favorites
Shopping Cart
Search
Vitanova
Prev
Đông 2024
Next

Umberto Saba: Đường tắt

09/03/2025 21:49

Umberto Saba, sinh năm 1883, mất năm 1957, thường được coi là một trong những nhà thơ Ý lớn nhất của thế kỷ 20 (hai người còn lại là Ungaretti và Montale), nhưng Saba cũng viết văn xuôi. Cuốn tiểu thuyết (tự truyện) Ernesto, in sau khi Saba chết, là một câu chuyện đáng nhớ và có vị trí không nhỏ trong văn chương đồng tính: đây cũng là câu chuyện về sự lớn lên của một cậu bé. Là người Trieste, tất nhiên Saba không xa lạ với Italo Svevo, mà Saba giữ một cái nhìn trìu mến trộn lẫn với mỉa mai. Saba cũng đặc biệt quan tâm đến một nhà thơ khác, Sandro Penna.

Ngoài ra, Umberto Saba còn viết các châm ngôn (aphorism): một thể loại nằm giữa thơ và văn xuôi mà không nhiều người có thể viết được. Saba gọi các châm ngôn của mình bằng một cái tên chung: đường tắt.

 

Đường tắt

 - Umberto Saba

 

Những đường tắt đầu tiên

1

Cách trình bày của các Đường tắt. Chúng đầy các ngoặc đơn, các "giữa hai dấu gạch", các "trong ngoặc kép", các từ được gạch chân trong bản thảo và sẽ được in nghiêng, các từ viết hoa, các "dấu chấm lửng", các dấu chấm than và dấu hỏi. Xin thợ in, trước hết, và sau đó là độc giả, thứ lỗi cho tôi. Tôi không còn biết biểu đạt mà không vắn tắt nữa, và tôi đã không thể vắn tắt theo cách nào khác.

 

2

Những đường tắt. Đó là - từ điển nói - các con đường ngắn nhất để đi từ một chỗ này tới một chỗ khác. Đôi khi chúng rất khó đi; những con đường cho lũ dê đúng nghĩa. Chúng có thể mang lại nỗi hoài nhớ các con lộ dài, phẳng, thẳng, thuộc tỉnh.

 

3

Croce sau cùng [Benedetto Croce]. Trong một ngôi nhà nơi một người treo cổ, những người khác giết lẫn nhau, những người khác đem thân làm điếm hoặc chết đói một cách khủng khiếp, lại có những người khác nữa bị tống vào tù hay trại điên, người ta mở một cánh cửa và nhìn thấy một bà già đang chơi - rất giỏi - đàn spinet.

 

4

Lịch sử Ý. Đã bao giờ bạn từng hỏi tại sao Ý không có - trong toàn lịch sử của nó - từ thời La Mã cho đến ngày nay - dẫu chỉ một cuộc cách mạng đúng nghĩa? Câu trả lời - chìa khóa mở được nhiều cửa - có lẽ là cả lịch sử Ý, trong vài dòng.

Người Ý không phải là những kẻ giết cha: họ giết anh em mình. Romulus và Remus, Ferruccio và Maramaldo, Mussolini và những người xã hội, Badoglio và Graziani... Graziani cho in vào một trong những tuyên ngôn của mình: "Chúng ta đánh nhau anh em chống lại anh em". (Được tạo thuận lợi, chứ không phải được quy định, bởi các hoàn cảnh, đó từng là một tiếng hét từ trái tim, tiếng hét của một người - đã trở nên trong suốt với chính mình - rốt cuộc cũng trải lòng.) Người Ý là dân tộc duy nhất (tôi nghĩ thế) có, ở nền móng lịch sử (hay truyền thuyền) của nó, một vụ anh em giết nhau. Và chỉ với sự giết bố (giết kẻ đã già) thì người ta mới bắt đầu một cuộc cách mạng được.

Người Ý muốn tuân phục trước bố mình và nhận từ ông ta, để đổi lại, sự cho phép được sát hại những người anh em khác.

 

5

Sau Napoléon người nào cũng hơn như vậy một chút, chỉ bởi mỗi sự thể Napoléon từng tồn tại. Sau Maidaneck thì... [Chú thích của tác giả: Một số, trong rất hiếm độc giả của cuốn sách khó này, từng hỏi tôi Maidaneck là gì hay là ai. Maidaneck là một trại tập trung nhỏ của Đức: trại đầu tiên mà quân Đồng minh phát hiện được. Báo và các tờ tạp chí vào thời ấy đã kể rất nhiều về những điều khủng khiếp từng xảy ra ở đó: Buchenwald, Auschwitz, v.v... lúc đó còn chưa được biết tới.]

