favorites
Shopping Cart
Search
Vitanova
Đông 2025
Next

Sức mạnh của hãi hùng

20/12/2025 13:47

Julia Kristeva nằm giữa giao điểm của hai truyền thống: hiện tượng luận, từ Husserl đến Heidegger, nơi hiện-hữu-tính của chủ thể gắn với thế giới; và một truyền thống khác khởi từ Freud, tập trung vào chiều sâu vô thức. Ở đó Kristeva viết về abject, vận hành như tha tính tuyệt đối luôn luôn bị tống khỏi nhưng không thể loại bỏ hoàn toàn. Abject không thuộc về chủ thể nhưng lại bám vào nó, quấn quít, lẩn lút, đe dọa, đồng thời phơi bày sự thật rằng chủ thể luôn được cấu thành từ một thiếu hụt nguyên thủy. Kinh sợ abject, ta thực chất đang kinh sợ chính nền tảng bất ổn cấu thành bản thể.

 

Sức mạnh của hãi hùng

                                                                                               - Julia Kristeva 

Không phải chủ thể cũng không phải đối tượng

Ẩn trong sự thuần phục là cuộc phản kháng dữ dội và tăm tối nhất của hữu thể, trực tiếp chống lại mối đe dọa dường phát ra từ ngoại tại hay nội tại vượt khỏi trật tự, bị tống ra ngoài phạm vi của cái khả dĩ, cái có thể chịu đựng, cái khả tư. Nó ở đó, rất gần, nhưng không thể đồng hoá. Nó van vỉ, phiền nhiễu và mê hoặc ham muốn, vốn dĩ, tuy vậy, không thể bị dụ dỗ. E sợ, ham muốn liền ngoảnh đi; ghê tởm, nó khước từ. Tín niệm bảo vệ nó khỏi ô uế - tín niệm mà nó kiêu hãnh nắm giữ. Nhưng đồng thời, chính năng ấy, cơn co thắt ấy, cú bật ấy lại bị cuốn vào một phía khác vừa quyến rũ và vừa bị kết án. Không ngừng, như boomerang không thoát khỏi tay ném, một xoáy lốc của gọi mời và cự tuyệt đặt kẻ bị ám ra  ngoài chính mình.

Khi tôi bị sự thuần phục vây hãm, mớ bện xoắn những xúc cảm cùng ý mà tôi gọi bằng cái tên ấy, nói chính xác, không có đối tượng xác định. Cái thuần phục không phải đối tượng phía đối diện tôi, thứ tôi có thể gọi tên hay hình dung. Nó cũng không phải một đối thể, một tha thể không ngừng lẩn khỏi cuộc truy đuổi có hệ thống của ham muốn. Cái thuần phục không phải cái tương quan của tôi, thứ, nếu trao cho tôi một kẻ khác hay vật khác làm điểm tựa, cho phép tôi ít nhiều tách khỏi và tự chủ. Cái thuần phục chỉ có một đặc tính của đối tượng - nó đối nghịch với tôi. Nếu đối tượng, trong sự đối nghịch ấy, đặt tôi vào tấm dệt mong manh của ham muốn tạo nghĩa, vốn trên thực tế, khiến tôi trở nên đồng cấu với nó, thì cái thuần phục ngược lại, vật bị tống khỏi, bị loại trừ triệt để và kéo tôi về chỗ ý nghĩa sụp đổ. Một cái tôi từng nhập với chủ thể thống trị của nó - siêu ngã - đã thẳng tay trục xuất cái thuần phục. Nó nằm bên ngoài toàn bộ hệ thống và, dường không chịu tuân theo quy tắc của trò chơi. Thế nhưng, từ nơi lưu đày, cái thuần phục không ngừng thách thức chủ thể. Không ra dấu hiệu, nó khẩn cầu sự phóng thích, một cơn co thắt, một tiếng kêu thốt. Mỗi cái tôi có đối tượng của nó, mỗi siêu ngã có cái thuần phục của nó. Nó không phải khoảng trắng hay sự dồn nén uể oải, không phải những chuyển dịch hay biến dạng của ham muốn gây vặn xoắn cơ thể, đêm, hay diễn ngôn; trái lại nó là thống khổ thô bạo, thứ mà “tôi” phải chịu đựng, vừa siêu nghiệm vừa suy sụp, “tôi” trút nó lên người cha [verser au père - per-version]: tôi gánh chịu nó, bởi tôi tưởng rằng đó là ham muốn của kẻ khác - cái ham muốn mà tôi chỉ có thể sống được nhờ phục tùng. Một sự trỗi dậy đột ngột và dữ dội của cái kỳ dị, thứ mà, dù vốn quen thuộc trong một đời sống mờ đục bị lãng quên, giờ đây bức bách tôi như thứ gì hoàn toàn tách biệt, ghê tởm. Không phải tôi. Không phải cái đó. Nhưng cũng không phải hư vô. Một “cái gì đó” mà tôi không nhận ra như một sự vật. Sức nặng của cái vô nghĩa, không có gì là không đáng kể ở trong đó và, nó nghiền nát tôi. Trên bờ vực của phi-hiện hữu và ảo giác, của một thực tại mà, nếu thừa nhận, sẽ hủy diệt tôi. Ở đó cái thuần phục và sự thuần phục là phòng tuyến. Sách vỡ lòng của nền văn hoá của tôi.

