Cái tuổi đó
Nguyễn Tuân từng viết: “Tôi yêu đêm. Đấy là những giờ quý báu nhất trong thời biểu một ngày mà một người biết nói thầm với một người. Tôi sống cuộc đời tiềm-tàng của tôi vào lúc khí âm thịnh”. Có lẽ càng trưởng thành thì người càng yêu đêm, còn ở thuở bé con, chỉ ánh sáng rực rỡ ban ngày mới là nguồn vui sống, đêm là khoảng thời gian bị cướp một cách bất công. Törless thấy đêm nào cũng là một hư vô, một nấm mồ, một sự tắt ngấm, là cổng tối dẫn vào các niềm vui xa lạ mà cậu không được giao cho bí mật, thế nên đời cậu trống rỗng và bất hạnh. Đêm là khoảng thời gian con người sống trong thế giới nội tâm, mà cõi bên trong ấy chỉ phát triển dần theo quá trình trưởng thành chứ không có từ ban đầu - từ thuở bé con, người lớn dần thì dần thấy thế giới phong phú nảy nở trong mình, trưởng thành đồng thời là quá trình thám hiểm chính mình. Hành trình ấy của Törless nhiều hiểm hoạ, tác phẩm có thể xem là quá trình khám phá cõi đêm của Törless, và kết thúc bằng màn tổng kết thành quả ở phiên điều trần.
Khi còn bé con, người là khối thống nhất giữa bên trong và bên ngoài, giữa hành động và dục vọng, từa tựa loài vật: đứa bé khóc đòi kẹo. Chín chắn dần, hai cõi dần tách biệt, người không làm điều mình muốn và nói điều mình nghĩ nữa, phải chăng ta lầm tưởng thế giới bên trong phát triển thì thực chất chỉ do ta tìm cách đè nén bản thân mình. Dẫu sao, kinh nghiệm đánh mất người bạn Prinz là bài học đầu đời của Törless, rằng sự thẳng thắn của trí năng chỉ đem lại kết quả tệ hại, Törless đã học về sự nhạy cảm trong quan hệ người-người. Có thể nói càng trưởng thành: bên trong càng phong nhiêu với những suy xét luân lý đối nhân xử thế, bên ngoài càng khổ hạnh với những cung cách giao tế lịch sự, nhiều suy tư hơn và ít hành động hơn. Lại thêm, Törless phải sống trong trường nội trú, nơi hà khắc và bạo lực triền miên - môi trường đực tính gò ép thiếu niên vô khuôn cung cách khô kiệt lạnh lùng, một tâm hồn nhạy cảm ở nơi đây sẽ thấy bức bối vì không có chỗ phát triển, tình cảm bị chế nhạo là yếu đuối. Nỗi nhớ nhà hay nhớ những con người cậu không cần phải giữ kẽ khi sống cùng, cũng là nỗi nhớ cái nhân cách hồn nhiên tự do mà cậu đang đánh mất dần, nhân cách nhà binh đang gặm nhấm nhân cách ở nhà, để đến khi nỗi nhớ nhà biến mất thì cậu chính thức vào khuôn khổ, cậu nhận thấy cơn trống rỗng của trưởng thành. Con người ở trường mới là nhân cách thực sự. Robert Graves kể: Mỗi lần quay lại trường sau kỳ nghỉ, quá trình biến đổi từ con người ở nhà sang con người ở trường diễn ra gần như chỉ trong chớp mắt, còn như muốn biến ngược lại thì tốn ít nhất phải hai tuần.
“Một sự thiếu xác định, một nỗi hoảng loạn bên trong đi liền sau đó, những thứ này ngăn cản cậu tìm được chính mình.”
Trưởng thành cũng là khi người thấy được độ nặng của kỷ niệm, thấy linh hồn không được tái tạo mỗi ngày, mà lại bị hằn vết vĩnh viễn bởi sự kiện nào đó trong quá khứ. Chuỗi kỷ niệm thuở thơ ấu quấn cuộn quanh nhân cách như những sợi xích, ràng buộc người vào một cá tính - một cuộc đời, kinh nghiệm chồng chất làm tê liệt khả thể cuộc đời. Khi Törless trưởng thành, cũng là lúc cậu thấy rằng một bó buộc chẳng chút xót thương cầm tù, nén cuộc đời cậu vào tiến trình đi hết trên cái đường thẳng duy nhất kia. Càng lớn lên, người càng dự phóng cuộc đời mình thêm xa, càng thấy số lượng lựa chọn thêm phần ít ỏi, đường đời thêm phần thẳng băng thiếu nét ngoằn nghèo của Sterne, Törless đã thăm dò những kỷ niệm và cảm thấy bị cầm tù trong các dây buộc của chúng.