 

6

Napoléon từng là một con người; cũng giống tất tật các con người - chỉ trừ (vài) tên tội phạm - ông ta cũng có ý thức về lỗi. Người ta có cảm giác rằng toàn bộ quãng cuối đời của ông ta đã bị thống trị bởi cảm giác đó. Ông ta không bị hành hạ bởi ý nghĩ về những người mà ông ta đã khiến bị giết trong chiến tranh, mà bởi nỗi sám hối - mà ông ta tìm hết cách nhằm đưa xa khỏi ý thức của mình - vì đã rời bỏ, vì đã phải từ bỏ Joséphine, "Joséphine (thiếu chung thủy) tốt bụng của ông ta". Và lúc từ Nga trở về, ông ta khóc rất lâu, gọi tên bà, trong Malmaison hoang vắng.

Như một đứa trẻ, sau khi làm mẹ nó khổ sở, đi xa - càng lúc càng thêm, càng lúc càng thêm - khỏi nhà. Tối đến nó quay về, ủ rũ và mệt mỏi, và nhận ra mẹ nó không còn có thể - dẫu bà muốn vậy - tha thứ cho nó được nữa: bà đã chết. Thế là, nó khóc.

Đây không phải là một bài thơ. Đây là một sự thật; một sự thật nhỏ, đơn giản, nhiều tính con người (Napoléon cũng từng đơn giản); điều này giải thích - nhiều hơn so với có vẻ như vậy - cho chiến dịch Nga phi lý. Điều này giải thích định mệnh bên trong, thứ đã làm nảy sinh nó; dự đồ (tôi không muốn đánh động bất kỳ ai bằng cách bảo là nó có tính cách tự trừng phạt) trong đó nó đã được hoài thai.

 

7

Với những ai còn tưởng rằng Adolf Hitler (cái kẻ không thể yêu) ít nhất từng yêu nước Đức, tôi xin kể ở đây giấc mơ của hắn thực sự là gì.

Biến nước Đức thành một đống gạch vữa; và, trong các đám mây khí ngạt, trách người Đức là đã - do những người Do Thái - phản bội hắn, chính hắn thì lên trời trong một dạng phong thần, vây quanh là tinh hoa trong đám SS trẻ và trung thành nhất của hắn.

Giấc mơ đó, hắn đã có một cách sâu sắc (và tin - ôi, với lòng tin thành thực nhất trên đời! - mình tạo ra một giấc mơ khác) đến mức có thể nói là hắn đã chiến thắng - ít nhất một phần - cuộc chiến tranh của hắn.

 

8

Tuổi của con người. Nếu vũ trụ - và điều ngược lại dường không thể - nhất thiết tuân theo chỉ một luật; nếu những gì xảy tới với cá nhân - sinh ra, già đi, chết - cũng xảy tới (và - tôi nhắc lại điều này - người ta không thể nghĩ điều gì khác) với loài, với các thế giới, v.v..., thì ngày nay con người bao nhiêu tuổi? Anh ta già, trẻ, hay trung niên?

Tôi thấy dường, nếu căn cứ vào những lòng tin, ảo tưởng, phản ứng, trạng thái tinh thần của anh ta, từ đó - và là với khó khăn lớn nhường nào - anh ta mới chỉ hơi tự giải phóng được, tuổi của anh ta xoay quanh năm hoặc sáu: nói cách khác, anh ta chỉ vừa hết tuổi ấu thơ. Chẳng phải anh ta đã được nuôi dưỡng, chẳng phải ngày nay anh ta vẫn được nuôi dưỡng, bằng các câu chuyện của vú em hay sao? Và thậm chí coi chúng là nghiêm túc (viết về chủ đề này những quyển sách tranh cãi to tướng); chứ không phải như ai đó, vốn dĩ ý thức được là mình đang chịu thua trước một ảo tưởng êm dịu, đọc, vd., Nghìn lẻ một đêm tuyệt diệu. Hãy nghĩ đến vũ trụ luận (vũ trụ luận cho trẻ con đích thực, chúng nghĩ rằng thế giới dừng lại ở nhà chúng và tại bãi đất nơi người ta dẫn chúng đến để chơi) mới hôm qua hẵng còn là vũ trụ luận của chúng ta. Hãy nghĩ đến các nhà thần học, các nhà siêu hình học, hãy nghĩ (để khỏi phải nhắc những cái tên mang lại bất hạnh) tới Spinoza; tới Chúa của ông, được chứng minh "more geometrico". Rồi sao?

