Chesterton: Tại sao tôi là người Công giáo? (tiếp nữa)
4. Lô-gích và Tennis
Khi ta nói rằng ta hoài nghi về sự tiến bộ mà Kháng Cách, Chủ nghĩa duy lý và thế giới hiện đại mang lại trên mặt trận tư tưởng, thường nảy sinh một cuộc tranh luận rối rắm - một kiểu bòng bong cơ man là thuật ngữ. Nhưng nhìn rộng ra toàn cảnh, sự khác biệt giữa ta và những kẻ chỉ trích ta là thế này: họ coi phát triển là khiến rối ren càng thêm chồng chất, còn chúng ta lại coi tư duy là làm sao cho mớ rối ren ấy được tháo gỡ. Đối với chúng ta, một sợi dây ngắn, đơn giản, thẳng thớm và không vướng víu vào nhau còn đáng giá hơn cả rừng rậm rắm rối. Việc người ta bàn luận thêm nhiều đề tài, dùng thêm nhiều thuật ngữ hay viện dẫn thêm sách vở và quyền hành – tất cả đều vô nghĩa nếu dùng sai chữ, hiểu sai đề, trích dẫn bừa bãi mà không có suy xét, để rồi cuối cùng dẫn đến kết quả lầm lạc. Khi một bác nông dân đơn giản bảo, “Tôi đang có năm con lợn, nếu giết một thì còn bốn,” suy nghĩ ấy tuy thô sơ nhưng rõ ràng và chính xác chẳng kém gì các định đề của Aristotle hay Euclid. Nhưng giả sử bác ấy đọc được chữ mất chữ còn một tờ báo hoặc sách giáo khoa phổ thông, rồi bày đặt gọi một con lợn là “Đất,” một con khác là “Vốn,” và con thứ ba là “Xuất Khẩu,” để rồi cuối cùng kết luận rằng giết càng nhiều lợn thì càng giàu có, hoặc mỗi lứa lợn đẻ ra sẽ làm giảm tổng số lợn. Thế là bác ấy đã học thuật ngữ kinh tế chỉ để sa vào nguỵ biện – thứ nguỵ biện vốn dĩ không thể nào xảy ra nếu bác ấy vững tin vào giáo điều thiêng liêng rằng: Lợn là Lợn. Đối với thứ tiến bộ tri thức kiểu ấy, chúng ta chẳng thiết tha gì, nghĩa là, chúng ta thà chọn kẻ bần nông dốt nát còn hơn học giả rởm đời. Nhưng không phải vì ta chuộng dốt nát hơn giáo hoá, trọng mê muội mà khinh khai minh. Chỉ đơn giản là ta cho rằng một chuỗi lô-gích ngắn mà rành rọt còn hơn cả dây xích dài vô tận mà rối như tơ vò. Như thà làm đúng một phép cộng đơn giản còn hơn làm sai một phép chia dài dòng vậy.
Trong nền văn hoá báo chí và tranh luận đương thời, ta rất dễ nhận ra rằng người ta không biết bắt đầu tư duy từ đâu. Tư tưởng của họ không chỉ là thứ vay mượn qua ba, bốn tay, mà còn nhắm ngay khúc ba phần tư của quá trình để xông bổ vào. Họ không biết tư tưởng của mình ở đâu mà ra, không hiểu lời lẽ mình ngụ ý gì. Họ nhảy vào mọi cuộc tranh luận mà chẳng cần biết nó khởi phát từ đâu hay mục đích thực sự là gì. Họ liên tục quy nhận những điều tuyệt đối hiển nhiên, nhưng thứ mà họ xem là hiển nhiên đó, nếu định nghĩa ra cho rõ ràng, sẽ khiến chính họ phải giật mình khi nhận ra chúng chẳng phải chân lý vĩnh hằng gì sất mà chỉ là một mớ ngớ ngẩn. Tư duy kiểu đó in như đống dây rối; càng tư duy càng rối, càng vần vò càng dính chặt. Và đằng sau tất cả, luôn tồn tại một thứ được mặc nhiên công nhận – nhưng thực chất, chính nó lại là điều bị hiểu sai.
Chẳng hạn, khi đọc bài viết của ông Tilden đáng kính, một tay vợt lừng danh, bàn về vấn đề quần vợt Anh, tôi bắt gặp đoạn tuyên bố như sau: “Không có gì có thể cứu vớt quần vợt của nước Anh,” trừ một số cải cách căn bản mà ông trình bày. Theo ông, người Anh có cách nhìn kỳ quặc và phi tự nhiên khi xem tennis là trò chơi, là thứ để làng nhàng hưởng thụ. Ông thừa nhận điều này đến từ tính cách a-ma-tơ trong tất cả mọi lĩnh vực, thứ vốn thuộc về tính cách dân tộc Anh (ông để ý rất khéo). Nhưng chính điều này cản trở việc cứu vớt thứ ông gọi là quần vợt Anh. Ông muốn hoàn thiện nó, hay nói thẳng ra là chuyên nghiệp hoá nó. Đây là đoạn văn điển hình, ngẫu nhiên trên báo chứa đựng quan điểm của một người sắc sảo về lĩnh vực họ am tường. Nhưng dường như ông đã không hiểu điều ông những tưởng đã hiểu. Ông thông thạo chủ đề, nhưng lại không biết mình đang nói gì, vì không có sự nhìn nhận lại những tiền đề mình đã mặc nhiên chấp nhận. Ông không nhận thức được mối quan hệ giữa phương tiện và mục đích, hay giữa tiên đề và hệ quả, trong chính triết lý của mình. Và có lẽ không ai ngạc nhiên - thậm chí phẫn nộ chính đáng – hơn ông, nếu tôi giải phẫu nguyên lý nền tảng trong triết lý của ông thành chuỗi lập luận sau: (1) Tồn tại một Đấng Tối Cao và Thần Thánh tên là Ngài Quần Vợt. (2) Loài người sinh ra chỉ để phụng sự và tôn vinh Ngài Quần Vợt, phải luôn hướng tới sự hoàn mỹ của Ngài và tuân phục ý Ngài. (3) Để làm tròn bổn phận cao cả ấy, con người phải từ bỏ mọi ham muốn hưởng lạc trần gian. (4) Họ phải đặt lòng trung thành với Đấng lên trên hết – phải yêu nó cuồng nhiệt hơn cả truyền thống ái quốc, hơn cả sự nghiệp bảo tồn bản sắc và văn hoá đất nước, thậm chí hy sinh cả những đức tin cao quý nhất của dân tộc. Đó chính là thứ tín điều hay hệ thống giáo lý được triển khai nhưng chẳng bao giờ được định nghĩa rành rẽ. Cách duy nhất để cứu môn quần vợt là tước đoạt bản chất của nó, không cho nó là một trò chơi nữa. Cách duy nhất để cứu nền quần vợt Anh là gột bỏ hết tính chất Anh của nó. Những kẻ thông tuệ ấy chẳng bao giờ nghĩ được rằng có những người yêu thích quần vợt chính vì nó mang đậm dấu ấn Anh, hay đơn giản vì nó đem lại niềm vui. Những kẻ thông tuệ ấy tôn thờ một tiêu chuẩn thần thánh trừu tượng nào đó, buộc mọi người phải đạt tới đó bằng mọi giá, kể cả hy sinh mọi thú vui hay tình cảm. Khi các Kitô hữu nói về sự hy sinh vì Chúa, nghe chuyện ấy còn nghiêm. Chứ nghe các tay vợt đòi hỏi sự hy sinh vì môn tennis, giữa mớ lập luận hiện đại đầy rối như hẹ, điều ấy nghe thật bình thường và tầm thường. Và chẳng ai nhận ra rằng một kiểu hiến sinh người đang được dâng lên một vị thần mới không tên.
