favorites
Shopping Cart
Search
Vitanova
Prev
Đông 2025
Next

Thorstein Veblen và sự đọc kinh tế của tôi

01/12/2025 10:36

Trước tiên, như một lời nói đầu, tôi viết bài này khi vừa đọc xong Lý thuyết tầng lớp nhàn rỗi của Thorstein Veblen, nhiều điều nảy ra trong đầu tôi khi đọc, phần lớn là kiến thức từ các sách kinh tế bừng  lên lại, như một điềm triệu cho việc tôi cần viết một text hệ thống lại kiến thức mà tôi đọc rời rạc - tôi không đọc nghiêm túc lĩnh vực kinh tế lắm. Để báo trước, phần lớn sách tôi đọc là sách của các nhà Marxist, từ khi đọc Trò chuyện trong quán La Catedral của Mario Vargas Llosa, tôi có hứng thú với chủ nghĩa cộng sản và đã tìm đọc một số sách liên quan, nhưng tiếc là đến tận bây giờ tôi vẫn còn lăn tăn việc Karl Marx ghét tư bản hơn yêu vô sản hay là yêu vô sản hơn ghét tư bản, nên tôi vẫn còn là một cảm tình viên như nhân vật Santiago, có lẽ tôi sẽ là một cảm tình viên suốt đời. Dẫu sao, các ý tưởng từ sách (mà tôi sắp viết) đã bị tôi nhào nặn theo cách hiểu cá nhân mình, tôi nói quá một số chỗ cho gây cấn hơn và có thể đã hiểu nhầm một số ý, nên chắc chắn sẽ có sai lệch so với trong sách, tôi muốn nói trước.

Cảnh mở màn sự đọc kinh tế của tôi là một hình ảnh rất mạnh của Marx: một cái bàn bước vào thị trường được tả là một cái bàn bước lên sân khấu.

Bản chất của một vật là gì? Nếu là về các sự vật tự nhiên thì câu trả lời vẫn là bí ẩn đối với tôi. Còn về những vật được tạo ra bởi bàn tay con người, tôi nghĩ tôi sẽ trả lời đơn giản bản chất là mục đích của người làm ra vật đó, bản chất của tạo vật thuộc về ý muốn của nghệ nhân, bản chất của vật là giá trị sử dụng của nó. 

Rồi cái bàn bước lên sân khấu - gia nhập thị trường, giá trị trao đổi bọc ngoài giá trị sử dụng, như diễn viên đắp lên mình phục trang cho vai diễn. Trong thị trường, bản chất của vật là giá trị của nó, một sự thay đổi về bản thể dẫn đến một sự xáo trộn phân loại đồ vật, hai cái bàn khác giá sẽ không còn được xem là cùng loại nữa, thay vào đó, các vật ngang giá sẽ được phân cùng một nhóm. Một cái bàn sẽ cùng loại với nồi niêu và cái bàn còn lại được xếp chung với máy vi tính, cũng như việc có diễn viên thành ông hoàng bà chúa, lại có diễn viên thành kẻ du ca khi tất cả đã cùng lên sân khấu. Tôi vẫn chưa xác quyết liệu đây có phải lại một lần phân rã nữa của cái Một nguyên sơ, khi từ ý  thành đồ vật và đồ vật thành hàng hoá. Dẫu sao, với việc các vật sắp xếp lộn xộn như bảng phân loại Trung Hoa, tôi nghĩ cũng cần một siêu hình học riêng cho nó.

Khi cái bàn lên sân khấu vào vai hàng hoá, cũng có nghĩa là nó xuất hiện dưới vai bóng ma, như bóng ma cha hoàng tử Hamlet -  bị phủ kín bởi bộ giáp sắt. Bóng ma nguỵ trang một nhân vật đã chết rồi, bóng ma hư ảo phi thực tuyên xưng nó là một nhân vật khác, cũng tương tự, mọi cái bàn cạnh tranh nhau và đều tuyên bố chính mình mới đúng là cái bàn. Trên sàn diễn, các bóng ma mờ ảo chen lấn nhau để nhận chân danh tính, các cái bàn kèn cựa nhau để khẳng định mình tốt nhất, mọi bóng ma cố ám lấy người sống, mọi hàng hoá đều muốn độc chiếm ý niệm vật, chúng muốn độc chiếm thị trường, chúng muốn độc chiếm người con còn sống. Một cái nhẫn thống trị mọi cái nhẫn.

