Vị trí của Simone Weil (tiếp)
Phần đầu tiểu luận của Czesław Miłosz về Simone Weil được đăng trên Văn Bản kỳ Hạ 2024. Sau loạt “Nghĩ chiến tranh” của kỳ Thu (gần nhất ở kia), đã có thể kết thúc tiểu luận ấy. Miłosz nhìn thấy ở Weil sự ngu ngốc nhiệt thành, hoàn toàn chủ ý: một kẻ nhất quyết treo mình ở ngưỡng cửa, từ chối đặc quyền, khăng khăng chia sẻ phần số với những người bị loại ra, kể cả khi biết rõ chẳng thể thay đổi được gì.
Miłosz dịch Weil vào năm 1958: thời điểm đất nước Ba Lan đang bị kéo nát bởi hai phe. Đó cũng là một trong những hành động tự biết không thay đổi được gì, nhưng vẫn phải làm, càng cần phải làm, làm không bao giờ ngừng, không bao giờ xong. Sự nhỏ bé của con người được đối diện tận cùng, nhưng sự lớn lao của nó cũng nằm ở đó.
Vị trí của Simone Weil (1960)
- Czesław Miłosz
Cần nói vài lời về con đường Simone Weil đi đến Kitô giáo. Bà thấm đẫm triết học Hy Lạp. Bậc thầy bà tôn kính nhất là Plato, người bà đọc và đọc lại nhiều lần trong nguyên bản. Có thể nhận thấy một nghịch lý tương đồng giữa thời đại chúng ta và thời Rome suy đồi, thời điểm mà, đối với nhiều người Plato - “Moses Hy Lạp”, như ông đôi khi được gọi - đóng vai trò người dẫn đường đến miền đất hứa của Kitô giáo. Tình yêu của Simone Weil dành cho Hy Lạp lớn đến mức bà coi toàn bộ triết học Hy Lạp vốn là Kitô giáo, chỉ trừ một người: Aristotle, mà bà gọi là “cây xấu sinh trái độc”. Bà gần như bác bỏ toàn bộ truyền thống Do Thái. Bà chưa từng quen thuộc Do Thái giáo và cũng không muốn quen thuộc, bởi không thể tha thứ cho người Do Thái cổ đại về hành động tàn bạo của họ - chẳng hạn tiêu diệt triệt để toàn cư dân xứ Canaan. Là một người cánh tả kỳ lạ, bà dứt khoát bác bỏ mọi quan niệm về tiến bộ trong lĩnh vực đạo đức, quan niệm phổ biến cho rằng những tội ác xảy ra ba nghìn năm trước có thể được biện minh phần nào vì con người thời đó “kém phát triển”. Bà cho rằng chính Kitô giáo thời kỳ đầu, thông qua ý niệm “sư phạm thần thánh”, đã đưa vào một thứ “độc dược”, cụ thể là quan niệm về tiến bộ lịch sử trong đạo đức. Bà nói: “Sai lầm lớn của những người Marxist và toàn bộ thế kỷ XIX là nghĩ rằng chỉ bằng việc tiến thẳng về phía trước, người ta sẽ bay lên trời.” Theo bà, tội ác trong quá khứ xa xôi phải được phán xét nghiêm khắc y như tội ác được gây ra ngày hôm nay. Đó là lý do bà mang nỗi kinh hoàng sâu sắc đối với Rome cổ đại, một nhà nước toàn trị không khác mấy nhà nước Hitler. Bà cho rằng các Kitô hữu đầu tiên hoàn toàn đúng khi gọi Rome bằng cái tên Con Thú Khải Huyền. Rome hoàn toàn phá hủy các nền văn minh cổ của châu Âu - có lẽ vượt trội hơn văn minh của người La Mã, vốn chỉ là những kẻ man rợ, điêu luyện đến mức xuyên tạc các nạn nhân của mình suốt nhiều thế kỷ, khiến hình ảnh của châu Âu tiền-La Mã bị bóp méo trong ký ức chúng ta. Rome cũng làm ô nhiễm Kitô giáo từ giai đoạn định hình. Nguyên tắc anathema sit[1] có nguồn gốc La Mã. Nền văn minh Kitô đích thực duy nhất hình thành vào thế kỷ XI và XII tại các vùng thuộc Langue d’Oc, giữa Địa Trung Hải và sông Loire. Sau khi nền văn minh ấy bị người Pháp từ phương bắc xâm chiếm lãnh thổ và tàn sát những kẻ dị giáo - người Albigensian - thì từ đó về sau không còn một nền văn minh Kitô nào, ở bất cứ nơi đâu nữa.