Vào những ngày huy hoàng của chủ nghĩa duy lý Victoria, người ta thường quen thói chế giễu St. Thomas Aquinas và các nhà thần học trung cổ – đặc biệt bằng cách lặp đi lặp lại câu chuyện cũ rích về một kẻ cứ tranh luẫn mãi chuyện bao nhiêu thiên thần có thể nhảy múa trên đầu mũi kim. Những người Victoria, an nhàn với tiền bạc và nền thương nghiệp của họ, có lẽ đáng ra phải tự cảm nhận đầu kim sắc bén hơn trên cùng một cây kim ấy – dù cho họ có dùng đầu nào của nó đi chăng nữa[1]. Họ không nên đè đầu đống rơm siêu hình học trung cổ ra mà tìm cây kim ấy, họ nên tìm nó trong chiếc hộp đồ nghề xinh xẻo của cuốn Kinh Thánh khổ bỏ túi mà họ yêu thích. Đáng lẽ họ không nên suy ngẫm về việc bao nhiêu thiên thần có thể đứng trên đầu kim, mà nên nghĩ ngợi xem bao nhiêu con lạc đà có thể chui quà lỗ kim thì còn hữu ích hơn. Nhưng có một nhận xét khác về trò giễu cợt kỳ cục này, liên quan mật thiết hơn đến mục đích của chúng ta trong bài luận này. Nếu nhà thần bí trung cổ có tranh luận về thiên thần đứng trên đầu kim, ít nhất họ không lập luận như thể mục đích tồn tại của thiên thần chỉ là để đứng trên đầu kim, như thể Thượng đế tạo ra nào là Thiên thần, Tổng lãnh thiên thần, tất cả Bệ thần, Dũng thần, Quyền thần và Quản thần chỉ để có thứ che đi sự trần trụi khó coi của đầu mũi kim. Ấy thế mà đó chính là cách lập luận của những nhà duy lý hiện đại. Nhà thần bí trung cổ thậm chí còn chẳng nói cây kim tồn tại để làm bệ đứng cho thiên thần. Họ sẽ là những người đầu tiên quả quyết: kim sinh ra để may quần áo cho con người. Bởi các nhà thần bí trung cổ, ẩn sâu trong cách tư duy siêu việt trừu tượng của họ, họ vẫn rất mực quan tâm đến lý do thực sự của vạn vật và sự khác biệt giữa phương tiện và mục đích. Họ muốn biết một thứ thực sự có công dụng gì, ý tưởng này phụ thuộc vào ý tưởng kia ra sao. Và họ thậm chí có thể gợi ý điều mà bao ký giả ngày nay đã quên mất: cái khả năng đầy nghịch lý rằng Tennis được tạo ra vì Con người, chứ không phải Con người sinh ra vì Tennis.
Những nhà hiện đại chủ nghĩa đã làm ra vẻ bất hạnh lắm khi tuyên bố rằng thế giới đương đại không thể dung nhận những phương pháp tam đoạn luận cổ điển của các bậc triết gia kinh viện. Họ đang chủ trương loại bỏ chính công cụ trung cổ mà nền văn minh hiện đại đang khẩn thiết cần đến. Sẽ hữu lý hơn nhiều nếu họ giữ sức đó mà phê phán những điều như: sự phục hưng kiến trúc gothic chỉ là đa mang và vô bổ, phong trào Tiền Raphael trong nghệ thuật chỉ là một đoản kỳ dị biệt, việc lạm dụng từ công hội (guild) cho mọi thể chế xã hội là giả tạo và phù phiếm, chế độ phong kiến của nước Anh, với sự minh bạch trong việc giải nghĩa những định đề và sự thực chất trong việc tháo gỡ vấn đề, chính là điều mà toàn thể xã hội sùng báo chí của chúng ta đang khẩn thiết cần, như một người trúng độc cần thuốc giải. Ở đây, tôi chỉ ngẫu nhiên bốc đại một đoạn trong trăm ngàn thí dụ lướt qua mắt tôi mỗi giờ. Và cũng bởi, như mọi môn thể thao đích thực khác, quần vợt cần được chơi bằng cả đôi tay và khối óc, tôi cho rằng thi thoảng nó cũng cần được bàn luận với trí tuệ ít nhất là ngang bằng với cách người ta chơi nó.
