cũng đi, vừa chửi bới vừa phun những lời xúc phạm, nhưng mỗi lần tỉnh táo lại, anh ta đều quay về trước cửa, trưng bộ mặt đau khổ ăn năn, dù mới vài ngày trước, trong cơn điên loạn say sưa, anh ta còn thề thốt sẽ không bao giờ quay lại. Và thật kỳ lạ, Tobler lần nào cũng nhận lại anh ta. Mỗi lần như vậy, ông lại thuyết cho Wirsich một bài nảy lửa, cái kiểu người ta vẫn dùng để dạy dỗ trẻ hư, rồi sau đó lại bảo rằng anh có thể ở lại, rằng hãy phủ một tấm màn lên quá khứ và thử lại lần nữa. Chuyện ấy xảy ra có đến bốn, năm lần. Wirsich mang trong mình một sức hấp dẫn không thể cưỡng. Điều này thể hiện đặc biệt rõ khi anh ta mở miệng van vỉ hay xin lỗi: khi ấy, anh ta trông hối hận và tuyệt vọng đến mức Toblers thấy lòng nóng bừng và tha thứ cho anh mà chẳng kịp suy xét lý do. Thêm vào đó, Wirsich còn có khả năng tạo ra một ấn tượng sâu sắc khó hiểu đối với phụ nữ. Gần như có thể chắc chắn rằng cả Frau Tobler cũng không kháng cự nổi sức hút kỳ lạ, không thể lý giải đó. Bà tôn trọng anh ta khi anh cư xử điềm tĩnh, hợp lý và cảm thấy với cái gã thô lỗ dữ tợn ấy một lòng thương mà chính bà cũng không hiểu nổi. Ngay cả ngoại hình Wirsich cũng như được khuôn ra để làm vừa lòng ánh mắt phụ nữ: những nét sắc sảo, đầy nam tính, càng nổi bật nhờ làn da trắng xanh, mái tóc đen, đôi mắt to sâu thẳm. Tất cả những điều đó, cùng một vẻ ngoài hơi khô, thô mộc trong cư xử, khiến anh ta có một ma lực lạ lùng. Vẻ thô mộc ấy chính thường gây ấn tượng về sự chân thành và vững vàng trong tính cách - hai phẩm chất mà chẳng người phụ nữ có trái tim nào có thể cưỡng lại.

Và thế là Wirsich cứ hết lần này đến lần khác được nhận lại. Những gì một người phụ nữ nói với chồng trong bữa trưa bằng giọng dịu dàng, vui vẻ và phong phú sẽ chẳng bao giờ hoàn toàn không có tác động, và trong trường hợp này thì càng đúng, bởi chính Tobler cũng “luôn có thiện cảm với con người bất hạnh ấy.” Mẹ của Wirsich cũng đều đặn đến biệt thự mỗi lần con trai bà được nhận lại để tỏ lòng biết ơn. Bà cũng là người khiến gây thiện cảm cho người khác. Vả lại, con người thường thấy yêu quý những kẻ mà họ có thể ấn lên quyền lực và ảnh hưởng của mình. Sự giàu có và phẩm hạnh bourgeois không hẳn thích thú chuyện hạ nhục người khác - không hẳn thế - nhưng vẫn ưa nhìn xuống những kẻ bị hạ nhục, một cảm giác mà người ta vừa phải công nhận thiện ý, vừa không thể phủ nhận trong đó có phần nào thô bạo.

Một đêm, Wirsich cuối cùng cũng đi quá xa. Hắn từ quán trọ Rose - nằm ven đường cái, chốn lui tới của đủ hạng người lang thang, trong đó có cả những đàn bà nhếch nhác - trở về nhà say bí tỉ, la hét chửi bới đòi được vào. Khi bị từ chối, hắn dùng cái gậy bọc sắt mang theo đập vỡ kính cửa ra vào rồi tiếp tục phá lưới sắt bảo vệ, trong chừng mực có thể. Hắn còn gào lên, bằng một giọng khàn đục và méo mó, rằng sẽ “đốt sạch cái ổ này,” cứ la lên như thế trong cơn điên loạn và hoang tàn của đầu óc mình, la đến mức không chỉ những hàng xóm gần đó mà cả những người ở xa hơn cũng phải nghe. Hắn tuôn những nguyền rủa thậm tệ nhắm vào các ân nhân của mình và, được sức mạnh điên dại vốn ám mọi kẻ say xỉn tiếp sức, hắn gần như đã phá được cánh cửa; ổ khóa và then đã bắt đầu rung dữ dội. Chính lúc đó, Herr Tobler - có vẻ cuối cùng đã mất hết kiên nhẫn - từ bên trong giật tung cửa ra và trút xuống kẻ say một trận mưa đòn bằng gậy, quật hắn sõng soài trên sỏi. Trước mệnh lệnh không thể nhầm lẫn của Herr Tobler, yêu cầu Wirsich lập tức rời khỏi chỗ này nếu không muốn lãnh thêm đòn, Wirsich bò bằng cả bốn chi, lảo đảo biến khỏi khu vườn. Dưới ánh trăng, bóng gã say ngã dúi dụi nhiều lần khiến những người đứng trên cao có thể theo dõi rõ từng cử động lố bịch của hắn. Hắn ngã, rồi vùng dậy, và cuối cùng, giống như một con gấu vụng về, hắn lết khỏi vườn, xuống đường cái - và biến mất hẳn.

Hai tuần sau vụ náo loạn ban đêm ấy, Tobler cầm trên tay một bức thư xin lỗi dài dòng của Wirsich, trong đó kẻ phạm tội, với một giọng gần như cổ điển, cam kết sẽ sửa đổi và khẩn thiết cầu xin Herr Tobler cho hắn cơ hội cuối cùng được làm việc lại, nếu không hắn sẽ rơi vào cảnh khốn cùng. Cả hắn và người mẹ già đều tha thiết van xin một lần nữa, dù chỉ là lần cuối, xin được ban cho ân huệ cũ tốt lành mà, như hắn thú nhận đau đớn và chân thành, hắn đã nhiều lần đánh mất. Đoạn kết, Wirsich viết rằng hắn khao khát trở lại với ngôi nhà, với gia đình mà hắn đã gắn bó và yêu quý, với nơi mà hắn từng làm việc, đến mức chính hắn cũng phải tự nhủ rằng: hoặc là hắn còn có thể hy vọng hồi sinh tất cả và nhờ đó mà tìm lại niềm vui, hoặc là cánh cửa sẽ vĩnh viễn đóng sập trước mặt hắn, để lại cho hắn chỉ còn tuyệt vọng, hối hận, xấu hổ và cay đắng.

Nhưng đã quá muộn. Cửa thực sự đã khóa, bởi trong Tobler Haus đã có người thay thế. Buổi sáng ngay sau cái đêm hỗn loạn ấy, Tobler đã lên thành phố, đến văn phòng môi giới việc làm và thuê Joseph. Bức thư xin lỗi được gửi tới Tobler Haus đúng vào ngày Joseph chuyển đến.

Những vị khách Chủ nhật ấy không ai khác chính là Wirsich và mẹ hắn.

Được tiếp thêm sinh lực nhờ vận động dưới nước, Joseph niềm nở chào người tiền nhiệm của mình. Trước người mẹ già, anh khẽ cúi đầu. Ngay cái nhìn đầu tiên, anh đã nhận ra rằng bầu không khí quanh bàn ăn trưa khá nặng nề. Người ta nói rất ít, và có nói cũng toàn chuyện chung chung. Một sự ủ ê, rụt rè như thể đã phủ lên chiếc khăn bàn trắng muốt, những món ăn đang bốc khói thơm lừng và từng gương mặt con người. Mắt Herr Tobler như nhảy khỏi tròng, nhưng ngoài đó ra thì ông khá vui vẻ thân thiện, liên tục giục khách dùng bữa bằng giọng ân cần bề trên. Bơi xong thì ăn thế nào cũng ngon, nhất là lại ngoài trời xanh ngắt, và bữa hôm nay với Joseph thật huy hoàng, tuy đơn giản vô cùng. Những người khác cũng có vẻ ngon miệng, đặc biệt là bà Wirsich - dịp này đã khoác lên mình một vẻ trải đời thanh lịch. Nhưng bà lão nghèo khổ ấy thật ra đang sống ở đâu, và sống thế nào, trong những căn phòng nào, những hoàn cảnh ra sao? Bà trông thật gầy guộc và thiếu thốn! Vẻ ngoài của bà như thể là sự tiết kiệm hiện thân, hoặc chính bà đã bị tiết kiệm, bị co rút lại - nhất là khi đặt cạnh Frau Tobler, người phụ nữ sung túc, sinh ra và lớn lên trong sự no đủ và ấm áp thị dân. Frau Wirsich và Frau Tobler. Phải, nếu trên thế giới này có sự khác biệt thì đây chính là khác biệt thuần nhất và thực nhất.