Rồi thì, sự thật có thể là như sau: khủng hoảng hiện tại là một khủng hoảng của tăng trưởng và một trong những khủng khoảng khó vượt qua hơn cả. Con người đang ở vào cái pha trong lịch sử tự nhiên của anh ta nơi đứa trẻ ở khi - và chẳng phải không khó nhọc - nó phải rời xa vòng tròn gia đình lần đầu tiên (váy của mẹ nó) để cùng các bạn nó - cả tốt lẫn xấu - đi đến trường.

Còn các nhà độc tài? Nhưng đó chỉ là những ông thầy giáo với cái roi cầm ở tay. Và chủ nghĩa cộng sản là trường tiểu học, sạch sẽ hơn.

Và nếu một số người sinh ra đã ở Đại học? Làm gì ở đó đây? Sáng danh Chúa! Bọn họ hiếm lắm!

 

9

Một thằng nhóc da đen lần đầu tiên bước chân vào một trường học Liên Xô. Tại tất tật các nước khác - nó khóc - bọn học sinh hành hạ nó; chẳng ai - do màu da của nó - từng muốn chơi với nó. Thế là (câu chuyện nhỏ mà có lẽ một vi nhét minh họa cho, kể) những người bạn học mới của nó liền vây lấy nó, an ủi nó, vuốt ve nó, mời nó ăn kẹo; và, rốt cuộc, dạy nó nói tên Lê nin. Sau đó, chúng dẫn nó tới trước một tấm gương. Nó trắng.

"Ngu xuẩn quá! Thể loại này, người ta từng đọc, thậm chí còn quá nhiều, trong những cuốn sách tuyên truyền dành cho bọn trẻ con của chúng ta." Điều đó không đúng. Chủ nghĩa phát xít đã không thể bịa ra một truyện kết thúc tốt đẹp. Các truyện của nó buồn, giống bộ đồng phục của lũ nhà đòn.

 

10

Cocteau. Tôi còn nhớ, sau mười năm hơn, Orphée của Cocteau. Và sau đây là kỷ niệm của tôi. Một người chồng, tức tối vì đã không giành được giải thưởng thơ, cãi cọ với vợ anh ta. Một ô cửa kính bị đập vỡ. Một công nhân bước vào để sửa. Người đàn ông không thấy (hoặc vờ như vậy); nhưng vợ anh ta thì trông thấy, đầy hoảng hốt, người công nhân làm việc chân không chạm đất, lơ lửng trong không trung. "Tôi chán các bí ẩn lắm rồi, cô ta bùng nổ. Tôi đã gọi một công nhân, chứ đâu phải một thiên thần."

 

11

Nghệ thuật sinh ra qua hình thức; nó sống, và chết, do nội dung. Câu thơ "Nel ciel dell'umiltate ov'è Maria" [Dante] ngày hôm nay không còn nói nhiều như hẳn nó từng nói cách đây sáu thế kỷ. Và thế nhưng câu thơ vẫn vậy. Nhưng - những gì còn lại thì thôi xin khỏi nói - ngay cả cái từ trong vắt "bầu trời" cũng đã, kể từ khi những cái máy bay rạch thành đường trên nó và từ đó bom rơi xuống như mưa, có một nghĩa khác. Nó làm sinh ra các liên tưởng khác.

 

12

Laura. Người ta đã tranh cãi nhiều biết bao nhiêu nhằm biết xem Laura có từng tồn tại hay không. Vào thời chúng ta vẫn vậy, vào cái thời đáng buồn (đang sắp kết thúc cho những trò chơi như vậy), một văn nhân đã thực hiện ở đây, tại Rome, một cuộc thuyết trình về điều bí hiểm gây nhiều thích thú ấy.

