Tommaso Landolfi: Bố Kafka
Dù các tác phẩm của Kafka đã được giới thiệu ở Ý từ cuối những năm 1910, đầu 1920 – khi danh tiếng hãy còn chưa vượt khỏi biên giới châu Âu – ảnh hưởng của nhà văn này ở Ý thường bị bỏ qua trong những bóc tách cụ thể hơn của giới phê bình vào một giai kỳ hay một phong trào văn chương cụ thể. Quan hệ của Kafka và các nhà văn Ý hiện đại đặc trưng bởi sự tương đồng kiểu gia đình, familienähnlichkeit. Nhiều tác giả lớn của Ý ám ảnh với Kafka, viết về Kafka hoặc sử dụng các công cụ Kafka: ta có Eugenio Montale với bài thơ “Verboten”, Dino Buzzani với nỗi sợ rằng tác phẩm bị nhìn nhận là kafkaesque, Claudio Magris với “Danubio”, Primo Levi với sự liên hệ giữa kinh nghiệm của Kafka và mình như người sống sót sau Holocaust, danh sách này có thể dài ra với những Elsa Morante, v.v.. Truyện ngắn này là một đóng góp nữa của Tommaso Landolfi vào truyền thống đó.
Truyện được Italo Calvino chia vào chương “Các truyện kinh dị” trong hợp tuyển do mình biên soạn, đặc trưng với chiến lược phá huỷ cơ thể, bôi nhọ cái cao quý và hài hước gớm ghiếc để làm sáng tỏ những khía cạnh đen tối của thực tại và tâm lý của con người. Truyện ngắn này là minh hoạ xuất sắc cho xu hướng chuyển trọng tâm nghệ thuật vào cái méo mó và điên rồ ở Ý những năm 1930.
Bố Kafka
- Tommaso Landolfi
Vì nhiều người bằng hữu cứ nài nỉ mãi, tôi đành chiều theo kể lại văn tắt một câu chuyện đã để lại tác động không nhỏ đến cuộc đời của Thầy (và cả tôi nữa).
“Giả dụ, bây giờ, giữa hai cánh cửa (vốn đang để mở), chui vào hai, hay đúng hơn là vài, cái chân dài ngoẵng, khẳng khiu và đầy lông; rồi, cánh bên phải bị ép cho từ từ mở ra, một con nhện khổng lồ to bằng cái giỏ đựng quần áo bẩn từ đâu chui vào thì sao?...”
“Thì sao?”
“Gượm đã, chưa nói hết. Nếu nếu thân của con nhện này là một cái đầu người cứ từ dưới sàn nhìn lên anh chòng chọc? Thế anh làm sao? Anh sẽ tự sát, đúng không?”
“Tôi ư? Đời nào tôi nghĩ tới chuyện ấy. Hà cớ gì phải tự sát! Tôi sẽ giết nó.”
“Tôi thì có đấy, tôi sẽ tự tử. Chết tiết, sống làm chi ở cái thế gian mà chuyện như thế lại có thể xảy ra được chứ.”
“Còn tôi thì khẳng định với anh tôi sẽ làm mọi thứ, trừ việc tự sát; ngay cả trong mơ tôi cũng chẳng làm thế.”
Kafka vừa dứt lời, mắt vẫn đang nhìn khe cửa hé mở với vẻ thách thức, thì bỗng nhiên, bản lề từ từ xoay và cái cảnh tượng tôi tưởng tượng thực sự diễn ra. Trong căn phòng ở chốn xa xôi để cùng nhau dùng bữa tối, hai bọn tôi giật mình đứng dậy, đầy hãi hùng. Con nhện, đúng hơn là cái đầu người, nhún nhảy trên những chiếc chân dài khẳng, tiến về phía bàn ăn và nhìn chúng tôi bằng một vẻ gì đó rất độc địa.
“Nào,” tôi thú nhận, lúc ấy tôi đã hét lên, thậm chí suýt bật khóc, “nào, sao anh không giết nó đi?”