5. Cương Ngạnh như Chính Thống
Tôi vừa được người ta thỉnh cầu giãi bày một điều liên quan tới bản thân tôi mà dường như thiên hạ coi là khác thường lắm. Nó đến với tôi dưới hình hài một mảnh báo cắt ra từ một bài báo Mỹ đầy rẫy những tán tụng, song vẫn lấp ló nhiều hồ nghi, thắc mắc. Theo như tôi hiểu, điều khiến họ sửng sốt chính là việc một con người lại dám bình thường. Tôi thì bình thường theo đúng nghĩa đen của từ này, tức tôi chấp nhận một trật tự: Đấng Tạo Hoá và cuộc Tạo Dựng, sự tri ân mặc nhiên dành cho cuộc Tạo Dựng, coi sự sống và tình yêu như những ân ban thường hằng, coi hôn nhân và tinh thần trượng nghĩa như những quy luật phải lẽ để điều hành các ân ban ấy, cùng muôn truyền thống ngay thẳng khác của giống nòi ta, đức tin ta. Người ta còn lấy làm lạ khi tôi dám cho cỏ có màu xanh lá, dầu có một tay hoạ sỹ người Slovak mới nổi nào đó bôi thành xám, khi tôi dám thấy ánh sáng ban ngày cũng dễ chịu, bất chấp mười ba triết gia người Lithuania ngồi xếp hàng dọc thay phiên nguyền rủa nó; và, trong những vấn đề gai góc hơn, khi tôi thật tình thích thành hôn hơn ly hôn, thích trẻ thơ hơn trò “Kiểm soát Sinh đẻ”. Những quan điểm “quái gở” xưa nay vẫn được phần đông nhân loại chia sẻ, tôi sẽ không bảo vệ từng cái một ở đây. Tôi chỉ đưa ra lời đáp chung cho rõ một lẽ. Sự bênh vực nơi tôi với những tâm tình ấy không phải vì cảm tính uỷ mị. Tôi thừa bắt chước kẻ khác sướt mướt giả tạo, song sau khi đọc những điều tôi viết sắp tới, thách độc giả thử tìm xem có phảng phất chút đa sầu nào chăng. Tôi giữ quan điểm này không phải vì cảm tính, mà vì tính hợp lẽ của nó.
Trái lại, chính những nhà hoài nghi mới là những kẻ cảm tính. Hơn phân nửa cái gọi là nổi loạn cùng những lời khoa trương mình cấp tiến, tiên phong thật ra chỉ đơn thuần là một dạng hợm hĩnh yếu ớt khoác mác tôn thờ Tuổi Trẻ. Không ít người thuộc thế hệ tôi khoái trá tuyên bố mình thuộc phe “Thiếu niên Tiền Tuyến” mà ra sức bênh trước bênh sau, bênh trái bênh ngang từng mốt mới, từng trò quái lạ mới. Lý do tôi không làm như thế cũng chính là lý do tôi không nhuộm tóc hay mặc áo nịt ngực. Nhưng dẫu có phần bớt ti tiện hơn, khẩu hiệu của ngày nay như mọi sự vì tuổi trẻ hay tất cả vì đàn em mai sau, cùng tất cả chúng, xét cho cùng, đều rặt một dạng cảm tính thuần tuý. Ở một chừng mực nào đó, nó là thứ tình cảm hoàn toàn tự nhiên: ai thần trí bình ổn mà lại không thích nhìn tuổi xanh hưởng lạc cuộc sống. Nhưng nếu biến niềm thích ấy thành nguyên tắc, ta lập tức hoá kẻ uỷ mị. Nếu ta thực sự mong muốn “dành hạnh phúc lớn nhất cho phần đông nhất”, hiển nhiên phần đông nhất ấy ở bất kỳ thời điểm xem chừng cũng dễ rơi vào khoảng 25-70 hơn là 17-25. Hy sinh tất cả cho lớp trẻ chẳng khác gì chỉ làm lợi cho bọn giàu: họ sẽ sớm trở thành giai cấp đặc quyền, số còn lại sẽ trôi thẳng về góc tường nô lệ hoặc nịnh thần. Hơn nữa, dù trong hoàn cảnh tồi tệ nhất, giới trẻ vẫn chưa bao giờ thôi nghĩ ra cách để tận hưởng cuộc sống; nên nếu quả thực ta tận tâm muốn an ủi thế giới này, đúng ra ta hãy ra sức mà an ủi bậc lão niên thì khôn ngoan hơn. Đó mới chính là cái tôi gọi là đối diện với sự thật; và tôi vẫn tin vào hầu hết truyền thống kia chính vì chúng phù hợp với sự thật. Tôi có thể nêu thêm vô số ví dụ khác, chẳng hạn như tinh thần trượng phu. Sự trượng phu không phải là cái nhìn lãng mạn, mà là cái nhìn hiện thực về nam giới và nữ giới. Nó hiện thực đến mức những lý do đích thực đằng sau đôi khi khó lòng làm cho giấy trắng mực đen được.