Frau Tobler lúc nào cũng mang một vẻ hơi kiêu kỳ, nhưng vệt kiêu kỳ nhạt và kiên định ấy thật hài hòa với những đường nét gương mặt và cơ thể bà. Người ta không thể mong xóa nó đi, bởi nó thuộc về bà một cách tự nhiên, như sự mê hoặc vọng vang không thể tả hết thuộc về một bài dân ca. Bài ca ấy vang lên thật tinh tế chính ở những nốt cao nhất, và Frau Wirsich hiểu và cảm nhận rất rõ điều này. Một bài ca nghe thật thảm hại, còn bài kia thì đầy đặn biết bao. Herr Tobler rót rượu vang đỏ. Ông cũng định rót cho Wirsich, nhưng người mẹ lập tức lấy bàn tay già nua khô cứng che lên ly con trai.

“A, sao lại không? Nó cũng phải làm một chút chứ,” Tobler kêu lên.

Đột nhiên, nước mắt người mẹ già trào ra. Mọi người đều thấy và đều chấn động. Wirsich định thì thầm điều gì đó với mẹ, nhưng một sức mạnh cứng đờ, lạnh lùng như đá mà hắn không thể cưỡng làm lưỡi hắn tê liệt. Hắn ngồi đó như một con cá khô, chỉ biết cúi đầu nhìn xuống đồ ăn nhạt nhẽo trước mặt. Frau Wirsich đã rút tay lại, như thể muốn tỏ rằng giờ bà đành phó mặc, rằng bà đã bất lực, rằng con trai bà có uống hay không cũng chẳng còn ý nghĩa gì. Cử chỉ của bà như nói: Vâng, cứ rót cho nó đi. Dù sao thì cũng mất hết rồi! Wirsich nhấp một ngụm nhỏ từ ly, dáng như đang mang một nỗi sợ khủng khiếp đối với việc tận hưởng thứ thức uống đã đẩy hắn rơi khỏi vị trí từng là chốn ấm áp và tử tế của thế giới này.

Ôi Frau Wirsich, đôi mắt đẫm lệ của bà đã hoàn toàn xóa nhòa vẻ thanh lịch giả tạo mà bà cố khoác lên mình. Bà đã quyết tâm cư xử thật tao nhã, vậy mà nỗi buồn giờ đã hoàn toàn chế ngự bà. Đôi tay già nua của bà, nhăn rúm như vầng trán, run lên dữ dội. Miệng bà muốn nói điều gì? Không gì ư? Này, Mutter Wirsich, trong xã hội thanh lịch thì phải biết trò chuyện đấy. Nhìn kìa, nhìn kìa, một quý bà đang chăm chú quan sát bà.

Frau Tobler liếc nhìn Frau Wirsich từ bên bên, ánh mắt lo lắng lạnh lùng, tay ve vuốt mái tóc xoăn của đứa con út ngồi cạnh. Một phụ nữ thực sự giàu có! Từ một phía, sự âu yếm và niềm tin trẻ thơ ngước lên với bà; còn phía kia, nỗi đau của một người chị em đồng loại tràn ngập. Cả hai - cái êm dịu lẫn cái bi thương - đều làm Frau Tobler thấy dễ chịu. Bà khẽ nói với Frau Wirsich vài lời an ủi, nhưng Frau Wirsich chỉ nhẫn nhục lắc đầu. Bữa ăn đã kết thúc. Herr Tobler đưa hộp xì gà ra mời, các quý ông cùng nhau hút thuốc. Ánh nắng ấy, cảnh núi non, hồ nước, đồng cỏ tuyệt vời ấy. Và những chuyện trò dè dặt của một người nhỏ nhoi này. Phải vậy thôi, người ta phải giữ gìn, bởi ai cũng là con người! Biểu cảm trên gương mặt của Frau Tobler nói điều đó rất rõ ràng. Nhưng chính cái cách lặng lẽ tỏ rằng mình đang “giữ gìn” ấy lại là sự tàn nhẫn tuyệt đối. Đó là sự hủy diệt.

Rồi hai người phụ nữ trò chuyện về những đứa trẻ nhà Tobler; cả hai dường như đều mừng vì đã tìm được một chủ đề tránh xa mọi âm hưởng đau đớn. Chủ đề ấy như tự nhiên nảy ra. Người ta quên được mình đôi chút. Ánh mắt người mẹ già thi thoảng lại dừng lại trên vóc dáng, gương mặt và cách cư xử của Joseph, như thể để nghiên cứu những ưu và khuyết điểm của anh, rồi thầm so sánh chúng với hình ảnh con trai mình. Bọn con trai nhanh chóng rời khỏi chỗ ngồi và chơi trong vườn, bọn con gái cũng đi theo, để lại người lớn ngồi lại một mình quanh bàn. Trong lúc đó, cô hầu gái bước tới, tay cầm một cái khay gỗ, và bắt đầu dọn bàn. Mọi người đứng dậy. Tobler giao cho Joseph “mang quả cầu thủy tinh ra ngoài,” và Joseph sửa soạn thực hiện mệnh lệnh. Quả cầu thủy tinh ấy là niềm tự hào của cả Tobler Haus.

Quả cầu được treo bằng những sợi xích nhỏ và các móc sắt trong một khung sắt trang trí thanh nhã, và nó có nhiều màu khác nhau, khiến cho hình ảnh của thế giới xung quanh phản chiếu trong đó dưới dạng tròn như xếp chồng lên nhau trong những phối cảnh màu xanh lá, xanh dương, nâu, vàng và đỏ. Nó to cỡ một đầu người phóng đại, nhưng nếu tính cả khung chân đỡ thì chắc chắn phải nặng đến tám mươi hay chín mươi cân, và mang nó rất khó nhọc. Khi trời mưa, tuyệt đối không được để nó ngoài trời. Người ta luôn phải bê nó ra, rồi lại mang vào, vào rồi lại ra. Nếu một lần nào đó quả cầu bị ướt, Herr Tobler sẽ nổi giận kinh hoàng. Đối với ông, quả cầu ướt giống như một nỗi đau thực sự - có những người như vậy, họ coi một số tài sản vô tri như những vật sống và muốn người khác đối xử với chúng đúng như vậy. Joseph nhanh nhẹn đi lấy quả cầu thủy tinh đẹp đẽ, đầy màu sắc ấy: anh đã có dịp nhận ra Tobler yêu quý nó đến mức nào.

Sau khi đã thỏa mãn niềm vui và cơn bốc đồng của Herr Tobler trong một ngày đẹp trời, Joseph nhanh chóng lẩn khỏi ánh mắt những người còn lại, lao lên cầu thang và biến mất vào căn phòng tháp. Trên này thật bình yên và tĩnh lặng. Anh cảm thấy mình được giải phóng - khỏi điều gì, anh cũng không thật sự rõ. Nhưng chỉ cần cảm giác đó đã đủ, còn nguyên nhân thực sự thì, anh nghĩ, hẳn vẫn đang ẩn nấp đâu đó, nhưng giờ anh chẳng buồn bận tâm nguyên nhân nữa. Một điều gì đó như ánh vàng dường đang lơ lửng quanh anh. Anh đứng trước gương một lúc: ồ, trông anh vẫn còn rất trẻ, hoàn toàn không giống như Wirsich. Anh vô thức bật cười. Một thôi thúc khiến anh với tay lấy bức ảnh người mẹ quá cố đang đặt trên bàn. Sao không cầm nó lên ngắm? Anh ngắm bức ảnh khá lâu, ít nhất là anh cảm giác thế, rồi lại đặt nó về chỗ cũ. Sau đó, anh lôi từ túi áo khoác ra một bức khác, chân dung một cô gái học múa mà anh từng quen “ở thành phố.” Cả cái thành phố lớn đầy ắp người ấy giờ sao thật xa vời, như đã lâu lắm rồi. Đang ý thế, anh lại không kìm được mà bật cười. Anh bước những bước nặng nề qua lại trong phòng, tất nhiên vừa bước vừa hút thuốc. Có nhất thiết lúc nào cũng phải ngậm một điếu thuốc trong miệng không nhỉ? Không khí trong lành từ núi và hồ luồn qua bốn bức tường cao của anh thật tuyệt vời. Và nơi này là chỗ Wirsich từng ở? Con người với gương mặt khắc khổ ấy? Joseph nhoài đầu ra khỏi cửa sổ, hít căng lồng ngực thế giới tự do của trưa Chủ nhật. Và ta có năm mark tiền tiêu vặt, có thể vươn đầu ra khỏi một khung cửa sổ được dựng và đặt ở vị trí vương giả thế này sao?

