favorites
Shopping Cart
Search
Vitanova
Prev
Đông 2024
Next

Cioran: Một bức thư

05/02/2025 06:20

Năm 1957, Cioran viết "Thư gửi một người bạn xa" dưới đây. Đó là một bức thư nhiều cảm xúc cũng ngang với nhiều phân tích, cũng như mang lại nhiều hệ lụy: Linda Lê, trong một text ngắn của mình ("Sức mạnh của sự vắng"), từng nhắc đến và bình luận bức thư.

Cioran đặt nó làm phần đầu tiên trong cuốn sách in năm 1960, Histoire et utopie (Lịch sử và phi lai).

 

Về hai típ Xã hội. Thư gửi một người bạn xa

- Cioran

Từ đất nước từng là đất nước của chúng ta, giờ chẳng còn là của ai nữa, anh thúc ép tôi, sau ngần ấy năm im lặng, trao cho anh các chi tiết về những mối bận tâm của tôi, cũng như về cái thế giới "tuyệt vời" nơi tôi, anh bảo, có cơ may được sống và băng qua. Hẳn tôi có thể trả lời anh rằng tôi là một người chẳng có mối bận tâm nào, và rằng thế giới đó không hề tuyệt vời. Nhưng một lời đáp ngắn gọn như vậy hẳn sẽ chẳng thể nào, mặc cho sự chính xác của nó, làm nguôi sự tò mò của anh, cũng không thỏa mãn được cho rất nhiều câu hỏi mà anh đặt cho tôi. Trong số ấy có một câu, nó, gần như không khác gì một lời trách, đã đặc biệt gây ấn tượng mạnh cho tôi. Anh những muốn biết một ngày kia tôi có ý định quay về với ngôn ngữ của chúng ta hay chăng, hay tôi định sẽ trung thành với ngôn ngữ này, nơi, hết sức tùy tiện, anh đặt giả định là tôi tha hồ được thoải mái, thứ mà tôi không có được, mà hẳn sẽ chẳng bao giờ tôi có. Hẳn sẽ là đâm đầu vào thuật lại một ác mộng nếu kể cho anh thật tỉ mỉ câu chuyện về mối quan hệ của tôi với thứ tiếng đi mượn này, với tất tật những từ được nghĩ đi nghĩ lại này, được tinh luyện, tinh tế tận tới chỗ của không tồn tại, oằn mình bên dưới các sách nhiễu của sắc thái, không biểu cảm vì đã biểu hiện mọi điều, gây kinh hãi vì mức chính xác, chất đầy nỗi mệt cùng sự thẹn thùng, kín đáo tận đến cả trong sự thô thiển. Làm sao anh lại muốn một tên Scythe quen được chúng, nắm bắt được biểu nghĩa nét của chúng và sử dụng chúng với đầy đắn đo và trung tín được đây? Trong số đó chẳng có lấy từ nào mà sự thanh lịch hết hơi không làm tôi bị chóng mặt: chẳng còn chút dấu vết nào của đất, của máu, của tâm hồn ở trong chúng. Một cú pháp cứng đơ, đầy phẩm giá như của xác chết quấn chặt lấy chúng và chỉ định cho chúng một chỗ từ đó chính Chúa hẳn cũng không thể lôi nổi chúng lên. Phải uống bao nhiêu cà phê, hút bao nhiêu thuốc lá và tra từ điển mỏi tay tới nỗi nào thì mới viết được một câu có chút đúng đắn bằng thứ tiếng không thể lại gần này, quá cao quý, và quá nổi bật đối với sở thích của tôi! Thật không may vì mãi sau tôi mới nhận ra điều đó, và là vào lúc đã quá muộn không làm sao quay đi được khỏi đó nữa; nếu không vậy hẳn tôi đã chẳng bao giờ từ bỏ ngôn ngữ của chúng ta, mà có những khi tôi nuối tiếc mùi của sự tươi mát và của sự thối rữa, hỗn hợp của mặt trời và của phân bùn, sự xấu xí đầy hoài niệm, sự bừa bãi tuyệt diệu. Quay trở lại với nó thì tôi không thể; ngôn ngữ mà tôi đã phải chọn lấy giữ chặt tôi và làm tôi bị choáng ngợp bởi chính các khó nhọc mà nó bắt tôi phải chịu. Tôi có phải là một "kẻ phản phúc" không, như anh ngầm nói? "Tổ quốc chỉ là một bãi cắm trại ngoài sa mạc", điều này được nói trong một văn bản Tây Tạng. Tôi không đi xa đến tận đó: hẳn tôi sẽ cho đi tất tật các phong cảnh trên đời để đổi lấy phong cảnh của tuổi thơ tôi. Dẫu có thế tôi phải nói thêm rằng, nếu tôi biến nó thành một thiên đường, thì chỉ những màn ảo thuật hay các phế tật của ký ức tôi phải chịu trách nhiệm cho điều đó. Bị truy đuổi bởi nguồn gốc của mình, tất tật chúng ta ai cũng vậy hết; cảm giác mà nguồn gốc của tôi tạo cho tôi nhất thiết phải được dịch ra bằng các từ âm tính, trong thứ ngôn ngữ của tự trừng phạt, của nỗi nhục phải đảm trách và tuyên xưng, của sự nhất trí với thảm họa. Một lòng yêu nước như thế thì có thuộc phạm vi của tâm thần học hay chăng? Tôi đồng ý với điều này, nhưng tôi không thể hình dung được lòng yêu nước nào khác và, nếu nhìn vào số phần của chúng ta, đối với tôi - tại sao lại giấu anh điều này - nó hiện ra như là lòng yêu nước hữu lý duy nhất.