Nhưng Kafka nhìn con vật, hay con người đó, đôi mắt anh ta trợn trừng và một ngón tay cũng không nhúc nhích; chỉ có điều, anh dần dần thối lùi lại trong vô hình về phía góc phòng. Thì ra cái đầu đó (sau này tôi mới biết) đích thị là cái đầu của bố anh, người đã chết lâu lắm rồi. Nó nhìn Kafka bằng vẻ mặt dữ dằn tột độ, đôi mắt đỏ ngầu và gần như dựng ngược, môi trên cong vênh và bĩu về một bên thể hiện sự thù hằn; cái thái độ tởm lợm và khó coi ấy rất giống ngày xưa và thường đi kèm với một giọng mắng rất kinh, thứ Kafka bấy giờ nhớ ra rất rõ. Giờ thì con vật không nói gì, có thể vì không nói được, nhưng gần như phát nổ, rõ ràng vì chỉ muốn hét toáng. Cái đầu nó để vênh với khuôn mặt hơi ngửa và hếch sang một bên, tư thế giống con cóc.
“Mình đã làm sai gì nữa sao?” Kafka tự hỏi, lại bị nỗi ám sợ từ thuở con là trẻ nít, thuở anh còn là đối tượng của những cảnh tượng đó mà không hiểu vì sao. “Papa ơi…” anh lẩm bẩm.
Còn tôi, xin thú nhận, tôi bắt đầu vỗ hay tay bôm bốp và gào thét như mắc dịch, “Cút đi, cút đi đồ quái thai!,” mà ngoài điều đó thì tôi chẳng có can đảm làm gì khác nữa. Lúc ấy, bố Kafka, vẫn đang thận trọng tiến về phía chúng tôi, dường như đã suy nghĩ lại và tự kiếm chế bản thân (việc làm chủ bản thân trước mặt “người ngoài” luôn là điều ông tự hào lắm, chỉ có điều ai ai nhìn gương mặt ông cũng biết tỏng cảm xúc thực sự của ông, ngay cả khi ông chẳng hề lẩm bẩm, trong những trường hợp tương tự như thế này, “tiên sư, tiên sư!”); hoãn lại màn kịch đó, hoặc cuộc tấn công đó, ông quay người loạng choạng lê bước bỏ đi trong im lặng, về lại xuất xứ. Còn tôi, phải thú nhận, khi ấy chỉ biết co giò chạy, vò đầu bứt tai và bàng hoàng kinh hãi ở đâu đó; Kafka sau một phút cũng bừng tỉnh lao theo bố vào hành lang tối om.
Khỏi phải nói, cả đêm ấy và nhiều ngày sau đó anh cũng không thể tìm thấy ông, bằng dù anh đã tìm kiếm ở tất cả các phòng ở mọi thời điểm. “Nhưng này,” anh tự nhủ, “có lý nào có một con vật như thế trong nhà mình bấy lâu nay mà chẳng ai nhìn thấy! Và rồi còn bao nhiêu con khác cùng loại nữa. Nếu không bắt được nó, mình sẽ không thể sống ở đây nữa.” Ban đầu, anh định bụng bắt được thì sẽ nhốt vào lồng hoặc trong căn phòng từng là của bố. Cuối cùng, một ngày nọ, trong ánh hoàng hôn, anh thấy nó vụt thoắt qua một nhà kho đầy đồ vật phủ bụi, và cũng hiểu rằng nó có khả năng đi xuyên cửa dễ dàng, thậm chí có thể xuyên cả tường. Từ đó, anh dặn lòng mình gặp lại là giết không tha tiếc, phải vậy thôi chứ biết sao giờ; dĩ nhiên là đợt gặp sau nó cũng đã lủi được.
Một ngày kia, khi anh đã tuyệt vọng bỏ cuộc và đang định bỏ lại toàn bộ dinh thự cũ này mà đi cho nó ra sao thì ra, nó chợt xuất hiện trước mặt anh dưới ánh ban ngày sáng rõ. Văn hào tương lai khi ấy đang trong phòng ngủ, ánh nắng tràn qua khung cửa rộng. Dưới ánh nắng, trông nó xỉn màu và bụi bặm hơn; khuôn mặt xám ngoét lần này nhìn đứa con với vẻ mỏi mệt gần như là van nài và với tình yêu thương lớn, cùng đôi mắt ngấn lệ (như trước kia ông làm khi cảm thấy khó chịu). Mặc thế, Kafka chộp lấy một cái ghế phang ông một cái điếng người; sau đó chạy xuống tầng hầm lấy một cái búa tạ và đập nó ra bã. Từ cái đầu nát bét, như đoán định, tươm ra một thứ tuỷ hơi sánh.
Sau chiến thắng ấy, Kafka tin rằng mình đã thoát khỏi nó mãi mãi, dù đã phải trả một cái giá không rẻ. Nhưng một dinh thự cũ thì còn chứa chấp biết bao nhiêu nhện lớn nhện nhỏ nữa mà diệt cho xiết!
Bùi Gia Bin dịch