Mạnh bạo trong các đánh giá của mình và không khoan nhượng, Simone Weil, ít nhất về khí chất, là một người Albigensian, một Cathar; đây chính là chìa khóa để hiểu tư tưởng của bà. Bà rút ra những kết luận cực đoan từ tư tưởng Platon trong Kitô giáo. Ở đây ta chạm tới, có lẽ, những liên hệ ẩn giữa bà và Albert Camus. Tác phẩm đầu tiên của Camus chính là luận văn đại học của ông về Thánh Augustine. Theo tôi, Camus cũng là một Cathar, một người Cathar thuần thành, và nếu ông chối bỏ Thiên Chúa thì đó là vì tình yêu dành cho Thiên Chúa, bởi ông không thể biện minh được cho Ngài. Cuốn tiểu thuyết cuối cùng của Camus, Rơi, rốt cuộc không khác gì một chuyên luận về Ân sủng - dù là Ân sủng vắng mặt - cho dù nó cũng là một tác phẩm trào phúng: nhân vật lắm lời, Jean-Baptiste Clamence, người đảo ngược lời Chúa Jesus và thay vì “Đừng phán xét để khỏi bị phán xét”, lại đưa ra lời khuyên “Hãy phán xét, và các người sẽ không bị phán xét”, hoàn toàn có thể là Jean-Paul Sartre - tôi có lý do để tin như vậy.
Người Albigensian bén rễ trong truyền thống Mani giáo cổ, và qua đó, có họ hàng với một số giáo phái của Giáo hội Đông phương ở Bulgaria và Nga. Trong mắt họ, Thượng đế - quân chủ được tín đồ tôn thờ - là không thể biện minh, bởi đó là một Thượng đế giả, một Jehovah độc ác, một tạo hóa thấp kém, đồng nhất với Hoàng tử Bóng tối. Theo truyền thống Mani giáo, Simone Weil thường nói rằng khi chúng ta đọc lời Kinh Lạy Cha: “Nước Cha trị đến”, thì ta đang cầu cho thế gian này chấm dứt, vì chỉ khi ấy quyền năng của Hoàng tử Bóng tối mới bị tiêu diệt. Tuy vậy, bà lập tức thêm rằng “Ý Cha thể hiện dưới đất” có nghĩa là sự đồng thuận của ta đối với sự tồn tại của thế giới này. Toàn bộ triết học của bà được đặt giữa hai cực ấy.
Có một mâu thuẫn giữa khát vọng của chúng ta hướng tới cái thiện và vũ trụ lạnh lùng tuyệt đối, không quan tâm đến bất kỳ giá trị nào, bị chi phối bởi tất yếu sắt đá của nhân quả. Mâu thuẫn ấy đã được các nhà duy lý và những người theo chủ nghĩa tiến bộ thuộc nhiều khuynh hướng khác nhau giải quyết bằng cách đặt cái thiện trong thế giới này nơi vật chất và thường là nơi tương lai. Triết học của Hegel và các môn đệ ông đã đưa những nỗ lực ấy lên tột đỉnh bằng cách phát minh ra ý về cái thiện trong vận động, tiến tới sự hoàn thành ngày càng đầy đủ trong lịch sử. Simone Weil, một người tất định luận kiên định (ở điểm này bà không khác Spinoza là mấy), đã chống lại những giải pháp ấy, cho chúng là không chính đáng. Nỗ lực của bà hướng tới việc làm cho mâu thuẫn trở nên gay gắt nhất có thể. Bất cứ ai tìm cách trốn tránh một mâu thuẫn tất yếu bằng cách chắp vá nó, bà khẳng định, là kẻ hèn nhát. Đó là lý do vì sao bà từng bị buộc tội là quá cứng nhắc và thiếu biện chứng. Thế nhưng người ta cũng có thể hỏi phải chăng bà còn biện chứng hơn nhiều kẻ thực hành nghệ thuật biện chứng bằng cách biến nó thành một nghệ thuật thỏa hiệp, và bằng lòng mua lấy sự thống nhất của các đối nghịch với cái giá quá rẻ hay không.