Nhưng đó không phải - ít nhất đó không còn - là một câu đố. Chắc chắn Laura từng tồn tại. Nàng đã tồn tại; và đấy là, trong ánh sáng của tất tật các ngày, một quý nương tóc vàng; ở những độ sâu bất khả xâm nhập (có tính cách trẻ con) của tâm hồn nhà thơ, đó là mẹ của ông; đó là người phụ nữ mà người ta không thể có. Chính ở đây tập trung toàn bộ toàn bộ câu chuyện của Canzoniere, có chút đơn điệu, hơn hai mươi năm theo đuổi yêu đương, để không đến được, để không muốn đến được gì hết. Nếu có bao giờ Laura, người ban phát cho ông những lời trách, lời ca ngợi, lời khuyên, ngồi mơ mộng ở gờ cái giường của mình, cư xử ở mọi chuyện như một người mẹ dịu dàng với đứa con yêu quý và hơi tọc mạch của mình, đã trao thân cho ông (nhưng ấy là điều mà nhà thơ - vừa làm thế vừa giả vờ mình ham muốn nó - e sợ; Canzoniere đầy ngập các âm sắc của lòng biết ơn đối với người phụ nữ, do "đức hạnh" của mình, do "sự trinh bạch" của mình giúp ông tránh, cùng cám dỗ, mối nguy bị xấu mặt), hẳn sẽ xảy tới với Petrarca điều xảy tới với Baudelaire cùng Mme Sabatier xinh đẹp và không xảy tới với ông cùng cô gái lai buồn bã của ông [Baudelaire từng tán tỉnh bà Sabatier, còn Jeanne Duval, người tình của Baudelaire, là một phụ nữ lai đen].

Hình tượng Laura hấp thụ toàn bộ sự dịu dàng của nhà thơ. Nhục cảm của mình, ông gửi nó đi chỗ khác (ông đã có - người ta kể vậy - các mối tình với đám hầu gái chẳng phải là thiếu sức sinh sôi); cho các phụ nữ, những người do khác biệt nguồn gốc của họ, không thể nào nhắc cho phần ngoài ý thức của ông, lúc nào cũng sống động và đầy chăm chú, hiện diện - rất yêu quý theo cách khác! - của mẹ ông. Nhưng tình yêu, tình yêu đích thực, tình yêu hoàn toàn, muốn một điều này và một điều khác; nó muốn sự trộn lộn hoàn hảo của nhục cảm và sự dịu dàng: đó là một trong các lý do cho sự hiếm của nó. Do đó không có, trong toàn bộ Canzoniere dài, dẫu chỉ một câu thơ nào mà người ta có thể thực sự coi là "câu thơ tình"; có nhiều thứ, nhưng không có la bocca mi baciò tutto tremante [Chàng hôn tôi miệng run rẩy], câu thơ tình đẹp nhất từng có bao giờ được viết ra.

 

13

Văn nhân đó, người thuyết trình về Petrarca, đã đi tới kết luận theo đó Laura là thơ. Chúng ta sẽ thấy ở một số ĐƯỜNG TẮT tại sao diễn giải của ông không đi xa khỏi, như là nó có vẻ, khỏi thực tại; ngược lại nó xích đến gần đó nhiều. Chỉ thêm một bước nữa thôi, hẳn Goffreddo Bellonci sẽ hiểu ra rằng, đối với các nhà thơ, thơ chính là mẹ.

 

14

Để làm ra, cũng như để hiểu nghệ thuật, có một điều, trước mọi thứ khác, cần thiết: từng lưu giữ bên trong chúng ta tuổi thơ của chúng ta; mà toàn bộ tiến trình của cuộc đời đều, vả lại, hướng đến chỗ phá hủy đi. Nhà thơ là một đứa trẻ ngạc nhiên trước những điều xảy đến với nó, với chính nó, vào lúc đã trở thành người lớn. Nhưng người lớn tới mức nào?

