Philip Roth nhìn Kafka
trước tiên, xem ở kia
"I Always Wanted You to Admire My Fasting"; or, Looking at Kafka: đây là nhan đề text của Philip Roth về Kafka (To the Students of English 275, University of Pennsylvania, Fall 1972) (American Review, tháng Năm 1973).
Ta có thể thấy, Philip Roth ở tuổi bốn mươi có cái nhìn đặc biệt (và cũng phức tạp) như thế nào về Kafka - đó là một trong những nguồn lớn (nhưng không hẳn là quá hiển hiện) cho văn chương của Roth.
Text của Roth gồm hai phần: như một cuốn tiểu thuyết (tiểu thuyết của Roth thường xuyên gây bất ngờ), giữa hai phần ấy có một bước ngoặt đột ngột. Vừa tìm cách lý giải Kafka, Philip Roth lại vừa - đúng như một tiểu thuyết gia cần luôn luôn làm như vậy - gây thêm nhiều rối trí cho độc giả.
1
Trong lúc đang viết đây, tôi ngắm bức ảnh chụp Kafka ở tuổi bốn mươi, tức là tuổi của tôi lúc này. Khi ấy là năm 1924, một năm cũng êm dịu, cũng phong phú lời hứa như những năm khác mà ông đã sống qua, và là năm ông chết. Khuôn mặt bày ra các đường nét nhọn, xương, mặt của kẻ dùng những cú húc đầu của mình để đào hang: cặp lưỡng quyền cao, mà sự thiếu vắng của tóc mai càng làm nổi bật thêm; hai cái tai, bằng công tua và độ xiên của mình chúng họa ra đôi cánh của một thiên thần; một ánh mắt cường độ mạnh, nơi sự mỏng manh của con người chế ngự các nỗi sợ phi nhân tính; mái tóc kiểu Cận Đông làm thành turban màu đen bó chặt lấy cái đầu, sự nhấn duy nhất của nhục cảm; và rồi, một cái gì đó tôi cũng chẳng rõ thật thân thuộc nơi chỏm cái mũi, một cái mũi dài hơi phồng lên ở gốc - mũi của phân nửa thanh niên trai tráng Do Thái từng là bạn học của tôi tại đại học. Những cái đầu xương xẩu như đầu của ông đã chất đống lại, hàng nghìn hàng nghìn, ở lối ra của các lò thiêu người; nếu còn sống, hẳn nó sẽ nằm cùng chỗ với đầu của ba người em gái ông.
Chắc chắn việc thấy Franz Kafka ở Auschwitz không gây khiếp sợ hơn so với bất kỳ ai khác; Đơn giản là viễn tưởng tự thân nó đã gây khiếp sợ. Nhưng ông lụi tắt quá sớm cho Holocaust. Nếu còn sống, có lẽ ông đã chạy trốn cùng Max Brod, người bạn thân thiết, người sang Palestine tị nạn, chết tại đó, với tư cách công dân Israel, vào năm 1968. Nhưng người ta có thể mường tượng một Kafka bỏ chạy được chăng? Điều này dường là không thể nào, đối với cái người chịu sức quyến rũ của các cuộc đời bị vây kín trong những bức tường và các hầm đá dồn tụ về nỗi hoảng sợ cùng cái chết. Thế nhưng, có Karl Rossmann [trong Amerika], nhân vật người di cư của ông. Bởi vì ông từng tưởng tượng ra cuộc chạy trốn của Karl sang Mỹ nơi các vận may đa dạng đợi sẵn, chẳng phải chính Kafka cũng có thể tìm được một phương cách để trốn chạy ư? Ông không thể hình dung được việc Viện Nghiên cứu Xã hội New York trở thành Nhà hát Lớn Tự nhiên tại Okalahoma của chính ông ư? Hoặc nữa, nhờ ảnh hưởng của Thomas Mann, một ghế ở khoa tiếng Đức trường Princeton... Nhưng trong trường hợp đó, tức là nếu ông còn sống, thì chẳng hề chắc được, chuyện những cuốn sách mà Mann, cũng chính là một người tị nạn tại New Jersey, chào mừng, có bao giờ được in; thậm chí Kafka còn có thể hủy đi các bản thảo mà ông đã yêu cầu Max Brod phải đốt khi ông chết, hay ít nhất thì hẳn ông sẽ tiếp tục giữ bí mật về chúng. Người Do Thái nhập cư tới Mỹ vào năm 1938 hẳn sẽ không phải là nhân vật đầy hài hước khổ hạnh như trong mắt của Mann, mà là một kẻ độc thân ở tuổi năm mươi lăm, hình tượng mảnh khảnh của con người chuyên cần học hành, người từng làm chuyên gia luật ở một hãng bảo hiểm tại Praha, và sống nhờ một khoản trợ cấp công chức ở Berlin, vào quãng thời gian Hitler lên nắm quyền, khỏi phải nghi ngờ, một nhà văn, nhưng đã mới chỉ viết vài câu chuyện kỳ cục, phần lớn về lũ thú vật, những câu chuyện mà chưa ai ở Mỹ từng nghe nói tới và đã chỉ tìm được tại châu Âu một nhúm độc giả; một K. lang thang, nhưng không có tinh thần kiên quyết của K.; một Karl lang thang, nhưng không có nhiệt hứng trẻ trung của Karl; chỉ là một người Do Thái, khá sung sướng vì đã cứu được mạng sống của mình, sở hữu một cái va li đựng vài thứ quần áo, vài bức ảnh gia đình, vài món xu vơ nia Praha, cùng các bản thảo vẫn còn chưa in và nhiều tính cách phân mảnh - Amerika, Phiên tòa, Lâu đài - cũng như (người ta thấy những điều còn lạ thường hơn) ba cuốn tiểu thuyết chưa hoàn thành khác, không kém phần đáng chú ý hơn so với những kiệt tác kỳ quặc mà ông giữ khư khư cho riêng mình trong sự rụt rè đậm chất Oedipus của ông, mối lo âu bị ám của ông về sự hoàn hảo và cơn khát không thể thỏa của ông đối với sự cô độc và sự thuần khiết.