Dĩ nhiên, thị kiến của bà không hề mang lại an ủi. Ở trung tâm tư tưởng ấy, ta thấy ý về sự tự thoái vị của Thiên Chúa, về việc Thiên Chúa rút lui khỏi vũ trụ. Tôi xin trích: “Thượng đế giao phó mọi hiện tượng - không trừ một ngoại lệ nào - cho cơ chế vận hành của thế giới.” “Khoảng cách giữa cái tất yếu và cái thiện cũng chính là khoảng cách giữa thụ tạo và Đấng Sáng tạo.” “Tính tất yếu là tấm màn của Thiên Chúa.” “Chúng ta phải để quy luật duy lý theo nghĩa Descartes - tức quy luật cơ giới hay tính tất yếu trong hình thức có thể chứng minh được với con người - ngự trị ở bất cứ nơi nào ta có thể hình dung, để từ đó ta có thể làm hiển lộ những gì nằm ngoài tầm với của nó.” “Sự vắng mặt của Thiên Chúa là minh chứng kỳ diệu nhất của tình yêu hoàn hảo, và đó là lý do vì sao tất yếu thuần, thứ tất yếu hiển nhiên khác cái thiện, lại đẹp đến như vậy.”
Bà không chấp nhận Quan phòng lịch sử của các nhà giảng đạo Kitô giáo truyền thống, cũng không chấp nhận Quan phòng lịch sử của các nhà giảng đạo tiến bộ. Điều đó có nghĩa chúng ta hoàn toàn nằm dưới quyền lực của la pesanteur, của sự nặng, rằng tiếng kêu của trái tim ta sẽ không bao giờ được đáp lại sao? Không. Có một ngoại lệ đối với tất định luận phổ quát, đó là Ân sủng. “Mâu thuẫn,” Simone Weil nói, “là đòn bẩy của siêu vượt.” “Điều bất khả là cánh cửa của siêu nhiên. Ta chỉ có thể gõ vào đó. Một kẻ khác mở cửa cho ta.” Thiên Chúa vắng mặt, Thiên Chúa ẩn mình, Deus absconditus, hành động trong thế giới bằng sự thuyết phục, bằng Ân sủng, thứ kéo chúng ta ra khỏi la pesanteur, khỏi sự nặng, nếu ta không khước từ món quà ấy. Những ai tin rằng mâu thuẫn giữa cái tất yếu và cái thiện có thể được giải quyết trên bất kỳ bình diện nào ngoài bình diện của phép màu đều là kẻ tự dối mình. “Chúng ta phải ở trong hoang mạc. Vì Đấng mà ta phải yêu không ở đây.” “Yêu Thiên Chúa bằng cách đi qua và xuyên qua sự hủy diệt của Troy và Carthage, và không có sự an ủi. Tình yêu không phải là an ủi, nó là ánh sáng.”
