D. H. Lawrence: Mặt trái của sách
D. H. Lawrence ở ngoài tiểu thuyết: chính tại đây ta thấy một tiểu luận gia vô cùng hấp dẫn. Nhất là những lúc nào nhân vật ấy nói về sách, như một bài mà tạp chí Văn Bản đã đăng cách đây chưa lâu.
"Mặt trái của sách" được lấy từ tập tiểu luận The Bad Side of Books, một bài được D. H. Lawrence viết vào năm 1924.
Mặt trái của sách
- D. H. Lawrence
Tôi không thấy lý do chính đáng nào khi - ngồi dưới một cây tuyết tùng nhỏ ở chân dãy Rockies, trông ra sa mạc nhạt màu trải dài về phía Tây với những gò bóng tối nhô lên trong sự tĩnh lặng của mùa thu mới chớm, vào sáng nay, những cây thông gần đó tuyệt đối lặng thinh còn các khóm hướng dương và hoa cúc tím Michaelmas thì sáng nay, lần đầu tiên, khẽ lay động trong một làn gió nhẹ vô hình - tôi lại đang ngồi viết lời giới thiệu cho một bảng thư mục.
Sách đối với tôi là những vật thể thấm nhập, là những giọng lơ lửng không sao khuấy động màn sương mù của mùa thu và, là những hình ảnh chẳng thể lu mờ những khóm hướng dương. Tôi nào quan tâm đến ấn bản đầu hay cuối? Tôi còn chưa từng đọc một quyển sách nào do chính mình xuất bản. Đối với tôi, sách không có ngày tháng, không có bìa bọc.
Tôi đâu có bận tâm nếu chữ “e” bị in ngược hay chữ “g” bị dùng sai phông? Tôi thật lòng chẳng bận tâm.
Mà ngay cả khi cố gắng nhớ lại thì cũng đâu có gì vui? Bản in đầu tiên của The White Peacock từng được gửi đi, tôi đã đặt nó vào tay mẹ khi bà hấp hối. Bà nhìn bìa sách, rồi nhìn trang tiêu đề, rồi nhìn tôi với ánh mắt dần tối lại. Và dù bà yêu tôi rất nhiều, tôi nghĩ bà vẫn ngờ rằng quyển sách ấy không có gì đáng kể vì chẳng có gì quan trọng hơn việc tôi là người viết nó. Ở đâu đó, trong cõi sâu thẳm bất lực và riêng tư của bà, có lẽ bà dành cho tôi một chút kính trọng. Nhưng với tôi - khi đứng trước thế gian - thì không nhiều. David này sẽ chẳng ném được viên đá nào trúng Goliath. Vậy thì cố làm gì? Cứ mặc Goliath! Dù sao thì lúc đó bà cũng đã chẳng còn sức để đọc tác phẩm bất hủ đầu tay của tôi. Quyển sách bị gạt sang một bên và tôi chẳng bao giờ muốn nhìn lại nó thêm lần nào nữa. Bà cũng không bao giờ nhìn thấy nó nữa.
Sau đám tang, bố tôi gắng gượng đọc được nửa trang, như thể đang đọc tiếng Hottentot vậy.
“Rồi tụi nó trả mày bao nhiêu cho cái đó, con trai?”
“Năm mươi bảng, bố à.”
“Năm mươi bảng!” Ông sững sờ, nhìn tôi bằng ánh mắt tinh quái như thể tôi là thằng bịp. “Năm mươi bảng! Mà mày chưa từng lao động một ngày tử tế nào trong đời!”
Tôi nghĩ đến tận bây giờ ông ấy vẫn coi tôi như một tay lừa đảo khôn khéo, chẳng phải làm gì mà vẫn có tiền: một dạng như Ernest Hooley. Còn chị gái tôi khiến tôi vô cùng sửng sốt khi nói: “Em lúc nào cũng may mắn!”
Lạ thay, chính thể vật chất cùng chất liệu, quyển sách làm bằng giấy và vải từ bất kỳ tác phẩm nào tôi từng viết, mới là thứ gợi những ký ức và cảm xúc riêng tư ấy. Tự quyển sách khốn khổ bằng cách nào đó đã phơi bày tôi trước lòng trần tục phũ phàng. Giọng bên trong là thứ thuộc về tôi mãi mãi. Song cái phần xác bị thương mại hóa là quyển sách được xuất bản lại chính như khúc xương mà bất cứ con chó nào cũng có thể tự tiện nhào vào cắn xé.