Sung sướng hơn tôi, anh đã cam chịu trước bụi của quê hương chúng ta; ngoài ra anh lại có năng lực chịu đựng tất tật các chế độ, kể cả những gì hà khắc hơn cả. Hoàn toàn không có chuyện anh không hoài nhớ về phăng te di và sự mất trật tự, nhưng rốt cuộc thì tôi không biết tinh thần nào ngang ngạnh hơn so với tinh thần của anh trước những mê tín của "dân chủ". Từng có một thời, quả đúng vậy, tôi cũng ghê tởm chúng ngang mức với anh, thậm chí có lẽ còn hơn anh: lúc ấy tôi còn trẻ và không thể chấp nhận các sự thật khác ngoài những sự thật của tôi, cũng như không thể nhường cho đối thủ quyền có những sự thật của mình, tán dương chúng hay áp đặt chúng. Việc các đảng có thể đối chọi với nhau mà không hư vô hóa lẫn nhau vượt quá những khả năng hiểu của tôi. Nỗi nhục của Loài, biểu tượng cho một loài người thiếu máu, không cả các dục vọng lẫn những lòng tin, không có năng lực về cái tuyệt đối, bị tước bỏ mất tương lai, ở mọi điểm đều chật chội, không có khả năng vươn lên đến sự thông thái cao vời kia, thứ từng dạy cho tôi rằng đối tượng cho một tranh luận là sự tan thành bột của kẻ nói ngược - tôi từng nhìn chế độ nghị viện như vậy. Các hệ thống nào, ngược lại, muốn loại bỏ nó đi để tự thay mình vào đó đối với tôi dường đều đẹp tuốt, không ngoại lệ, được chỉnh tùy theo chuyển động của Sống, thần thánh của tôi hồi đó. Kẻ nào, trước năm ba mươi tuổi, không từng chịu sự quyến rũ của tất tật những hình thức cực điểm, tôi không biết mình phải ngưỡng mộ hay khinh bỉ hắn, coi hắn như một vị thánh hay một xác chết. Thiếu đi các nguồn sinh học, anh ta tự đặt mình phía trên hay phía dưới thời gian? Thiếu hụt dương hay âm, thì quan trọng gì! Không có cả ham muốn lẫn ý chí tàn phá, anh ta thật khả nghi, anh ta đã chiến thắng con quỷ hoặc, điều này thì nghiêm trọng hơn, chưa từng bao gì bị nó ám. Sống một cách đúng nghĩa, ấy là từ chối những kẻ khác; để chấp nhận bọn họ, cần phải biết chối bỏ, tự gây bạo lực lên mình, hành động chống lại bản tính chính mình, suy yếu; người ta chỉ có thể hình dung được tự do cho chính mình; người ta chỉ mở rộng nó ra cho những người lân cận với cái giá là các nỗ lực gây kiệt sức; từ đó mà có sự bấp bênh của trạng thái độ lượng, thách thức đối với những bản năng của chúng ta, thành công ngắn ngủi và mầu nhiệm, trạng thái ngoại lệ, nằm ở đối cực với các mệnh lệnh sâu sắc của chúng ta. Lẽ dĩ nhiên chúng ta không thích hợp tại đó: chỉ mở được cho chúng ta đường vào đó sự cùn mòn nơi những lực của chúng ta. Nỗi khốn cùng của một dòng giống một mặt phải nhu nhược đi nhằm cao quý lên ở mặt bên kia, mà chẳng đại diện nào, trừ phi có một suy tàn sớm sủa, hy sinh cho những nguyên tắc "con người". Vốn dĩ là chức năng của một nhiệt hứng đã tắt, của một sự mất cân bằng, không hề là cái gì tăng thêm, mà thiếu mất đi năng lượng, sự độ lượng không thể quyến rũ được thanh niên. Người ta không can dự vào các tranh đấu chính trị mà yên lành được; chính nhờ sự thờ phụng trong đó họ từng là đối tượng mà thời của chúng ta có được dáng dấp hăng tiết của nó: các quặn thắt gần đây tỏa ra từ họ, từ sự dễ dàng của họ trong việc cưới lấy một lầm lạc và dịch nó ra thành thể động. Hãy trao cho họ hy vọng hay cơ hội về một thảm sát, họ sẽ mù quáng đi theo ta. Lúc đi ra khỏi tuổi niên thiếu, theo định nghĩa người ta là kẻ cuồng tín; tôi cũng từng như vậy, và tận tới mức của lố bịch. Anh có còn nhớ cái hồi nơi tôi tuôn ra các hóm hỉnh lửa đốt, ít vì thích thú xì căng đan hơn do nỗi cần thoát khỏi một cơn sốt, nó, nếu không có chỗ xì là sự điên loạn lời lẽ, hẳn đã không khỏi thiêu tôi tiêu? Đinh ninh rằng những hệ hại của xã hội chúng ta phát xuất từ đám già, tôi đã hình dung ra cái ý về một sự thanh trừng tất tật các công dân nào vượt quá tuổi bốn mươi, tức là khởi đầu của xơ cứng và ướp xác, bước ngoặt kể từ đó, tôi từng khoái chí nghĩ, mọi cá nhân đều trở thành một phỉ nhổ vào quốc gia và một gánh nặng cho tính cộng đồng. Dự đồ đối với tôi đáng ngưỡng mộ đến mức tôi không do dự phổ biến nó; các đương sự chẳng mấy coi trọng nội dung của nó và coi tôi là kẻ ăn thịt người: sự nghiệp nhà từ thiện công cộng của tôi đã bắt đầu dưới những điềm thật gở. Chính anh, dẫu thế hết sức hào phóng và, vào một số giờ khắc, hết sức biết cách, nhờ những e dè cùng phản đối đã lôi kéo tôi về phía từ bỏ. Dự đồ của tôi có đáng bị kết án hay chăng? Rất đơn giản, nó diễn tả những gì mà mọi con người nào gắn chặt vào với đất nước mình đều mong muốn nơi tận sâu trái tim mình: sự loại bỏ đi một nửa đồng bào của anh ta.

Khi nghĩ tới các khoảnh khắc của hào hứng và thịnh nộ ấy, tới những ngẫm nghĩ vô nghĩa lý, thứ tàn phá và che mờ tinh thần tôi, giờ đây tôi không còn quy chúng cho những giấc mơ về thiện nguyện và về tàn phá, cho nỗi ám ảnh của sự thuần khiết nào tôi cũng chẳng biết nữa, mà cho một nỗi buồn thú vật, nó, bị che giấu dưới cái mặt nạ của cuồng say, bày ra nhằm làm hại tôi và tuy thế tôi lại là đồng lõa, hết sức vui sướng vì không phải, giống biết bao nhiêu người khác, chọn giữa cái nhạt nhẽo và cái tàn khốc. Vì cái tàn khốc đã được giao phó cho tôi, tôi còn có thể ham muốn gì hơn đây? Tôi từng có một tâm hồn của chó sói, và sự hung dữ của tôi, được nuôi dưỡng bởi chính nó, làm tôi sung sướng, phỉnh nịnh tôi: nhìn chung tôi từng là kẻ hóa sói sung sướng nhất. Vinh quang, tôi khát khao nó và quay đi khỏi nó bằng cùng chuyển động: một khi đã giành được, nó đáng giá gì đây, tôi từng hay tự nhủ, ngay giây phút nó chỉ ra hiệu về phía chúng ta và áp đặt chúng ta cho những thế hệ hiện tại và tương lai, và nó loại chúng ta khỏi quá khứ? Được gì đây khi nổi tiếng, nếu người ta không nổi tiếng đối với nhà thông thái này hay tên điên kia, đối với cả một Marc Aurèle lẫn một Néron? Chúng ta sẽ chẳng bao giờ tồn tại đối với biết bao nhiêu người trong số các thần tượng của chúng ta, tên của chúng ta sẽ không gây rối loạn cho thế kỷ nào trong số các thế kỷ trước chúng ta; và những người đến sau, bọn họ quan trọng gì? tương lai thì quan trọng gì, cái một nửa thời gian đó, đối với kẻ nào cuồng vĩnh cửu?