Đối với Simone Weil, xã hội cũng nằm dưới quy luật của tất yếu giống như mọi hiện tượng của thế giới. Thế nhưng nếu Tự nhiên chỉ là tất yếu và vì vậy vô tội, nằm bên dưới dưới bình diện thiện-ác, thì xã hội lại là miền nơi các hữu thể có ý thức phải chịu đựng dưới gót chân đồng minh và kẻ trú ngụ của tất yếu: Hoàng tử Bóng tối. Bà nói: “Quỷ là tập thể (đó chính là Thượng đế của Durkheim).” Lập trường của bà trong chính trị được tóm lại trong một ẩn dụ mà bà thường dùng, lấy từ Plato. Plato ví xã hội như một Con Thú Lớn. Mỗi công dân có một quan hệ với Con Thú ấy, và kết quả là khi được hỏi điều gì là thiện, mỗi người sẽ đưa ra câu trả lời phù hợp với chức năng của mình: với người này, điều thiện nằm ở việc chải lông cho Con Thú; với kẻ khác là gãi da nó; với người thứ ba là cắt móng cho nó. Theo cách đó, con người đánh mất khả năng biết điều thiện đích thực. Ở đó, Simone Weil thấy nguồn gốc của mọi phi lý và bất công. Con người trong nanh vuốt của tất định xã hội chỉ có thể là một kẻ tôn thờ vô thức Con Thú Lớn. Bà phản đối thứ triết học đạo đức lý tưởng luận, bởi nó chỉ phản ánh những áp lực không thể nhận biết mà một cơ thể xã hội nhất định tác động lên cá nhân. Theo bà, chủ nghĩa Kháng Cách tất yếu dẫn tới một thứ đạo đức quy ước phản ánh lợi ích quốc gia hoặc giai cấp. Còn về Karl Marx, ông là người kiếm tìm sự thật; ông muốn giải phóng con người khỏi những áp lực hữu hình và vô hình của đạo đức tập thể bằng cách vạch mặt chúng và cho thấy cách chúng vận hành. Vì ý định ban đầu ấy của Marx, chủ nghĩa Marx đối với các Kitô hữu lại quý giá hơn bất kỳ triết học lý tưởng luận nào. Thế nhưng Marx, trong khát vọng sự thật và công lý, khi cố tránh rơi vào sai lầm này lại sa vào một sai lầm khác - điều mà Simone Weil cho rằng luôn xảy ra nếu người ta phủ nhận chiều siêu việt, nền tảng duy nhất của cái thiện khả thể đối với con người. Marx chống lại thứ đạo đức bị chi phối bởi giai cấp bằng thứ đạo đức của nhà cách mạng chuyên nghiệp - cũng vẫn là đạo đức tập thể - và như thế mở đường cho một hình thức thống trị mới của Con Thú Lớn. Mệnh đề ngắn gọn này tóm lược quan điểm của bà: “Toàn bộ chủ nghĩa Marx, trong chừng mực nó đúng, nằm trong trang Plato về Con Thú Lớn; và sự bác bỏ nó cũng nằm ngay ở đó.”
Nhưng Simone Weil không quay lưng lại với lịch sử và vẫn là người chủ trương tham gia cá nhân. Bà phủ nhận rằng tồn tại một “học thuyết Marxist” nào, và lên án vật chất luận biện chứng là hiểu lầm triết học. Theo bà, vật chất luận biện chứng đơn giản là không tồn tại, bởi khi đặt yếu tố biện chứng và yếu tố vật chất cạnh nhau, thuật ngữ bị phá tung. Với phê phán ấy, bà đã vạch trần bí mật khó chịu mà chỉ các vòng tròn nội bộ của các đảng Cộng sản mới biết. Trái lại, đối với bà, đấu tranh giai cấp - lấp đầy hàng nghìn năm lịch sử - lại là thực tại hiển nhiên. Suy tư về tất định luận xã hội dẫn bà đến một số kết luận về vấn đề chính của nền văn minh kỹ thuật. Vấn đề đó như sau: con người nguyên thủy bị áp bức bởi các lực thù địch của Tự nhiên. Dần dần, trong cuộc vật lộn không ngừng chống lại Tự nhiên, con người giành được tự do; họ khai thác sức mạnh của nước, lửa, điện và sử dụng chúng cho lợi ích của mình. Nhưng họ không thể đạt được điều đó mà không thiết lập phân công lao động và tổ chức sản xuất. Xã hội nguyên thủy là bình đẳng; họ sống trong trạng thái “cộng sản nguyên thủy.” Các thành viên trong cộng đồng không bị thành viên khác áp bức; nỗi sợ hãi nằm ở bên ngoài, khi cộng đồng bị đe dọa bởi thú dữ, thiên tai, và đôi khi bởi những nhóm người khác. Nhưng ngay khi nỗ lực của con người trong cuộc đấu tranh với môi trường trở nên hiệu quả hơn, cộng đồng bắt đầu phân hóa thành kẻ ra lệnh và kẻ phục tùng. Sự áp bức của người lên người gia tăng tỷ lệ thuận với sự mở rộng phạm vi hành động của con người; dường như đó là cái giá tất yếu của nó. Đối diện với Tự nhiên, con người trong một nền văn minh kỹ thuật giữ vị thế gần như thần thánh, nhưng lại là nô lệ của xã hội. Hình phạt tối hậu của mọi sự thống trị người - người là cái chết: bằng gươm, bằng súng, hoặc cái đói. Con người tập thể đã tự giải phóng mình. “Nhưng chính con người tập thể ấy,” bà viết, “đã tự đảm nhiệm chức năng áp bức cá nhân mà trước đây Tự nhiên từng thực thi.”