Trong văn phòng bên dưới, không khí trầm lắng hơn là vương giả. Giọng trò chuyện của Herr Tobler và cựu nhân viên của ông, Herr Wirsich hết sức, hết sức trầm, gần như nghẹt.

“Chính anh cũng phải thừa nhận,” Tobler nói, “rằng lúc này không thể nói gì đến việc nối lại quan hệ trước đây giữa chúng ta. Người làm rạn vỡ là anh, không phải tôi - tôi đã rất sẵn lòng giữ anh lại. Tôi không có lý do gì để đuổi Marti đi; cậu ấy cũng làm việc rất tử tế. Tôi lấy làm tiếc, Wirsich ạ, hãy tin tôi, nhưng lỗi do anh thôi. Không ai bắt anh phải cư xử với tôi, người đã nuôi sống anh, như một thằng nhóc ngu ngốc thế. Anh làm được thì phải chịu được. Những gì tôi có thể làm vì phép lịch sự, để giúp anh tìm một chỗ làm khác, tôi sẵn lòng làm. Đây, còn một điếu xì gà. Cầm lấy đi.”

Thực sự không còn cách nào sao?

“Không, không, giờ thì không thể nữa. Mà anh hãy nhớ lại xem, anh đã gào vào mặt tôi những gì trong cái đêm kinh khủng đó, rồi anh sẽ hiểu rằng giữa chúng ta không thể có bất kỳ sự nối lại nào nữa.”

“Nhưng Herr Tobler, tất cả những chuyện đó chỉ là do tôi say, đâu phải là con người thật của tôi.”

“A, cái gì mà say với không phải là tôi! Chính đó mới là vấn đề. Tôi đã từng nghĩ năm, sáu lần, có khi còn nhiều hơn: đó không phải là anh ta. Nhưng rõ ràng anh là người như thế. Con người không thể cắt làm hai thực thể khác nhau được, nếu thế thì cuộc đời này sẽ quá dễ dàng. Nếu ai cũng có thể nói ‘đó không phải là tôi’ mỗi khi phạm lỗi lầm thì còn gì là trật tự hay hỗn loạn nữa? Không, không, con người, nhân danh Chúa, chỉ có thể là chính mình. Tôi đã biết cả hai mặt của anh. Anh nghĩ thế giới này có bổn phận coi anh như một đứa trẻ, một con chó cưng hay sao? Anh là một người đàn ông trưởng thành, và người ta đòi hỏi anh biết mình phải làm gì. Tôi không có lý do gì để bận tâm đến những dục vọng tiềm tàng hay bất kỳ thứ gì tương tự mà các triết gia thường bàn đến. Tôi là một người kinh doanh, một người cha, một chủ gia đình; tôi buộc phải thấy có trách nhiệm ngăn chặn sự ngu ngốc và sự thiếu đứng đắn bước vào nhà mình. Anh từng siêng năng đến vậy, tại sao lỗ mãng như thế với tôi? Nếu bây giờ tôi còn ngu ngốc mà nhận anh trở lại thì chính anh sẽ là người cười nhạo tôi. Và anh sẽ có lý do để làm vậy. Tôi đã nói hết ý mình. Chúng ta kết thúc ở đây.”

“Vậy là mọi chuyện đã hết giữa chúng ta?”

“Trước mắt thì, đúng vậy!”

Với câu đó, Tobler bước ra khỏi văn phòng, đi vào vườn, nơi ông trao cho vợ một ánh nhìn đầy ý nghĩa, rồi đứng tựa bên cạnh quả cầu thủy tinh yêu quý. Xì gà kẹp răng, ông thả ánh mắt mãn nguyện xuống khắp cơ ngơi mình và vô thức tạo nên một hình ảnh hoàn chỉnh của sự an nhàn chủ nhân ông vào chính ngọ.

Trong khi Wirsich vẫn còn đứng bất động trong văn phòng, đúng chỗ hắn tình cờ dừng lại, thì Joseph bất ngờ vào. Cả hai nhìn chằm chằm nhau một lúc. Sau đó họ cho rằng tốt nhất là nên trò chuyện về sự phát triển của các dự án kỹ thuật nhà Tobler, nhưng cuộc chuyện này nhanh chóng rơi vào những ngập ngừng khó chịu và lắp bắp, rồi hoàn toàn tắt lịm. Wirsich cố gắng tỏ ra mình vượt lên trên thực tại và bắt đầu cho người kế nhiệm đủ loại lời khuyên và chỉ dẫn thực tế, nhưng chúng chẳng gây được ấn tượng gì đặc biệt.

Rồi buổi cà phê chiều kết thúc. Đã đến lúc hai vị khách phải đứng dậy cáo từ. Mọi người bắt tay nhau, và sau đó, nếu đứng lại trên đỉnh đồi nhìn xuống, người ta có thể thấy hai cái dáng bước chênh vênh hướng về đường cái, dọc theo hàng rào vườn lấp lánh, cứ mỗi mét lại trang trí một ngôi sao mạ vàng. Đó là một cảnh u sầu. Frau Tobler lại lần nữa thở dài. Nhưng ngay sau đó, bà bật cười vì điều gì đó, và khi ấy người ta có thể nghe rõ rằng tiếng thở dài và tiếng cười ấy là cùng âm sắc, cùng giọng.

Joseph đứng chếch một bên và nghĩ: “Họ đi rồi, người đàn ông và người mẹ già. Người ta đã không còn nhìn thấy họ nữa, và ngay ở đây, trên đỉnh đồi này, họ đã phần nào bị lãng quên. Người ta quên nhanh biết bao những cử chỉ, dáng vẻ và hành động của con người. Kìa, họ đang cố bước thật rảo dọc con đường bụi bặm để kịp đến ga hoặc bến tàu. Họ sẽ hầu như chẳng nói lời nào suốt đoạn đường dài - bởi mười phút đi bộ thôi cũng đã quá dài đối với hai con người kiệt quệ lo âu - thế nhưng họ vẫn sẽ trò chuyện bằng một thứ ngôn ngữ đầy thấu hiểu, một thứ ngôn ngữ im lặng nhưng lại dễ hiểu đến đau lòng. Nỗi khổ sở có biểu đạt riêng của nó. Và giờ thì họ mua vé - hoặc có lẽ đã mua rồi, bởi ai cũng biết có vé khứ hồi - rồi con tàu lao đến, và cùng lúc đó, sự nghèo khổ và bất trắc cùng bước lên toa. Nghèo khổ là một bà già với đôi tay khô cằn thèm khát. Bà ta đã cố gắng, trong bữa ăn, làm ra vẻ như một quý bà trò chuyện nơi bàn tiệc nhưng chẳng mấy thành công. Và giờ, bà lão ấy lại lên đường, bên cạnh nỗi bất trắc - trong đó, nếu nhìn thật kỹ, bà sẽ nhận ra chính con trai mình. Thế mà toa tàu lại đầy những người vui vẻ đi chơi Chủ nhật, họ ca hát, hò reo, tán gẫu và cười vang. Một chàng trai trẻ ôm lấy cô bạn gái và hôn lấy hôn để đôi môi căng mọng của cô. Ôi, niềm vui xa lạ có thể làm đau đớn nhường nào trái tim một tâm hồn đang u uất! Người mẹ già khốn khổ cảm thấy cổ họng và tim mình như bị cứa đứt. Có lẽ lúc này bà muốn gào lên cầu cứu. Tàu vẫn lao đi. Ôi, cái tiếng rầm rập không ngừng nghỉ của những bánh xe lăn! Bà lão rút từ túi váy ra một cái khăn tay màu đỏ gạch, cố che đi những dòng nước mắt quá ngu ngốc và nổi bật đang ồ ạt tuôn trào từ đôi mắt già nua. Một người đã già như bà - không, người ta đáng lẽ không nên phải khóc nữa ở cái tuổi đó. Nhưng cái thế giới kỳ lạ này nào có quan tâm đến những điều răn của sự đoan chính thanh cao? Những nhát búa cứ mù quáng giáng xuống, lúc thì trúng một đứa trẻ nghèo, lúc thì - nhớ lấy điều đó, bà lão ơi - trúng một bà già. Và giờ, mẹ và con đã đến nơi và sẽ bước xuống tàu. Nhưng ở nhà họ bây giờ sẽ ra sao?”