Nhờ những tranh cãi nào và làm sao mà tôi thoát đi được khỏi ngần ấy cuồng loạn, tôi sẽ không nói cho anh, vậy thì sẽ quá dài; hẳn sẽ cần cho cái đó một trong những cuộc trò chuyện bất tận mà Balkan nắm được - hay nói đúng hơn, từng nắm được - bí mật. Dẫu các tranh cãi của tôi có từng là như thế nào, thì chúng cũng còn xa mới là nguyên nhân duy nhất cho thay đổi về định hướng của tôi; đã đóng góp vào đó rất nhiều một hiện tượng tự nhiên hơn và gây sầu khổ hơn, tuổi tác, với những triệu chứng không đánh lừa của nó: tôi đã càng ngày càng cho thấy nhiều hơn dấu hiệu của độ lượng, vốn dĩ đấy là những gì thông báo, tôi thấy dường là thế, cho đảo lộn thiết thân nào đó, chứng tật nào đó, chắc hẳn không thể chữa khỏi. Điều đã đẩy các báo động của tôi lên mức tột độ, ấy là tôi không còn sức mà mong muốn cái chết của một kẻ thù nữa; ngược hẳn lại, tôi hiểu anh ta, so sánh sự hằn học nơi anh ta với sự hằn học của tôi: anh ta tồn tại và, nỗi suy sút không tên, tôi thấy sung sướng vì anh ta tồn tại. Những thù hận của tôi, nguồn cho các cơn hứng khởi của tôi, dịu đi, ngày qua ngày mòn mỏi đi và, trong lúc đi xa khỏi, mang theo cùng chúng những gì tốt đẹp hơn cả của chính tôi. Làm gì đây? tôi sẽ trượt về phía vực thẳm nào? tôi từng không ngừng tự hỏi mình. Năng lượng của tôi càng suy giảm, thì xu hướng độ lượng của tôi càng trở nên rõ hơn. Nhất quyết là tôi không còn trẻ nữa: kẻ khác đối với tôi là có thể hình dung và thậm chí thực. Tôi đã nói lời vĩnh biệt Cái duy nhất và thuộc tính của nó [ám chỉ Max Stirner]; sự thông thái cám dỗ tôi: tôi đã xong rồi chăng? Cần phải đã xong rồi thì mới có thể trở thành một người dân chủ thành thực. Trước niềm sung sướng to lớn của tôi, tôi đã nhận thấy rằng trường hợp của tôi không chính xác như vậy, rằng tôi còn lưu giữ các dấu vết của sự cuồng tín, vài vết tích từ tuổi trẻ: tôi không nhân nhượng ở bất kỳ nguyên tắc nào trong số những nguyên tắc của tôi, tôi đã là một người liberal khó xơi. Tôi vẫn như thế. Sự bất tương thích đầy may mắn, sự phi lý, thứ cứu sống tôi. Đôi khi tôi khát khao việc cho thấy ví dụ về một người chừng mực hoàn hảo: cùng lúc tôi tự khen ngợi mình vì đã chẳng thể đến được mức đó, vì tôi e ngại nỗi già lão. Rồi sẽ đến cái lúc nơi, vì không còn e ngại nó nữa, tôi tiến lại gần sự cân nhắc chừng mực lý tưởng kia, mà thỉnh thoảng tôi mơ thấy; và nếu các năm sẽ đưa anh, như tôi hy vọng, đến một đổ dốc giống với sự đổ dốc của tôi, có lẽ, vào quãng cuối thế kỷ, thì hẳn chúng ta sẽ ngồi ở đó, cạnh nhau, tại một nghị viện được làm cho sống lại và, cả hai đều già nua, chúng ta sẽ có thể dự vào ở đó một sự thần tiên miên viễn. Người ta chỉ trở nên độ lượng trong chừng mực người ta đánh mất đi sức mạnh của mình, trong chừng mực người ta rơi vào tuổi thơ theo lối đáng mến, trong chừng mực người ta quá mệt mỏi thành thử không hành hạ nổi người khác bằng tình yêu hoặc lòng căm hận.

Như anh cũng thấy đấy, tôi có những cái nhìn "rộng" về mọi thứ. Chúng rộng tận đến nỗi tôi chẳng biết mình đang ở chỗ nào trong tương quan với bất kỳ vấn đề nào. Anh sẽ tự đánh giá điều đó. Vậy nên trước câu hỏi mà anh đặt cho tôi: "Anh có vẫn ở hoài trong các định kiến của anh chống lại người hàng xóm bé nhỏ phía Tây của chúng ta, anh có còn nuôi dưỡng về phía nó cùng các mối ác cảm hay không?" tôi không biết phải đáp lại anh thế nào; nhiều nhất thì tôi cũng chỉ có thể làm anh ngạc nhiên hoặc khiến anh thất vọng. Đấy là vì, anh thấy không, chúng ta không có cùng kinh nghiệm về Hungary.

Vốn sinh ra ở bên kia dãy Carpate, anh đã không thể biết tên sen đầm Hungary, nỗi kinh hãi trong tuổi thơ Transylvania của tôi. Những lúc nào nhìn thấy một tên từ xa, tôi liền hoảng sợ và lủi trốn ngay: đấy là kẻ ngoại quốc, kẻ thù; căm ghét, đó là căm ghét hắn. Do hắn, tôi thấy gớm tất tật những người Hungary với một dục vọng Magyar đúng nghĩa. Đấy là để nói với anh xem họ có từng hấp dẫn tôi hay chăng. Sau đó, vì các hoàn cảnh thay đổi, tôi đã không còn lý do nào để trách họ nữa. Dẫu vậy thì vẫn không kém phần đúng, chuyện suốt một thời gian dài tôi đã không thể tưởng tượng ra một kẻ áp bức mà không gợi lên các tì vết cùng uy thế của họ. Ai nổi loạn, ai nổi dậy? Hiếm khi là kẻ nô lệ, mà gần như lúc nào cũng là kẻ áp bức đã trở thành nô lệ. Những người Hungary biết sự bạo chúa rất rõ, vì từng thực thi chúng với một năng lực vô song: các sắc tộc thiểu số của Quân chủ cũ hẳn có thể làm chứng cho điều này. Vì họ từng biết, trong quá khứ của mình, đóng vai ông chủ giỏi đến vậy, họ từng, vào thời của chúng ta, ít sẵn sàng hơn so với bất kỳ quốc gia Trung Âu nào khác trong việc chịu đựng sự nô lệ; nếu họ từng có sở thích chỉ huy, thì làm sao mà họ lại không có sở thích tự do? Thấm đẫm truyền thống những kẻ đi hạnh hạ người khác của mình, rất rành rẽ cơ chế bắt phục tùng và bất độ lượng, họ đã nổi lên chống lại một chế độ chẳng phải là không giống với chế độ mà chính họ từng mang tới cho các dân tộc khác. Nhưng chúng ta, bạn yêu quý, vì cho đến giờ đã không có cơ may được là những kẻ áp bức, chúng ta đã không thể có cơ may được là những người nổi loạn. Bị tước mất niềm hạnh phúc nhân đôi ấy, chúng ta mang xiềng xích của mình theo lối đúng đắn, và hẳn tôi sẽ miễn cưỡng mà chối các đức hạnh nơi sự kín đáo của chúng ta, sự cao quý trong thói phục tùng của chúng ta, tuy nhiên vẫn công nhận rằng các quá đà ở sự khiêm tốn của chúng ta đẩy chúng ta về phía những cực điểm đáng lo lắng; ngần ấy sự thông thái vượt quá các giới hạn; nó vô chừng mực đến mức chẳng phải đôi khi không làm cho tôi nản chí. Tôi ghen tị, tôi xin thú nhận với anh, sự cao ngạo của các hàng xóm chúng ta, tôi ghen tị cho đến cả ngôn ngữ của họ, quả là rất dữ dằn, có một vẻ đẹp không gợn chút con người nào, với các âm điệu của một vũ trụ khác, hùng mạnh và nhiều sức xói mòn, rất hợp với cầu nguyện, với những gầm rú cùng khóc lóc, vọt lên từ địa ngục nhằm kéo dài mãi âm sắc và độ chói của nó. Dẫu ở thứ tiếng đó tôi chỉ biết toàn các lời chửi rủa, tôi thích nó vô cùng tận, tôi không mệt mỏi khi nghe nó, nó làm tôi phấn khởi và làm tôi trở nên lạnh giá, tôi quy phục trước sự quyến rũ cũng nỗi kinh hoàng của nó, trước tất tật những từ thuộc tiên tửu và cyanure kia, hết sức thích ứng cho các đòi hỏi của một cơn hấp hối. Hẳn người ta phải trăng trối bằng tiếng Hung - bằng không thì từ chối chết quách cho xong.

