Chesterton: Tại sao tôi là người Công giáo? (tiếp)
8. Họ nghĩ làm sao?
Mọi kiểu khoa học, ngay cả khoa học thần thánh, cũng đều là một câu chuyện trinh thám siêu phàm. Chỉ khác ở chỗ thay vì điều tra nguyên nhân cho cái chết của một người, nó khám phá bí mật thâm u hơn về lý do họ sống. Ngay cả với những tín hữu, Giáo hội Công giáo vẫn là một bí ẩn tuyệt vời theo nghĩa huyền nhiệm nhất. Nên ngay cả khi những người ngoại đạo xem nó là một điều nan giải thì các tín hữu cũng chẳng có lý gì để phàn nàn. Nhưng trên phương diện thực tế hơn, chúng ta hoàn toàn có thể đặt câu hỏi: Người ngoại đạo thực sự nghĩ Giáo hội là gì? Họ nghĩ chúng ta nghĩ gì về nó? Theo họ, bản chất thực sự của Giáo hội là gì, hoặc ít nhất, Giáo hội trong mong đợi của họ là gì? Đối với tôi, càng cố suy nghĩ nghiêm túc về vấn đề này, nó lại càng trở nên u tối và bí ẩn. Đặc biệt, nó dần tối như mực khi tôi nhìn vào một câu gần đây đọc được trên tờ Truth – một tờ báo đặc biệt thông tuệ và thường mang lại nhiều giá trị. Bài báo viết rằng Rô-ma dung túng trong quan hệ với các giáo đoàn Đông phương Nga, thứ họ gọi là “những dị giáo lạ kỳ với giới tăng lữ thậm chí còn có râu và có vợ.”
Chỉ trong một cụm từ phi thường ấy, ta có thể mường tượng ra con quái vật vô hình bắt đầu hiện hình trong trí tưởng tượng của họ như thế nào. Trong chục chữ đó, không quá lời khi nói rằng mỗi từ đều có khả năng gây choáng váng vì từ nào từ nấy đều tào lao như nhau. Như một kẻ xui xẻo bị ngã lăn xuống cầu thang và cứ đập mặt vào hết bậc này đến bậc khác, người viết này cũng đập vào hết chữ này tới chữ khác. Từ “lạ kỳ” nghe đã đủ kỳ kỳ. Từ “dị giáo” còn kỳ hơn. Mới nghe qua, từ “có râu”, dễ khiến người ta liên tưởng đến trò chơi nào đó thuở bé, có lẽ là từ buồn cười nhất. “Có vợ” cũng buồn cười. Ngay cả từ “và” chen giữa “có râu” và “có vợ” cũng buồn cười. Nhưng điều buồn cười và kỳ quặc nhất trong tất cả các câu kỳ quặc trên đời nằm ở chữ “thậm chí còn.”
Không phải ai cũng có thể rải khắp trang báo toàn những liên từ hài hước và những ý tưởng tếu táo như thế. Chỉ có kiểu tư duy vô lý một cách điên cuồng về cách mọi thứ kết nối với nhau mới có thể khiến cho ngay cả những mối nối và bản lề của một câu nói xiêu vẹo như thế cũng phát ra tiếng lạo xạo buồn cười dữ dội. Chúng ta khó mà có thể nói rằng phiên bản đức tin Công giáo Rô-ma này là một phiên bản sai lầm, hay rằng nó khác với phiên bản chân thật, hay thậm chí là nó khác với phiên bản của chúng ta. Phiên bản ấy là cái gì chứ, và thậm chí, làm sao nó có thể được coi là phiên bản của chính họ? Người ta sẽ nói với chúng ta rằng trên thế giới này tồn tại một dạng mê tín dị đoan đầy quyền lực, hà khắc và bị đầu độc bởi tư tưởng thật bất kính rằng nó được độc quyền chân lý thần thánh mà thẳng tay đè bẹp và tiêu diệt mọi thứ khác mình như thể chúng đều sai trái hết. Ai dám nghĩ khác là nó thiêu sống tất – những nhà tư tưởng, những nhà khám phá, những triết gia và thần học gia, những kẻ dám đi chệch một li so với giáo điều của nó; nó không chấp nhận dù chỉ một sự xê dịch hay biệt dị dù là nhỏ nhất trong hàng ngũ huynh đệ và tín hữu của mình; nó quét sạch toàn thế giới bằng một cơn lốc thông điệp của giáo hoàng về sự đồng nhất; nó sẵn sàng huỷ diệt cả một quốc gia, một đế chế vì một câu hoặc chỉ vì tin chắc rằng câu lời của mình là Câu Lời của Chúa. Đang đà chinh phạt thế giới như thế, nó tới một vùng xa xôi và khá man rợ đâu đó biên thuỳ nước Nga, nơi nó đột nhiên khựng lại, nở một nụ cười thật tươi và bảo với người dân ở đó rằng họ có thể tha hồ kiến lập bất kỳ dị giáo nào mà mình thích, kỳ quặc tới đâu cũng chiều. Theo tiêu chuẩn về sự lạ trong kinh nghiệm trường kỳ của Giáo hội Rô-ma, những dị giáo kỳ quặc kia có thể đúng là rất lạ. Giáo hội đã không còn xa lạ gì với những dị giáo liên quan đến hiến sinh người, thờ phượng ác quỷ hay những thực hành biến thái. Vì thế, chúng ta hoàn toàn có thể giả định rằng Giáo hội đã nói một cách nhân từ với những người Slav may mắn này, “Cứ thoải mái mà thờ Baphomet và Beelzebub, đọc ngược Kinh Lạy Cha, uống máu trẻ thơ, thậm chí,” và tại đây, giọng nói hơi lạc đi, rồi vận hết sức bình sinh mới can đảm tiếp lời, “vâng, thậm chí, nếu không có đường nào khác, các người nuôi râu cũng được.” Rồi sau đó, chắc ta phải hình dung thêm những cảnh tượng đen tối và khủng khiếp hơn nữa: kẻ dị giáo để nuôi bộ râu tày trời ấy phải đành rúc mình vào những nơi thâm u, tỉ dụ hang phù thuỷ hay hắc thuật viên. Không ai giải thích được tại sao những người Đông Âu này lại được thiên vị đến thế, cũng như không ai hiểu tại sao vài sợi ông mọc trên cằm lại bị căm ghét đến vậy. Xem ra đây là vấn đề mà cái chế độ chuyên chế tinh thần quá quắt này không bao giờ muốn chất vấn.