Tháng Bảy năm 1923: mười một tháng trước khi chết tại một sanatorium ở Wien, Kafka tìm được ở chính ông đà bật khiến ông rời hẳn được khỏi Praha và gia đình ông. Chưa từng bao giờ ông làm được cái việc, còn xa mới vậy, sống độc lập, tách rời khỏi mẹ, các em gái và bố ông. Ông chỉ là nhà văn vào những giờ nào không làm việc tại bộ phận tư pháp của một hãng bảo hiểm Praha. Nhân vật được cấp bằng luật ấy, tất tật những báo cáo đều miêu tả ông như là người hăng say nhất, cẩn trọng nhất trong số các công chức, dẫu chính ông thấy công việc nhàm chán, và nó làm ông bực bội. Thế nhưng, vào tháng Sáu năm 1923 - vài tháng trước ông đã được cho về hưu do bệnh tật - ông gặp tại một bãi biển Đức một cô gái Do Thái mười chín tuổi, Dora Dymant, nhân viên tại nhà chung Do Thái ở Berlin, đã rời khỏi bố mẹ, người Ba Lan theo tôn giáo chính thống nghiêm ngặt, để sống một mình. Franz, vừa tròn bốn mươi tuổi, và Dora, tuổi chỉ bằng nửa ông, yêu nhau say đắm... Kafka từng đính hôn với hai phụ nữ Do Thái ít nhiều hợp quy chuẩn, và thậm chí hai lần đính hôn với một trong số họ, những kỳ đính hôn đầy hành hạ và hoảng hốt, mà nỗi sợ sẽ làm cho trọn vẹn sự tàn lụi. "Hết sức hiển nhiên, về mặt tinh thần con không thích hợp với hôn nhân", ông viết cho bố trong một bức thư dài bốn mươi lăm trang mà ông đưa cho mẹ để bà đưa lại cho bố ông. "... Vào đúng thời khắc con quyết định lấy vợ, con không ngủ được nữa, cả ngày lẫn đêm đầu óc con nóng bừng, đấy không còn là một cuộc sống nữa..." Và ông cố công giải thích điều này. "Hôn nhân bị cấm ngặt đối với con, ông viết cho bố, vì đó là địa hạt riêng của bố. Con hay tưởng tượng ra tấm bản đồ vẽ mảnh đất được trải ra và bố nằm chắn ngang trên đó, chiếm toàn bộ diện tích. Và con có cảm giác rằng chỉ thích hợp cho con để sống các vùng nào mà bố không phủ lên hoặc những vùng nào không nằm trong tầm với của bố. Do trình hiện mức độ to lớn của bố ở con, các vùng ấy không cả có số lượng lớn lẫn mang lại lắm niềm an ủi, và nhất là, hôn nhân không nằm giữa chúng." Bức thư hé lộ những giằng xé giữa bố và con được đề ngày viết tháng Mười một năm 1919; bà mẹ thấy là nên không đưa nó cho người nhận, có lẽ vì thiếu can đảm, nhưng nhiều khả năng hơn là vì, cũng giống người con trai, bà không hy vọng điều gì từ đó.