Ngày nay, Simone Weil hẳn có thể củng cố các phân tích xã hội của mình bằng nhiều ví dụ mới; người ta thường nói rằng các quốc gia kém phát triển chỉ có thể tự công nghiệp hóa với cái giá phải chấp nhận hệ thống toàn trị. Trung Quốc, chẳng hạn, hẳn sẽ cung cấp cho bà nhiều chất liệu để suy ngẫm.
Vấn đề xã hội và chính trị căn bản của thế kỷ hai mươi là: “Liệu sự giải phóng này, do xã hội giành được, có thể được chuyển giao cho cá nhân hay không?” Simone Weil bi quan. Sự chấm dứt của cuộc đấu tranh giữa kẻ ra lệnh và kẻ phục tùng vẫn chưa hề ló dạng, bà lập luận. Những nhóm nắm quyền không từ bỏ đặc quyền của họ trừ khi bị buộc phải làm thế. Và bất chấp những biến động của quần chúng, cơ cấu của sản xuất chẳng bao lâu lại sinh ra những ông chủ mới; cuộc đấu tranh tiếp diễn dưới những lá cờ mới, những tên gọi mới. Heraclitus đã đúng: đấu tranh là mẹ của chư thần và của loài người.
Điều đó không có nghĩa rằng chúng ta có thể gạt bỏ lịch sử, xem nó là sự tái diễn vĩnh cửu, và thản nhiên đứng nhìn. Dù muốn hay không, chúng ta đều đã tham gia. Ta phải góp phần nghiêng cán cân bằng cách đứng về phía những kẻ bị áp bức và giảm thiểu quyền lực áp chế của kẻ ra lệnh. Không thể mong đợi quá nhiều: hubris, sự thiếu chừng mực bị số phận trừng phạt, vốn ẩn trong những định luật của tính tất yếu sắt đá.
Tầm quan trọng của Simone Weil, theo tôi, cần được đánh giá từ hình dung những khiếm khuyết chung của chúng ta. Chúng ta không thích suy nghĩ đến tận cùng đắng chát của sự việc. Chúng ta chạy trốn hệ quả ngay từ trước. Thông qua sự nghiêm khắc trong đời sống và tác phẩm (cổ điển, khô, cô đọng), bà có khả năng khơi dậy một nỗi hổ thẹn thanh tẩy. Vì sao bà lại mê hoặc nhiều trí thức ngày nay đến vậy? Đây là giả thuyết của tôi: nếu đây là một thời đại thần học thì nó mang một thiên hướng rõ rệt về phía Nhị nguyên Mani giáo. Văn chương hiện đại làm chứng cho một thứ giận dữ hướng vào thế giới, một thế giới không còn được cảm nhận như công trình của một người thợ đồng hồ khôn ngoan nữa. Cái hài của văn chương ấy (hãy nghĩ đến Beckett, Ionesco, Genet), nếu đó còn là hài, chỉ là một cái nhếch mép, một ricanement ném thẳng vào mặt vũ trụ. Giáo sư Michael Polanyi gần đây nêu luận điểm rằng đặc trưng nổi bật nhất của vài thập kỷ vừa qua không phải là sự buông lỏng đạo đức mà là một cơn cuồng đạo đức bùng nổ trong văn chương phi lý cũng như trong các phong trào cách mạng. Các vụ ám sát chính trị đã được thực hiện nhân danh chiến thắng của con người trước trật tự tàn bạo của Tự nhiên. Thế nhưng niềm tin vào phép màu của Lịch sử đang bị chính kết quả của niềm tin ấy phá hủy: công nghiệp hóa. Ngày càng rõ ràng (ở các nước Đông Âu nữa) chuyện tủ lạnh và TV, hay thậm chí những tên lửa phóng lên mặt trăng, không biến con người thành Thượng đế. Những xung đột cũ được thay thế bằng những xung đột mới, có lẽ còn gay gắt hơn.