Đọc xong các bạn có cảm nhận được nỗi tuyệt vọng đổ ập xuống người nhà báo Công giáo khốn khổ tôi đây vào những lúc như thế không? Hay liệu độc giả có thấu hiểu nổi những lời cầu xin tha thiết mà khổ bút có thể dâng nguyện, cầu mong St. Francis of Sales quan thầy chuyển cầu giúp mình? Trong tình cảnh ấy, khổ bút phải nói gì đây và nên bắt đầu chọn lấy đầu nào từ câu kia mới được? Có ích gì mà khổ bút phải nhọc nhằn bắt đầu giảng giải rằng giáo sỹ có vợ là vấn đề kỷ luật chứ chứ không phải giáo lý, nên vì thế nó có thể được cho phép thực hiện ở một số địa phương mà không bị quy tội dị giáo. Còn chuyện tay viết kia nghĩ bộ râu quan trọng ngang ngửa người vợ, và hai điều đó có sức quan trọng thậm chí còn hơn một dị giáo thì hết nói nổi rồi? Có ích gì mà khổ bút phải bỏ công phân bua chi li về những bối cảnh đặc biệt trong lịch sử đã dẫn đến việc một số các tập tục lâu đời ở địa phương được giữ lại ở Kiev hay Warsaw khi mà bất cứ lúc nào người viết bài báo kia cũng có thể sốc nặng nếu vô tình bắt gặp một tu sĩ dòng Francis để râu rảo bước ngang Wimbledon hay Walham Green? Thứ chúng ta thèm muốn được biết nhất chính là tâm trí của kẻ có thể có suy nghĩ nực cười đến độ vừa gọi chúng ta là nỗi kinh hoàng của dị giáo, rồi cho chúng ta là yếu đuối nương theo dị giáo, rồi kinh hãi bộ râu hơn nữa. Tay viết lý giải ra làm sao cho tất cả sự lộn xộn thiếu nhất quán và cả phép đột giáng không ăn nhập vào đâu mà anh quy gán cho chúng ta? Có phải anh ta nghĩ chúng ta đều chỉ đang giỡn hớt, hay tất cả đều đang mơ, hay đều đang mất trí, hay anh ta thực sự nghĩ thế nào? Chừng nào còn chưa hiểu được điều ấy, thật ra chúng ta còn chưa tiến thêm được bao nhiêu.
Cái suy nghĩ cho rằng anh ta chỉ đơn thuần xem Giáo hội toàn là vô nghĩa thì không thật nhất quán với cách anh bàn về Giáo hội ở những khía cạnh khác, như khi anh nói rằng Giáo hội luôn chống lại những thay đổi anh ta nhiều phần tán thành, hoặc cho là Giáo hội luôn về phía những nguyên tắc này nọ anh ta nhiều phần không ưa, hoặc Giáo hội bị cấm chấp nhận học thuyết này, nhưng lại bị buộc phải bảo vệ giáo lý kia. Nhưng trong tưởng tượng của anh, nguyên tắc nào khiến một lý thuyết được Giáo hội chấp nhận hay bác bỏ, tôi không tài nào hình dung nổi. Và càng nghiêm túc nhìn vào câu đố ấy, tôi nghĩ chúng ta sẽ càng cảm thấy một điều gì vô cùng lạ đời và thậm chí là rùng rợn. Nó hệt như câu chuyện ngụ ngôn xưa về năm thầy bói mù xem voi xưa giờ vẫn được người ta kể cho nhau nghe như truyện tiếu lâm, nhưng tôi có thể tưởng tượng phiên bản do Maeterlinck hay một nhà huyền học hiện đại nào đó kể có thể khiến người nghe nổi cả da gà vì những điều bí ẩn. Sự thể này vừa quá hiển nhiên, vừa quá vô hình; nó vừa công khai lại vừa bất khả đắc, vừa phổ quát lại vừa bí mật. Người ta vừa nói về nó quá nhiều, nhưng cũng không nói được bao. Họ vừa thấy quá rõ nó, nhưng cũng không thấy được bao. Tồn tại một mâu thuẫn khổng lồ, khổng lồ đến mức chỉ nó có thể được hình dung giữa các chiều không gian hay các bình diện tư duy biệt lập, trong sự đồng hiện của những sự thật quá đỗi quen thuộc và những chân lý xa lạ tột bậc như thế. Thật vậy, tôi chỉ biết duy một câu nói có thể diễn tả chính xác nghịch lý to lớn của nhân loại và lịch sử ấy, và chính câu ấy cũng vừa quen, vừa nan tri: “Ánh sáng chiếu soi rọi u mù mà u mù đâu hiểu được ánh sáng.”