Nếu những kẻ tự xưng tư tưởng gia tự do thật ra là hàng cảm tính, thì phường gọi mình là người tình tự do còn lộ liễu gấp bội. Ta có thể vạch trần chứng bịnh uỷ mị ấy nơi họ chỉ bằng cách nhìn họ cứ một mực phải dùng uyển ngữ luyến láy cho tất thảy. Ngữ cú họ chọn từ nào từ nấy mềm tan, nắn bóp sao cho vừa khít với thị hiếu công luận. Họ nói về tình yêu tự do nhưng thứ họ thực sự nhắm tới, gọi cho đúng, phải gọi dâm dục tự do mới phải. Thế nhưng, đã là những kẻ cảm tính thì họ buộc phải làm bộ làm tịch xum xoe quanh hai chữ tình yêu ấy. Chúng bàn tới bàn lui, phất cờ giương cao khẩu hiệu Kiểm soát Sinh đẻ, trong khi điều họ thực sự muốn là giảm sinh và hoàn toàn chẳng kiểm soát gì ráo. Giá như ta chịu buông thả trong ngôn từ như mức họ buông thả trong kết luận luân lý thì dễ chừng có thể đay nghiến họ thành đúng một nhúm bụi. Và chuyện đạo đức sao, thì chuyện tôn giáo cũng y hệt như vậy. Cái ý tưởng đi đâu cũng nghe rằng khoa học sáng tạo ra thuyết bất khả tri thực chất chỉ là trò xảo ngôn: khi họ phải cứu viện từ tiếng Latin và Hy Lạp thay vì tiếng Anh để che đậy sự dốt nát của mình. Khoa học (science) trong tiếng Latin chỉ tri thức. Thuyết bất khả tri (agnosticism) trong tiếng Hy Lạp mang nghĩa vô tri. Hiển nhiên, tri thức không nhằm đưa chúng ta về vô tri. Chính sự vô tri, chứ không phải tri thức, mới đẻ ra điều huyễn hoặc rằng tự do tư tưởng sẽ làm lung lay hữu thần luận. Chính thế giới thực, cái thế giới ta trông được tỏ tường bằng đôi mắt mình, mới hiển nhiên phô ra một bố trí nơi vạn vật khớp khít cùng nhau. Chỉ có một truyền thuyết mờ ảo và xa xôi mới dám giải thích tất cả bằng lợi thế tự nhiên của kẻ thích nghi. Sự thật là, các nhà tiến hoá đương đại, dù còn xưng mình là môn đệ Darwin, cũng không dám quả quyết thuyết ấy có thể lý giải được mọi hình thái và thể thích ứng. Những kẻ am tường thì ra sức thí chủ nghĩa Darwin để cứu Darwin; còn chính những kẻ không am tường lại sinh ngờ vực hoặc cãi chày cãi cối. Thật lý thú thay, thần thoại của họ lại mang tên Mắt Xích Còn Khuyết[2]: họ tuyệt nhiên chẳng biết gì về lập luận của mình, ngoài việc biết rằng, ở đâu đó, nó đã đứt gãy. Tuy nhiên, ta cũng cần hỏi vì sao truyền thuyết lỏng lẻo ấy lại có được uy lực lớn đến như thế; và tôi xin mạnh dạn đưa ra nhận định của mình. Tôi chưa hề đổi ý, mà họ thực ra cũng chẳng hề đổi ý. Họ chỉ đổi tâm trạng mà thôi.
Thứ ta vẫn hay gọi là giới trí giả thật ra chia thành hai hạng: hạng thờ trí và hạng dụng trí. Vẫn biết đôi khi có ngoại lệ, song nói rộng ra, hai hạng ấy gần như không bao giờ giao nhau. Kẻ dụng trí thì không thờ trí – họ đã biết nó quá rõ rồi. Kẻ thờ trí lại chẳng dụng trí được – điều đó ta có thể thấy khi nghe những điều họ phán về trí. Bởi vậy nên mới nảy sinh lẫn lộn giữa trí thức và chủ nghĩa trí thức, và, trong đỉnh cao của sự lẫn lộn ấy, ở nhiều nước đẻ ra thứ gọi là Giới trí thức, riêng tại Pháp thì gọi là Les Intellectuals. Trên thực tế, đó là những câu lạc bộ, bè phái tụ quần của những kẻ suốt ngày bàn sách vở tranh ảnh – nhưng nhớ phải là sách mới nhất, tranh mới nhất – và bàn âm nhạc, miễn thứ âm nhạc đó phải thật tân kỳ, hoặc thứ âm nhạc một vài người gọi vô âm nhạc. Ta có thể nhận thấy ngay, cái giới ấy là dẫn chứng vô cùng tài tình cho lời Carlyle rằng, thế giới này, đặc biệt thế giới trí thức, đa phần toàn là những kẻ khờ. Quả thực, giới ấy có sức hút kỳ khôi với những kẻ đần độn chính hiệu, hệt như ngọn lửa ấm áp hấp dẫn lũ mèo. Tôi đã không ít lần ghé vào các ổ ấy, với tư cách một kẻ ngu xuẩn bình thường, và hầu như lần nào cũng gặp vài gã ngu đến độ tôi từng tưởng không cá thể nào trong loài người có thể ngu tới mức đó – bọn chúng còn không có đủ não để bị chửi là thối não. Ấy thế mà, họ lại vô cùng khoan khoái khi được đắm mình trong bầu không khí họ những tưởng là không khí tri thức, bởi họ tôn thờ nó như một vị thần lạ. Tôi có thể kể vô số giai thoại về cái thế giới ấy. Tôi vẫn nhớ một lão già râu dài thượt, dường như sống luôn trong một câu lạc bộ kiểu đó. Thi thoảng, lão lại giơ tay ra hiệu im lặng rồi mở lời bằng câu, “Một Tư tưởng.” Và sau đó, lão thốt lên điều gì nghe chẳng khác gì tiếng bò đột nhiên rống lên trong phòng khách. Còn nhớ một lần kia, một người kia, vốn trầm lặng và cam nhẫn (hình như là tiểu thuyết gia Edgar Jepson, bạn tôi), không chịu nổi nữa, nghẹn ngào thốt lên: “Lạy Chúa, ông anh, chẳng lẽ ông anh gọi thứ đó là tư tưởng sao?”. Nhưng đại loại, đó chính là phẩm chất tư tưởng của những nhà tư tưởng kiểu ấy, đặc biệt là bọn tự do tư tưởng.