 

Cái lệch chuẩn/ ô uế

Cơn ghê tởm trước một miếng ăn, một mẩu bẩn, phế thải hay phân; những cơn co thắt và nôn mửa bảo vệ tôi. Sự ghê tởm, cơn buồn nôn hất tôi sang bên và khiến tôi ngoảnh đi khỏi ô uế, cống rãnh, bùn nhơ. Nỗi hổ thẹn của thỏa hiệp, của việc đứng giữa phản bội. Cú giật mình kéo tôi lại gần chúng, rồi đồng thời tách tôi ra khỏi chúng.

Sự ghê tởm thức ăn có lẽ là hình thái sơ đẳng và cổ xưa nhất của sự thuần phục. Khi mắt thấy hay môi chạm phải lớp váng mỏng nổi trên bề mặt sữa - vô hại, mảnh như tờ giấy cuộn thuốc lá, nhỏ nhặt như mẩu móng tay - tôi cảm thấy một cơn buồn nôn dâng lên, và sâu hơn nữa, toàn cơ thể co rút, các cơ quan như thắt lại trong một phản ứng dữ dội, ứa nước mắt và mật, làm tim đập gấp, khiến trán và bàn tay rịn mồ hôi.

Cùng với cơn choáng khiến mắt mờ đi, cơn buồn nôn khiến tôi khựng lại trước lớp váng sữa, tách tôi khỏi người mẹ và người cha đang chìa nó ra. “Tôi” không muốn dính dáng tới nó, dấu hiệu của ham muốn nơi họ; “tôi” không muốn nghe, “tôi” không muốn tiếp nhận, “tôi” tống nó ra. Nhưng bởi thức ăn ấy không phải là một “tha thể” đối với “tôi” - vốn chỉ hiện hữu trong ham muốn của họ - nên tôi trục xuất chính mình, tôi nhổ mình khỏi, tôi tự thuần phục chính mình, trong cùng một chuyển động mà qua đó “tôi” tưởng đang xác lập bản thân. Chi tiết ấy, có lẽ không đáng kể, nhưng là thứ họ soi mói, nhấn mạnh, đem ra cân đo, chính cái tầm thường ấy lộn trái tôi, phơi bày ruột gan; và như thế, họ nhận ra rằng “tôi” đang ở trong tiến trình trở thành một kẻ khác với giá là cái chết của bản thân. Trong tiến trình ấy, khi “tôi” trở thành, tôi sinh ra chính mình giữa cơn bạo liệt của tiếng nức nở và nôn mửa - một phản kháng câm lặng của triệu chứng, một cơn co giật dữ dội tan vỡ, dẫu chắc chắn đã được ghi khắc trong một hệ biểu tượng, nhưng trong đó, khi không còn muốn hay không thể hòa nhập để đáp lại, nó phản ứng, nó giải tỏa. Nó thuần phục.