Anh bị đánh thức khỏi dòng suy nghĩ bởi giọng nói vang vang dễ chịu của Tobler. Herr Tobler hỏi anh đang làm gì mà đứng một mình, và bảo anh đến giúp ông uống nốt phần rượu vang còn lại. Một lát sau, chủ nhà nói với anh:

“Đúng, đúng vậy. Wirsich giờ đã chính thức bị cho nghỉ. Tôi hy vọng một người khác sẽ biết trân trọng hơn những gì mình có - khi được sống ở đây, trên này. Tôi chắc không cần phải nói rõ là tôi đang ám chỉ ai khi nói đến ‘người khác’ đó. Anh cười à? Ừ, cứ cười thoải mái. Nhưng tôi nói trước với anh: nếu anh có những ham muốn nào - ý tôi là, vào ngày Chủ nhật chẳng hạn, điều đó đối với một thanh niên khỏe mạnh cũng chẳng có gì đáng trách - thì hãy liệu mà tìm xuống thành phố, ở đó người ta lo liệu đầy đủ những chuyện như vậy, thừa mứa là khác. Còn trong nhà tôi - anh nghe rõ chưa - tôi không dung bất cứ chuyện gì như vậy. Chính vì điều đó mà Wirsich đã tự biến mình thành kẻ không thể chấp nhận được ở đây. Ở đây, phải có quy tắc, phải có phẩm hạnh.”

Sau đó, họ nói chuyện công việc.

Điều quan trọng nhất, Herr Tobler nhận định, là phải làm sao có tiền mặt, đó là điều cốt yếu. Vấn đề là phải tìm được một nhà tư bản đầu tư vào các phát minh kỹ thuật, tốt nhất là một chủ xưởng, để có thể lập tức bắt đầu sản xuất hàng loạt các mặt hàng đã được cấp bằng sáng chế. Dù ai mang tiền vào nhà, ông cũng hoan nghênh. Miễn có tiền thì dù là ông chủ tiệm may cũng được, người đầu tư đó hoàn toàn không cần phải hiểu gì về việc này - vì đã có ông, Tobler, đảm nhiệm phần đó.

“Anh hãy thảo mẩu quảng cáo này.”

Joseph rút từ túi ra một cây bút chì và một cuốn sổ tay. Anh được Herr Tobler đọc cho như sau:

Gửi các nhà tư bản!

Kỹ sư tìm đối tác đầu tư để tài trợ cho các bằng sáng chế của mình. Doanh nghiệp sinh lời, hoàn toàn không có rủi ro. Xin gửi đề nghị về…

“Và sáng mai, khi anh xuống làng, nhớ tiện thể mang về một gói xì gà mới, năm trăm điếu. Ở đây cũng phải có cái gì để hút chứ.”

Trời tối dần.

Trong nhà mát xuất hiện hai phụ nữ: một bà chủ cửa hàng bán sàn gỗ và cô con gái của bà - một cô nàng cao lêu nghêu, mặt đầy tàn nhang - cả hai đều sống ở khu lân cận. Cùng với hai phụ nữ này và vợ, Tobler khởi sự một trò bài rất phổ biến và được ưa chuộng trong vùng. Thông thường trò này chỉ dành cho đàn ông nhưng dần dần nó cũng trở thành mốt với phụ nữ - cụ thể là phụ nữ “khá,” tức những người không phải tất bật cả ngày - những người đó mới được coi là “khá.”

Ba phụ nữ này - Frau Tobler, bà chủ nhà máy và con gái - chơi bài rất giỏi, cô con gái giỏi và “lỳ” nhất, còn Frau Tobler kém nhất. Mỗi lần đánh một lá chủ, cô gái lại trở nên hết sức phấn khích, đúng như một con nghiện thực thụ, thậm chí cô còn đập tay - bàn tay nữ giới nhưng không hề nhẹ nhàng - xuống mặt bàn như một tay chơi lõi đời, rồi thét lên kiểu con gái mỗi khi chiếm được thế thượng phong. Dáng người cô thô, mặt cũng không đẹp. Người mẹ thì ngược lại, khôn ngoan và đúng mực hơn. Làm sao tưởng tượng được một người phụ nữ lớn tuổi, địa vị đàng hoàng lại có thể cư xử thiếu đứng đắn cho được?

Joseph vừa quan sát trò bài - mà anh còn chưa có dịp học - vừa thầm nghĩ: “Thật thú khi quan sát ba gương mặt phụ nữ này lúc chơi bài. Một người thì bình thản mỉm cười - người lớn tuổi nhất, còn Frau Tobler của mình thì hoàn toàn chìm đắm. Trò chơi cuốn hút bà ấy trọn vẹn. Gương mặt bà ấy bộc lộ cái say mãnh liệt, mà chính điều đó lại khiến khuôn mặt bà ấy đẹp hơn. Dù thế nào, bà ấy cũng là chủ nhà, và mình chẳng có quyền gì để chê trách. Bà ấy thật giống một đứa trẻ chăm chú trong trò tiêu khiển. Nhưng còn người thứ ba, cái cô đàn ông kia - trời ơi, đúng là tai họa! Lúc đánh bài và đặt cược, cô ta đảo tròng mắt, chắc chắn đang nghĩ đến những chuyện vớ vẩn đâu đâu và chắc chắn tự cho mình là đẹp nhất, giỏi nhất, thông minh nhất. Ngay cả trong suy nghĩ, ở khoảng cách hai mét, người ta cũng chẳng muốn hôn cô ta. Một đứa con gái hỏng. Nhìn xem, cái mũi nhọn hoắt của cô ta. Chỉ cần chạm nhẹ chắc cũng có thể buốt đến tê người. Và cái cách cô ta nói, cười, than vãn rồi la hét kia - sao mà chóe thế. Mình cho rằng cô ta là một kẻ tồi tệ, độc địa, còn Frau Tobler bên cạnh cô ta thì đúng như một thiên thần.”

Joseph có lẽ còn tiếp tục nghĩ miên man như vậy nếu Frau Tobler không đột ngột nảy ra một ý tưởng - và cũng nói ra luôn - rằng “tối nay nên chèo thuyền dạo hồ một chuyến.” Tối nay đẹp quá, bà nói, và khoản tiền nho nhỏ phải chi cho việc ấy chẳng đáng kể gì. Vì trò bài cũng vừa xong nên không ai phản đối kế hoạch này, cả Tobler cũng lẩm bẩm đồng ý. Joseph, với vai trò người lo việc lặt vặt, lập tức được cử xuống làng để tìm một cái thuyền ba chỗ, loại thuyền rộng, rồi chèo men bờ hồ tới gần Tobler Haus mà không la cà ở đâu - trời đã bắt đầu tối nên phải nhanh mới được. Họ sẽ xuống thuyền dưới bến. Người thư ký đã lập tức lên đường. Về phần mình, Tobler từ chối tham gia. Bà chủ nhà máy già cũng không thể, còn Frau Tobler thì quyết định sẽ đưa bọn trẻ theo cùng. Cô gái tuyên bố không những sẽ tham gia mà còn sẵn sàng chèo thật hăng, thế là Frau Tobler bắt đầu chuẩn bị.