Từ hoàn cảnh xã hội kia mới lòi ra một thứ ngoại lệ: trí thức đôi khi cũng thực sự đi lạc vào giới trí thức. Đôi khi vẫn có những người tài năng thực sự nhưng lại ngã lòng trước sự nịnh hót, kể cả sự nịnh hót từ lũ ngốc. Họ thà nói điều khiến kẻ dốt cho là thông minh, còn hơn thốt ra sự thật chỉ người thông minh mới hiểu. Oscar Wilde rơi đúng vào chỗ này. Ông ta từng tuyên bố ở đâu đó rằng đàn bà trắc nết là típ đàn bà đàn ông không bao giờ biết chán – một phát ngôn vô căn cứ đến mức vô nghĩa. Ai mà chẳng biết, kể cả có một đội phụ nữ trắc nết thì đàn ông vẫn chán như thường, nhất là khi tự hắn cũng là kẻ trắc nết. Đó là thứ gọi là một Tư tưởng – thứ chỉ được tuyên bố với cánh tay giơ cao trước những kẻ không biết tư duy. Trong đầu óc rối bời của bọn họ, có một mối liên hệ mơ hồ giữa dí dỏm và hoài nghi chủ nghĩa, thế nên họ chẳng bao giờ hoan nghênh Wilde nhiệt liệt cho bằng những lúc ông ta hoài nghi chẳng chút dí dỏm. Nhưng khi Wilde nói, “Kẻ hoài nghi biết giá cả mọi thứ mà chẳng biết giá trị của thứ gì,” ông ta đã đưa ra được một tuyên bố (dưới dạng cách ngôn xuất sắc) thực sự có ý nghĩa. Song nếu những kẻ suy tôn Wilde vì sự hoài nghi nơi ông mà hiểu được câu này, chắc họ đuổi cổ ông xuống ngai vàng ngay và luôn.
Dù sao thì, chính trong cái thế giới trí thức ấy, nơi đầy rẫy những kẻ đại ngu, lèo tèo vài tay linh lợi và càng hiếm hơn những bậc khôn ngoan, một hoạt chất nổi loạn thời thượng và tinh thần phủ định cứ âm ỉ lên men. Từ đây sinh ra cái gọi là phê bình huỷ họai, dù thực tế thì, nhà phê bình mới thường bị nhà phê bình mới hơn dập tơi tả trước khi kịp phá hoại được bất cứ thứ gì khác. Khi người ta trịnh trọng tuyên bố rằng thế giới đang nổi dậy chống lại tôn giáo, quyền tư hữu, lòng yêu nước hay hôn nhân, thực chất họ chỉ muốn nói rằng cái thế giới ấy đang chống lại chính họ, hay đúng hơn, nó đang trong trạng thái vĩnh cửu nổi loạn hòng chống lại mọi sự. Nhưng kỳ thực, thế giới ấy cũng có những lý do chính đáng để cứ sống trong cơn kích động thường trực, ngoài sự hỗn loạn hay xuẩn ngốc đơn thuần. Lý do này khá quan trọng; xin những ai thực sự muốn tư duy, đặc biệt là tư duy tự do, dừng lại suy ngẫm nghiêm túc một chút. Nó bắt nguồn từ chỗ họ quá đỗi bận tâm với việc nghiên cứu Nghệ thuật. Tai hoạ xảy ra khi họ cố chuyển thẳng cách tiếp cận nghệ thuật sang lĩnh vực đạo đức và triết học, để rồi sinh ra toàn ba thứ lời lẽ rườm rà, dẫn tới chán nản. Ở địa hạt này, họ phạm một sai lầm nghiêm trọng về cách lập luận. Và, như tôi đã lưu ý từ trước, giới trí thức thường không có nhiều tri thức lắm.
Nghệ thuật, nói theo lối diễn đạt sơ khai của chúng ta, tồn tại để biểu dương vinh quang của Đấng Tạo Hoá; hoặc, nói theo ngôn từ tâm lý học hiện đại, tồn tại để đánh thức và nuôi dưỡng cảm quan kỳ diệu trong lòng mỗi người. Một tác phẩm nghệ thuật gọi là thành công khi nó khiến ta có thể nhìn vào bất cứ đối tượng nào – một cái cây, đám mây hay một tính cách con người – cũng có thể thốt lên: “Tôi đã thấy thứ này cả ngàn lần, nhưng chưa bao giờ thực sự được nhìn thấy nó như thế này.” Để đạt tới cảnh giới này, sự thay đổi góc độ là dĩ nhiên và thậm chí là cần thiết. Các nghệ sỹ thay đổi thứ họ gọi là cách đánh; bởi xét về một nghĩa nào đó, nhiệm vụ của họ là tạo ra những cuộc đánh úp. Họ phải chiếu rọi ánh sáng mới mẻ lên vạn vật, và chẳng có gì lạ nếu đôi khi đó là thứ tia cực tím vô hình, hoặc thứ ánh sáng đen kịt của điên loạn hay cái chết. Nhưng khi nghệ sỹ đem những thử nghiệm dị biệt ấy từ nghệ thuật áp dụng vào đời thực, chuyện đã khác hoàn toàn. Họ giống như những nhà điêu khắc đãng trí, đang ngồi đục đẽo bức tượng nọ thì bỗng quay sang khắc lên cái đầu trụi lủi của người mẫu quý tộc đang ngồi. Và những nghệ sỹ vô trị này quả thực đang bị chứng đãng trí tâm thầm mức độ nhẹ.
Thử nêu một ví dụ cho giản tiện. Nhiều nhà hiện đại vẫn thường khịt mũi giễu cợt cái họ gọi là “nghệ thuật hộp sô-cô-la” – ý chỉ một loại nghệ thuật nhạt nhẽo và sến súa[3]. Ai cũng có thể dễ dàng hình dung ra kiểu tranh ảnh sẽ khiến người ta phát ngấy. Giả dụ, chúng ta đang nhìn vỏ hộp sô-cô-la (tất nhiên đã rỗng ruột) với vẻ mặt ngao ngán, và thấy trên đó in hình một thiếu nữ tóc vàng xoăn bồng bềnh đang đứng trên ban công, tay cầm đoá hồng dưới ánh trăng lãng mạn được dàn xếp rất chi là dàn xếp. Có thể thêm vào đó vài chi tiết tuỳ sở thích hoặc sở ghét của giới phê bình: nàng có thể đang siết chặt bức thư tình, khoe lộ liễu chiếc nhẫn đính hôn hay vẫy tay chào tạm biệt một quý ông xa xăm trên gondola – hoặc bất cứ thứ gì khác đủ khiến một nhà phê bình nhạy cảm phải nhăn mặt. Tôi hoàn toàn cảm thông với cảm xúc của họ, nhưng khẳng định cách họ suy nghĩ đã sai lầm.