Các hàng hoá đang diễn cảnh, và khách hàng chỉ có thể ngồi dưới chiêm ngưỡng như khán giả xem kịch, khách hàng không sống trong rạp mà chỉ nhìn cuộc sống trên sàn diễn, giá trị sử dụng bị giấu kín dưới mớ phục trang. Bản chất của tuýt kem đánh răng là làm sạch răng, thế sao lại có kem đánh răng vị bạc hà và kem đánh răng vị trà xanh. Hình như kem đánh răng đã trở thành một hình ảnh phát triển tịnh tiến vĩnh viễn, khi đã đến ngưỡng bão hoà của độ làm trắng răng, nhà sản xuất thêm các giá trị phụ vào để sản phẩm mình khác biệt trên thị trường, từ sự “là chất làm trắng răng” đến “có khả năng làm trắng răng”, các giá trị phụ liên tục thêm vào để nâng cao địa vị giữa các bóng ma. Kem đánh răng không còn ánh xạ vào nhu cầu thật của người, mà kem đánh răng đã trở thành nhu cầu tự thân, tức là đã trở thành một thuộc tính có thể tăng vô hạn như tính trắng vô hạn, kem đánh răng phát triển không ngừng như một diễn cảnh. Trong bối cảnh chủ nghĩa tiêu dùng tràn lan sản phẩm, người không còn muốn sự sạch răng, mà nhu cầu đã bị long ra khỏi cuộc sống thật, thị giác thay thế xúc giác, để chuyển hoá thành muốn bản thân kem đánh răng tốt nhất, tức là chỉ còn muốn cái bề ngoài thuần tuý của đồ vật - chỉ muốn sự “có vẻ” thôi, người ta không muốn sạch răng cho bằng muốn loại kem đánh răng tích hợp vào nó nhiều lợi ích nhất, người ta muốn một hình ảnh vật thuần tuý hơn là cái bản chất đồng nhất với nhu cầu. Khán giả chỉ mê mẩn vai diễn của diễn viên, như dục vọng được vào vai chính khách chỉ thuần tuý vì thích nổi tiếng chứ không có lý tưởng đặc biệt gì, và chi phí cho trang phục cạnh tranh được tính thêm vào giá trị đồ vật.

Với tôi, vở kịch hàng hoá đang ngừng tại hồi này, cho tới lúc tôi đọc Lý thuyết tầng lớp nhàn rỗi của Thorstein Veblen, một cảnh mới đã mở ra. Một số loại xa xỉ phẩm không còn muốn tự nhận mình tốt nhất nữa, mà phải là loại khó dùng và vô dụng nhất, để thể hiện mức độ dư thừa của chủ nhân khi có thể tốn thời gian và tiền bạc cho loại hàng hoá phô trương này. Không còn muốn nhận bản thể của nó nữa, bóng ma nũng nịu không còn muốn nhận vai trong vở kịch nữa, liệu có phải loại đồ vật này đã trở thành tinh thần, có phải nó đã vào vai những thiên thần của Chúa hay những nữ thần báo tử Hy Lạp, có phải nó như sự thật (tri thức) hay cái đẹp - cái vẻ ngoài vô dụng sở hữu giá trị bất khả lay chuyển. Tôi nghĩ là không, đó không phải một vở bi kịch tam duy nhất, khi sự thật dù vô dụng vẫn giá trị vì thuộc tính vĩnh cửu, hay cái đẹp dù vô dụng vẫn giá trị vì sự rợn ngợp vượt quá ngưỡng con người, tiếc thay, nó không là cái duy nhất và vĩnh cửu của tri thức, cũng không là cái duy nhất và khoảnh khắc của cái đẹp, những đồ xa xỉ phẩm không chứa đựng bất kỳ thuộc tính nào của định mệnh để xét nó theo thang đo bi kịch. Nó chỉ có thể vào vai anh hề, như cái đầu lâu Yorick, nó không can dự vào các tình tiết của cốt truyện, nó chỉ đứng ngoài lề để làm trò nhạo báng các vai diễn khác, để giễu nhại cái loại đồ dùng hữu dụng, nó là tấm gương để khán giả tự cười nhạo chính mình.