Người ta đứng đợi sẵn ở bến dưới chân Tobler Haus, trên những phiến đá lớn của một con đê cũ nay bỏ không, và cuối cùng cái thuyền do Joseph chèo cũng cập bến. Mọi người bắt đầu lên thuyền, Frau Tobler lên trước, để tiện cho người ta lần lượt bế từng đứa nhỏ cho bà. Hai cậu bé mới đầu rất nghịch; người lớn phải nhắc chúng về sự nguy hiểm của thói bốc đồng bất cẩn thì chúng mới chịu thôi. Bọn con gái thì hoàn toàn yên, tay bé nhỏ bám chặt mép thuyền. Cuối cùng Joseph mới bước lên, trong khi vẫn giữ chặt thuyền bằng một sợi xích kêu lách cách. Rồi thuyền khẽ rời bến, Joseph chèo - anh chèo khá thành thạo nhưng thuyền trôi chậm; tuy nhiên, chẳng ai yêu cầu đi nhanh hơn. Thế giới bỗng trở nên mát lạnh. Frau Tobler nhìn lũ trẻ, dặn chúng phải ngoan ngoãn, tuyệt đối không được cử động mạnh, bằng không sẽ xảy ra tai họa và tất cả sẽ chết đuối không trừ ai. Cả bốn đứa lắng nghe những cảnh báo kỳ lạ đó, ngồi im re - kể cả hai thằng nhóc: lúc này, giữa đêm tối, giữa làn nước thì thầm, trên thuyền trôi lặng lẽ, chúng bắt đầu thấy rợn. Frau Tobler khẽ bảo rằng nơi này thật đẹp, rằng bà đã có một ý tưởng rất hay. Nhờ vậy mà người ta mới thực sự được tận hưởng một điều gì đó, và bà thêm rằng chồng bà lẽ ra cũng nên đi cùng. Nhưng bà lại nói những chuyện này thì ông ấy chẳng bao giờ hứng thú. Ôi, mát làm sao, tuyệt vời làm sao!

Cách thuyền một khoảng, trong làn nước lấp lánh tối mờ, Leo - con chó lớn - đang bơi theo. Người ta gọi nó. Đặc biệt là bọn trẻ, chúng thật âu yếm với nó. Bên cạnh Frau Tobler đặt một cái ô lụa. Chiếc mũ lông vũ trang trí cho cái đầu thon dài của bà. Đôi tay và cánh tay bà phủ găng dài trắng. Cô gái thì không ngừng líu lo. Nhưng Frau Tobler, vốn cũng chẳng ghét bỏ gì những chuyện trò kiểu ấy, lần này chỉ đáp những câu lơ đãng cụt ngủn. Có điều gì đó như một giấc mơ đẹp ngây ngất dường khiến những sự tầm thường trong ngày và cái ồn ào quanh chúng trở nên vụn vặt, không đáng bận tâm đối với bà. Đôi mắt to của bà lấp lánh bình yên tươi đẹp cùng nhịp trôi êm ái của thuyền. Bà hỏi Joseph chèo có mệt không. Ồ không, sao bà lại nghĩ vậy, anh đáp. Cô gái muốn ngồi vào băng ghế chèo, nhưng Frau Tobler không cho phép, vì như thế sẽ khiến thuyền chao quá mạnh. Đâu cần phải đi nhanh làm gì, càng chèo chậm thì chuyến đi - vốn đã ngắn - sẽ càng được dài thêm, và bà thích thế, bởi vì nó đẹp.

Người phụ nữ này xuất thân từ tầng lớp bourgeois chính cống. Bà lớn lên trong sự hữu dụng và sạch sẽ, nơi mà tính thiết thực và sự điềm tĩnh được coi là giá trị cao nhất. Bà đã có rất ít khoái cảm lãng mạn trong đời mình, nhưng chính vì vậy bà càng yêu quý chúng, nâng niu chúng trong sâu thẳm tâm hồn. Những gì người ta phải cẩn thận giấu kín trước đàn ông và trước thế gian - vì không muốn bị coi là một “con ngỗng điên loạn” - chẳng vì thế mà chết đi; chúng vẫn sống tiếp cuộc đời riêng trong sự chật hẹp và lặng lẽ. Sẽ đến lúc hiện ra một cơ hội nhỏ, với đôi mắt lớn đến chào và cầu xin, và khi ấy, những gì tưởng đã lãng quên sẽ được sưởi ấm và sống dậy - nhưng cũng chỉ trong một khoảnh khắc ngắn ngủi. Kẻ nào có thể công khai phô bày lòng ham khoái lạc trước công chúng, kẻ mà hoàn cảnh sống cho phép được như vậy một cách dễ dàng và thuận tiện, thì sẽ nhanh chóng trở nên chai sạn tâm hồn cùng trái tim, làm nguội ngắt tất cả những gì từng cháy rực bên trong. Không, người phụ nữ này chẳng có khiếu thẩm mỹ về màu sắc hay những thứ tương tự, bà không hiểu gì về các luật của cái đẹp, nhưng chính vì thế mà bà cảm nhận được cái đẹp. Bà chưa bao giờ có thời gian để đọc một cuốn sách đầy những ý cao cả, thậm chí bà chưa từng một lần nghĩ đến chuyện cái gì là cao cả và cái gì là thấp hèn. Vậy nhưng sự cao cả giờ lại đang tìm đến bà, và chính nỗi xúc động sâu thẳm ấy, bị hấp dẫn bởi sự vô tri của bà, đang ấp lên ý thức bà đôi cánh ướt đẫm của nó.

Phải, quanh cái thuyền trôi chậm ấy, tất cả mát lạnh và tối đen. Mặt hồ hoàn toàn phẳng lặng. Sự tĩnh lặng quyện vào cảm giác con người và vào bóng đêm bất khả xâm nhập. Từ bờ hồ lấp lánh những ánh đèn thưa thớt và vang lên vài âm thanh, trong đó có một giọng nam trong trẻo, và rồi, từ bên kia bờ, tiếng hạc cầm ấm áp vẳng tới. Những nốt nhạc ấy như những dải hoa hay những dây thường xuân quấn lấy thân hình tối đen, thơm ngát của đêm hè bên hồ. Mọi sự dường đã mang một vẻ hài lòng, một sự thỏa mãn, một ý nghĩa kỳ lạ. Cái thăm thẳm liền với nước sâu không đáy. Frau Tobler thả bàn tay xuống, bà nói điều gì đó, nhưng cứ như thể tiếng thì thầm đã len xuống tận lòng nước. Ôi, mặt nước đẹp và sâu này thật biết nâng niu. Một lúc sau, có một chiếc thuyền khác chỉ một đàn ông chèo lướt sát ngay cạnh thuyền nhà Tobler. Frau Tobler bật khẽ một tiếng kêu kinh ngạc, gần như sợ hãi. Không ai kịp nhìn thấy thuyền ấy trước, nó dường đột ngột hiện ra cạnh họ, như từ một chốn xa xăm không ai biết hoặc từ sâu thẳm trồi lên. Trên cao, bầu trời chi chít sao. Ôi, bầu trời ấy như nâng đỡ, như xoay chuyển tất cả. Frau Tobler bảo rằng bà bắt đầu thấy lạnh, và bà choàng tấm khăn mang theo lên vai. Joseph, khi nhìn bà, cảm giác như bà đang mỉm cười trong bóng tối, nhưng cũng không thể chắc. “Leo của chúng ta đâu rồi?” bà hỏi. “Đằng kia, đằng kia! Đang bơi theo!” thằng bé Walter kêu lên.

Dâng lên đi, trỗi dậy đi, vực thẳm! Phải, vực thẳm đang trỗi dậy từ mặt nước, ngân nga trỗi dậy, tạo ra một hồ mới, lớn lao, giữa trời và nước. Nó không dạng hình và những gì nó biểu hiện, chẳng mắt nào nhìn thấy được. Nó cũng cất tiếng hát, nhưng bằng những âm thanh chẳng tai nào có thể nghe. Nó vươn những bàn tay dài ẩm ướt ra, nhưng không bàn tay nào có thể vươn tới để đón lấy. Hai bên mạn con thuyền giữa đêm, vực thẳm dựng lên hun hút, nhưng chẳng cái biết hiện hữu nào bắt được điều đó. Không có mắt nào nhìn vào mắt của vực thẳm. Nước tan biến, vực thẳm trong suốt kỳ cùng hé mở, và con thuyền như đang lặng lẽ trôi, an toàn và bình yên trong âm nhạc uốn lượn, bên dưới mặt nước.