Đến một ngày, người thấy dục vọng của mình thật phiền nhiễu, chứ còn thuở bé con thì mọi dục vọng đều chính đáng, người thấy như thể dục vọng vùng lên phụt trào từ đáy sâu tăm tối nơi hữu thể, ở tận bên ngoài tầm với của chính mình, người thấy mình là tên nô lệ bị đày đoạ bởi thân xác, người bị chính mình quật roi, người đã hoài nghi và phản tư về nhục cảm của mình, Törless bắt đầu tò mò về chính mình. Người đặt câu hỏi tại sao mình muốn, câu hỏi không một đứa trẻ nào đặt. Nhất là ở tuổi mới lớn, nhục cảm tình dục là trải nghiệm khiến người cảm thấy xa lạ với thân thể mình nhất, vì nó đến muộn hơn nhục cảm ăn uống vốn bẩm sinh, nó kém tự nhiên và ít chính đáng hơn, nó như một bài tập được giao thêm lúc cuối giờ, nó đến như một cơn sốt khi ta lơ đãng, nó làm má ta nóng phừng và cảm thấy nhục khi biết mình lệ thuộc người khác. Cô gái điếm Bozena là người sớm đưa lên bề mặt, những mẩu nhỏ nhân cách của các cậu học sinh, càng thấy bối rối trước sự sa ngã của mình trong nguồn dục vọng bí ẩn, càng có nhiều ý nghĩ lạ thường về bản thân mình, Törless càng mò mẫm sâu vào bên trong cậu. Thứ khiến cậu bị hấp dẫn bởi Bozena là được từ bỏ mọi thứ thông thường vẫn cầm tù cậu, được trần truồng là một khối dục vọng tăm tối, được săm soi vẻ lem luốc khác thường của bản thân như để thoả mãn nỗi tò mò rằng chính mình có thể như nào. Rồi sau đó, là nỗi hoảng hốt đầy nhục nhã với nhục cảm thân thể trong mối quan hệ với Basini, người trưởng thành khi thấy xa lạ với cơ thể mình, người thấy cơ thể thật bất tuân và bạo chúa.
Đó là tình trạng rối bời bên trong Törless, một nhân cách đang cố gắng hàn gắn chính nó giữa cơn bão các lực nội tâm, người không ngừng ngạc nhiên với diễn biến bên trong mình. Một trí năng trẻ đang thám hiểm thế giới bí hiểm của cảm xúc và dục vọng, một con người đang cố gắng nhận ra chính mình. Thế giới bên trong và thế giới bên ngoài của tuổi mới lớn, Törless luôn ở tình trạng phân ly làm đôi, vỏ ngoài càng lúc càng khô cứng, còn bên trong thì càng lúc càng bung nở, hoàn cảnh tạo nên vẻ lạnh lùng vô cảm khi thực hiện các tội ác man rợ, như một nhà phát minh đang thí nghiệm ghế điện tử hình. Tò mò về bản tính con người là lý do lớn để Törless tham gia cuộc thí nghiệm bắt nạt Basini, như một cách để tìm tòi chính bản thân mình.
Bối cảnh tác phẩm là khi đã qua thời các cuộc cách mạng, không còn một sứ mệnh lịch sự đặt người vào thể động tiến lên, các cậu thiếu sinh quân uể oải trì trệ ngồi trong tiệm bánh ngọt, nhưng không có gì để chờ đợi. Tất cả đói khát lý tưởng, đói khát ý nghĩa cuộc đời. Một mục tiêu cuộc đời sẽ thống nhất cả bên trong và bên ngoài Törless, như một con người hành động - một cỗ máy mà tất cả chi tiết đều hoà hợp với nhau cho mục đích chung quyết. Alain từng viết (đại khái) thay đổi tính cách học trò dễ hơn tìm hiểu bản tính học trò, và cần một tấm gương để học trò vươn lên, như Berdiaeff cũng từng viết (đại khái) nếu không ở thể động hướng về hình mẫu, thì cõi nội tâm người sẽ lủng củng rời rạc và rồi sụp đổ. Các cậu bé bị ép vào khuôn phép của kỉ luật, nhưng lại không được trao hệ tư tưởng nhân văn tạo nghĩa cho lề phép ấy, thì chỉ tổ tạo nên những cá nhân lầm lũi tuân lệnh bất kỳ hệ tư tưởng nào miễn đó là luật chính quy. Môi trường lý tưởng cho chủ nghĩa phát xít nảy nở, nỗi buồn chán ngày qua ngày theo khuôn phép vô mục đích là nguyên nhân lớn cho cuộc xả ác tâm lên người Basini, như một lần được thi hành công lý sảng khoái.
Nghĩa của đạo đức có thể tìm thấy trong các tác phẩm nhân văn lớn. Robert Musil thường cho thấy Törless bỏ lỡ cơ hội đọc những nhà văn cổ điển như Goethe hay Schiller, và không đọc được Kant. Lý do chung là vì các tác phẩm quá nổi tiếng nên bị xem là rất chán, hoặc đã được giải quyết xong xuôi tạo thành lương tri, nên không cần đọc nữa. Thứ nuôi dưỡng và làm rường cột cho tâm hồn cậu chỉ là những bộ tiểu thuyết mùi mẫn và những truyện cười quân đội, không có một chút dưỡng chất nào cho tâm hồn đang phải xây dựng nhân cách. Cậu phải tìm cách chống trả cơn nhục cảm và ác ý trong khi thiếu hẳn các ý lớn trong tay.