Về tri thức và tác phẩm nghệ thuật, chúng cũng đã lên sàn diễn tự bao giờ. Trước tiên về trí thức, tri thức là một khái niệm mang tính nhị nguyên mà tôi sẽ sử dụng hai khái niệm có công tua đậm hơn, và như vậy thì chúng đặc và chắc hơn, nhằm chỉ ra được cấu tạo phân đôi của tri thức. Đầu tiên là sự thật, sự thật thì phổ quát và bất biến theo nghĩa của khoa học, tức là nó luôn lặp lại với cùng điều kiện. Và không có sự thật to, sự thật nhỏ, sự thật vừa vừa mà chỉ có một sự thật, hay nói đúng hơn, tất cả sự thật mà con người tìm được chỉ là một mảnh nhỏ của một sự thật duy nhất, là các mảnh vảy của một con rồng. Có thể hiểu theo nghĩa nếu tôi biết sự thật về nguyên lý hoạt động của các hạt sơ cấp thì tôi có thể giải thích toàn bộ các hiện tượng vật lý, chẳng hạn. Như vậy, sự thật, ở bản chất của nó, không liên quan gì đến nhu cầu và dục vọng của con người, vũ trụ không hoạt động vì con người. Sự thật thì không liên quan gì đến ích lợi. Sự thật đẹp, vì chính nó, vì nó đúng.

Tiếp theo, là một dạng tri thức khác, dạng tri thức phái sinh từ sự thật, tri thức về kỹ nghệ. Nó là khả năng sắp xếp, sử dụng sự thật để tạo ra sản phẩm thoả mãn nhu cầu và dục vọng của con người. Có thể hiểu theo nghĩa là kinh nghiệm đi biển theo gió mùa, khả năng lập trình một phần mềm. Ở dạng tri thức này, dĩ nhiên thước đo là chi phí đầu vào và chất/số lượng đầu ra, hay nói cách khác là giá trị sử dụng. Vẻ đẹp của một kiến thức kỹ nghệ dính liền với lợi ích nó đem lại và chất lượng của nó thì neo vào thị trường. Không có gì buồn thảm hơn một kỹ thuật lạc hậu, một người thợ lụt nghề.

“Chính ở đây là một cơ hội đẹp, thật vậy, để thiết lập một lý thuyết duy lý và có tính cách lịch sử về tri thức, đối lập lại lý thuyết về tri thức duy nhất và tuyệt đối; nhằm cho thấy rằng tri thức lúc nào cũng, không thể tránh, thuộc một cấu tạo nhân đôi, dẫu lương tri về nó là một; bởi khó khăn trong việc thấy rõ những yếu tố khả biến của tri thức trong nhất thể của lương tri chẳng hề tước bỏ chút nào sự cần thiết của đa dạng trong cấu tạo của nó. Tri thức được làm ra từ một yếu tố vĩnh cửu, bất biến, mà phẩm chất là vô chừng khó để xác định, và từ một yếu tố tương đối, thuộc hoàn cảnh, thứ sẽ là, nếu người ta muốn, lần lượt hoặc cùng một lúc, thời kỳ, mốt, luân lý, dục vọng. Nếu không có yếu tố thứ hai này, thứ giống vỏ cây gây vui thú, nhiều hối thúc, ngon lành, của bánh ngọt thần thánh, thì yếu tố thứ nhất hẳn sẽ là không thể tiêu hoá, không thể coi trọng, không được thích ứng và tiếp nhận vào bản tính con người.” 