Xác chết (hay cadaver, cadere: rơi xuống), kẻ vĩnh viễn đổ gục, là cống rãnh, là cái chết; nó gây cho kẻ đối diện nó sự đảo lộn dữ dội hơn nữa, kẻ nhận ra nơi đó sự mong manh và tính ngẫu nhĩ giả trá của mình. Một vết thương rỉ máu và mủ, hay mùi hăng hắc, hôi nồng của mồ hôi và sự phân hủy, chưa phải là dấu hiệu của cái chết. Đối diện với cái chết đã được biểu đạt - chẳng hạn như đường điện não thẳng tắp - tôi có thể hiểu, phản ứng, hay chấp nhận nó. Không, như trong một tấn kịch chân thực, không phấn son, không mặt nạ, rác rưởi và xác chết phơi bày cho tôi thấy điều mà tôi vĩnh viễn phải gạt bỏ đi để sống tiếp. Những chất dịch của cơ thể, sự ô uế, phân, chính là phần mà sự sống phải gắng gượng chống đỡ, một cách chật vật, trước sức ép của cái chết. Ở đó, tôi đứng trên ranh giới của chính điều kiện tồn tại như một sinh thể sống. Cơ thể tôi cố thoát ra khỏi đường biên ấy như một sự sống còn cựa quậy. Những phế thải ấy rơi xuống để tôi có thể tiếp tục sống, cho đến khi, qua từng mất mát, chẳng còn gì lưu lại trong tôi, và toàn thân tôi vượt khỏi giới hạn - cadere, cadaver. Nếu phân biểu trưng cho phía bên kia của ranh giới - nơi tôi không hiện hữu nhưng lại là điều kiện cho sự hiện hữu của tôi - thì xác chết, thứ ghê tởm nhất trong mọi phế thải, chính là đường biên đã lấn tràn lên toàn thể. Không còn là “tôi” đang trục xuất mà là “tôi” bị trục xuất. Ranh giới đã trở thành một đối tượng. Làm sao tôi có thể hiện hữu nếu không có ranh giới? “Nơi khác” mà tôi hình dung ở bên kia thực tại hay tôi từng tạo ra trong cơn ảo giác để, ngay trong khoảnh khắc hiện tại này, có thể nói với bạn, có thể nghĩ về bạn - bây giờ đã ở đây, bị ném vào, bị thuần phục, rơi vào trong “thế giới của tôi”. Bị tước mất thế giới của mình, tôi ngã quỵ. Nơi vật thô bạo, trần trụi và trơ tráo ấy - phơi ra dưới ánh sáng chói chang của nhà xác - thứ không còn tương ứng với điều gì, và bởi thế, không còn biểu đạt điều gì, tôi nhìn thấy sự sụp đổ của một thế giới đã xoá bỏ ranh giới của nó: sự tắt lịm. Xác chết - khi bị nhìn bên ngoài Thiên Chúa và khoa học - là hình thái tột độ của sự thuần phục. Nó là cái chết lây nhiễm vào sự sống. Thuần phục. Đó là một cái bị ruồng bỏ, nhưng ta không thể tách khỏi, cũng chẳng thể tự bảo vệ mình khỏi nó như đối với một vật thể. Vừa là sự rờn rợn của tưởng tượng, vừa là mối đe dọa thực tại, nó vẫy gọi ta và sau cùng nuốt chửng ta.

Bởi thế khởi nguồn của sự thuần phục không phải là sự thiếu sạch sẽ hay thiếu lành mạnh, mà là những gì làm xáo động căn tính, trật tự, hệ thống. Những gì vượt khỏi ranh giới, vị trí, quy tắc. Thứ ở giữa, mập mờ, lai tạp. Kẻ phản trắc, kẻ dối trá, tội phạm có lương tri, kẻ hiếp dâm không biết hổ thẹn, kẻ sát nhân tự xưng là đấng cứu thế… Mọi tội ác, bởi nó phơi bày sự mong manh của luật pháp, đều là thuần phục; nhưng tội ác có chủ ý, vụ giết người mưu mô, hay sự báo thù giả nhân giả nghĩa còn thuần phục hơn nữa, vì chúng phóng đại và phơi trần chính sự mong manh ấy. Kẻ phủ nhận đạo đức không phải là kẻ thuần phục; bởi ngay trong sự vô luân cũng có thể có cái cao cả, thậm chí trong tội ác công khai khinh miệt luật pháp, vẫn có thể có sự phản kháng, giải phóng, và hủy diệt chính mình. Sự thuần phục, ngược lại, là vô luân, hắc ám, mưu mô và mờ ám: một nỗi kinh hoàng biết ngụy trang, một mối thù biết mỉm cười, một dục vọng dùng cơ thể để đổi chác thay vì đốt cháy nó, một con nợ bán đứng kẻ cho vay, một người bạn đâm lén sau lưng…