Nhất quyết, càng lúc tôi càng bớt căm ghét những ông chủ cũ của tôi. Nghĩ cho thật kỹ về điều này, vào chính quãng rực rỡ của họ, họ từng lúc nào cũng đơn độc ở giữa châu Âu, bị cô lập trong niềm kiêu hãnh của họ cùng các bí mật của họ, chẳng hề có giao hảo sâu sắc nào với những quốc gia khác. Sau vài cú đột nhập sang phương Tây, nơi họ đã có thể bày ra và tiêu tốn sự man rợ ban đầu của mình, họ đổ dồn, ở tư cách các nhà chinh phục đã thoái hóa thành những kẻ ru rú một chỗ, về các bờ của sông Danube để hát, than thở ở đó, để bào mòn các bản năng của họ ở đó. Nơi những người Hun tinh xảo kia có một nỗi sầu muộn được tạo ra từ sự tàn nhẫn ẩn ngầm, mà người ta sẽ không tìm được tương đương tại chỗ khác: hẳn có thể nói đấy là máu khởi sự mơ về chính nó. Và nó, sau rốt, hẳn được hòa tan thành giai điệu. Vốn dĩ gần với yếu tính của họ, dẫu bị xâm phạm và thậm chí bị đánh dấu bởi văn minh, có ý thức là mình thuộc dòng giống của một đoàn người vô tiền khoáng hậu, đậm dấu ấn của một sự phô trương vừa sâu sắc lại vừa nhiều tính cách kịch, thứ trao cho họ một dáng dấp lãng mạn thì nhiều hơn bi kịch, họ đã không thể sai trệch trước sứ mệnh được giao cho họ ở thế giới hiện đại: chuộc lại tên tuổi của sô vanh luận, đưa vào đó đủ hào nhoáng và định mệnh nhằm biến nó trở nên pittoresque trong mắt người quan sát sáng suốt. Tôi lại càng có nhiều khuynh hướng công nhận công lao của họ hơn vì chính nhờ họ mà tôi đã được trải qua nỗi nhục tồi tệ nhất: nỗi nhục sinh ra là nông nô, cũng như "các đau đớn của nỗi xấu hổ" kia, những thứ khó chịu đựng hơn cả trong số mọi đau đớn, theo lời một luân lý gia [La Rochefoucauld]. Chẳng phải chính anh cũng từng cảm thấy nhục cảm mà người ta hút được trong nỗ lực khách quan tính đối với những kẻ từng xô đẩy, la ó, ngược đãi anh, nhất là khi người ta bí mật chia sẻ những thói tật cùng những bần cùng của bọn họ? Đừng từ đây suy ra rằng tôi mong muốn được thăng lên hạng Magyar. Rất xa khỏi tôi một sự tự phụ như vậy: tôi biết các giới hạn của mình và tôi muốn trụ lại trong đó. Mặt khác, tôi cũng biết những giới hạn nơi người hàng xóm của chúng ta, và chỉ cần niềm hào hứng của tôi dành cho nó giảm đi, dẫu chỉ một mức thôi, thì tôi đã không còn rút được sự phù phiếm nào từ vinh dự mà nó tạo cho tôi trong lúc hành hạ tôi nữa.

Các dân tộc, còn hơn nhiều so với các cá nhân, truyền cho chúng ta những cảm giác mâu thuẫn; người ta yêu chúng và người ta ghét chúng cùng lúc; là những đối tượng cho gắn kết và cho ác cảm, chúng không xứng với việc người ta nuôi dưỡng cho chúng một dục vọng vô chừng. Sự thiên ái của anh đối với các dân tộc của phương Tây mà anh không thấy được rõ những khiếm khuyết, là hiệu ứng của khoảng cách: sai lầm quang học hoặc hoài nhớ cải bất khả xâm nhập. Anh không phân biệt được nhiều hơn các lỗ hổng của xã hội bourgeois, thậm chí tôi còn ngờ anh có thích thú nào đó với nó. Việc từ xa anh có về nó một viễn kiến lấp lánh, điều này là không thể tự nhiên hơn; vì tôi biết nó từ thật gần, nghĩa vụ của tôi là chiến đấu chống lại những ảo tưởng mà anh có thể có về nó. Hoàn toàn không phải tôi tuyệt đối không thích nó - anh biết tôi hay yếu lòng với cái khủng khiếp - nhưng sự tiêu tốn vô cảm mà nó đòi hỏi nhằm được chịu đựng nằm ngoài tỉ lệ với các nguồn vô sỉ của tôi. Sẽ là nói quá ít nếu bảo ở đây đầy rẫy các bất công: nó là, thật vậy, tinh chất của bất công. Chỉ đám lười nhác, bọn ký sinh trùng, lũ chuyên gia về đê tiện, những tên khốn nhỏ và lớn mới tận dụng được các tài sản mà nó bày ra đó, sự sung túc mà nó lấy làm kiêu ngạo: những khoái lạc cùng các dồi dào của bề mặt. Bên dưới sự lấp lánh mà nó trưng ra được che giấu một thế giới của các sầu khổ mà tôi sẽ miễn cho anh những chi tiết. Nếu không có sự can thiệp của một phép mầu, thì làm sao mà giải thích được việc nó không tan ra thành bụi dưới mắt chúng ta, hay việc người ta không làm nó nổ tung ngay tức khắc?