Ở đây chúng ta đang chạm đến một trong những khác biệt phân tách thơ nhỏ và thơ lớn. Chỉ ở nơi đứa bé và người đàn ông cùng tồn tại, dưới những hình thức cực điểm hết sức có thể, ở cùng một con người, mới có thể sinh ra - với sự giúp đỡ của rất nhiều hoàn cảnh khác nữa - phép mầu: đấy là Dante sinh ra. Dante là một đứa bé con, thường trực sửng sốt trước những gì xảy đến với một người đàn ông to lớn; họ thực sự là "hai người đàn ông trong chỉ một người". Hãy nhìn xem thằng bé Dante run rẩy, hét, bừng sáng lên vì niềm vui, run rẩy vì giận dữ và sợ hãi (giả vờ), phấn khích, tự phô bày, vì cồ quẹt mà tự hạ mình, ca ngợi lên mây xanh những điều ngoạn mục, chúng, xuyên qua nó, tới được với Dante vận áo chẽn và cằm đầy râu, như thế nào! Và những phần thưởng cùng những trừng phạt này (nhất là những trừng phạt), lũ quỷ này cùng lũ thiên thần này, các "tên hầu lịch thiệp" này, những kẻ sống cùng những kẻ chết còn sống hơn những kẻ sống này, làm ông vui thú biết bao nhiêu! Một chuyến đi mới khó tin làm sao! Làm sao mà có thể hy vọng một bữa tiệc, một khải thị lớn hơn được đây? Và chống lại ông, được hội vào với, Dante; Dante, cả con người, người chồng, người cha, chiến binh, con người phe phái, kẻ lưu đày bất hạnh và vinh quang; Dante với tất tật các dục vọng gây khiếp sợ vào thời của ông và của tuổi trưởng thành, tranh đấu chống lại những người khác và (ít hơn) chống lại chính ông, mà các sự vị luôn luôn cho thấy là đã sai, lại càng bởi thế mà chắc chắn là mình lúc nào cũng đúng, và do vậy luôn luôn mắt lồi ra khỏi tròng, ngây ngất vì căm ghét và vì tình yêu.

Nếu người đàn ông chiến thắng đứa trẻ quá mức (Montale từng gợi ý với chúng ta, ở trường hợp này, cái tên được ngưỡng vọng của Goethe), nhà thơ (ở tư cách nhà thơ) khiến chúng ta lạnh như băng. Nếu đứa bé tồn tại gần như chỉ một mình, nếu trên cái thân của nó đã chỉ hình thành một bào thai người đàn ông, thì chúng ta có "poeta puer" [con nít] (Pascoli); về đó chúng ta cảm thấy thiếu thỏa mãn và đôi chút xấu hổ.

 

15

Ông bố kia, người nhìn thấy con trai mình trong một hoàn cảnh khó khăn - chúng ta hãy nói, để dựng ra trường hợp cực điểm, trong chiến tranh - thường trực nghĩ nó đang gặp nguy hiểm, không lúc nào khác coi nó đã chết, thì không yêu con trai mình. Hoặc, nếu muốn chính xác, không chỉ yêu nó. Tình yêu không phải là một kẻ chuyên thông báo các thảm họa: tình yêu nhìn thấy mọi điều màu hồng. Và đôi khi, lẽ dĩ nhiên, nó nhầm.

 

16

Con nằm dưới đất lạnh - Con nằm dưới đất lạnh... hai câu thơ năm chữ của Carducci hay hai xẻng đất ném lên đứa con trai đã chết của ông để nó không sống lại?

Hỡi ôi! Đối với tôi trường hợp này thô thiển quá mức hiển nhiên.

 

17

Người qua đường kia, kẻ thích thú với việc nêu nhận xét với ta rằng dây giày của ta bị tuột là một kẻ thật chẳng ra gì. Có lẽ ta đã tự mình nhận ra điều đó và đang đi tìm, dẫu không để lộ ra, một chỗ để buộc lại. Có lẽ ta đang tiến lên do bị các Fury đuổi theo. Ở trường hợp thứ nhất đó là một kẻ quấy rối, còn ở trường hợp thứ hai thì...

 

18

Đến một độ tuổi nhất định, người ta không còn có thể tranh luận được nữa. Người ta chỉ có thể học hoặc dạy. Học hẳn vẫn cứ là điều tốt đẹp hơn. Nhưng ai có thể dạy cho một ông già đây? Ông ta phải học từ chính mình hoặc chết.

 

19

Tôi chẳng có gì để nói với các triết gia; và họ cũng không có gì để nói với tôi. Những lúc nào tôi xáp lại gần họ, họ liền trở nên trơn tuột; họ tan vào cái phổ quát để khỏi bị đâm tại một điểm xung yếu. Tất tật những hệ thống của họ đều là "các vá víu" dành để che giấu một "vết vỡ của thực tại".

Các nhà thơ hứa ít hơn và giữ cam kết nhiều hơn.