Tôi dịch tuyển tập các tác phẩm của Simone Weil sang tiếng Ba Lan vào năm 1958 không phải vì tôi tự nhận mình là một “Weilian.” Tôi đã viết thẳng thắn trong lời tựa rằng tôi coi mình là một Caliban, quá phàm tục, quá nặng nề, để có thể khoác lên mình đôi cánh của một Ariel. Simone Weil là một Ariel. Mục đích của tôi thì thực dụng, phù hợp - tôi tin là vậy - với mong muốn của bà về số phận các tác phẩm của mình. Vài năm trước tôi đã dành nhiều buổi chiều trong căn hộ của gia đình bà nhìn ra Vườn Luxembourg - ngồi bên chiếc bàn của bà, còn vương những vết mực từ cây bút của bà - trò chuyện với mẹ bà, một phụ nữ tuyệt vời ở tuổi tám mươi. Albert Camus từng trú ẩn trong căn hộ đó vào ngày ông nhận giải Nobel và bị các nhiếp ảnh gia cùng giới báo chí săn đuổi. Như tôi đã nói, mục đích của tôi thực dụng. Tôi chán ghét sự chia rẽ Ba Lan thành hai phe: phe giáo sĩ và phe phản giáo sĩ, phe Công giáo dân tộc chủ nghĩa và phe Marxist - dĩ nhiên tôi loại trừ apparatchiki, những quan chức chỉ chạy theo mọi ngọn gió từ Moscow. Tôi ngờ rằng những người Marxist không chính thống (tôi dùng từ đó vì không có từ nào tốt hơn) và những người Công giáo phi dân tộc chủ nghĩa có nhiều điểm chung, ít nhất là những lợi ích chung. Simone Weil tấn công kiểu tôn giáo chỉ còn là sự tuân thủ xã hội hay tuân thủ dân tộc. Bà cũng tấn công sự nông cạn của những kẻ tự xưng “tiến bộ.” Có lẽ ý định của tôi, khi chuẩn bị một tuyển tập tiếng Ba Lan các tác phẩm của bà, có phần ác ý. Nhưng nếu một cuộc chiến thần học đang diễn ra - mà ở Ba Lan thì đúng là như thế, nhất là trong các trường trung học và đại học - thì mọi vũ khí đều hữu ích để làm cho đối thủ trợn mắt và để cho thấy rằng lựa chọn giữa Kitô giáo (như được đại diện bởi một tôn giáo dân tộc) và tư tưởng Marxist chính thống không phải là lựa chọn duy nhất còn lại cho chúng ta hôm nay.
Trong thế giới hiện tại, bị xé toạc bởi một cuộc khủng hoảng tôn giáo nghiêm trọng hơn nhiều những gì bề ngoài cho phép chúng ta hình dung, các nhà văn Công giáo thường bị những người ý thức về sự khốn khổ của chính họ ở tư cách những kẻ đi tìm kiếm chối bỏ - những người có phản xạ tự vệ khi họ gặp những kẻ kiêu hãnh tự nhận mình là chủ sở hữu của chân lý. Các tác phẩm của Simone Weil được đọc bởi người Công giáo và Tin Lành, kẻ vô thần và người hoài nghi. Bà đã gieo vào đời sống của cả kẻ tin lẫn kẻ không tin một thứ men mới bằng cách chứng minh rằng không ai nên bị đánh lừa bởi những khác biệt quan điểm đang tồn tại, rằng nhiều người tự cho là Kitô hữu thực ra là dân ngoại, và nhiều dân ngoại trong thẳm sâu lại là Kitô hữu. Có lẽ bà sống chính xác là để làm điều đó. Trí tuệ của bà, sự chuẩn xác trong văn phong của bà, xét cho cùng, chỉ là một mức chú tâm rất cao dành cho đau khổ của nhân loại. Và, như bà nói, “Sự chú tâm hoàn toàn không pha tạp chính là cầu nguyện.”
Anh Hoa dịch
[1] Cắt phép thông giao với người dị giáo.