Trong những hành lang tối của bảo tàng - di tích còn lại của Auschwitz - tôi nhìn thấy một đống giày trẻ con, hay thứ gì đó tương tự, một hình ảnh tôi đã từng thấy ở nơi khác: chẳng hạn dưới gốc cây Giáng sinh, có lẽ là những con búp bê. Sự thuần phục của tội ác phát xít đạt đến tột đỉnh khi cái chết - vốn dĩ đã giết tôi - lại xen vào và làm hoen ố chính những gì, trong vũ trụ sống của tôi, lẽ ra phải cứu tôi khỏi cái chết: tuổi thơ, khoa học và những điều tương tự.

Sự thuần phục của bản ngã

Nếu quả thực cái thuần phục vừa van nài vừa nghiền nát chủ thể, thì có thể hiểu nó đạt đến cực điểm khi chủ thể ấy, mệt mỏi bởi những nỗ lực vô ích đồng nhất mình với một thứ gì ở bên ngoài, tìm thấy điều bất khả ở bên trong; giây phút nhận ra cái bất khả ấy cấu thành bản thể, rằng bản ngã ấy không là gì khác ngoài cái thuần phục. Sự thuần phục của bản ngã là hình thức tột độ của kinh nghiệm nhận ra rằng mọi đối tượng đều được xây dựng trên mất mát khai nguyên, thứ đặt nền móng cho tồn tại của chủ thể. Không gì giống như sự thuần phục của bản ngã cho thấy rằng thực chất, mọi sự thuần phục là sự nhận biết khiếm hụt, trên đó mọi hữu thể, ý nghĩa, ngôn ngữ hay ham muốn được kiến lập. Người ta luôn luôn lướt qua từ “khiếm hụt” này, và ngày nay các nhà tâm phân học cuối cùng chỉ quan tâm đến sản phẩm được vật hình hóa ở mức độ này hay khác của nó - “đối tượng của khiếm hụt.” Nhưng nếu ta hình dung (và nhất thiết phải hình dung - bởi chính ở đây, nền tảng của năng lực tưởng tượng đang được kiến lập) kinh nghiệm của khiếm hụt như là cái có tính tiên nghiệm về mặt logic so với hữu thểđối tượng - so với hữu thể của đối tượng - thì khi ấy ta hiểu rằng, sự thuần phục, và hơn nữa là sự thuần phục của bản ngã, chính là nghĩa biểu duy nhất của nó. Ký hiệu của nó, như vậy, không gì khác ngoài văn chương. Cơ Đốc giáo huyền nhiệm đã biến sự thuần phục của bản ngã thành bằng chứng tối hậu của lòng khiêm nhường trước Thiên Chúa, như Elizabeth xứ Hungary, “dẫu là một công nương cao quý, vẫn chẳng lấy gì làm vui thích hơn việc tự hạ mình.”

Câu hỏi còn lại dành cho sự thử luyện, lần này mang tính thế tục, mà sự thuần phục có thể cấu thành nơi một kẻ, trong cái gọi là tri thức về sự thiến, quay lưng khỏi những ngã rẽ lệch lạc và trình diện cơ thể cùng bản ngã của mình như những phi-vật thể quý giá nhất; chúng không còn được nhìn nhận như những thực thể tự thân mà trở thành những gì bị đánh mất, bị thuần phục. Sự kết thúc của quá trình phân tích tâm lý có thể dẫn ta đến đó, như ta sẽ thấy. Ấy chính là đau đớn và khoái cảm của chủ nghĩa khổ dâm.