Phải thừa nhận rằng Joseph đã quá buông mình vào những huyễn tượng ấy. Anh hầu như không nhận ra chuyến đi đã kết thúc, cho đến khi thuyền va nhẹ vào bờ - chính xác hơn là vào một cọc gỗ to nhô lên gần bến. Tobler, đang đứng ngay gần đó, gọi với sang, đe người dưới quyền phải chú ý vào. Ông lấy làm lạ, không hiểu Joseph đã học chèo thuyền và lái thuyền ở xó xỉnh nào. Nhưng chẳng có sự cố gì, mọi người đều an toàn bước lên bờ. Họ qua phần còn lại của đêm ở một quán bia xinh xẻo, đông đúc, nơi Tobler tình cờ gặp mấy người quen: một viên kiểm soát tàu và vợ ông ta, và lập tức nhập vào những chuyện gẫu ào ào. Người vợ bé nhỏ vui tươi của viên chức ấy kể về đàn gà và trứng nhà trồng, cũng như về cuộc buôn may bán đắt hai mặt hàng đầy tiềm năng ấy. Cả hội cười ha hả. Joseph được Tobler giới thiệu là “nhân viên của tôi.” Một cô nàng Pháp trẻ trung làm bán hàng trong một hiệu lớn, líu ríu đi ngang. “Une jolie petite française,”[1] người vợ viên kiểm soát reo lên, rõ ràng thích thú khi được dịp buông vài từ tiếng Pháp còn sót lại. Ở các vùng Đức thì lúc nào cũng thế: người ta hả vô cùng khi có dịp tỏ ra là mình hiểu Pháp ngữ.

“Phu nhân nhà mình,” Joseph thầm nghĩ, “thì chẳng hiểu một từ tiếng Pháp nào. Tội nghiệp!”

Sau đó, mọi người cùng nhau về nhà.

Khi Joseph trở về phòng, sau khi thắp nến lên, thay vì lập tức đi ngủ, anh đứng lưng chừng cởi đồ bên cửa sổ và lẩm bẩm: “Mình thực sự đã làm được gì? Mình có thể, nếu muốn, ngay bây giờ lặng lẽ leo lên giường và chìm vào một giấc có thể sẽ rất khỏe và rất sâu. Mình được uống bia trong những vườn bia. Mình có thể chèo thuyền cùng phụ nữ và trẻ con, mình có cái ăn. Không khí trên này thật tuyệt vời, và xét về cách đối xử thì chắc chắn mình sẽ là kẻ nói dối nếu cố tìm lời chê trách. Ánh sáng, không khí, sức khỏe. Nhưng còn mình, mình đã đóng góp được gì? Liệu những gì mình có thể mang lại có giá trị và trọng lượng không? Mình có trí tuệ không, và mình có thực sự cống hiến trọn vẹn khả năng của mình không? Những việc mình đã làm cho Herr Tobler cho đến nay là gì? Cứ cho là tạm ổn, nhưng mình chắc như đinh đóng cột rằng ông chủ và thầy của mình vẫn chưa thu được bao nhiêu lợi ích từ mình. Liệu mình có thiếu nghị lực, thiếu chủ động, thiếu nhiệt huyết không? Điều đó hoàn toàn có thể, bởi thực tế sinh ra mình đã mang một sự tĩnh kỳ lạ. Nhưng điều đó có hại không? Dĩ nhiên là có hại, bởi những dự án của Tobler đòi hỏi sự tham gia nhiệt tình, còn sự yên tĩnh trong tâm hồn thì đôi khi rất giống sự thờ ơ cằn cỗi. Ví dụ, vận mệnh của Đồng hồ Quảng cáo - liệu nó có thực sự chạm tới từng sợi dây thần kinh của mình không? Mình có thực sự bị nó chiếm lấy không? Phải thú rằng mình thường xuyên nghĩ đến những chuyện khác hẳn. Mà như thế, bạn thân mến của tôi, chính là phản bội. Giờ thì hãy nghiêm túc lao mình vào công việc của người khác đi - bởi rốt cuộc, mình đang ăn bánh mì của người ta, chèo thuyền cùng vợ con người ta trên hồ, nằm trên gối chăn của người ta, uống rượu vang đỏ của người ta. Ngẩng cao đầu lên, và nhất là giữ cho cái đầu sạch sẽ. Ý tôi là: chúng ta không có mặt ở nhà Toblers chỉ để sung sướng. Còn là vinh dự, là danh dự nữa khi phải nỗ lực thật sự. Bắt đầu đi thôi!”

Joseph lúc này đã cởi đồ, thổi tắt nến và nằm vật ra giường. Nhưng rất lâu sau đó, anh vẫn bị dày vò bởi những tự trách về sự “thiếu đầu óc” của mình.

Trong giấc mơ, Joseph thấy mình bị đưa tới phòng khách nhà Frau Wirsich. Anh biết mình đang ở đâu, mà cũng không thật sự biết rõ; căn phòng khá sáng, nhưng dường như ngập nước hồ. Chẳng lẽ nhà Wirsich đã hóa thành cá? Anh kinh ngạc thấy mình đang hút tẩu - chính là cái tẩu mà Tobler đặc biệt thích. Dường như Tobler cũng đang ở rất gần, có thể nghe thấy giọng kim vang vang của ông - đúng là giọng của cấp trên. Giọng nói ấy như đang ôm lấy, vây lấy căn phòng. Cửa mở ra và Wirsich xuất hiện, mặt còn xanh xao hơn trước, rồi ngồi xuống một góc - căn phòng vẫn run rẩy không ngừng vì sức nặng của giọng nói kia. Đúng vậy, phòng khách run lên, nó sợ hãi, cả các ô cửa kính cũng run rẩy. Và ánh sáng - rất sáng nhưng lại không phải ánh sáng ban ngày, cũng không phải ánh sáng trăng mà là thứ ánh sáng lỏng và trong như nước. Đúng rồi, bởi vì họ đang ở dưới nước. Frau Wirsich đang thêu thùa gì đó nhưng đột nhiên toàn bộ đồ thêu trong tay bà ta tan thành những tia sáng lấp lánh sắc lạnh, và Joseph thốt lên: “Nhìn kìa, nước mắt!” Tại sao anh lại nói vậy, anh cũng không biết. Ngay lúc đó, giọng Tobler vang rền như một cơn bão quanh ngôi nhà nghèo khổ. Nhưng bà lão chỉ mỉm cười - và khi nhìn kỹ hơn, nụ cười ấy lại hóa ra là con chó Leo, vẫn còn ướt đẫm vì chuyến bơi vừa rồi. Giọng nói khủng khiếp ấy dần dịu xuống thành tiếng xào xạc, thì thầm như lá trong gió nóng trưa hè. Bỗng Frau Tobler xuất hiện trong chiếc váy lụa đen tuyền - vì sao bà mặc vậy thì không ai đoán nổi. Frau bước chậm về phía Frau Wirsich với dáng một ân nhân cao quý, nhưng rồi đột nhiên, như thể cảm xúc chợt đổi hướng, Frau ôm chầm lấy bà lão và hôn tới tấp. Tobler lầm bầm gì đó, nhưng không ai hiểu nổi ông ta nói gì. Joseph nghĩ có lẽ ông ấy cho rằng sự xúc động này của vợ là thừa thãi. Đột nhiên, căn phòng nhà Wirsich biến thành cửa hàng xì gà của người đàn bà có bộ tóc và khuôn mặt phấn son lòe loẹt ngày trước - nơi mà Joseph từng tối tối ngồi nghe kể chuyện. Giờ bà ta cũng đang kể một câu chuyện - một câu chuyện dài, đơn điệu và buồn bã. Lạ là, dù chuyện dài thế, nó dường như chỉ diễn ra trong chớp mắt. “Mình đang mơ à, hay thật sự đang sống những điều này?” Joseph nghĩ. “Và cái quái gì khiến một bà bán xì gà lại liên quan đến Frau Wirsich nhỉ?” Bỗng một chiếc thuyền vàng, hình dáng tinh xảo, lướt vào cửa hàng, người đàn bà bước lên, và thuyền đưa bà ta đi xa mãi, cho đến khi tan biến vào một khoảng không đen gắt sắc lẹm - chỉ còn lại một chấm nhỏ lơ lửng cao vút. Giấc mơ lại nhảy vọt - lần này tới phòng làm việc nhà Tobler. Joseph thấy mình đang ngồi viết bên bàn, chỉ mặc mỗi sơ mi. Mọi thứ xung quanh đang nhìn chằm chằm vào anh - tất cả, soi mói và tra vấn. Anh không thể thấy rõ đó là gì, nhưng đó đúng là tất cả - cả thế giới sống động dường như đang nhìn anh chằm chằm. Khắp nơi đầy những ánh mắt thích thú trước sự trần trụi lạ lùng của anh. Cả phòng làm việc như rực lên một màu xanh lục độc địa vì vui sướng độc ác. Anh cố đứng dậy để thoát khỏi cái chỗ nhục nhã ấy nhưng bị dính chặt vào đó. Toàn bộ anh là kinh hoàng, và rồi anh tỉnh dậy.