Ba nguồn mà Törless tìm đến để giải đáp thắc mắc trong quá trình trưởng thành là gia đình, nhà trường và bạn bè. Có lẽ không cần nói đến bạn bè - chỉ gồm những thằng nhóc rối bời không kém cậu, và cậu xem thường phần lớn.
Về phía gia đình, thứ cậu nhận được chỉ là lẽ thường, thứ lẽ thường nhạt nhẽo thuận theo số đông mang tính cách bourgeois không làm hài lòng tâm hồn sâu sắc như của cậu, thứ lẽ thường mà theo Lukács là “sự sống bị thống trị bởi một sự lặp có hệ thống theo một luật chặt chẽ, một bổn phận không thể không tuân phục dẫu thích hay không”, và mang tính cộng đồng - vì mọi người đều làm như thế nên phải thế. Nhưng thiếu niên lại cô độc, trước hết bởi tâm thế thế hệ mới nên những quy tắc cũ không còn hiệu lực, và sau bởi đòi hỏi truy tận nguồn gốc của tâm tính thiếu niên, họ không bằng lòng với lý lẽ “từ trước đến giờ đều như thế”. Nếu người lớn do quỹ thời gian hạn hẹp đã rất hài lòng việc thuận lẽ thường - không cần mất thời gian dựng lại triết lý, Törless muốn thấy ngọn nguồn uyên nguyên của mọi điều thuộc lẽ thường, cậu thấy mình không phục câu trả lời thiếu cảm xúc lẫn diễn giải cá nhân của cha mẹ. Cậu không đào được các ý tư tưởng từ thư trả lời, thứ mà cậu thèm khát sẽ thấy được khi cậu lao vào đọc Kant. Khác với hình thức điều răn tĩnh của luật, hình thức lệnh thức tuyệt đối của Kant là một động cơ sản xuất luật cho phép con người có thể hành động đạo đức một cách sáng tạo, không gán cứng những điều nên làm và không nên làm, con người được tự do suy xét làm điều tốt nhất theo phán đoán của bản thân. Nhưng tiếc là Törless không đọc nổi Kant.
Törless biết đến Kant do thầy toán giới thiệu, khi cậu đặt cho thầy câu hỏi về nghĩa của số vô tỷ. Thứ cậu nhận được từ trường lớp là sự thật, nhưng thứ cậu khao khát lại là nghĩa của sự thật. Định lý, kiến thức và thông tin được chép lên bảng như những hòn sỏi ven đường, chúng chẳng quan hệ gì với người học: số vô tỷ là như vậy, nhưng Törless muốn hỏi tồn tại của số vô tỷ là có nghĩa gì, rằng cần một vật không tồn tại để các vật có thực hoạt động ổn thoả, hay như thế nào. Cách vũ trụ vận hành không thoả mãn sa mạc nơi tâm hồn Törless, thứ cậu khao khát là ý nghĩa của bản thiết kế vĩ đại, một khát vọng không kém Faust.
“Cậu phải cảm thấy mọi sự, các vật, những con người, các sự kiện, như là không rõ nghĩa; như là một thực tại mà quyền năng của một người sáng tạo đã buộc vào một cái từ nhiều sức giải thích, vô hại, nhưng không phải vì thế mà bớt cũng là một chất xa lạ, vào mọi lúc đều có khả năng bung ra”.
“Còn nhiều điều khác nữa nơi ngự trị, giữa kinh nghiệm sống động và hiểu biết, một sự bất tương thích tương tự. Không thể khác, những gì chúng ta đã trải qua trong một thoáng chốc như là một toàn thể và chẳng hề tự đặt cho mình bất cứ câu hỏi nào trở nên không thể hiểu và mù mờ ngay khi chúng ta muốn dùng suy nghĩ buộc chúng lại nhằm đảm bảo quyền sở hữu với chúng”.
Dòng phấn trắng trên bảng thì im lìm với đôi tai của Törless, mọi vật hoạt động hàng đời như thế, nhưng điều đó liên can gì đến cậu, cậu khao khát được biết mối quan hệ giữa cậu và vũ trụ, chứ không phải cách vũ trụ lặng lẽ vận hành theo các định luật bên trên con người, thứ cậu cần là nghĩa của sự thật, sự thật thì không chuẩn bị cho con người trước cuộc đời. Cậu bơ vơ không biết phải ra sao trong cõi vũ trụ hoạt động êm ru.
Lẽ thường và sự thật là thế giới bên ngoài, không liên kết nổi với cõi nội tâm hỗn loạn của Törless, thế là cậu mãi hoảng hốt giữa hai thế giới, cho đến buổi điều trần cuối truyện.
đọc Torless