William Heinemann là người đã xuất bản The White Peacock. Tôi gặp ông ấy một lần; và chính khi đó tôi nhận ra mình đang được ban cho một ân sủng to lớn nhường nào. Thực tế ông ấy đối xử với tôi khá tốt.
Tôi nhớ vào phút chót, khi tác phẩm đã in xong và chuẩn bị đóng bìa - thậm chí một số bản đã đóng xong - họ vội vã gửi cho tôi một trang với đoạn văn được đánh dấu. Họ hỏi liệu tôi có thể bỏ đoạn đó không vì có thể bị xem là “gây phản cảm” rồi thay bằng một lượng từ tương đương mà vô hại. Tôi vội vàng làm theo. Về sau, tôi nhận ra hai trang - trong đó có trang chứa đoạn văn đã bị sửa - hơi lỏng và không được đóng chắc vào gáy. Chỉ có bản của mẹ tôi là vẫn còn nguyên đoạn ấy, không hề bị thay đổi.
Tôi vẫn thường tự hỏi chẳng lẽ Heinemann chỉ sửa đoạn “gây phản cảm” đó trong mấy quyển đầu tiên họ gửi rồi để mặc những bản còn lại như lần in đầu. Hay là họ đã sửa toàn bộ ngoại trừ đúng một bản gửi cho tôi trước đó.
Ấy là lần đầu tiên tôi biết thế nào là “gây phản cảm”. Sau này, William Heinemann tuyên bố Sons and Lovers là một trong những quyển sách tục tĩu nhất ông từng đọc. Ông từ chối xuất bản nó. Mà tôi thì không hình dung nổi tầm đọc của người quá cố ấy lại thủ cựu và đoan chính đến vậy.
Tôi không nhớ The Trespasser và Sons and Lovers ra mắt lần đầu vào lúc nào. Tôi thường cố giấu nhẹm ngay cả với chính mình chuyện sách được xuất bản. Người ta viết, ngay cả trong khoảnh khắc này, là để phóng đi một hiện diện bí ẩn vào không khí. Nếu không có hiện diện ấy và chỉ nghĩ đến một độc giả duy nhất, bằng xương bằng thịt, thì tờ giấy kia hẳn mãi mãi trắng trơn.
Tôi nhớ mãi, trong một căn nhà tranh bên bờ biển ở Ý, tôi gần như viết lại toàn bộ vở kịch The Widowing of Mrs Holroyd ngay trên bản in thử mà Mitchell Kennerley đã gửi. Ông ta đã cao thượng chịu đựng tôi đến cùng.
Nhưng rồi ông ta tát tôi một cú ra trò. Ông xuất bản Sons and Lovers ở Mỹ, và một ngày nọ, trong niềm hân hoan, tôi nhận được một tấm séc hai mươi bảng. Hai mươi bảng thời đó là cả một gia tài nhỏ, và vì đó là một khoản bất ngờ nên tôi đưa ngay cho Madame; ấy là lần đầu tiên nàng có một số tiền riêng. Song than ôi, tấm séc lại bị sửa ngày và ngân hàng từ chối chi trả. Nó bị gửi trả lại cho Mitchell Kennerley và chuyện coi như kết thúc. Ông ta không bao giờ bù lại, và cho đến tận hôm nay cũng chưa từng thanh toán thêm đồng nào cho Sons and Lovers. Tính đến năm ân sủng 1924 này, nước Mỹ đã có trong tay quyển sách nổi tiếng nhất của tôi, chẳng mất gì cả... ít nhất là đối với phần tôi.
Rồi đến ấn bản đầu tiên của The Rainbow. E rằng tôi đã giăng cầu vồng lên giời quá sớm, trước, thay vì sau trận đại hồng thủy. Methuen xuất bản quyển ấy, và ông ta gần như phát khóc trước tòa khi bị triệu tập vì hành vi phát hành một tác phẩm văn chương đồi trụy. Ông ta khai rằng bản thân không hề biết cái thứ tục tĩu mà mình đã đụng tới, rằng ông ta chưa từng đọc nó, rằng người duyệt bản thảo đã tư vấn sai cho ông - và Peccavi! Peccavi! - quý ngài giờ đây đã được phong tước ấy nức nở. Rồi quanh tôi bỗng rộ lên một thứ tò mò ồn ào, giống hệt cái cách người ta rì rầm bàn tán về một vụ bê bối thô thiển. Trên mặt báo, các đồng nghiệp viết văn của tôi hoàn toàn im lặng, dè chừng từng chút, sợ bị vạ lây. Mãi sau này, Arnold Bennett và May Sinclair mới lên tiếng phản đối nhẹ nhàng, thiện ý. Còn John Galsworthy đã nói với tôi, với giọng bình tĩnh của ex cathedra, rằng quyển sách ấy là một thất bại về mặt nghệ thuật. Họ nghĩ sao là quyền của họ. Nhưng tại sao không đợi đến khi tôi hỏi rồi hẵng bày tỏ ý kiến? Nhất là khi những nhận xét ứng khẩu từ các bậc văn hào đứng tuổi thường có xu hướng làm hại cả người nói lẫn người nghe.