Cảm thấy khát cháy, anh đứng dậy và uống một cốc nước. Rồi anh bước tới bên cửa sổ, hít thở và lắng nghe bên ngoài - mọi thứ hoàn toàn yên tĩnh, ánh trăng bạc như phù phép, thì thầm ôm lấy mọi vật xung quanh. Và trời ấm áp biết bao. Những ngôi nhà nhỏ bé, cũ kỹ của thợ thuyền nằm ngay dưới chân đồi dường như đang ngủ yên trong hình dáng của chính chúng. Không còn một ánh đèn nhỏ nào, không một bóng người! Mặt hồ bị một lớp sương mỏng ấp lên, chẳng thể nhìn thấy nữa. Tiếng kêu khe khẽ của một con chim vang lên, ngắt sự tịch mịch của đêm. Ánh trăng thế này dường như còn có thể là ẩn dụ cho giấc ngủ. Một sự tĩnh lặng như thế - Joseph không nhớ mình đã từng chứng kiến bao giờ chưa. Anh suýt nữa đã thiếp đi ngay bên cửa sổ mở.

Sáng hôm sau, Joseph đến trễ.

Tobler lầm bầm, nói rằng ông rất ghét chuyện đó.

Joseph cả gan đáp lại rằng vài phút chắc cũng chẳng sao. Thế là anh lãnh ngay hậu quả: thứ nhất, phải nhìn một bộ mặt cau có; thứ hai, bị Tobler phán như sau:

“Anh phải có mặt đúng giờ để làm việc. Nhà và công việc của tôi không phải cái chuồng gà. Nếu không tự dậy được thì mua cho mình một cái đồng hồ báo thức. Mà nói cho rõ: anh có muốn làm hay không? Nếu không thiện chí thì cứ nói thẳng, chúng ta sẽ dứt khoát với nhau cho xong. Trong thành phố còn đầy người mừng rỡ khi có được một chỗ thế này. Chỉ cần bắt tàu xuống đó là tìm được ngay. Giờ thậm chí còn có thể nhặt ngoài đường đấy. Còn với anh, tôi yêu cầu sự đúng giờ, rõ chưa? Bằng không - tôi không muốn phải nói thêm nữa.”

Joseph im lặng, hoàn toàn chủ ý.

Nửa giờ sau, Herr Tobler lại trở thành người chủ nhân từ và người thân thiện nhất với phụ tá của mình. Suýt chút nữa ông đã buột miệng gọi anh bằng “mày,” vì lòng thương yêu tràn trề, và cuối cùng gọi anh là Marti. Cho tới giờ, ông vẫn luôn “Herr Marti” với anh.

Thực ra, lý do cho sự thân thiện này là một nguyên nhân bên ngoài - từ tinh thần yêu nước. Ngày hôm sau chính là mồng một tháng Tám, và vào ngày này hằng năm, cả nước cùng hân hoan lễ hội để tưởng nhớ sự cao cả và quả cảm của tổ tiên.

Joseph phải chạy xuống làng để mua đủ thứ cho ngày hôm sau: đèn, đèn lồng, cờ nhỏ cờ to, cả nến và đồ dùng để đốt pháo hoa nữa. Anh còn phải đặt lẹ một cái khung gỗ, cao và rộng hai mét, ở tiệm đóng sách của làng - nơi, thật kỳ lạ, cũng làm cả những thứ như vậy - cùng hai tấm vải cờ: một đỏ sẫm một trắng. Vải sẽ được căng lên khung, tạo thành quốc huy: nền đỏ với thánh giá trắng ở giữa - tất cả sẽ được dựng lên trong đêm trước mặt tiền Villa Tobler. Phía sau khung và tấm vải sẽ đặt những ngọn đèn cháy sáng để ánh sáng xuyên qua vải, khiến cho từ xa, rất xa, ai ai cũng có thể thấy hai màu sắc quốc gia rực rỡ.

Sau khoảng một tiếng rưỡi, tất cả những vật dụng cần thiết đã tới nơi. Mọi người bất ngờ kéo đến, tình nguyện giúp trang trí ngôi nhà - những người như từ trên trời rơi xuống, hăm hở gắn cờ nhỏ và treo đèn khắp các gờ tường, hốc cửa, bậu cửa sổ và hàng rào. Thậm chí cả những bụi cây và những thân cây chắc chắn trong vườn cũng được gài, treo, đặt, kẹp đủ thứ thiết bị chiếu sáng, đến mức toàn bộ Villa Tobler không còn một góc nào chưa được âm thầm khoét và chuẩn bị cho màn pháo hoa sắp tới. Tobler trông hạnh phúc vô cùng. Đúng là việc này hợp với ông ta. Về chuyện dàn dựng các buổi lễ đẹp mắt, dường như chẳng mấy ai được trời phú như ông. Ông liên tục bước ra trước nhà để ra lệnh chỗ này, chỉnh sửa chỗ kia - hoặc tự mình dùng kìm bẻ dây điện, chỉnh lại những cái đèn điện treo lệch, hoặc chỉ để quan sát công việc diễn ra. Đồng hồ Quảng cáo của ông dường đã bị quên lãng hoặc ít nhất bị tạm gác lại. Tất nhiên, toàn bộ sự chuẩn bị là một điều vui sướng, vừa trang nghiêm vừa đầy bí ẩn đối với lũ trẻ con, chúng không ngớt ngạc nhiên, hỏi han không biết chuyện kỳ diệu gì sắp diễn ra. Joseph hôm ấy bận chuẩn bị cho lễ hội đến mức không còn thời gian để nghĩ xem những việc mình đang làm cho Tobler có thực sự hữu ích hay không. Frau Tobler dường như mỉm cười suốt cả ngày. Còn thời tiết thì…

Về chuyện đó, Tobler bảo rằng nếu thời tiết cứ tiếp tục đẹp đẽ tuyệt vời thế này thì hoàn toàn có thể dựng một điều gì đó thật đặc biệt. Hơn nữa, dịp này cũng không nên quá dè sẻn - dù sao thì cũng là vì Tổ quốc - và quả thật, người nào không có trong mình một chút lòng ái quốc thì đúng là đáng buồn. Những gì họ làm hoàn toàn trong chừng mực đứng đắn, không việc gì phải quá lên. Nhưng nếu ai hoàn toàn không còn chút cảm nhận nào đối với những điều như thế nữa, chỉ biết ngồi lì trên cái nghề của mình và két sắt của mình, thì người đó thật sự không xứng đáng có một quê hương xinh đẹp - có thể sang Mỹ hay Úc luôn cũng được, khác gì đâu. Mà xét cho cùng, đó cũng là chuyện thẩm mỹ thôi. Còn ông, Tobler, thì đơn giản là thích như vậy, và thế là đủ.

Từ trên tháp của Joseph, một lá cờ lớn và đẹp bay phấp phới. Tùy theo chiều gió, lá cờ nhẹ nhõm ấy khi thì tung mình thành những đường cong táo bạo kiêu hãnh, khi thì gập cả mình lại, như mệt mỏi e thẹn, hoặc có lúc quấn quýt, uốn lượn tinh nghịch quanh cột cờ như thể đang mải mê với những cử động duyên dáng của chính mình, vừa tắm nắng vừa soi bóng mình. Rồi bất chợt, nó lại vươn cao, trải rộng, bay ngút lên, giống như một nữ thần chiến thắng mạnh mẽ và một người bảo vệ oai phong, để rồi dần dần lại dịu dàng xuôi xuống, như tự vuốt ve chính mình. Ôi, cái màu xanh tráng lệ ấy trên bầu trời!