Trong vòng hai năm tiếp theo, Kafka dấn mình vào một cuộc yêu đương, với Milena Jesenská-Pollak, một phụ nữ trẻ, hai mươi tư tuổi, với tính khí như lửa, người đã dịch sang tiếng Séc vài trong số những truyện ngắn của ông và sống, ở tư cách người vợ bất hạnh, tại Wien. Áp phe tình ái đó, với dòng chảy lộn xộn, nơi bưu điện đóng vai trò cốt yếu, đối với Kafka sẽ là một thử thách còn nặng nề hơn so với các kỳ đính hôn nhiều lo âu trước kia. Chúng đã chỉ đánh thức nơi ông một ham muốn làm cha, mà ông không dám thả mình vào, ham muốn bị cấm đi bởi lòng kính trọng quá mức mà ông dành cho bố mình, vốn dĩ ông như thể "bị bỏ bùa", để dùng lại cụm từ của Brod, trong vòng tròn gia đình và như bị thôi miên bởi sự cô đơn của chính ông; nhưng Milena người phụ nữ Séc, nàng amazon dữ dội và thờ ơ với các bó buộc xã hội, người phụ nữ với những thèm khát rừng rực cùng các cơn phấn hứng lồng lộn, khơi lên các ham muốn, cùng những nỗi sợ, sơ đẳng hơn. Nếu tin lời một nhà phê bình ở Praha, Rio Preisner, thì Milena là một "kẻ tâm thần"; nhưng theo Margaret Buber-Neumann, người đã sống hai năm bên cạnh bà ở trại tập trung nơi Milena sẽ chết vào năm 1944 sau một ca mổ thận, đó là một tinh thần cứng cáp, có nhân tính và lòng can đảm thuộc hạng ngoại lệ. Bài báo mà bà viết vào lúc Kafka chết là bài duy nhất đáng quan tâm được đăng trên báo chí Praha; thứ văn xuôi mạnh mẽ ấy đủ tầm cho lời ngợi ca. Milena còn chưa tròn ba mươi tuổi, nhà văn thì chẳng mấy được biết đến ngoài một phân khu bạn bè nhỏ bé, thế nhưng người phụ nữ trẻ tuổi viết: "Hiểu biết thế giới của ông rất sâu sắc, cũng như thế giới vốn dĩ là chính ông... [Ông có] một sự tế nhị trong tình cảm thuộc vào phép mầu, một sự sáng sủa tinh thần đòi hỏi nhiều khủng khiếp và đã tới một thời điểm nơi ông trút lên bệnh tật của ông toàn bộ trọng lượng nỗi sợ sống của ông... Ông đã viết những cuốn sách quan trọng nhất của văn chương Đức ngày nay." Người ta có thể tưởng tượng, dưới ánh mắt sợ hãi của Kafka, con người rung bần bật ấy nằm vắt ngang giường như bố ông nằm chặn lên tấm bản đồ thế giới. Các bức thư mà ông gửi cho bà để lộ một sự rối loạn mà người ta còn xa mới tìm thấy ở phần còn lại trong tác phẩm của ông; từ "sợ" xuất hiện từ trang này sang trang khác: "Cả hai chúng ta đều đã có vợ có chồng, em thì ở Wien, còn tôi thì lấy Nỗi Sợ của tôi, tại Praha." Ông thèm được đặt đầu mình lên ngực bà; ông gọi bà là Mẹ Milena; ở một trong hai cuộc gặp ngắn ngủi của họ, nếu không phải là cả hai, ông tỏ ra bất lực. Rốt cuộc, ông đi đến chỗ nói với bà là bà phải để mặc ông, mệnh lệnh mà Milena tuân theo trong một vực thẳm của đau đớn: "Đừng viết, và đừng gặp nhau nữa; em chỉ yêu cầu anh thanh thản chấp nhận; với điều kiện ấy em sẽ có thể sống tiếp được; mọi thái độ khác hẳn sẽ đều chỉ theo đuổi công trình của phá hủy."
Đang như vậy thì vào đầu mùa hè năm 1923, tới thăm em gái đang đi nghỉ cùng các con bên bờ biển Baltic, ông gặp cô thiếu nữ Dora Dymant. Chưa đầy một tháng sau, người ta thấy Franz Kafka sống cùng cô tại một vùng ngoại ô Berlin, kể từ nay thoát khỏi những "móng vuốt" của Praha và của gia đình. Phải hiểu gì đây? Làm sao lại có chuyện, ông, ốm yếu, lại có được một quyết định triệt để mau chóng đến thế, vốn dĩ nó vượt quá các sức lực của ông vào cái hồi ông còn khỏe mạnh hơn? Người viết thư nồng nhiệt từng có thể dằn vặt mãi không ngừng về việc sẽ phải đi chuyến tàu hỏa nào để tới gặp Milena tại Wien (trong chừng mực ông sẽ gặp bà trong kỳ nghỉ cuối tuần); con người của luật pháp đã bị bourgeois hóa trong cái cổ áo giả của mình, người, trong quãng hấp hối chậm chạp, tức là kỳ đính hôn của ông với Fräulein Bauer, bí mật viết một bản ghi nhớ nơi ông đặt đối lập các lập luận "ủng hộ" hôn nhân và các lập luận "chống lại"; nhà thơ của cái không thể nắm bắt và cái không thể quyết, mà các viễn kiến xé lòng về thất bại được nuôi dưỡng bằng lòng tin rằng một thanh ba ri e không thể suy suyển phân tách mong ước khỏi sự hiện thực hóa nó; người vứt bỏ tất tật các hy vọng về cứu rỗi, về công lý và sự thành tựu bản thân bằng cách dựng lên chống lại những giấc mơ quá đơn giản, quá thành kính, quá con người đó các lực của một cái tưởng tượng thách thức mọi giải pháp và cấm ngặt mọi vòng thoát - chính người ấy thoát đi. Chỉ từ hôm nay sang hôm sau, K. vượt được những bức tường của Lâu đài, Joseph K. thì phá vỡ vòng tròn phiên tòa của mình. Những gì đã chỉ được thoáng nhìn thấy trong Đại giáo đường, một khả năng không có ngày mai - "vòng tránh" phiên tòa và "sống bên ngoài nó" - Kafka biến được nó thành thực tại vào năm cuối cùng tồn tại của ông.