"Xã hội của chúng ta chẳng đáng giá hơn là mất. Ngược hẳn lại là đẳng khác", anh sẽ phản đối tôi. Tôi chấp nhận điều này. Quả thật vấn đề chính yếu nằm ở đấy. Chúng ta đang đối mặt với hai típ xã hội không thể dung thứ nổi. Và điều trầm trọng nằm ở chỗ các lạm dụng ở xã hội của anh cho phép xã hội này cứ tiếp tục trong những lạm dụng của nó, và đặt, theo lối khá là hiệu quả, những kinh hoàng của nó đối lập với các kinh hoàng mà người ta chăm bón ở chỗ anh. Lời trách chính yếu mà người ta có thể hướng vào chế độ của anh là đã làm suy sụp phi lai, nguyên tắc đổi mới của các thiết chế và các dân tộc. Giới bourgeois đã hiểu lựa chọn mà nó có thể rút ra chống lại những đối thủ của statu quo; "phép mầu", thứ cứu nó, thứ giúp nó tránh được một sự phá hủy tức thì, chính là thất bại của phía bên kia, cảnh tượng một ý lớn bị méo mó đi, nỗi thất vọng đã nảy sinh từ đó và thứ, chiếm đoạt các tinh thần, sẽ làm chúng tê liệt. Nỗi thất vọng thực sự tuyệt vọng, chỗ dựa trời cho đối với người bourgeois, kẻ sống nhờ đó và trích xuất từ đó lý lẽ cho sự an ninh của anh ta. Những đám đông không rùng lên nếu chúng chỉ phải chọn giữa các tệ hại hiện tại và các tệ hại sẽ tới; nhẫn nhục trước những tệ hại mà chúng cảm thấy, chúng chẳng hề có lợi ích gì để mà mạo hiểm về phía các tệ hại khác, không được biết nhưng chắc chắn. Các bần cùng có thể dự liệu không kích thích những trí tưởng tượng, và chẳng hề có ví dụ nào về việc một cuộc cách mạng đã nổ ra nhân danh một tương lai u tối hoặc một lời tiên tri cay đắng. Ai mà có thể đoán được, hồi thế kỷ trước, rằng xã hội mới sẽ, do các thói tật cùng những đồi bại của nó, cho phép xã hội cũ được duy trì và thậm chí được gia cố, rằng cái khả dĩ, đã trở thành thực tại, sẽ bay vội đến cứu cái đã qua?

Ở đây cũng như ở kia, tất tật chúng ta đều đang ở vào một điểm chết, đều bị đọa ở mức ngang nhau khỏi sự ngây thơ kia nơi được tạo ra những dồng dài về tương lai. Xét về lâu dài, cuộc sống không có phi lai trở nên không thể thở nổi, ít nhất là đối với số đông: thế giới cần một điên loạn mới, bằng không nó có nguy cơ sẽ hóa đá. Chính đó là chứng cứ duy nhất mà phân tích hiện tại tỏa ra. Trong lúc đợi, hoàn cảnh của chúng tôi, chúng tôi ở đây, không hề kém kỳ khôi. Anh hãy tưởng tượng một xã hội, đầy chật các nghi ngờ, nơi, ngoại trừ vài kẻ lầm lạc, chẳng ai hoàn toàn gia nhập bất kỳ cái gì, nơi, được vô sự với những mê tín và các chắc chắn, tất tật đòi cho mình tự do và không ai tôn trọng hình thức chính quyền bảo vệ nó và hiện thân cho nó. Các lý tưởng không có nội dung, hay, để dùng một từ cũng tạp y hệt, những huyền thoại không có chất. Các anh bị thất vọng sau những lời hứa không được giữ; chúng tôi thì thất vọng vì chỉ đơn giản là không có lời hứa. Ít nhất thì chúng tôi cũng có ý thức về lợi thế trao cho trí năng một chế độ, nó, vào lúc này, để cho trí năng mặc sức được bày ra, mà không bắt phải tuân theo các ngặt nghèo của bất cứ mệnh lệnh nào. Người bourgeois không tin gì hết, đấy là một sự vị; nhưng chính đó, nếu tôi dám nói, là mặt dương tính cho hư vô của anh ta, vì tự do chỉ có thể được biểu lộ trong sự trống rỗng của các niềm tin, trong sự vắng mặt của những châm ngôn, và chỉ ở nơi nào các luật không có nhiều uy quyền hơn so với một giả thuyết. Nếu người ta phản đối tôi, bảo rằng tuy thế người bourgeois có tin vào một thứ, rằng đối với anh ta tiền đóng chức năng của một giáo thuyết, thì tôi sẽ đáp lại rằng giáo thuyết đó, ghê rợn nhất trong số mọi giáo thuyết, lại là, dẫu điều này có thể trông lạ đến đâu, thứ dễ chịu đựng hơn cả cho tinh thần. Chúng tôi tha thứ cho những người khác về sự giàu có của họ nếu, để đổi lại, họ để cho chúng tôi khả năng được chết đói theo cách của chúng tôi. Không, nó không hắc ám đến thế, cái xã hội chẳng quan tâm đến ta này, cái xã hội bỏ rơi chúng tôi, đảm bảo cho ta quyền tấn công nó, mời ta làm điều đó, thậm chí bắt ta làm điều đó vào những giờ lười biếng của nó, nơi nó không có đủ năng lượng để tự gớm tởm chính mình. Cũng thờ ơ, xét đến cùng, trước số phần của nó như trước số phần của ta, nó chẳng hề muốn, dẫu là theo cách nào, giẫm đạp lên những bất hạnh của ta, cả nhằm làm dịu chúng đi lẫn nhằm trầm trọng hóa chúng, và nếu bóc lột ta, thì nó làm điều đó theo cơ chế hoạt động tự động, chẳng hề dự mưu hay độc ác, như vẫn vậy đối với đám thô lậu mệt mỏi và đầy đủ, vốn dĩ bị lây nhiễm bởi sự hoài nghi cũng bằng mức với những nạn nhân của bọn họ. Khác biệt giữa các chế độ không lớn như nó tỏ ra; các anh đơn độc do sức mạnh, còn chúng tôi thì đơn độc mà không có bó buộc nào. Giãn cách có lớn lắm không giữa địa ngục và một thiên đường gây sầu khổ? Tất tật các xã hội đều xấu xa; nhưng có những mức độ, tôi công nhận, và tôi đã chọn xã hội này là vì tôi biết phân biệt giữa các sắc thái của điều tồi tệ nhất.