Sự nan giải này chắc chắn một phần bắt nguồn từ cái cách rất nhiều người vừa để tâm đến nó luôn, vừa ra sức giữ chặt định kiến chống lại nó. Cái việc họ vừa thiếu hiểu biết trầm trọng về nó trong khi lúc nào cũng dòm ngó về nó mới thật là lạ. Họ thích nói về nó nhưng ai nói về nó thì họ ghét cay ghét nghiệt. Có vẻ như họ đặc biệt ghét phải đi hỏi về nó. Chẳng hạn, giữa lòng một London học thức, nếu một cộng tác viên của tờ Truth thực sự thấy bối rối trước việc Giáo hội Rô-ma dành ngoài lệ cho các tín hữu Đông phương và càng bối rối hơn khi giáo sỹ họ nằm ngoài lời khấn khiết tịnh (đó là chưa kể những suy nghĩ đen tối và khôn dò của anh ta về chuyện nuôi râu), lẽ nào anh ta chẳng nghĩ đến việc chạy đi hỏi thử một vị linh mục Công giáo, hay đơn giản hơn là một giáo dân Công giáo đơn thuần, để có thể nắm được đại khái về tầm quan trọng tương đối của các giá trị như việc độc thân, dị giáo và chuyện để râu ria trong hệ thống chúng tôi hay sao? Có lý nào anh chẳng thể nắm sơ được trật tự hay tôn ti rất đỗi thường tình của những ý niệm ấy, những thứ đáng ra đã giúp anh tránh được việc viết ra từ “và” đầy choáng váng cùng từ “thậm chí” đầy kinh ngạc? Nhưng tôi nghi rằng, ngay cả sự sơ suất tưởng chừng vô tình này cũng hàm chứa thứ gì đó sâu xa hơn chỉ là cẩu thả đơn thuần. Tôi ngờ rằng trong thái độ tranh luận kỳ khôi vô song này có ẩn tàng điều gì đó nằm sâu dưới bề mặt kia, như một khao khát chỉ muốn đặt câu hỏi tu từ chứ không thành tâm muốn hỏi, chỉ ưa vặn vẹo khó dễ chứ không thành tâm muốn nghe. Điều này có thể liên quan đến những khía cạnh bí ẩn sâu xa hơn của vấn đề, điều tôi tuyệt nhiên sẽ không ra sức lý giải ở đây, bởi đó rõ ràng là một vấn đề cực kỳ tinh tế, nằm hẳn vào lĩnh vực của các nhà thần học lành nghề, tức đó là những câu hỏi về ý chí muốn tin và sự vận hành của ân sủng, và thật sự cần nhiều hơn là lý trí thuần tuý để bất kỳ ai trong chúng ta đi vào cái triết thuyết hợp lý nhất trong mọi triết thuyết ấy.
Nhưng ngoài những điều bí nhiệm ấy, tôi cho rằng có một lý do khác nữa, một lý do mang đậm ảnh hưởng con người và lịch sử. Chính điều khiến triết học Công giáo bị người ta ngó lơ lại là điều thực sự khiến nó không thể bị ngó lơ. Ấy là sự thật rằng, nó từng xem là đã chết, và giờ, thật là khó tin, nó đã vực dậy. Một người bình thương ai lại dư hơi bận tâm việc mình có biết đến chân tơ kẽ tóc thuật luận thú tạng hoặc luận điểu điềm của các quan bói toán La Mã[i], bởi anh biết chắc chắn thế giới sẽ không quay ngược về tôn giáo La Mã xưa cổ đó. Cũng từng có thời, thứ tôn giáo La Mã khác này cũng bị cả thế giới quả quyết với độ chắc chắn tương đương rằng nó sẽ không quay lại. Một người bình thường chẳng ai buồn xấu hổ nếu xếp nhầm thứ tự kim loại trong công thức tưởng tượng của một nhà giả kim thuật đã được mô tả trong một tiểu thuyết lịch sử, bởi anh ta tin rằng các nhà giả kim chỉ còn tồn tại trong truyện hư cấu và sẽ không bao giờ quay lại nữa. Đã có thời người ta thấy các tu viện trưởng cũng vô hại như các nhà giả kim vậy. Nhưng cái thời ấy đã qua rồi. Kiểu khinh khi hùng hổ ấy, như tôi đã nói, giờ đây đã bị thay thế bằng một hiếu kỳ có phần ngứa ngáy. Thế nhưng, những thói quen tinh thần thì chồng chéo lên nhau và quán tính đã chết của thói thờ ơ cũ vẫn còn tồn tại song song với một làn sóng mới của những thấp thỏm khôn nguôi về những khả thể tiên liệu. Người ta sẽ không vừa dốt nát vừa bực bội về Công giáo đến mức đó nếu họ không từng nghĩ nó đã chết, rồi bây giờ phát hiện nó vẫn sống sờ sờ ra đấy. Bởi lẽ, sự ngu dốt, cũng như tri thức, đều có tính tích luỹ, và những nhà nhà phê bình vừa mới nhú kia dù sao cũng chỉ là những kẻ thừa kế mớ lợi tức dồn đống lại sau bốn trăm năm di sản của thứ ngu dốt đã trở thành vô tri. Họ là những kẻ đang ngủ thì bị đánh thức giữa đêm khuya và thấy những điều mình chẳng thể chối bỏ mà cũng chẳng thể hiểu được. Trước mắt họ là một thứ những tưởng đã chết giờ lại sống dậy và đi lại, và ánh sáng chói loà của cái chết biết đi ấy thiêu rụi hay xoá sạch mọi tủn mủn xưa cũ của cuộc đời, và tất cả những huyền thoại họ từng tin, mọi sự thật mà họ từng quên, tất cả đều bị nuốt chửng trong phép màu mà họ không tin nhưng cũng chẳng thể nào quên.
9. Chiếc mặt nạ của những kẻ bất khả tri
Ông Arthur Keith trong những nhận định gần đây về linh hồn đã vô tình “để mèo sổng túi.[ii]” Ông đã để con mèo đó sổng ra khỏi chính cái túi đồ nghề rất mực chỉn chu và đứng đắn mà các “thầy thuốc” hay mang theo – những người, theo ông, đã bị lương tâm nghề nghiệp thôi thúc phải khẳng định rằng sự sống của linh hồn chấm dứt cùng với hơi thở cuối cùng của thể xác. Có lẽ hình ảnh cái túi thì rất khớp, nhưng hình ảnh con mèo lại không may mắn như thế: mèo vốn là sinh vật thần bí với chín mạng sống, đáng lẽ nó phải được suy tôn là biểu tượng của sự bất tử, chí ít dưới dạng luân hồi. Dù sao đi nữa, ông ta cũng đã để con mèo sổng túi: rằng các nhà khoa học kia không phát biểu với tư cách nhà khoa học, mà chỉ đơn thuần là những người theo chủ nghĩa duy vật. Nói cách khác, họ không nêu lên kết luận khoa học, chỉ trình bày quan điểm cá nhân, và lắm lúc, những quan điểm cá nhân ấy đầy lổ hổng.