Aura của sự thật nằm ở chỗ chúng không bao giờ thay đổi, rằng khi người ta chỉ có thể phát hiện một định luật, và chúng ở đó mãi mãi. Sự thật đẹp xanh lơ vĩnh cửu, nó duy nhất và ở khắp mọi nơi, ở đâu cũng đúng - ở đâu cũng nguyên giá trị. Nhưng vì sự phân rã từ cái Một nguyên sơ, thành muôn vạn hướng ứng dụng sự thật, nó không còn là cái công cộng phổ quát, nó thành bí mật nghề nghiệp, mỗi mảnh của nó thuộc về tài sản riêng của cá nhân. Dĩ nhiên, vào những ngày đẹp trời khi tôi trở nên lạc quan, tôi sẽ không coi đó là sự trật phẩm, mà tôi sẽ vui lòng gọi đó là quá trình tiến hoá sáng tạo. Sự thật giới hạn bất biến, còn tri thức kỹ nghệ đa dạng phát triển, nó là cái nhiều của cùng một đà sống có khuynh hướng biến đổi vật chất cố định theo khuynh hướng thuận lợi cho cuộc sống con người, sự thật là cái được tìm ra, tri thức kỹ nghệ là cái được tạo ra, nhưng tôi chỉ vui lòng với niềm vui sáng tạo vào những ngày đẹp trời.

Còn cái đẹp toả rạng hay có màu tím trác tuyệt, aura của nó là sự duy nhất trên phương diện không gian và thời gian, nó đã từng không thể được lặp lại với bất cứ giá nào. Từng có thời tác phẩm nghệ thuật đều chỉ có một phiên bản duy nhất, là khoảnh khắc chứa đựng sự xuất thần của nghệ sĩ - người đã thăng hoa cảm xúc khi sáng tạo tác phẩm, cơn mê không thể được lặp lại, người ta chỉ có thể đến một nơi duy nhất để chiêm ngưỡng một bức tranh duy nhất. Nhưng rồi kỹ thuật in ấn và ảnh chụp phát triển, người ta có thể xem bức hoạ ở mọi nơi, cái đẹp của bức tranh xuất hiện ở nhà và nhiều nơi, nếu nghệ thuật ban đầu được dùng cho các nghi lễ, thì giá trị trưng bày đã đẩy lùi giá trị tôn sùng. Và giờ, với công nghệ A.I - thứ tái tạo một phong cách từ số ít mẫu, giá trị trang trí sẽ đẩy lùi giá trị trưng bày, các phong cách nghệ thuật sẽ được tạo ra để số đông người dùng tiêu thụ theo hướng hoàn toàn khác với trước đây, theo một khuynh hướng đã đang tồn tại dù ít, người tiêu thụ nghệ thuật để nó góp phần tăng vẻ đẹp của bản thân hay nhà cửa, bức tranh treo tường hay một tác phẩm thiền Nhật chỉ lối sống tối giản, nghệ thuật mang chức năng trang sức - không còn tạo nên tác giả mà tạo nên người tiêu dùng, người ta không còn tiêu thụ các tác phẩm đem lại khoái cảm cho bản thân mà sẽ tiêu thụ các tác phẩm giúp mình toát aura với người khác, như một dạng nước hoa. Tác giả sẽ chết không trăn trối khi độc giả dùng A.I để tạo các tác phẩm trông như cùng phong cách theo sở thích bản thân.