Và khi chê dạng tranh kiểu ấy là ngớ ngẩn, có đề tài sáo mòn hay khó chịu đến mức cần phải xé gói dứt liền vài viên sô-cô-la mới chịu thấu, chúng ta thực sự muốn bày tỏ ý kiến gì? Nói gọn: quá do bất cập – cái hay mà quá liều thì liền hoá dở, hộp sô-cô-la hay viên sô-cô-la bên trong nhiều quá sinh thừa mứa, ngán ngẩm. Hơn thế, đó không còn là bức tranh, mà là bức tranh về một bức tranh. Rốt ráo, nó là bức tranh của vô vàn bức tranh khác, chứ chẳng phải bức tranh chân thực về một đoá hồng thực, một thiếu nữ thực hay vệt trăng thực nào cả. Nói cách khác, các hoạ sỹ chỉ sao chép lẫn nhau, truy về tận cả những bức tranh uỷ mị đầu tiên của trào lưu Lãng mạn mà sao chép.
Nhưng những đoá hồng không bao giờ bắt chước đoá hồng khác. Vệt trăng không phỏng nhại vệt trăng nào. Dẫu người thiếu nữ có thể học đòi cho giống kẻ khác ở bề ngoài, sự hoá trang ấy cũng chỉ dừng lại ở cái vỏ, chứ nào đả đụng tới bản chất sâu trong; tính nữ của nàng không sao chép từ bất kỳ ai. Xét như những thực thể, hồng, trăng và thiếu nữ chỉ đơn giản là chính bản thân họ. Giả sử cảnh vẽ ấy là thật, nó sẽ không chứa đựng vẻ mô phỏng gì đặc biệt bên trong mình cả. Đoá hồng hiển nhiên tươi tắn như thiếu nữ hiển nhiên trẻ đẹp. Hoa hồng là vật thực, dù mang tên nào, hay chẳng mang tên nào, hương của nó vẫn thơm thắm. Thiếu nữ ấy là một cá nhân độc nhất, với bản ngã hoàn toàn mới mẻ với thế giới và có những trải nghiệm hoàn toàn mới đối với bản thân chính nàng. Nếu quả thực nàng chọn đứng trên ban công trong tư thế đó, tay cầm cá thể thực vật kia (bỏ qua sự khó tin của nó), chúng ta có thể khẳng định rằng nàng có những lý do riêng nàng. Tóm lại, một khi ta coi sự vật là hiện thực, ta không có lý do gì để xem chúng chỉ là sự lặp lại vô nghĩa. Chừng nào ta còn nghĩ về nghệ thuật như thứ được sao chép một cách máy móc để thu lợi nhuận, như đồ trang trí biếng nhác và thương mại, ta đương nhiên sẽ thấy hoa chỉ là hoa giả, trăng chỉ là đèn giả. Trong tâm thế ấy, ta thậm chí còn hoan nghênh cả những biến tấu kỳ quặc, ngợi cả nghệ sỹ mới dám vẽ hoa hồng thành đen để ta khỏi quên nó vốn dĩ có màu đỏ thẫm hay tô ánh trăng thành xanh lục để ta nhận ra nó tinh tế hơn màu trắng đơn thuần. Nhưng trăng là trăng mà hồng vẫn là hồng, chúng không hề thay đổi. Các quy luật riêng về sự tồn tại của chúng chẳng có lý do gì phải khác đi. Người thiếu nữ cũng chẳng có lý do gì phải thay đổi thái độ của mình về vẻ đẹp của đoá hồng hay những bổn phận đi kèm chiếc nhẫn đính hôn. Dưới phương diện là những thực thể, chúng hoàn toàn không bị ảnh hưởng bởi những cuộc đánh đến từ nghệ thuật giả tưởng. Mặt trăng vẫn sẽ điều khiển thuỷ triều, dù ta tô nó xanh dương, lục hay hồng điểm đốm tím. Kẻ nào nghĩ rằng cách mạng nghệ thuật chắc hẳn đã thay đổi cả luân lý thì chẳng khác nào bảo, “Tôi đã nhìn mấy bông hồng trên hộp sô-cô-la mà chán đến mức không tin hoa hồng thật có thể mọc lên từ đất sét!”
Tóm lại, thứ mà giới phê bình gọi là chủ nghĩa lãng mạn thực chất lại chính là hình thái duy nhất của chủ nghĩa hiện thực. Nó cũng chính là hình thái duy nhất của chủ nghĩa duy lý. Càng vận dụng lý trí để chiêm nghiệm thực tại, anh càng nhận ra rằng thực tại vẫn trước sau như một, mặc cho những hình thức biểu đạt cho chúng thì muôn màu muôn vẻ. Và chính hình thức biểu đạt mới là thứ được lặp đi lặp lại. Cảm nghiệm thì luôn thành thực và cá nhân vẫn là các cá nhân độc nhất. Nếu một thiếu nữ đang trải nghiệm một mối tình lãng mạn thực sự, nàng đang trải nghiệm lại thứ gì đó đã có lâu lắm rồi, nhưng không hề mòn chán. Nếu nàng hái một đoá hồng từ bụi hồng thật, nàng đang cầm trên tay một biểu tượng đã có từ ngàn năm, nhưng điều ấy không ngăn bông hồng kia tươi tắn khoe sắc. Và chính trong chừng mực con người có thể giữ đầu óc mình quang minh để nhìn sự vật đúng như thứ nó là, thì trong đúng chừng mực ấy, họ sẽ thấy những điều đó mang chứa ý nghĩa bền bỉ, trường cửu. Ngược lại, càng để tâm trí bị che lấp bởi những mốt vội đến vội đi, những khuynh hướng mỹ học nhất thời, thì họ chỉ thấy có một điều: rằng sự vật kia giống như tranh trên hộp sô-cô-la, chứ không giống tranh được treo trong Phòng triển lãm Hậu Vị lai. Chính trong chừng mực nào đó, khi ta nghĩ về những con người thật, ta sẽ thấy họ quả thực lãng mạn. Chính trong mức độ nào đó, khi ta nghĩ về tranh, thơ hay những phong cách trang trí, ta sẽ nghĩ rằng lãng mạn chỉ là một lối giả tạo và lỗi thời. Người ta chỉ nhìn thấy con người như kẻ bắt chước tranh ảnh, song thực ra, con người không bắt chước gì cả. Họ chỉ là chính họ và sẽ mãi mãi là chính họ. Hoa hồng muôn đời vẫn hoàng huy, huyền diệu, dẫu có bao nhiêu nụ hồng phơn phớt bị rải dày lên trên những tấm giấy dán tường rẻ tiền. Việc con người đem lòng yêu nhau muôn đời vẫn hoàng huy, huyền diệu, dẫu đã nghe đến cả nghìn lần đôi ba câu huê tình công nghiệp trên tấm thiệp Valentine hay thông điệp giấu trong bánh nướng. Hữu đắc được sự thật này, ta có thể sống trong thế giới thực. Còn nếu cứ mải bận tâm về sự tầm thường của giấy dán tường xấu ỉn hoặc thiệp Valentine sến súa, thì ta chỉ là đang sống trong thế giới của những hư cấu mà thôi.