Không lâu trước đây, trong bài phát biểu nổi tiếng về Vượn người tại Đại hội Leeds, ông Arthur Keith đã ví von rằng ông chỉ phát ngôn với tư cách là chủ toạ hội đồng xét xử. Đúng là có vẻ như ông đã không tham khảo ý kiến của ban hội thẩm trước; và ngay sau đó, người ta rõ ràng đã thấy các thành viên trong hội đồng phản đối kịch liệt – một điều khá bất thường trong ban hội thẩm sau khi chủ toạ đã tuyên án. Dù thế, qua hình ảnh ẩn dụ này, ông ta ngầm tuyên bố mình hoàn toàn khách quan theo kiểu tư pháp. Ông muốn nói rằng một bồi thẩm viên bị ràng buộc bởi lời thề phải đưa ra kết luận dựa trên sự kiện và chứng cứ, không vì thiên vị cũng chẳng vì sợ hãi. Và ấn tượng của tuyên bố đó sẽ thuyết phục hơn gấp trăm lần nếu như chúng ta được tự do tưởng tượng rằng sự đồng cảm cá nhân của vị bồi thẩm kia có lẽ đã thuộc về bờ đối diện, hoặc ít nhất, nếu ta không biết rõ rằng cảm tình của họ đang nghiêng hẳn về một phía. Lẽ ra, ông Arthur nên thận trọng giữ lấy ấn tượng rằng, khi đã lên tiếng một cách nghiêm chỉnh và hoàn toàn đặt mình dưới tư cách một nhà nhân học, ông đã buộc phải chấp nhận thuyết chọn lọc tự nhiên ở loài vượn người. Rồi sau đó, ông ta nên để mặc người ta ngầm hiểu rằng, ở tư cách cá nhân, biết đâu ông vẫn khao khát những thị kiến thiên thần và những hy vọng thiên đường, biết đâu ông đang nghiên cứu Kinh Thánh và chờ đợi Khải Huyền. Dù gì, chuyện đời tư của ông ta thì liên quan gì tới chúng ta hay bất kỳ ai kia chứ? Trong niềm tin riêng tư, ông có thể là một tín độ Mặc Môn đang tìm cách gia tăng các vì sao trên mão triều thiên của mình hoặc một tín đồ Cuồng Giật không ngừng lên cơn kích động bởi Đức Chúa Thánh Linh[iii]. Điểm mấu chốt ở đây nằm ở chính các sự kiện đã buộc ông ta phải đi đến một kết luận rất chi là Darwin. Và một người như thế, một người bị ép buộc phải chấp nhận chúng, sẽ là một nhân chứng đáng tin bởi vì là một nhân chứng miễn cưỡng. Trong phiên toà xét xử Darwin, con người cá nhân của Keith có thể thương cảm quay sang nguyên đơn mà thương cảm, nhưng con người bồi thẩm viên của ông sẽ phải quay sang bị đơn mà tuyên tội.
Thế mà, giờ đây, ông Arthur Keith đã vứt bỏ toàn bộ vẻ công minh đường bệ đó. Ông ta đã cất công đi ra ngoài lĩnh vực của mình để độc đoán giáo điều và ban phát phán quyết về linh hồn – một đề tài vốn chẳng can hệ gì đến chuyên môn của ông, ngoại trừ nó là chuyện chung của tất thảy con người. Nhưng dẫu cho nó có không dính dáng gì đến địa hạt của ông đi chăng nữa, thì nó vẫn cho thiên hạ biết rõ ông đứng về phe nào. Nó đã biến vị chủ toạ đoàn hội thẩm thành một tay luật sự bào chữa, theo cái cách thực rõ ràng, không khác được. Thực ra, một người thiên vị đến mức đó thì trông giống một bên đơn trong vụ kiện hơn chỉ là ông thầy cãi; bởi cốt lõi là, đã từ rất lâu rồi, ông ta từ lâu đã ôm ấp mối hiềm và định kiến dai dẳng. Kể từ đây, thật rõ ràng rằng việc Keith công khai ủng hộ Darwin chẳng khác nào Bradlaugh công khai ủng hộ Darwin, hay Ingersoll công khai ủng hộ Darwin, hay bất kỳ tay vô thần hô hào nào trên bục diễn thuyết công cộng ở Hyde Park công khai ủng hộ Darwin[iv]. Khi họ chọn về phe chọn lọc tự nhiên, chúng ta đều có thể đồng ý rằng đó là một sự chọn lọc rất ư tự nhiên.
Xét riêng về cái kết luận ấy thì, thật khó tin, nó hầu như chẳng kết luận được gì mấy. Trừ phi báo đài tường thuật sai về những gì ông Arthur Keith thực sự đã nói, thì ông đã phát biểu rất rõ rằng sự tồn tại của tinh thần chấm dứt đồng thời với các chức năng thể lý, và rằng không một thầy thuốc có lương tâm nào có thể thành thật mà nói điều trái khác. Nhưng dù nỗi thương tổn tên là cái chết kia nghiêm trọng đến đâu (thành thực mà nói, nó cũng hay dẫn thẳng tới cửa tử thật), thì tôi cũng thấy việc vời một thầy thuốc tới là hoàn toàn không cần thiết. Trong những trang truyện trinh thám giản dị mà tôi thích, vẫn luôn có một nghịch lý đầy trớ trêu trong cái thực tế rằng mọi người sẽ đổ xô đi gọi bác sỹ ngay khi họ đã chắc mẩm rằng con người xấu số kia đã chết. Nhưng trong truyện, ít ra vị bác sỹ kia còn tìm thấy điều gì đó nơi tử thi. Còn trong chuyện suy lý tín điều thì chẳng có gì để tìm cả, và việc gọi thầy thuốc tới giả vờ làm thầy thần học chỉ làm rắm rối thêm câu chuyện trinh thám miên viễn của nhân sinh. Sự thật là tất cả cái trò “thầy thuốc” này chỉ là sự phỉnh gạt và bí pháp giả hiệu. Thầy thuốc thấy tinh thần đã thác xuống cùng thể xác. Ngoài ta, ổng còn thấy thể xác không thể đá, nói, hắt hơi, huýt sáo hay nhảy múa nữa. Và người ta không cần y khoa trình độ thầy bà mới thấy được điều đó. Nhưng cái nguyên lý năng lượng đã từng khiến nó đá, nói, hắt hơi, huýt sáo và nhảy múa có tồn tại dưới một hình thái tồn tại khác hay không, thì thầy thuốc kia chẳng biết nhiều hơn dân đen nào khác là mấy. Và khi những ông thầy thuốc còn chút sáng suốt, một số trong họ (chẳng hạn một cựu bác sỹ phẫu thuật tên Thomas Henry Huxley) đã nói rằng họ không tin rằng những người hành nghề