Dẫu sao, ta cũng đã có hai moment trở thành hàng hoá có giá trị trao đổi của hai thứ tưởng chừng là vô dụng như sự thật và cái đẹp, và tôi sẵn sàng thêm cả đức hạnh vào để đủ bộ ba chân thiện mỹ, vì ở đoạn này tôi xét đến giá trị phô trương của chúng, cái giá trị mà tầng lớp nhàn rỗi dùng để phân cách địa vị bản thân khỏi tầng lớp trung lưu hãnh tiến đang ầm ầm rượt theo. Vì sự vô dụng và lãng phí tột độ của chúng, chúng đem lại cho người sở hữu nét nhàn nhã phi lao động thường thấy ở tầng lớp thủ lĩnh bộ lại, tức là một phong cách quý tộc khẳng định vị thế biệt lập của bản thân khỏi đa số. Dĩ nhiên, tôi vẫn còn ngần ngừ trước đức hạnh, nhưng trí thức (cũng như vẻ đẹp) đã không ít lần đi vào idiom như một loại trang sức (vẻ đẹp tri thức, etc), và cũng không ít trường hợp người ta học một kiến thức chỉ để khoe với mọi người rằng mình biết điều đó, về phía cái đẹp là những kiểu dáng trang phục đẹp nhưng quá rườm rà - không phù hợp lao động. Sự lãng phí thời gian và tiền bạc cho một thứ vô dụng biểu hiện đẳng cấp của tầng lớp nhàn rỗi, là những hành động mang vẻ đẹp thanh cao có tính tôn giáo. Như vậy, đến cả cái tri thức và cái đẹp cũng có thể (được tiêu thụ) mang tận hai lớp mặt nạ giá trị trao đổi và giá trị sử dụng trong vở kịch hàng hoá. Những vẻ đẹp thời thượng và trí thức thời thượng, ôi, vở bi kịch nào cũng thành hài kịch khi kéo dài, mọi thứ chỉ hoàn hảo ở phút đầu hiện hình.

Rồi đến một giai đoạn kịch tích hơn ở thế kỷ 20, khi lạm phát được phát minh ra (theo Thomas Piketty), do các món nợ chiến tranh (thế chiến một và hai) nên các trái phiếu chính phủ không còn  đem lại lợi tức đều đặn như trước nữa, phương Tây mất một nguồn bảo đảm tài chính vững chắc, những cuộc in tiền cũng khiến tiền mất giá, từ ấy, bàn tay vô hình lo toan chu đáo mọi việc của Adam Smith nhúng quá nhiều máu đen người chết đã hoá thành bàn tay khỉ khô chết chóc - thứ thoả mọi điều ước nhưng theo cách đáng sợ nhất. Lạm phát - thứ tội không đảng chính trị nào không bị đối thủ gán cho, cũng là con quái vật Frankenstein được vá bởi những bà nội trợ, cũng là đòn trừng phạt của Chúa cho thế chiến một hai, là lần bị đuổi khỏi địa đàng thứ hai của con người, và là thứ tôi không bút nào kể xiết. Từ khi có lạm phát, không người giàu nào chắc chắn về sự giàu (tức là sự ổn định của khối tài sản) của mình nữa, từng có thời người ta chỉ cần mua đủ một số lượng trái phiếu chính phủ là thành tầng lớp nhàn rỗi (không lo cơm ăn áo mặc cho đời mình và con cháu nữa), từng có thời người ta đoan chắc về sự cứu rỗi của thần tài dành cho sự thịnh vượng kinh tế của bản thân, nay hết rồi. Vì bởi có lạm phát, thần tài đã trở thành vị Chúa bất khả lay chuyển của phái Calvinism, vị chúa tể của thuyết tiền định khiến cho mọi tín đồ luôn thấp thỏm lo âu phần số đời sau của mình, có lẽ vì vậy tầng lớp phấn đấu luôn tỏ vẻ bận rộn không ngừng ra đời. Tôi thích chọn sự kiện May 68 làm mốc cho việc hình mẫu người tri thức là đích cho các tầng lớp phấn đấu hướng về, và mốc ngày Internet ra đời cho việc thông tin ào ạt xuất hiện, người tiêu thụ bớt dần xu hướng mua hàng đắt đỏ để phô trương, muốn thành người tiêu thụ thông minh theo hiệu lệnh “trở thành trí thức tân tiến nhất”, họ muốn những hàng hoá hiện đại và tốt theo nghiên cứu khoa học mới nhất. Tương ứng, các nhãn hàng chống lại làn sóng hàng nhái bằng cách đầu tư nghiên cứu sản phẩm mới liên tục, không ai còn đoan chắc về sự vượt trội của tính ưu việt của lối sống bản thân nữa. Thế là không ai còn thể an tâm nghỉ ngơi trong sự giàu có của bản thân để phô trương và để tụng ca thần tài, tất cả phải dành cả đời bận rộn cập nhật xu hướng kiến thức để lập trình đời sống cá nhân cấp tiến nhất, ai cũng lo sợ làn sóng khủng hoảng kinh tế ập đến nên đã hy sinh hiện tại cho việc phòng hờ mai sau. Mọi người bận rộn không ngừng phục vụ vị thần tài của lạm phát - tạo vật đã nhúng quá nhiều máu đen người chết, họ trở nên ích kỷ như bourgeois khi chộn rộn với tiền định riêng mình, họ chỉ thông linh với mỗi mình thần tài của sự phát triển mà thôi.