Sự thật chính yếu về toàn bộ những nổi loạn hoài nghi này, cũng như tất cả cuộc nổi loạn khác, đó là chúng được sinh ra từ một thế giới đầy rẫy hư cấu. Chúng bắt nguồn từ Giới trí thức, những kẻ suốt ngày bàn luận về tiểu thuyết, kịch nghệ và tranh vẽ thay vì con người. Họ khăng khăng đưa cuộc sống thực lên sân khấu nhưng bản thân họ chưa bao giờ xuống phố mà nhìn nó. Họ tuyên bố mang chủ nghĩa hiện thực vào tiểu thuyết, trong khi những câu chuyện họ nói ngày càng ít tính hiện thực, ít hơn nhiều so với cuộc trò chuyện dân dã của những con người dân dã. Cái trò thử nghiệm bất tận và thay đổi góc nhìn liên tục đó, vốn hết sức tự nhiên bởi người nghệ sĩ nào muốn truy tìm hiệu ứng mới mẻ cũng phải làm (như một tay nhiếp ảnh viên tinh chỉnh ống kính), nhưng lại không hoàn toàn phù hợp trong việc nghiên cứu các quy tắc và mối quan hệ bền vững của xã hội. Khi những kẻ này bắt đầu đùa giỡn với đạo đức và siêu hình học, họ chỉ tạo ra một loạt thế giới điên rồ, trong khi đáng lẽ, họ chỉ nên giới hạn trong việc vẽ những bức tranh điên rồ vô hại mà thôi. Ảnh chụp vốn chỉ nhằm ghi lại một phương diện nhất định, ở một góc độ nhất định, dưới một ánh sáng nhất định, thi thoảng dưới thứ ánh sáng chỉ loé vụt qua như tia chớp. Nhưng khi nghệ sỹ trở thành nhà vô trị chủ nghĩa và bắt đầu tái dựng cả cộng đồng và vũ trụ bằng ánh chớp ấy, sản phẩm không phải là hiện thực mà chỉ là một cơn ác mộng. Chỉ vì một hoạ sỹ nào đó, vì mục đích nghệ thuật riêng của anh ta, mà vẽ hoa hồng đỏ thành đen, kẻ bi quan liền kết luận rằng đoá hồng đỏ của tình yêu và sự sống thực sự có màu đen như bức vẽ ấy. Chỉ vì một nghệ sỹ, từ góc độ cá nhân của anh ta, bắt được khoảnh khắc ánh trăng hiện lên màu lục, nhà triết học liền đeo cặp kính xanh lên và tuyên bố rằng mặt trăng chắc chắn phải nhung nhúc giòi bọ, vì nó là một khối phô mai xanh khổng lồ, và điều này từ giờ sẽ thành chân lý khoa học!
Nói ngắn gọn thì, cái khẩu hiệu cũ kỹ nghệ thuật vị nghệ thuật có lẽ cũng không hề vô nghĩa, nếu nó chỉ đơn giản có nghĩa là nghệ sỹ nên giới hạn mình trong trung gian nghệ thuật. Trên thực tế, họ lại cứ thích khua khoắng vào đạo đức và tôn giáo, rồi mang theo cả tính khí thất thường và ba trò thử nghiệm vặt vãnh trong lĩnh vực của họ vào nữa. Nhưng nếu nhìn thật tỉnh táo, ta sẽ thấy điều đó hoàn toàn phi thực tế. Dù các quy luật về cuộc sống, tình yêu hay quan hệ giữa người với người có như thế nào đi chăng nữa, rõ ràng sẽ thật phi lý khi khăng khăng rằng chúng cứ phải thay đổi theo từng trào lưu thơ ca hay theo từng mốt quần chẽn mới. Thật điên rồ nếu cho rằng hễ có kiểu mũ mới là phải thay một kiểu trái tim mới hay một khối óc khác. Cuộc sống, tình yêu hay quan hệ giữa người với người, đều là những hiện hữu, như triều dâng hay như đất sét, và anh không thể loại bỏ triều dâng hay đất sét bằng cách gọi hoa hồng và ánh trăng là lỗi thời và sến súa. Vậy nên, tôi mạn phép nói ra điều này với sự khiêm hạ tuyệt đối, rằng tôi đã bám rễ vào những mối quan hệ và truyền thống nhất định không phải vì tôi là người cảm tính hay thậm chí là người lãng mạn, mà bởi vì tôi là người tin vào hiện thực chủ nghĩa. Và tôi cũng nhận ra rằng đạo đức không phải là thứ có thể thay đổi theo tâm trạng, cũng như trường phái Lập thể không có nghĩa là phải chặt cho những căn nhà thật thành các khối lập phương, hay trường phái Tâm lốc[4] nuốt chửng những con tàu thật vào xoáy nước.