Về yếu tính nó khác với cái kỳ dị, dữ dội hơn nhiều, sự thuần phục hình thành qua những thất bại trong việc nhận ra cái từng thuộc về mình; không có gì thân thuộc, ngay cả bóng của ký ức. Tôi hình dung một đứa trẻ đã nuốt chửng bố mẹ nó từ sớm rồi tự làm mình kinh hãi vì điều đó, chỉ còn một mình, và để tự cứu mình, nó từ chối và nôn ra tật tật những gì được trao cho - mọi món quà, mọi đối tượng. Nó có, hoặc có thể có, ý thức về cái thuần phục. Ngay cả trước khi mọi sự hiện hữu đối với nó - và bởi thế, trước khi chúng trở nên khả biểu - nó đã xua đuổi chúng, bị chi phối bởi xung năng; và bằng hành vi ấy, nó kiến tạo nên lãnh địa của riêng mình, được viền quanh bởi cái thuần phục. Một cấu trúc thiêng liêng. Nỗi sợ là thứ gắn kết nên toàn khối ấy, kết liền với một thế giới khác, bị nôn ra, bị xua đuổi, bị đánh mất. Điều mà nó đã nuốt vào, thay cho tình yêu mẫu tính, là một khoảng trống, hay đúng hơn, một mối thù hận mẫu tính không lời, không có tự vị nào thuộc về người cha; chính điều ấy là cái mà nó không ngừng ra sức tẩy trừ khỏi mình. Có lẽ là người cha - một hiện hữu bất định, yêu thương nhưng chao đảo, chỉ là một ảo ảnh, song ảo ảnh vẫn còn đó. Không có ông, đứa trẻ ấy hẳn chẳng có lấy cảm thức nào về cái thiêng; một chủ thể trống rỗng, nó sẽ bối rối, mắc kẹt trong bãi phế thải của những phi-vật thể, những gì luôn luôn bị đánh mất; trái lại, được củng cố bởi chính sự thuần phục, nó cố gắng tự kéo mình ra khỏi. Nó không điên, kẻ mà qua nó cái thuần phục hiện hữu. Từ sự ngợp đã hóa đá nó trước cơ thể bất khả chạm, bất khả đạt, vắng mặt của người mẹ - sự ngợp khiến xung năng của nó bị cắt lìa khỏi đối tượng của mình, tức là khỏi các biểu tượng của chúng - chính sự ngợp ấy, cùng với nỗi ghê tởm, một từ trồi lên: sợ hãi. Kẻ kinh hãi không có đối tượng nào khác ngoài cái thuần phục. Nhưng từ “sợ hãi” - một làn sương trơn trượt, một thứ ẩm lạnh khó nắm bắt - vừa mới trồi lên đã mờ dần đi như ảo ảnh rồi thấm vào mọi lời trong ngôn ngữ bằng cái phi-hiện hữu, bằng ánh lân tinh mộng huyễn của ảo giác và bóng ma. Như thế, khi sợ hãi đã đặt trong ngoặc, diễn ngôn chỉ có thể tồn tại nếu nó không ngừng đối diện với tính tha thể ấy - một gánh nặng vừa ghê tởm vừa bị ghê tởm, một vực ký ức sâu thẳm, vừa bất khả tiếp cận vừa thân mật: cái thuần phục.

Vượt khỏi vô thức

Nói cách khác, điều này nghĩa là vẫn có những đời sống không được duy trì bởi ham muốn vì ham muốn luôn luôn hướng đến đối tượng. Những đời sống ấy được kiến lập trên nền loại trừ. Chúng hoàn toàn dị biệt với chứng loạn thần kinh hay loạn tâm thần vốn được cấu trúc bởi phủ định cùng các hình thức của nó: vi phạm, chối bỏ và khước từ. Động năng của chúng thách thức toàn bộ lý thuyết về vô thức bởi lý thuyết ấy vốn phụ thuộc vào một biện chứng của tính phủ định.

Thanh Nghi dịch

một kinh nghiệm thuần phục

thêm một

và dĩ nhiên

Tags: Thanh Nghi
favorites
Thêm vào giỏ hàng thành công