Cuối cùng, chương tôi thấy thú vị nhất là chương Thorstein Veblen viết rằng các nghi lễ tôn giáo của con người có đặc tính như các hoạt động phô trương sự nhàn rỗi. Nếu con người ném dục vọng của mình lên trời để tạo thành Thượng Đế, thì loài người thờ phụng ngài như người hầu phục vụ cho vị chủ nhân vô cùng nhàn rỗi, ông trời im lặng trước khổ đau vì nếu ngài lao lực cai quản thế gian thì ngài sẽ bị trật phẩm trong mắt tín đồ, chính cái nhìn ái mộ của nhân loại không cho Thượng Đế nhấc ghế. Trong Thiêng và Phàm, Mircea Eliade cũng bảo rằng khi tình thế tuyệt vọng nhất, nghi lễ cầu xin của bộ lạc sẽ dành cho vị thần trừu tượng nhất - vị sáng thế thần im lặng nhất, thay vì những nhiên thần tượng trưng cho mùa màng và sông núi - những vị thần bận rộn hơn nhiều. Con người thờ phụng thần linh theo cách họ thờ phụng đẳng cấp cao hơn, còn ngược lại nếu con người thờ phụng bậc trên theo cách họ thờ phụng thần linh, tôi nghĩ người nghèo sẽ làm vua thế gian như trong thế giới Kitô được Georges Bernanos viết thật đẹp trong Nhật ký của một cha xứ miền quê. Đã từ lâu, tôi nghĩ các nhà Marxist đã từ bỏ người nghèo, và chỉ tập trung vào người lao động, những người tiêu dùng bị guồng quay cuộc sống vắt kiệt thành đồ vật, lối sống boheme được lãng mạn hoá. Tôn giáo trao phẩm hạnh cho cả người điên. Thường lệ, một xã hội tốt đẹp được hình dung trước, rồi từ đó tạo tiền đề hình dung xuống một cá nhân tốt đẹp sẽ như thế nào, đó là chiều vận hành của bộ máy giáo dục - thiết chế rèn các con ốc cho bản thiết kế xã hội phi lai, các nhà tư tưởng Mỹ của tự nhiên tụng ca sự hoang dã như Thoreau đi ngược con đường này, họ hình dung một con người thật vẹn toàn, rồi từ đó, mới hình dung đời sống xã hội của con người ngây thơ này. Như những shaman da đỏ, điều này có thể dẫn đến một thuyết chính trị vô vi như ở Lão Tử, tôi nghĩ.

Viên Trường

 

các bài đọc và cộng tác cho Văn Bản có thể gửi về: formapubli.vitanova@gmail.com

 

 độc giả đọc

Tổ quốc của những tù binh

Phiếm luận về chênh lệch đẳng cấp

Chesterton: ấn tượng đầu tiên

Ba đường đời

Lại một đường đời

vắng năm

 

favorites
Thêm vào giỏ hàng thành công