 

20

Không có bí ẩn của cuộc đời hay của thế giới hay của vũ trụ. Tất tật chúng ta, trong chừng mực chúng ta sinh ra từ cuộc đời, thuộc vào cuộc đời, chúng ta biết mọi điều, cũng như con thú và cái cây. Nhưng chúng ta biết ở độ sâu. Các khó khăn bắt đầu chừng vấn đề nằm ở chỗ đưa hiểu biết hữu cơ của chúng ta đến với ý thức. Mỗi bước chân, dẫu nó nhỏ tới đâu, theo hướng ấy, đều có một giá trị không thể ước định. Nhưng có biết bao nhiêu lực - bên trong chúng ta, ở ngoài chúng ta - trồi lên, tập hợp lại, để ngăn chặn, làm chậm đi bước chân bé nhỏ kia!

 

21

Không có ngẫu nhiên; viên ngói lừng danh rơi xuống đầu chúng ta không tồn tại [đang ám chỉ Spinoza]. Có những dây nối - cùng các tự quyết định - mà chúng ta không biết.

 

22

Miếng beefsteck của Svevo. Italo Svevo (người vốn, như tất tật những ai từng quen ông đều biết, rất mềm mỏng và tốt tính) từng sẵn lòng kể (lại còn là hơn một lần, như các ông già thích tự nhắc lại bản thân vẫn hay làm) là ông chưa từng ăn với nhiều sung sướng đến thế một miếng beefteck mà vào quãng cuối Thế chiến thứ nhất, lúc ông là (hoặc tưởng thế) người duy nhất của thành phố có thể tự cho phép mình làm điều đó.

Ông không phải - ôi, không! - một con quỷ trên thiên đường; đấy chỉ là một nghệ sĩ; và, với tư cách đó, ông chấp nhận mọi thứ gì có trong tự nhiên, ở ông và bên ngoài ông; ông thú nhận những gì người khác (những người tốt, những người thuần khiết) hoặc cảm thấy mà không biết cảm thấy, hoặc giấu đi đằng sau một tấm voan - ít nhiều xuyên suốt - các giọt nước mắt đạo đức giả.

Nhưng dẫu không hay biết, ông đã chạm, với câu chuyện miếng beefteck rất vui của mình, vào vấn đề đích thực của kinh tế thế giới; ông hé lộ khởi sinh của thảm họa. Việc bên Braxin (tôi lấy ví dụ nổi tiếng hơn cả) người ta đổ cà phê ra đường, từ chối bán giá thấp cho những nước không sản xuất được, thì đấy không phải, xét ở nền tảng, một vấn đề kinh tế, mà tâm lý. Chỉ theo lối thứ cấp (vì con người vẫn như anh ta vốn dĩ) thì cái đó mới thuộc vào phạm vi xử lý của các kinh tế gia. Miếng beefteck của Svevo dạy cho chúng ta rằng con người hẵng còn quá mức trẻ con, không thể thưởng thức một tài sản mà không nhấn mạnh vào sự thể người khác không có được nó, rằng món tài sản kia là đặc quyền của anh ta (vốn là con một hay đứa con trai được chiều nhất nhà). Nếu không phải vậy, hẳn ngày nay người ta đã không biết, với tất tật những phương tiện sản xuất và vận chuyển của chúng ta, tới cả bần cùng lẫn cái đói. Hẳn chỉ cần rất ít thôi cũng đã tìm được một cách đắp điếm! Nhưng tôi biết rõ rằng "chút ít" ấy chỉ là một vẻ bề ngoài thuần túy, chỉ là một cách nói; rằng trước khi con người học đọc, học nói thêm một âm tiết trong hướng này, còn cần phải có chuyện, và là hơn một lần, trời sụp xuống đầu anh ta.

 

23

Những ai, và họ rất đông, nghĩ rằng, ngày hôm nay vẫn vậy, các cuộc chiến tranh bùng nổ vì những lý do kinh tế, đang làm giống những kẻ hẳn sẽ nói rằng người Đức đã dùng hơi ngạt giết sáu triệu rưởi người Do Thái với mục đích làm ra phân bón từ đó. Chúng đã giết họ bằng hơi ngạt vì các lý do khác (do phản ứng vật lý tối tăm nào đó, thuộc việc nấu bia); khi những nạn nhân của chúng đã bị giết, chúng đã - tại sao lại không? - khai thác xác chết của họ để làm lợi cho dân tộc được lựa chọn (mới).