Tự do, tôi đã nói với anh, đòi hỏi, để biểu lộ được, sự trống rỗng; nó đòi hỏi cái đó - và quy phục trước cái đó. Điều kiện quy định nó cũng lại chính là điều kiện hủy bỏ nó đi. Nó thiếu nền: càng đầy đủ, nó sẽ càng trở nên giả dối hơn, bởi mọi thứ đều đe dọa nó, cho tới cả nguyên tắc từ đó nó thoát ra. Con người vốn dĩ hết sức kém về khoản gánh chịu nó, hay xứng với nó, đến mức ngay những lợi ích mà anh ta nhận được từ đó cũng đè nát anh ta, và rốt cuộc nó sẽ đè nặng lên anh ta đến mức trước các quá đà mà nó khơi lên anh ta thích các quá đà của sự khủng khiếp hơn. Hội vào với những bất tiện này còn là các bất tiện khác: xã hội liberal, bằng cách loại trừ đi "bí ẩn", "tuyệt đối", "trật tự", và vì không còn siêu hình học đúng nghĩa cũng như cảnh sát đúng nghĩa nữa, vứt bỏ cá nhân vào chính anh ta, cùng lúc tách anh ta khỏi những gì mà anh ta là, khỏi các độ sâu riêng của anh ta. Nếu nó thiếu các rễ, nếu về cốt yếu nó hời hợt, thì đấy là vì tự do, vốn dĩ tự thân rất mong manh, không có bất kỳ phương cách nào để tự duy trì và sống sót sau những nguy hiểm đe dọa nó kể cả từ bên ngoài lẫn từ bên trong; hơn nữa, nó chỉ hiện ra do nhận ân sủng từ một chế độ đang kết thúc, vào khoảnh khắc nơi một tầng lớp suy đổ và tan rã: chính các yếu kém của giới quý tộc là thứ từng cho phép, vào thế kỷ 18, người ta dông dài lối tuyệt diệu; chính những yếu kém của giới bourgeois là thứ ngày hôm nay cho phép chúng ta lao thân vào các trò vui của chúng ta. Các tự do chỉ rộ lên được trong một cơ thể xã hội bị ốm: sự độ lượng và sự bất lực là những từ đồng nghĩa. Điều này là rõ ràng trong chính trị, cũng như ở mọi điều. Khi tôi thoáng trông thấy sự thật này, mặt đất đã chao đi dưới chân tôi. Tận giờ đây, tôi có cố công kêu lên: "Mi thuộc một xã hội của những người tự do", thì niềm kiêu hãnh mà tôi cảm thấy về điều đó vẫn luôn luôn đi kèm với một cảm giác khiếp sợ và đồi bại, thoát thai từ sự chắc chắn khủng khiếp của tôi. Trong dòng thời gian, tự do không chiếm nhiều giây phút hơn so với phấn hứng trong cuộc đời một người thần bí. Nó vuột đi khỏi chúng ta đúng vào lúc chúng ta thử tóm lấy nó và đặt công thức cho nó: chẳng ai có thể tận hưởng nó mà không run lên. Chết người một cách tuyệt vọng, ngay khi được lập dựng nó liền trưng ra sự thiếu tương lai của mình và hùng hục tìm cách, bằng tất tật các sức lực bị đặt mình của nó, thúc đẩy sự phủ nhận cùng sự hấp hối của nó. Chẳng phải là có chút biến thái trong tình yêu của chúng ta dành cho nó? và chẳng phải là thật đáng sợ khi dành một sự thờ phụng cho cái cả không muốn lẫn không thể có thời độ? Đối với anh, vốn không còn nó nữa, nó là mọi thứ; đối với chúng tôi, những người sở hữu nó, nó chỉ là sở hữu, vì chúng tôi biết rằng chúng tôi sẽ đánh mất nó, và rằng, dẫu thế nào đi nữa, nó cũng được làm ra để bị mất đi. Do đó, ở giữa hư vô của mình, chúng tôi quay đầu nhìn mọi phía, mà không vì thế lơ là các khả thể cho cứu rỗi vốn dĩ nằm chính trong chúng tôi. Vả lại trong lịch sử không có hư vô hoàn hảo. Sự vắng mặt khủng khiếp đó, nơi chúng tôi bị dồn vào, mà tôi có niềm sung sướng và nỗi bất hạnh được hé lộ cho anh, hẳn anh sẽ nhầm nếu đặt giả định rằng chẳng gì được họa ra tại đó; tôi thấy rõ được ở đó - dự cảm hay huyễn ảnh? - như là một sự chờ đợi các vị thần khác. Những vị thần nào? Hẳn sẽ không ai trả lời được. Điều mà tôi biết, điều mà tất cả mọi người biết, ấy là một hoàn cảnh như hoàn cảnh của chúng tôi không thể chịu đựng được một cách vô chừng mực. Ở nơi thiết thân hơn cả tại ý thức của chúng tôi, một hy vọng đóng đinh câu rút chúng tôi, một nỗi sợ khiến chúng tôi trở nên hào hứng. Trừ phi có một sự nhất trí với cái chết, các quốc gia cũ, dẫu chúng thối rữa đến đâu, hẳn sẽ không thể nào tránh khỏi các thần tượng mới. Giả dụ phương Tây không bị xâm phạm theo lối không thể cứu chữa, nó phải nghĩ lại tất tật những ý mà người ta đã ăn trộm của nó, mà người ta đã áp dụng, vừa làm thế vừa làm giả chúng, ở chỗ khác: tôi muốn nói là nó sẽ lại cần, nếu muốn còn trở nên xuất chúng bằng một nhảy dựng hay một vết tích của danh dự, lấy về các phi lai mà, do nhu cầu tiện nghi, nó đã bỏ mặc cho những kẻ khác, bằng cách ấy thả rơi đi mất thiên tài của nó và sứ mệnh của nó. Trong khi lẽ ra nghĩa vụ của nó đã phải là đưa chủ nghĩa cộng sản vào thực hành, điều chỉnh cho hợp với các truyền thống của nó, con người hóa nó, độ do hóa nó, và sau đó đề xuất nó với thế giới, thì nó đã để cho phương Đông có được đặc quyền hiện thực hóa cái không thể hiện thực hóa, và rút được quyền năng cùng thanh thế từ ảo tưởng hiện đại đẹp nhất. Trong trận chiến của các ý luận, nó đã tỏ ra đầy sợ sệt, vô hại; ai ai cũng khen ngợi nó vì thế, trong khi lẽ ra cần phải chê trách, bởi, vào thời của chúng ta, người ta gần như không xâm nhập được bá quyền nếu không có trợ sức của các nguyên tắc dối trá thật cao mà những dân tộc nhiều nam tính dùng nhằm giấu đi các bản năng cùng những nhìn ngắm của họ. Đã rời khỏi thực tại để đến với ý, và rời khỏi ý để đến ý luận, con người đã trượt về phía một vũ trụ trôi dạt, về phía một thế giới toàn các phó phẩm, nơi hư cấu giành được những phẩm hạnh của một dữ kiện tiên quyết. Cú trượt này là thành quả của tất tật các nổi loạn cùng tất tật các tà giáo của phương Tây, và tuy nhiên phương Tây từ chối việc rút từ đó các hệ quả cuối: nó đã không thực hiện cuộc cách mạng vốn dĩ được giao cho nó, mà toàn bộ quá khứ của nó đòi, cũng đã không đi tới cùng những đảo lộn mà nó từng là động cơ thúc đẩy. Bằng cách tự tước thừa kế làm lợi cho các kẻ thù của mình, nó mắc phải nguy cơ làm hại mở nút của nó và hụt mất một cơ hội tối hậu. Không vừa lòng với việc đã phản bội tất tật những người tiền triệu kia, tất tật các kẻ phân ly đã chuẩn bị và tạo hình cho nó, kể từ Luther cho tới Marx, nó vẫn tưởng tượng rằng người ta sẽ đến, từ bên ngoài, để tiến hành cuộc cách mạng của nó và người ta sẽ mang về lại cho nó các phi lai cùng các giấc mơ của nó. Rốt cuộc nó có hiểu được là sẽ chỉ có số phận chính trị và một vai để diễn nếu nó tìm lại được ở chính nó những giấc mơ cũ của nó và những phi lai cũ của nó, cũng như các dối trá của lòng kiêu ngạo cũ của nó? Vào lúc này, chính các đối thủ của nó, đã được cải thành những lý thuyết gia cho nghĩa vụ mà nó vùng trốn, mới là những người đang dựng các đế chế của bọn họ trên sự rụt rè và sự mệt mỏi của nó. Lời nguyền nào đã giáng xuống nó để mà ở cuối đà bật của mình nó chỉ tạo ra được các doanh nhân kia, những chủ hiệu thực phẩm kia, những kẻ mưu mô kia với các ánh mắt xuẩn độn cùng các nụ cười què quặt, mà người ta gặp khắp nơi, ở Ý cũng như ở Pháp, và Anh và thậm chí ở Đức? Có phải là để đến với thứ sâu bọ này mà đã phải thành tựu một văn minh tinh tế đến vậy, phức tạp đến vậy? Có lẽ đã phải đi qua đó, qua sự gớm tởm, thì mới có thể tưởng tượng được một loại người mới. Ở tư cách người liberal tốt, tôi không muốn đẩy sự phẫn nộ tận tới chỗ của bất độ lượng cũng như để cho mình bị cuốn đi bởi các tâm trạng của tôi, dẫu thật êm dịu, đối với tất tật chúng ta, việc có thể vi phạm các nguyên tắc cứ đòi sự hào phóng của chúng ta. Rất đơn giản, tôi đã chỉ muốn nêu nhận xét với anh rằng thế giới này, chẳng hề tuyệt vời, hẳn cách nào đó có thể trở nên tuyệt vời, nếu nó nhất trí với việc không phải tự phá bỏ mình (nó quá mức có khuynh hướng ấy), mà với việc thanh lý những thứ rác của nó, tự áp đặt cho mình các công việc bất khả, đối lập lại với cái lương tri gớm ghiếc kia, thứ làm nó biến dạng và làm nó tiêu đời.