Trong The Rainbow chẳng có gì tục tĩu hay phản cảm hơn buổi sáng mùa thu hôm nay - và tôi, người phát ngôn, biết rõ. Mà khi tôi đã mở miệng thì đừng để con chó nào sủa.
Đấy là câu chuyện về ấn bản đầu tiên của The Rainbow. Tôi chỉ giữ lại một bản duy nhất trong số tất cả những quyển sách của mình là bản The Rainbow do Methuen phát hành. Các ấn bản ở Mỹ đều đã bị cắt xén. Mà đây gần như là quyển tôi thích nhất trong số những tiểu thuyết từng viết: quyển này, và Women in Love. Thành thật tôi sẽ vô cùng hài lòng nếu nó không bao giờ được tái bản và chỉ còn sót lại vài quyển màu xanh từng bị lên án ấy.
Kể từ The Rainbow, đành chấp nhận việc xuất bản như một thứ tai ương cần thiết: như linh hồn theo người ta nói thì buộc phải chấp nhận tai ương của việc sinh ra trong xác phàm. Gió thổi về đâu nó muốn. Và con người thì phải thuận theo những quy trình của thời đại mình. Về phần tôi, tôi không tin vào cái gọi là đại chúng vĩ đại. Tôi tin chỉ có một số ít tinh tuyển mới thực sự quan tâm. Nhưng giới xuất bản thì, như cây kế, buộc phải gieo vô số hạt ra gió, dù biết phần lớn sẽ hỏng.
Với đại chúng vĩ đại, buổi sáng mùa thu chỉ là phông nền sân khấu nơi họ có thể phô bày tầm quan trọng cơ học của mình. Nhưng với một số người, những cái cây vẫn đứng đó, như thể đang vươn nhìn ánh sáng ban mai sau khi đã lặng lẽ đan hai đầu của bóng tối lại thành một hiện diện hữu hình. Và chẳng bao lâu sau, chúng sẽ lại buông mình khỏi hai đầu bóng tối ấy, và biến mất. Bông hoa cười một tiếng và, sau tiếng cười ấy, lặng lẽ thu vào hạt giống, rồi biến mất. Từ đâu? Tới đâu? Ai biết, ai bận lòng? Tiếng cười nhỏ nhoi của một khắc hiện hữu trọn vẹn là tất cả.
Sách cũng vậy. Với người nào từng vật lộn cùng linh hồn mình trong cõi bí ẩn, một quyển sách đúng nghĩa sẽ nở hoa một lần, gieo hạt, rồi biến mất. Dù là ấn bản lần đầu tiên hay lần thứ bốn mươi mốt, thì cũng chỉ là lớp vỏ sót lại.
Dẫu vậy nếu ai tìm thấy niềm thích thú trong việc lưu giữ những lớp vỏ hoa từng nở lần đầu thì cũng dễ hiểu. Giống những bộ trang phục mà đàn ông và đàn bà từng mặc, khi còn trẻ, nhiều năm về trước, nay đã phai màu, được dựng trong các viện bảo tàng. Chỉ bằng cú xóc chúng đã ghép lại cả một thực tại thường nhật của những người đã khuất và, ta lại được chiêm ngưỡng thêm lần nữa chiến tích từ cuộc chiến muôn đời của con người với sự trì trệ.
Thanh Nghi dịch
đọc
Tôi nghĩ chúng ta chỉ nên đọc những cuốn sách làm mình đau đớn, xoáy dao vào mình.
Tôi chỉ có thể dự cảm được đây là một thứ hoàn toàn khác với những gì đã từng đọc trước đây
Khi là một đứa trẻ, tôi đọc sách
Sự đọc, như thế, có thêm một chiều hoàn toàn mới: không còn chỉ là theo trục các tác giả, trục lịch đại, trục địa dư, mà còn có thêm trục của các hình thức.
Làm thế nào để từ ngôn tình lại tìm thấy cổ điển, thật khó biết