y hay bất kỳ người nào khác có thể biết được bất cứ gì về điều đó. Đó là một lập trường hết sức dễ hiểu, nhưng dường như nó phải là không phải lập trường của ông Arthur Keith. Ông ta đã ra trước công luận để phủ nhận rằng linh hồn vẫn tồn tại hậu thể lý và khẳng định một cách thật là kỳ quặc rằng bất kỳ thầy thuốc nào cũng phải tán đồng là như thế. Điều đó cũng giống như chúng ta nói rằng bất kỳ kiến trúc sư hoặc nhà địa trắc thực lực nào cũng phải phủ nhận khả thể của chiều không gian thứ tư, bởi vì anh ta đã nắm được bí kíp nhà nghề rằng một toà nhà được đo đạc bằng chỉ ba chiều là dài, rộng và cao. Câu hỏi hiển nhiên là: Liên quan gì mà phải đem nhà địa trắc vào? Ai ai cũng biết mọi vật trong thực tế đều được đo bằng ba chiều. Kẻ nào tin có chiều thứ tư thì sẽ cứ tin là như thế, bất chấp anh có thừa biết tới đâu một điều rằng sự vật nào vốn dĩ cũng chỉ xác định bằng ba mặt. Hoặc, nếu anh ta đang phải đáp trả một nhà siêu hình học theo trường phái Berkeley, kẻ vốn chủ trương mọi vật chỉ là ảo ảnh của tinh thần, anh có thể phán ngay: "Giờ tôi xin mời tới đây một người thợ hồ mẫn cán, kẻ ngày ngày phải vật lộn với bê tông cứng và gang đúc; rồi anh ta sẽ nói với ông rằng chúng thực đến mức nào." Lẽ thường tình, chúng ta sẽ đáp lại rằng ta đâu cần một người thợ hồ để bảo ta những thứ rắn thì quả là rắn và ta cũng đâu cần nhà triết học để nói chúng không rắn theo một nghĩa hoàn toàn khác. Tương tự vậy, chẳng có lý do gì khiến một thầy thuốc trở thành một nhà duy vật, ngoại trừ những lý do khiến bất kỳ ai trở thành nhà duy vật. Và cũng chính khi một người đã ngấm nhuyễn hết cái chủ nghĩa duy vật hiển nhiên ấy, thì anh ta mới bắt đầu thực sự dùng đến trí óc của mình. Theo một số quan điểm thì, từ chính lúc đó, anh ta tiếp tục dùng mãi, chẳng ngừng được nữa.
Thế nhưng, cuộc đột nhập phi-triết-học vào cõi triết học kia, tuy vậy mà lại có một ý nghĩa khai minh. Nó soi rọi ngược về thứ ông ta đã tuyên bố về những vấn đề ông có nhiều tư cách để bàn tới hơn. Ngay cả trong những điều ấy, ông cũng lộ ra một sự ngờ nghệch kỳ lạ vốn rất thường thấy ở giới khoa học quan phương. Sự thật là, ở họ, tính khoa học ngày càng ít mà thói quan liêu ngày càng tăng. Họ chế ra một lớp vỏ bọc mỏng tang để khoác lên người như bộ cánh hàng ngày của giới chính khách. Họ múa may trước mắt ta những ngón nghề xảo quyệt nhất với vẻ ngây thơ lộ liễu nhất. Họ làm ta liên tưởng tới một đứa trẻ đang cố giấu thứ gì đó. Họ không ngừng tìm cách doạ nạt ta bằng những thuật ngữ đao to búa lớn và những điển cố uyên áo, mặc nhiên quy kết rằng chúng ta chẳng hề biết bất cứ điều gì cả, ngay cả trò tiểu xảo khả tiếu của họ. Mọi cây bút xã luận gào thét cái tên “Galileo” vào mặt chúng ta đều cho rằng ta biết về Galileo còn ít hơn cả hắn. Mọi kẻ rao giảng khoa học thường thức ném vào mặt ta một từ dài ngoằng đều mặc nhiên ta sẽ phải vất vả tra tầm từ điển, và thậm chí còn mong ta đừng khi nào khổ công khảo cứu, ngay cả việc khảo cứu ấy chỉ dừng lại ở việc đọc bách khoa. Kỳ thực, họ vận dụng khoa học chẳng khác bao nhiêu so với những nhân vật trong các truyện phiêu lưu mạo hiểm, nơi những người da trắng khủng bố thổ dân bằng cách tiên báo thiên thực hay làm cái trò phóng tia điện quang loè mắt. Về một mặt, chúng là những minh chứng thực tế của khoa học. Về một mặt, họ chẳng sai khi tự xưng là nhà khoa học. Nhưng họ đã sai ở chỗ mặc nhiên quy gán chúng ta là phường man di.
Trớ trêu thay, chúng ta thấy khá giải trí ngồi đợi họ sửa soạn cho màn phóng điện trong khi họ lại sốt sắng đợi chờ chúng ta sẽ giật cục bởi cái trò tiểu xảo rẻ tiền ấy. Chúng ta thấy lố bịch khủng khiếp khi chính ta, phương man di mông muội, không chỉ hoàn toàn có khả năng dự đoán thiên thực, mà còn có khả năng dự đoán được cả chính sự dự đoán của họ nữa. Giờ đây, ta đã biết tỏng từ lâu rằng các nhà khoa học bày biện đầy ma-nớp tạo hiệu ứng cho vở kịch của mình y hệt các chính khách. Giống hệt chính khách, họ làm chuyện ấy khá vụng về. Cả hai loại bí pháp gia thời hiện đại này đều chưa hề nhận ra những trò bịp của họ đã trở nên lộ liễu đến mức nào. Trong số những thủ thuật quen thuộc và lộ liễu nhất, có cái được gọi là chính thức bác bỏ. Ấy là một chiến lược hình thức quái đản để tuyên bố một sự việc đã xảy ra bằng cách phủ nhận rằng nó đã xảy ra. Y cái lối đó, những bản bố cáo để tẩy trắng được phát hành sau mỗi vụ bê bối chính trị cũng đều đặn và quy củ chẳng khác gì việc phát hành công báo quốc hội. Y cái lối đó, Tôn Ông Đáng kính hy vọng rằng ngài không cần phủ nhận điều gì mà ngài chắc chắn rằng Đại biểu Đáng kính không hề có ý ám chỉ. Cũng hệt vậy, một ông Bộ trưởng Nội các được cắt cử lên bục phát ngôn để mà chối bỏ không hề có bất kỳ thay đổi nào trong chính sách Chính phủ về vấn đề Damascus[v]. Và cũng y cái lối đó, nay ông Arthur Keith được cắt cử để long trọng chối chối bỏ không hề có bất cứ thay đổi nào trong lập trường của giới khoa học với thuyết Darwin.