Những tình cảm mà nó truyền cho tôi không kém hỗn độn hơn so với các tình cảm tôi có đối với đất nước tôi, đối với Hungary, hoặc đối với người hàng xóm lớn của chúng ta [Nga, hay nói đúng hơn, Liên Xô], mà anh có nhiều năng lực hơn tôi trong việc coi trọng sự cận kề thiếu kín đáo. Cái tốt và cái xấu vô chừng mực mà tôi xin bỏ qua, các ấn tượng mà nó gợi ý cho tôi chừng tôi suy nghĩ về số phận của nó, làm sao nói được những cái đó mà không rơi vào nỗi khó tin đây? Tôi chẳng mấy có ý định khiến anh thay đổi ý kiến về nó, tôi chỉ muốn anh biết những gì nó trình hiện đối với tôi và đâu là chỗ nó chiếm giữ trong các nỗi ám ảnh của tôi. Càng nghĩ đến nó, tôi càng thấy rằng nó đã được tạo nên, xuyên qua những thế kỷ, không phải như một quốc gia được tạo ra, mà là một vũ trụ, vì các khoảnh khắc trong tiến hóa của nó dự phần vào lịch sử thì ít hơn vào một vũ trụ luận u tối, đáng khiếp sợ. Những Sa hoàng có dáng dấp thần linh lắm tì vết kia, các người khổng lồ được tính thánh và tội ác mời gọi, sụp mình xuống trong lời cầu nguyện và nỗi khiếp hãi, bọn họ từng, giống những bạo chúa gần đây, đã thay thế họ cũng thế, gần với một lực sống thuộc địa chất hơn là với chứng thiếu máu của con người, đám bạo chúa tiếp diễn vào thời của chúng ta nhựa sống cùng sự băng hại cội nguồn, và chiếm thế thượng phong đối với tất tật chúng ta bởi các kho chứa sự hỗn loạn không thể vét cạn của bọn họ. Dẫu có đeo vương miện hay không, từng là quan trọng với họ, vẫn là quan trọng với họ, cái việc thực hiện một cú nhảy phía bên trên văn minh, việc nuốt chửng nó nếu cần; thao tác đó đã được ghi vào bản tính của họ, bởi vì từ đời nảo đời nào họ phải chịu cùng một nỗi ám: mở rộng quyền lực tuyệt đối của mình lên các giấc mơ của chúng ta và những nổi loạn của chúng ta, tạo dựng một đế chế cũng rộng như các nỗi thất vọng hay các nỗi khiếp sợ của chúng ta. Một quốc gia như thế, được đòi hỏi cả trong những ý nghĩ của nó lẫn trong các thể động của nó bởi những ranh giới của địa cầu, không được đo lường bằng những thước đo thông dụng, cũng không được giải thích bằng những lời lẽ thông thường, bằng ngôn ngữ khả tri: cho việc này hẳn cần thứ biệt ngữ của những người ngộ đạo, được làm phong phú thêm bởi biệt ngữ của sự tê liệt chung. Chắc hẳn nó, như Rilke đảm bảo với chúng ta, chung biên giới với Chúa; thật không may nó cũng có chung biên giới với đất nước của chúng ta, vã sẽ vẫn vậy, trong một tương lai ít nhiều gần, với nhiều nước khác, tôi không dám nói là với tất tật, mặc cho những cảnh báo cụ thể mà một sự chẩn bệnh ma mãnh hạ lệnh cho tôi. Dẫu chúng ta có ở đâu đi chăng nữa, nó vẫn cứ đã chạm vào chúng ta, nếu không phải về mặt địa dư, thì chắc chắn cũng là ở bên trong. Tôi sẵn lòng hơn bất kỳ ai với việc công nhận những món nợ của tôi về phía nó: nếu không có các nhà văn của nó, có bao giờ tôi thức nhận được về những vết thương của tôi và về nghĩa vụ của tôi, những thứ bắt tôi phải lao thân vào, hay chăng? nếu không có nó và không có họ, chẳng phải hẳn tôi sẽ lãng phí những cơn ảo của mình, hụt mất nỗi hoảng hốt của tôi? Xu hướng đó, thứ dẫn tôi đến chỗ phát ra một đánh giá bất thiên ái về nó và đến chỗ tỏ với nó lòng biết ơn của tôi, tôi rất e ngại cái đó, vào thời điểm này, không phải là sở thích của anh. Thế nên tôi bóp nghẹt đi các ngợi ca trái mùa, tôi bóp nghẹt chúng đi bên trong tôi nhằm kết án chúng phải bừng nở tại đó.