Các cuộc chiến tranh xảy ra vì con người là một loài vật nhiều gây hấn; loài gây hấn nhiều nhất, có lẽ, của sáng thế. Anh ta cảm thấy rằng, nếu không đưa được sự gây hấn riêng của mình ra ngoài, thì nó sẽ quay trở ngược chống lại anh ta; rằng, nếu không tấn công những kẻ khác, thì rốt cuộc, không sớm thì muộn, anh ta sẽ tự tấn công chính mình. Và hẳn điều này làm anh ta đau đớn hơn so với lên đường ra trận. Vì thế (bởi con đường dẫn đến thăng hoa thì dài, khó, mở ra cho ít người) anh ta thích mình bị giết trong lúc giết người khác hơn so với tự giết mình, trong sự im lặng căn phòng riêng của anh ta.

Đó là nguồn gốc "tôn giáo" (hẳn sẽ đúng hơn nếu nói "thuộc bản năng") mà ông già Moltke [nhân vật quân sự lớn của thế kỷ 19, người Phổ] dùng để giải thích chiến tranh. Những nguyên nhân kinh tế "cùng tồn tại"; ấy là, xét về phần lớn - ít nhất là ngày nay - các cái cớ được dâng lên cho bản năng về chết.

 

24

"Voi". Càng sống giữa những con người, người ta càng có cảm giác, thậm chí có tính cách thể chất, rằng điều mà họ ham muốn nhất, ấy là một ông bố "nghiêm khắc nhưng công bằng", và là người hứa hẹn trời biển với họ. Và chừng một trong các ông bố "nghiêm khắc nhưng công bằng" đó chết hay trốn mất, để lại sau lưng cái chết cùng sự hoang tàn, thì họ vẫn tuân theo - do một nỗi hoài nhớ ngoài ý thức vẫn còn lại - những quy định của ông ta. Chính "voi" là thứ vẫn còn làm tổn thương biết bao cái miệng, chúng, vả lại, chỉ mở ra để nguyền rủa kẻ đã dẫn họ đến thảm họa, và chúng không dùng nó trước khi nhận lệnh làm thế. Và nếu người ta nghĩ tới việc đáp lại hoặc phản đối, thì có thể xảy ra chuyện (điều đã xảy tới với tôi hôm nay) người ta gặp, nhìn chăm chăm vào mắt chúng ta, cặp mắt trẻ trung hết sức thuần khiết, hết sức kinh ngạc, hết sức trong trắng một cách chó má... [Phát xít bắt người Ý dùng "voi", ngôi thứ hai số nhiều].

 

25

Các chỗ dựa, dẫu người ta muốn rẽ sang phải hay sang trái, trên hay dưới xe, thế giới bên ngoài đều luôn luôn trao chúng cho chúng ta. Nhưng điều rốt cuộc lúc nào cũng quyết định, đấy là định mệnh bên trong.

 

26

"Các ông, ở Trieste", hôm qua Giacomo Debenedetti bảo tôi, "các ông thực sự là những đứa con của gió. Chính vì vậy mà các ông thích các luân lý cùng các ngụ ngôn, truyện và bịa tới vậy. Chính vì ông sinh ra tại thành phố của gió bora cho nên ông viết các ĐƯỜNG TẮT."

Rồi một ngày câu chuyện nho nhỏ đó hẳn sẽ tạo cho tôi khoái lạc lớn biết mấy! Hẳn tôi sẽ rút được từ đó điềm tốt biết bao cho người bạn của tôi và cho tôi! Nhưng hôm nay... Nhưng sau Maidaneck thì...

Rome, tháng Hai 1945

Lê Công Tăng dịch

 

một Ý

Casanova (1725 – 1798)
Leopardi (1798 – 1837)
Umberto Saba (1883-1957)
Carlo Emilio Gadda (1893 – 1973)
Pavese (1908 – 1950)
Elsa Morante (1912 – 1985)
Natalia Ginzburg (1916 – 1991)
Angelo Maria Ripellino (1923 – 1978)
Italo Calvino (1923 – 1985)
Pietro Citati (1930 – 2022)
Claudio Magris (1939 – )
Giorgio Agamben (1942 – )
Emanuele Trevi (1964 – )

 

châm ngôn (aphorism)

Elias Canetti về Karl Kraus
Báo chí, sự ngu xuẩn và chính trị
Wien & Berlin

favorites
Thêm vào giỏ hàng thành công