Và khi ta nghe cái lời ấy, tất thảy đều buông ra một tiếng thở dài đắc chí, bởi ta đã biết tỏng điều ấy có nghĩa là gì. Đại khái, nó là ngược lại với thứ vừa được tuyên ra. Nghĩa là đã từng có một cuộc tranh cãi dữ dội về vấn đề Damascus trong nội bộ Đảng, hoặc nói cách khác, đang dấy lên một vụ bê bối kịch liệt rằng phe Darwin đang dần đánh mất sự tín nhiệm của nó ngay trong nội giới khoa học. Quái lạ, trong trường hợp thứ hai, giới chức thức không chỉ trịnh trọng tuyên bố chính thức bác bỏ, mà còn ngây thơ đến khó tin khi cho rằng sẽ chẳng ai nhận ra sự chính thức của nó. Trong trường hợp hư cấu pháp lý tương tự trong chính trị, các chính khách giờ đây không chỉ biết sự thật, mà thường còn biết rằng chúng ta cũng biết sự thật. Đến thời điểm này, thông qua những lời đồn đại đi đâu cũng nghe, ai nấy cũng đều đã rõ ý nghĩa thực sự đằng sau cái gọi là sự đồng thuận nhất quán về mọi mặt gắn kết Thủ tướng với các đồng liêu. Thực tế, Ngài Thủ tướng kia cũng nào có trông đợi chúng ta tin rằng ông là vị vua thánh thiện và được sùng ái giữa một huynh đệ đoàn toàn các hiệp sỹ đã thề tận trung chung một tín niệm và trao trọn trái tim mình cho riêng ông. Nhưng ông Arthur Keith thì thực sự trông đợi chúng ta tin rằng ông là chủ toạ hội đồng xét xử bao gồm toàn bộ những nhà khoa học khác nhau và mong đợi tất thảy họ đều nhất trí rằng quan điểm riêng của Darwin là vĩnh hằng. Đó là điều tôi muốn nói khi gọi nó là sự giấu giếm ấu trĩ và xảo thuật ngây ngô, lộ liễu. Đó là điều tôi muốn nói khi bảo họ thậm chí còn không biết chúng ta biết tới đâu rồi.
Bởi lẽ, chính trị gia tuy vậy vẫn ít cái kiểu vừa lố bịch vừa khoa trương hơn nhà nhân học, ngay cả khi ta đem so sánh họ bằng thứ mà cả hai đặt tên là Tiến bộ, thứ ít nhiều chỉ là một tên gọi khác cho Thời gian. Tất cả chúng ta đều biết cái thái độ lạc quan quan phương vốn luôn bênh vực chính phủ đương nhiệm. Nhưng điều này cũng giống như một sự bệnh vực quan phương cho tất cả những chính phủ trong quá khứ. Nếu một người nào đó dám phán rằng đường lối chính trị của Palmerston là vĩnh hằng, chúng ta hẳn sẽ cho là y hơi lỗi thời. Thế đấy, Darwin cũng nổi danh vào quãng thời gian tương tự Palmerston và cũng đã lỗi thời y hệt. Nếu ông Lloyd George đứng dậy và tuyên bố rằng Đảng Tự do vĩ đại chưa từng chùn bước dù chỉ là một ly so với bất kỳ lập trường nào mà Cobden và Bright, những Hộ dân quan chân chính duy nhất, đã đề ra, thì chúng ta buộc phải miễn cưỡng kết luận (nếu có thể hình dung điều ấy) rằng ông đã chỉ tuôn những lời rỗng tuếch mang tính đảng phái với những kẻ mù tịt về lịch sử của chính đảng mình. Nếu một nhà cải cách xã hội nào đó trịnh trọng tuyên bố rằng toàn bộ triết học xã hội vẫn tiếp tục lối đi đúng đắn trên những nguyên tắc của Spencer, thì ta sẽ thừa biết rằng sự thực chẳng hề như thế, và rằng chỉ có một viên chức đã lỗi thời đến tận xương tuỷ mới có thể giả vờ được như thế[vi]. Thế mà Darwin và Spencer không chỉ là hai người đồng đại, mà còn là hai đồng chí và đồng minh, và sinh học Darwin cùng xã hội học Spencer đã từng được xem là những phần tử của cùng một phong trào, thứ mà bậc cha chú ta từng coi là một phong trào cực kỳ tân thời. Vì vậy, ngay cả khi chỉ xem xét bằng xác suất tiên nghiệm, thì cái cái giả tưởng rằng khoa học ở thế hệ đó lại có giàu tính bất khả ngộ hơn đạo đức và chính trị của chính thời ấy xem chừng khó tin. Ngay cả trên những nguyên tắc mà ông Arthur tuyên xưng, có vẻ cũng rất kỳ quặc khi giờ đây chẳng còn gì để nói thêm về học thuyết Darwin ngoài những gì ông ta nói. Nhưng ta không cần viện dẫn đến những nguyên tắc hay những xác suất đó. Chúng ta chỉ cần viện dẫn sự thật. Và tình cờ sao, chúng ta thực sự biết đôi điều về những sự thật ấy; và ông Arthur Keith dường như chẳng biết là ta biết.
Ấy là trong một tờ báo Công giáo, nơi đăng tải vài chủ kiến về học thuyết Darwin ở thời nay; những lời ấy chính ngài Arthur Keith đã chẳng ngại mất công lên tiếng bác bỏ; và cũng chính bởi những lời ấy mà ngài Arthur Keith đã bị vạch trần là sai lạc một cách chấn động và thảm hại. Chuyện thế nào, hẳn độc giả tờ ấy đều đã tường; song le, có lẽ nó chẳng bao giờ đến được phần đồng ký giả các tờ khác, và chắc chắn sẽ không được ghi lại ở những tờ khác. Liên quan đến bất đồng mang tầm vóc vũ trụ này, phần lớn các tờ báo kia đều bộc lộ rõ ràng tính đảng phái của mình, và họ vẫn triệt để nâng đỡ lãnh đạo phe mình mỗi khi ông ta tung bác bỏ chính thức. Họ sẽ không bao giờ cho độc giả biết rằng các bác bỏ này từng bị một cái bác bỏ khác đập cho nhừ ra rất là hiển hách.