Vào cái thời chúng ta thích thú dựng bảng kiểm kê các nhất trí và bất đồng của mình, anh từng đã trách tôi vì cái thói của tôi, cứ đánh giá chẳng chút dè chừng cả những gì tôi yêu quý lẫn những gì tôi ghê tởm, vì chỉ cảm thấy toàn những tình cảm đúp, nhất thiết sai, mà anh quy kết cho sự thiếu năng lực ở tôi trong việc cảm thấy một đam mê đúng nghĩa, mà vẫn nhấn mạnh vào các sung sướng mà tôi rút được từ đó. Chẩn đoán của anh đã không thiếu chính xác; tuy nhiên anh đã nhầm về khoản các sung sướng. Anh có nghĩ là thật dễ chịu khi sùng mộ và là nạn nhân của thuận và chống, một kẻ hứng lên bị giằng xé giữa những hứng khởi của hắn, một kẻ điên loạn ưu tư về sự khách quan? Cái đó không thể thiếu các đau đớn: những bản năng phản đối và chính là dẫu không hề muốn và chống lại chúng mà người ta dần tiến về phía sự thiếu cả quyết tuyệt đối, trạng thái gần như không phân biệt nổi với trạng thái mà ngôn ngữ của những người lên đồng gọi là "điểm cuối của sự hư vô hóa". Để chính tôi biết được đáy suy nghĩ của tôi về điều nhỏ nhất nào, để phát biểu được không chỉ về một vấn đề mà cả về một điều rất vớ vẩn, tôi phải nói ngược lại thói tật chính của tinh thần tôi, lại khuynh hướng cưới lấy tất tật các lý tưởng và cùng lúc tách mình khỏi đó, như một con virus toàn hiện, bị giật tung giữa thói hám và nỗi ngấy, cái kẻ xấu xa và lành tính, cũng sốt ruột ngang mức với uể oải, thiếu quyết định giữa các thảm họa, không chút khéo léo nào trong việc chọn lấy một trong số đó và tự biến mình thành chuyên gia ở đó, chuyển từ cái này sang cái kia mà không có cả kỳ thị lẫn tính hiệu quả, kẻ ẩu tả ngoại hạng, kẻ mang và phá hỏng cái không thể chữa khỏi, kẻ phản bội lại tất tật những tệ hại, những tệ hại của kẻ khác cũng như những tệ hại của mình.

Không bao giờ có dịp được chọn vị thế, quyết định cũng như tự định nghĩa, không có mong muốn nào mà tôi nói ra thường xuyên hơn. Nhưng không phải lúc nào chúng ta cũng chế nghị được các tâm trạng của chúng ta, những thái độ ở dạng mầm ấy, những phác thảo của lý thuyết ấy. Về gan ruột có xu hướng về phía dựng ra các hệ thống, chúng ta cứ không ngưng nghỉ xây dựng chúng, đặc biệt là trong chính trị, cái lĩnh vực của những giả-vấn đề, nơi phồng tướng lên triết gia tệ vốn dĩ trú ngụ nơi mỗi người chúng ta, cái địa hạt mà tôi những muốn rời xa, vì một lý do tầm thường, một sự hiển nhiên trong mắt tôi tự vươn lên hàng của khải ngộ: chính trị chỉ chăm chăm quay quanh con người. Đã đánh mất sở thích đối với các con người, tuy vậy tôi vẫn cố công trong vô vọng đoạt lấy sở thích với các vật; tự buộc mình ở vào quãng cách phân tách chúng, tôi tập luyện và làm mình bị kiệt sức trên bóng của chúng. Những cái bóng cũng giống các quốc gia kia mà số phần khiến tôi thấy tò mò, ít vì chính chúng hơn so với vì cái cớ mà chúng mang lại cho tôi để trả thù lên những gì không có cả công tua lẫn hình thức, lên các thực thể cùng các biểu tượng. Cái con người không có mối bận tâm nào, vốn dĩ thích bạo lực, cứu lấy sự biết sống của mình bằng cách tự giam hãm vào trong một địa ngục trừu tượng. Để mặc cá nhân lại, hắn vượt qua những cái tên cùng những khuôn mặt, tấn công vào cái thiếu cụ thể, nhìn chung và, hướng về phía sự không thể sờ nắn cơn khát các hủy diệt của mình, hình dung ra một thể loại mới: pamphlet không đối tượng.

Bíu chặt vào các mẩu nhỏ của ý cùng những vật giả của giấc mơ, đến với suy tư do tai nạn hay do hysteria, chứ chẳng hề vì ưu tư về sự nghiêm ngặt, tôi hiện ra, giữa những người văn minh, như một kẻ đột nhập, một tên mọi troglodyte say cuồng tàn tạ, chìm đắm vào những lời cầu nguyện có tính cách lật đổ, rơi vào một nỗi hoảng sợ không tỏa ra từ một viễn kiến về thế giới, mà từ những quặn thắt của da thịt và từ bóng tối của máu. Vốn dĩ trơ ra với các mời gọi của sự sáng sủa và sự lây nhiễm Latin, tôi cảm thấy châu Á dịch chuyển trong các tĩnh mạch của mình: tôi có phải là hậu duệ của tộc người nào đó không thể thú nhận hay không, hay là kẻ cất lời của một dòng giống xưa kia náo động, ngày nay im tịt? Tôi thường bị cám dỗ tự chế cho mình một phả hệ khác, thay đổi tổ tiên, chọn lấy các tổ tiên cho mình giữa những người, vào thời của họ, đã biết cách làm lan tràn tang tóc xuyên qua các quốc gia, trái ngược với tổ tiên của tôi, những tổ tiên của chúng ta, bị lu mờ và nẫu nuột, tọng đầy các nỗi khốn cùng, trộn lẫn vào với bùn và rên rỉ dưới sự phạt vạ tuyệt thông của các thế kỷ. Đúng, trong các cơn khoa trương của mình, tôi nghiêng về chỗ nghĩ mình là kẻ kế nghiệp của một đoàn người xuất chúng nhờ những phá phách, một du mục Turan xét về tấm lòng, truyền nhân hợp thức của thảo nguyên, người Mông Cổ cuối cùng...

Tôi không muốn kết thúc mà chưa hối thúc anh, thêm một lần nữa, đề phòng chống lại lòng hào hứng hoặc sự ghen mà những "cơ may" của tôi truyền cho anh, và cụ thể hơn là cơ may là có thể ưỡn ẹo tại một thành phố mà kỷ niệm chắc hẳn ám lấy anh, mặc cho sự bắt rễ của anh vào tổ quốc đã bốc hơi mất của chúng ta. Thành phố này, mà hẳn tôi sẽ không đổi lấy bất kỳ thành phố nào khác trên cõi đời, cũng chính vì lý do đó mà là nguồn cho các bất hạnh của tôi. Vì trong mắt tôi toàn bộ những gì không phải là nó đều đáng giá, thường xảy tới với tôi chuyện thấy tiếc vì chiến tranh đã tránh nó đi, vì nó đã không gục đổ, như biết bao thành phố khác. Nếu bị phá đi, hẳn nó đã tước đi khỏi tôi niềm hạnh phúc được sống ở đó, hẳn tôi đã có thể trải qua các ngày của mình ở chỗ khác, tận đáy sâu của bất cứ châu lục nào. Tôi sẽ không bao giờ tha thứ cho nó vì đã nối tôi vào không gian, cũng như vì đã trở thành, do nó, kẻ thuộc về đâu đó. Nói vậy thôi, tôi không quên vào bất kỳ giây phút nào rằng cư dân của nó, bốn phần năm trong số ấy, Chamfort từng ghi nhận, "chết vì buồn khổ". Tôi sẽ còn nói thêm, vì muốn tốt cho anh thôi, rằng phần còn lại, những kẻ hiếm hoi được nhận đặc quyền trong đó có tôi, cũng chẳng rộn lên theo cách nào khác đâu, và thậm chí bọn họ còn ghen tị với đa số kia cái lợi thế mà nó có trong việc biết mình chết vì cái gì.

Paris 1957

Cao Việt Dũng dịch

 

Sức mạnh của sự vắng

Vui

Tập ngưỡng mộ: Cioran, Beckett, Borges

Cioran: Bất tiện (VIII)

Cioran: Bất tiện

favorites
Thêm vào giỏ hàng thành công