Chuyện kinh doanh có rất nhiều việc phải xử lý, đến mức gần như không kham nổi. Bưu điện (thật kỳ lạ là hôm nay vẫn phát thư) mang tới một hóa đơn khá lớn, liên quan đến việc thi công mái tháp đồng mới xong gần đây - chính là mái tháp nơi lá cờ xinh đẹp đang tung bay. Con số cao ngất của hóa đơn ấy hằn lên trán Tobler một cái nhíu mày rất rõ, gần như chính xác về mặt toán học, như thể có thể đọc được con số ấy ngay trên trán ông. Một món quà kèm theo lễ kỷ niệm yêu nước như vậy thì quả thật chẳng lấy gì làm phấn khởi.

“Chuyện đó để sau cũng được,” ông chủ nói, rồi ném tờ hóa đơn xuống ngay cạnh cái đầu Joseph đang cúi sát bàn, vừa nghĩ ngợi vừa viết thư. Joseph đáp bằng giọng mũi: “Tất nhiên!” - như thể anh đã làm hàng năm trong nghề, như thể đã quá quen thuộc với tình cảnh, thói quen, nỗi khổ, niềm vui và những hy vọng của ông chủ. Hơn nữa, hôm nay anh cũng thấy hợp tình hợp cảnh để tỏ ra ân cần mềm mỏng trong lời nói và cử chỉ. Với thời tiết đẹp thế này…

“Thật là, người ta lúc nào cũng vội vã khi đến lúc trình hóa đơn,” Tobler nhận xét. Lúc đó, ông đang mải mê vẽ - một phác thảo “Máy khoan sâu.”

“Nếu cái đồng hồ quảng cáo không thành, thì ít nhất cái máy khoan cũng sẽ thành,” ông lẩm bẩm với Joseph. Từ phía bàn viết vọng lại một câu:

“Tất nhiên!”

“Trong trường hợp xấu nhất, tôi vẫn còn cái ‘Máy bắn Tự động’, nó sẽ cứu vãn tất cả,” bàn vẽ phác thảo lên tiếng, và từ bộ phận thương mại vọng lại:

“Đương nhiên!”

“Liệu mình có thật sự tin vào những gì mình vừa nghe không?” Joseph thầm nghĩ.

“Đừng quên còn cái ghế bệnh nhân đã được cấp bằng sáng chế,” Tobler kêu lên.

“Aha!” người phụ tá đáp.

Tobler hỏi Joseph xem anh có thật sự đã có một khái niệm tương đối rõ ràng về những thứ đó chưa.

“À thì,” người thư ký cho rằng mình có thể trả lời như vậy.

Ông hỏi anh đã soạn lá thư gửi cơ quan cấp bằng sáng chế quốc gia chưa.

“Chưa, vẫn chưa.” Joseph nói rằng hôm nay anh chưa tìm được thời gian để làm việc đó.

“Vậy thì làm đi chứ, quỷ thật!”

Khi Joseph mang lá thư tới để Herr Tobler ký thì hóa ra thư viết sai, bị xé đi và anh phải viết lại từ đầu. Dù vậy, anh vẫn thấy buổi uống cà phê chiều hôm đó thật dễ chịu. Hơn nữa, anh còn nhận được thư hồi âm từ Frau Weiß ở thành phố, trả lời bức thư thông báo lần trước của anh. Bà viết rằng anh không cần vội vàng trả nợ, chuyện đó vẫn còn thời gian. Ngoài đó ra, bức thư khá giản dị, thậm chí hơi buồn tẻ. Nhưng Joseph có trông chờ gì khác đâu? Tuyệt nhiên không. Anh chưa bao giờ, ơn Chúa, cho rằng người phụ nữ tốt bụng này là thông minh đặc biệt.

Hôm nay, lần đầu tiên, anh để ý thấy một vết sẹo dưới tai, trên cổ của Frau Tobler.

Không rõ bà có vết đó từ đâu.

Bà kể với anh rằng đó là do một cuộc phẫu thuật, và có lẽ bà sẽ phải mổ lần thứ hai ở đúng chỗ đó, vì bệnh vẫn chưa chữa khỏi. Bà than bảo người ta ném bao nhiêu tiền vào họng của nền y học đắt đỏ, mà cuối cùng cũng chẳng thể nói là đã thật sự chữa khỏi chưa. Chính thế, các bác sĩ và giáo sư, bà nói, chỉ một nhát dao nhỏ đến mức mắt thường hầu như không nhận ra, họ đã nhận về một khoản gần bằng nửa gia tài, và để làm gì? Để rồi họ lại phạm sai lầm nào đó, khiến bệnh nhân chẳng bao lâu lại đến tìm họ lần nữa, và lại phải bắt đầu chữa trị từ đầu.

Nó có đau không?

“Ồ! Thỉnh thoảng thôi!” Frau Tobler đáp.

Rồi bà kể cho Joseph nghe toàn bộ quá trình phẫu thuật. Người ta đã yêu cầu bà vào một căn phòng lớn trống trơn, trong đó chẳng có gì ngoài một cái giường hay cái bệ cao và bốn nữ y tá mặc đồng phục hệt nhau. Những y tá ấy, bà kể, ai cũng giống ai - trống rỗng và vô cảm. Khuôn mặt họ giống nhau như bốn hòn đá cùng kích cỡ và màu sắc. Sau đó, bà bị ra lệnh - đúng theo nghĩa đen, với một giọng cộc cằn quái gở - phải trèo lên giường. Bà không muốn nói quá, nhưng bà phải thừa nhận rằng bà cảm thấy vô cùng kinh hoàng. Không một nét mặt, không một cử chỉ nào thể hiện sự thân thiện quanh bà, mà ngược lại, tất cả khiến bà có cảm giác về sự cứng nhắc và nghiệt ngã. Không một chút dịu dàng, không một lời an ủi hay xoa dịu. Cứ như thể chỉ cần một chút lòng tốt thôi cũng đủ để đầu độc, truyền nhiễm, hoặc thậm chí giết chết bà ấy. Bà nói, như thế là đã đẩy sự cẩn trọng và chuẩn tắc đi quá xa. Sau đó, người ta gây mê cho bà, và từ đó trở đi, bà không còn cảm nhận được gì, cũng chẳng biết gì nữa, cho đến khi xong. Và có lẽ, bà kết thúc chuyện, mọi thứ cần phải như vậy. Chỉ là người ta cảm thấy nó lạnh lùng quá mức. Có lẽ, bà nói, một bác sĩ giỏi thì thật ra không nên có trái tim - ai mà biết được.

Bà thở dài và đưa tay vuốt luồn qua tóc.

Ý nghĩ phải nằm lên đó lần thứ hai, bà tiếp tục, khiến bà khiếp sợ. Và còn vì một lý do khác nữa, Joseph hẳn có thể dễ dàng đoán ra. Bà thấy thật khó để nói với chồng mình về chuyện đó, nhất là trong khi tình hình tiền bạc - như Joseph cũng biết - ngày càng căng thẳng. Một người phụ nữ, bà nói, sẽ cảm thấy nhẹ nhõm biết bao nếu không phải gây ra những khoản chi tiêu bất thường. Cái đồng tiền ngớ ngẩn ấy, thật là hèn mọn khi cứ phải lo lắng không ngớt về nó. Không, bà mỉm cười, trước tiên bà muốn có cái váy mới mà bà đã ao ước từ lâu, rồi sau đó mới nghĩ đến việc đưa thêm tiền cho bọn bác sĩ. Chuyện đó, theo bà, hoàn toàn có thể đợi thêm một thời gian.

Joseph thầm nghĩ: “Ông chủ thì muốn khất tiền xưởng cơ khí, còn bà chủ thì muốn khất tiền bác sĩ.”

Anh Hoa dịch

[1] Cô bé Pháp xinh quá cơ.

bác sĩ không chữa bệnh

 

viết tiếng Đức

Johann Wolfgang von Goethe (1749–1832)
E. T. A. Hoffmann (1776–1822)
Friedrich de la Motte Fouqué (1777–1843)
Heinrich von Kleist (1777–1811)

Karl Kraus (1874–1936)
Thomas Mann (1875–1955)
Rainer Maria Rilke (1875–1926)
Robert Walser (1878–1956)
Robert Musil (1880–1942)
Georg Lukács (1885–1971)
Walter Benjamin (1892–1940)
Joseph Roth (1894–1939)

Paul Celan (1920–1970)
Ingeborg Bachmann (1926–1973)
Thomas Bernhard (1931–1989)

favorites
Thêm vào giỏ hàng thành công