Khi ông Belloc tuyên bố rằng những tín đồ Darwin này đã lỗi thời và trở nên dốt nát về sinh học hiện đại, ông đã dẫn ra, cùng với rất nhiều học giả đương thời khác, nhà sinh vật học người Pháp Vialleton, người đã phủ nhận khả năng của chọn lọc tự nhiên trong một trường hợp cụ thể liên quan đến bò sát và chim[vii]. Ông Arthur Keith, khi nhảy bổ ra để cứu nguy cho ông H. G. Wells và nóng lòng muốn chứng minh ông và Wells không hề lỗi thời hay dốt nát về sinh học hiện đại, đã thẳng mặt bác bỏ Belloc rất kịch liệt. Ông ta nói rằng sách Vialleton chẳng hề có một tuyên bố nào như thế hết; nói cách khác, ông ta buộc tội Belloc đã trích dẫn sai hoặc xuyên tạc cuốn sách của Vialleton. Sau đó, ai nấy đều ngã ngửa, đặc biệt là chính Belloc, khi té ra ông Arthur Keith thậm chí còn không biết đến sự tồn tại của cuốn sách. Ông ta chỉ tham khảo một tác phẩm sơ đẳng và cũ kỹ của cùng tác giả đã được xuất bản từ khá lâu. Đó là tất cả những gì của Vialleton ông từng đọc. Còn cuốn hữu quan nhất kia – thứ mà một kẻ ngoại đạo như tôi, một người hết sức bình thường, cũng đã ít nhiều nghe danh – thì hoàn toàn chưa lọt đến tai ông. Nói ngắn gọn, lời buộc tội chung rằng những tín đồ Darwin đã lỗi thời trong kiến thức của mình đã được chứng minh bằng sự chắc chắn đỉnh điểm mà tất thảy cuộc tranh luận nào trên thế gian này đều mong muốn đạt tới.
Giờ đây, sau một sự vụ như thế, lại còn có liên quan tới chính chúng tôi, xuất hiện trên trang báo mà tôi cộng tác, trong chính câu chuyện của người bằng hữu tôi, thì thử hỏi làm sao tôi ở địa vị này mà có thể nghiêm nghị coi trọng bài viễn văn khai mạc Hiệp hội Anh ở Leeds? Làm sao chúng tôi có thể nén được nụ cười chực thoát ra khi ông Hội trưởng oai vệ vung tay lên trời như thể đang chỉ tay lên vầng tinh tú và tuyên bố thuyết Darwin cũng vĩnh hằng như sao trời? Những thứ ấy, kỳ thực, đâu có dành cho chúng tôi, mà chỉ nhắm vào hàng ký giả tường thuật sự kiện vậy thôi; cũng y như cái sự kiện có thật về trận bút chiến giữa Wells và Belloc thường bị kiểm duyệt loại thẳng khỏi những bài tường trình.
Bùi Gia Bin dịch
[i] (ND) Trong giới tư tế tối cao của La Mã, có chức vụ gọi là quan bói (augur) giữ công việc thực hành các nghi thức phức tạp để đưa ra các quyết định chính sách đối nội và đối ngoại quan trọng của quốc gia dựa trên cơ sở ý Bề Trên. Trong đó, phép luận thú tạng (mổ bụng thú để xem nội tạng rồi luận) và luận điểu điềm (xem đường chim bay hoặc tiếng kêu của chim rồi luận) là hai thực hành phổ biến.
[ii] (ND) Trong tiếng Anh, thành ngữ ‘let the cat out of the bag’ (để mèo sổng túi) được sử dụng để ám chỉ một sự thật được tiết lộ một cách vô thức trong khi đáng lẽ nó phải được giữ kín.
[iii] (ND) Tác giả đề cập một tôn giáo và một thực hành tôn giáo ít nhiều khác biệt và được cho là điên rồ thời ấy. Trong giáo lý Mặc Môn có đề cập đến Siêu Thăng (Exaltation), trong đó con người có thể đạt tới địa vị Thượng Đế, tức trở nên giống Ngài, được ban cho sự sống đời đời và có khả năng sáng tạo, cai quản thế giới khác. Các bài giảng của đạo này thường đề cập đến hình ảnh tín đồ nào trung tín sẽ được phần thưởng là mão triều thiên của trời (celestial crown). Trong những cách diễn đạt ước lệ, các ngôi sao trên vương miện ấy sẽ được hiểu như phần thưởng hoặc vinh dự người đó nhận được ở cõi đời sau. Tín đồ “Cuồng Giật” lại là một cách gọi miệt thị/châm biết do người ngoài dùng để chỉ một số tín hữu Kháng Cách theo trào lưu Thánh Khiết và Ngũ Tuần, nổi bật với nghi thức thờ phượng cuồng nhiệt. Thực hành điển hình của họ là các lăn lộn trên sàn, té ngã, ngất xỉu, tẩu hoả, nói tiếng lạ, v.v. và xem đó là do Đức Chúa Thánh Linh đã cảm thúc họ. Đây là một từ lóng được báo chí sử dụng để tường thuật mang tính bỉ bôi, cũng thịnh hành vào đâu đó cuối thế kỷ XIX, đầu XX.
[iv] Charles Bradlaugh (1833–1891) và Robert G. Ingersoll (1833–1899) là những nhà vô thần công khai và nhiệt thành ủng hộ thuyết tiến hóa của Darwin, xem đây là cơ sở cho chủ nghĩa thế tục mà họ truyền bá. Bằng cách liệt kê họ cùng với "bất kỳ tay vô thần nào trên bục diễn thuyết ở Hyde Park", nơi bất kỳ ai cũng có thể rao giảng quan điểm của mình về ti tỉ thứ trên một chiếc bục tuềnh toàng kê cao tầm nửa thước, Chesterton đã tước bỏ hoàn toàn vỏ bọc khách quan của Keith. Ông ta không còn là một "chủ tọa" phiên tòa trung lập nữa, mà đã bị hạ bệ xuống hàng ngũ những người có định kiến từ trước, những kẻ mà sự ủng hộ dành cho Darwin là điều đương nhiên và dễ đoán.