Tôi chưa bao giờ thay đổi quan điểm của mình về những điều này, bởi tôi chẳng thấy có lý do gì để thay đổi cả. Bất kỳ ai được lý trí dẫn dắt, chứ không phải xu thế của đám đông, đều sẽ nhận ra rằng luôn tồn tại những lập luận giống nhau ủng hộ sự Hiện hữu của Mục đích, và do đó là Nhân cách trong vạn vật, miễn là họ thực sự biết suy nghĩ. Chỉ có điều, ngày nay, miễn là họ thuộc hạng không biết suy nghĩ, họ đã có thể dễ dãi thừa nhận một cách mơ hồ rằng có thể tồn tại Mục đích và phủ nhận hoàn toàn sự hiện hữu của Nhân cách. Có một chân lý hiển nhiên và xưa như quả đất rằng cuộc sống là món quà vô giá từ Thượng đế và được Ngài trân trọng (cứ lấy súng gí vào đầu một kẻ bi quan chủ nghĩa là biết). Chỉ có một nhóm người hiện đại chủ nghĩa không thích đầu mình dính dáng vào bất kỳ vấn đề nào, và việc chất vấn họ bằng những câu hỏi trực diện với họ khó chịu chẳng khác nào dí súng vào đầu. Âu cũng là lẽ thường hiển nhiên và hoàn toàn phù hợp với thực tế cuộc sống, rằng tình yêu lãng mạn là thường tình nơi tuổi hoa, rồi phát triển một cách tự nhiên thành hôn nhân và giai đoạn làm cha mẹ như những giai đoạn trưởng thành tương ứng tiếp theo sau. Bao nhiêu lời sáo rỗng hay ngụy biện quanh chuyện này, dù là khó chịu cá nhân hay tự do phóng đãng, cũng chưa bao giờ xóa bỏ được sự thật xã hội vững chắc ấy, đối với bất cứ ai quan tâm đến điều gì là đúng, thay vì chỉ lo nghĩ xem điều đó có cũ mòn hay chưa. Chính kẻ không có khả năng nhận ra rằng những điều dẫu cũ mòn nhưng vẫn còn chính xác mới là nô lệ của thói ngộ chữ và những liên tưởng màu mè, ngoa dụ. Sẽ là khờ khạo nếu anh bực bội hoa hồng giấy mà quay sang không còn tin hoa hồng thật có rễ, cũng không tin nó có gai (cho đến khi giật mình thốt lên một tiếng chửi thề vì bị gai đâm).
Sự thật là thế giới hiện đại đã đổ vỡ về mặt tinh thần, thứ còn nghiêm trọng hơn đổ vỡ về mặt đạo đức. Mọi vấn đề đang được giải quyết bằng những liên tưởng hời hợt thay vì lập luận chặt chẽ, bởi thời nay, người ta ngại tranh luận nghiêm túc. Hầu như toàn bộ những cuộc bàn tán về cái gì tiến bộ và cái gì lạc hậu giờ chỉ còn là tiếng cười khục khặc phấn khích về những xu hướng đương thời. Những kẻ hiện đại nhất trong giới hiện đại chủ nghĩa sẽ nhìn bức tranh vẽ một chàng trai tán tỉnh một cô gái vận đầm bồng crinoline với ánh mắt ngu ngơ ngớ ngẩn, y hệt gã nhà quê nhìn chăm chằm vào những chiếc mũ kỳ dị trên đầu đám người dưng vừa kéo qua. Họ nhìn thế hệ cha ông của chính họ bằng con mắt kỳ thị không khác gì những kẻ cực đoan nhất nhìn người ngoại quốc. Tâm trí họ dường như không thể vượt qua khỏi nhận định hời hợt rằng con gái thời nay nhất tề cắt tóc ngắn, mặc váy ngắn, khác hẳn mấy các bu các bầm ngày xưa cứ tóc xoăn váy phồng mà chiến. Chừng ấy dường như đã thoả mãn khát khao trào phúng nơi họ (họ là giống người đơn giản, gần như man rợ). Họ chẳng khác đám nhà quê lên tỉnh đi thăm thú London rồi cười phá lên khi thấy lính Pháp mặc quần đỏ áo xanh, trong khi lính Anh đúng ra phải mặc quần xanh áo đỏ. Tôi đã không để tư duy mình suy suyển mà nương theo những kẻ suy nghĩ theo kiểu đó. Hà cớ gì phải thế?
Bùi Gia Bin dịch
[1] (ND) "Cây kim" ở đây là ẩn dụ về sự tự vả của người thời Victoria. Họ dùng kim (lý lẽ) để chế nhạo thần học trung cổ, nhưng cuối cùng chính họ bị kim đâm (lý lẽ quay lại hại họ).
[2] (ND) Thuật ngữ trong Thuyết Tiến hoá, chỉ những dạng hoá thạch trung gian giả định giữa vượn và người mà vào thời của Chesterton (và đến cả bây giờ) vẫn chưa được tìm thấy một cách thuyết phục. Đưa khái niệm này vào, Chesterton muốn chế giễu một số người sùng bái một khái niệm trừu tượng và chưa được chứng minh này như một thứ khoa học không thể chối cãi.
[3] (ND) Thuật ngữ này ban đầu được hiểu theo nghĩa đen là hình vẽ trang trí trên các hộp sô-cô-la do Cadbury khởi xướng, nhưng dần được dùng để chỉ cả những bức tranh và thiết kế quá lý tưởng, dàn xếp lộ liễu và đa tình.
[4] (ND) Trường phái Tâm lốc (Vorticism) ra đời tại London năm 1914 do Wyndham Lewis khởi xướng. Đây là một phong trào tiên phong ngắn ngủi nhưng có ảnh hưởng trong nghệ thuật và văn học Anh với bản chất là sự kết hợp tính phân mảnh của Lập thể với năng lượng cơ giới và đô thị hiện đại, đồng thời chia sẻ một phần nhiệt huyết với Vị lai Ý. Tuy nhiên, trường phái Tâm lốc khác biệt ở chỗ nó không nhất thiết tôn vinh tiến bộ công nghiệp mù quáng, mà chủ đích nhấn mạnh việc tìm thấy sự tĩnh lặng ngay tại trung tâm chuyển động hỗn loạn. Lewis, thông qua tạp chí BLAST, đã đưa ra tuyên ngôn mạnh mẽ cho phong trào, đóng góp vào việc định hình diện mạo hiện đại chủ nghĩa ở Anh.