[v] (ND) Vấn đề Damascus ở đây ám chỉ cuộc khủng hoảng ngoại giao - quân sự của Anh tại Trung Đông vào thập niên 1920. Sau Đệ Nhất Thế chiến , Syria rơi vào tay Pháp theo chế độ uỷ trị của Hội Quốc Liên. Damascus trở thành trung tâm nổi dậy chống Pháp (năm 1925–1927). Trước sức ép đó, Chính phủ Anh thường bị chất vấn trong Quốc hội về chính sách riêng của mình đối với Syria và Damascus, đặc biệt trong quan hệ với Pháp. Các Bộ trưởng Nội các khi ấy thường phải đứng ra trịnh trọng phủ nhận rằng có bất cứ “thay đổi” hay “nhượng bộ” nào từ phía Anh – một kiểu bác bỏ hình thức rất giống với cách mà bài văn đang chế giễu.
[vi] (ND) Đoạn này cần một sự bình xét với lượng lớn thông tin để độc giả ta hiểu về bối cảnh chính trị, học thuật nước Anh giai đoạn này. Palmerston (1784–1865) là chính khách hàng đầu của nước Anh trong nửa đầu thế kỷ XIX khi ông này giữ chức Thủ tướng đến hai nhiệm kỳ, 1855–1858 và 1859–1865. Ông ngoại giao theo kiểu pháo hạm, chủ trương những hành động hiếu chiến, hung hăng và can thiệp nhân danh lợi ích quốc gia. Ở đây, ta thấy có một sự đối chiếu vô song của Chesterton khi đưa ra hai tham số là Palmerson và Darwin, bởi hai bọn họ đều rơi vào tình trạng lỗi thời vào quãng giữa và cuối thập niên 1920. Các phương pháp và tư tưởng cực đoan của Palmerson đã bị thay thế bởi một trật tự thế giới mới với đặc trưng là các thể chế hoà hoãn (Hội Quốc Liên) cùng các chuẩn mực ngoại giao mới. Cũng đúng thời điểm này, các giả thuyết của Darwin, đặc biệt là thuyết chọn lọc tự nhiên như động lực duy nhất, đang bị thách thức dữ dội bởi di truyền học Mendel, đột biến học, v.v.. Lloyd George (1863–1945) là một chính khách người Wales, lãnh đạo Đảng Tự do và là Thủ tướng Anh trong thời kỳ quan trọng của Thế chiến thứ nhất (1916–1922). Ông được biết đến như một nhà cải cách xã hội đầy mưu lược và thủ đoạn. Đến thời điểm Chesterton viết (những năm 1920), Đảng Tự do, từng là một trong hai đảng chính trị lớn của Anh, đang suy tàn nhanh chóng và bị thay thế bởi Công Đảng. Lập trường và chính sách của đảng đã thay đổi rất nhiều kể từ thời kỳ của Cobden (1804–1865) và Bright (1811-1889) – những nhà tự do cổ điển ủng hộ thương mại tư do, chủ nghĩa hoà bình quốc tế và giảm thiểu sự can dự của nhà nước (nôm na là trái ngược thứ mà Lloyd George đại diện). Việc Lloyd George tuyên bố rằng đảng chưa từng "chùn bước" so với các nguyên tắc ban đầu là một lời nói dối trắng trợn, dễ dàng bị những người hiểu biết lịch sử vạch trần. Herbert Spencer (1820–1903) là một triết gia, nhà xã hội học và là người theo thuyết Darwin xã hội nổi tiếng người Anh. Ông là người ủng hộ nhiệt thành chủ nghĩa cá nhân triệt để và thuyết vũ trụ tiến hóa. Spencer tin vào laissez-faire một cách cực đoan, cho rằng xã hội nên vận hành theo các quy luật chọn lọc tự nhiên và sự sống sót của kẻ giỏi thích nghi nhất. Ông cho rằng mọi sự can thiệp của nhà nước vào việc giúp đỡ người nghèo hoặc người yếu thế đều là sai trái vì nó can thiệp vào quá trình tiến hóa tự nhiên. Ý tưởng này Đến thập niên 1920, các ý tưởng của Spencer đã bị lung lay mạnh mẽ. Sự nổi lên của Nhà nước Phúc lợi mà chính Lloyd George là một kiến trúc sư, cùng với những hiểu biết mới về xã hội, đã khiến triết học của Spencer trở nên lỗi thời và bị xem là tàn nhẫn. Khẳng định rằng triết học xã hội vẫn đi theo các nguyên tắc của Spencer vào thời điểm đó là hoàn toàn vô lý.
[vii] Louis Vialleton (1859–1929) là nhà giải phẫu học và sinh học người Pháp. Ông không phải là người theo chủ nghĩa sáng thế cực đoan theo hướng tôn giáo, nhưng ông phê phán cơ chế chọn lọc tự nhiên của Darwin, cho rằng nó chưa đủ để giải thích sự biến đổi hình thái phức tạp trong lịch sự tiến hoá. Ông nhấn mạnh sự tiến hoá chắc chắn hiện hữu, nhưng chọn lọc tư nhiên không phải là nhân tố then chốt. Trong tác phẩm quan trọng đang được nhắc tới, cuốn Morphologie générale Membres et ceintures des vertébrés tétrapodes: Critique morphotogique du Transformisme (1924), Vialleton đã đưa vào lại vấn đề về sự chuyển tiếp giữa bò sát và chim – một hố sâu lớn trong nghiên cứu tiến hoá thời kỳ ấy. Ông phản biện bằng lập luận rằng sự khác biệt của cấu trúc giải phẫu (đặc biệt là xương chi, cấu tạo phổi và khả năng bay) giữa bò sát và chim là sự nhảy vọt quá lớn để chỉ có thể giải thích bằng chọn lọc tự nhiên, vốn diễn ra lâu dài và có biên độ thay đổi thấp.