Dora hay cái chết đã soi rọi cho con đường mới? Có lẽ là cả hai. Chúng ta biết rằng "sự rỗng đầy ảo tưởng" mà K. chiêm ngưỡng khi lần đầu tiên anh ta bước chân vào ngôi làng và ngẩng đầu lên, trong màn sương mù và bóng tối, về phía Lâu đài, không rộng lớn hơn và không thể hiểu nổi hơn so với cái ý trở thành chồng và cha trong mắt Kafka trẻ tuổi; nhưng lúc này, dường như vậy, ý nghĩ về một Dora cho cuộc đời, về một người vợ, về một tổ ấm và về những đứa con cho mãi mãi, đấy không còn là viễn cảnh gây hoảng sợ, cuộc tra hỏi đầy kinh hãi như nó từng vào trước kia nữa, bởi, giờ đây, "cho mãi mãi" chỉ còn là vấn đề của vài tháng. Phải, Kafka lúc sắp chết đã quyết chí lấy vợ, và ông viết thư cho bố của Dora, hình ảnh sống động của tôn giáo chính thống, để hỏi cưới con gái của ông. Nhưng cái chết kia, mà sự sắp đến đã giải quyết nơi ông tất tật các mẫu thuẫn và đuổi đi tất tật những thiếu chắc chắn lại trở thành trở ngại mà ông bố của cô gái trẻ đặt lên con đường của ông. Lời đề nghị của người sắp chết muốn được nối vào với mình, kẻ phế tật, tuổi trẻ đang kỳ nở rộ, lời đề nghị ấy bị vứt bỏ.
Có hơn một ông bố đứng đó chặn đường Kafka. Bố của Dora, Max Brod viết, "đi hỏi ý kiến người mà ông coi trọng hơn cả và cũng là người có uy quyền vượt trên mọi thứ khác: "Gerer Rebbe". Rabbi đọc bức thư của Kafka, đặt nó sang một bên, không nói gì ngoài cái từ đơn giản sau: "Không"." Không. Hẳn chính Klamm cũng chẳng thể tàn nhẫn hơn, hay xa cách khỏi kẻ cầu xin hơn. Không. Một lời không cũng không thể lay chuyển, trong ý chí hung dữ của nó, hệt như lời cảnh báo - người ta cảm thấy bị cám dỗ rất mạnh được gọi đấy là lời nguyền rủa - mà bố của Georg Bendemann tung vào con trai mình: "Cứ thử tìm cách bám vào vị hôn thê của con và lại gần bố xem! Con sẽ thấy bố có quét nó đi xa khỏi con hay chăng!" Không. Con sẽ không có, những ông bố nói, và Kafka nghiêng người, vốn dĩ ông đã quá quen nghe lời và từ bỏ, nhưng cũng bị thúc đẩy bởi nỗi kinh tởm mà những kẻ bị bệnh truyền cho ông và lòng kính trọng mà ông dành cho nỗi ham sống trong một cơ thể lành mạnh và mạnh mẽ.
"- Nào, giờ thì dọn toàn bộ những cái này đi! viên thanh tra ra lệnh.
"Và người ta chôn người nhịn đói cùng lúc với rơm.
"Về phần cái lồng, người ta nhốt vào đó một con báo. Ngay cả đối với những kẻ ngu ngốc hơn cả, thật là một sự nhẹ nhõm đáng kể, khi thấy con thú hung dữ kia lồng lộn trong cái lồng đã hoang vắng từ rất lâu ấy. Con vật không bị thiếu thốn gì. Nó thích thức ăn và đám người canh gác mang đồ ăn tới cho nó chẳng chút khằn khò nào; thậm chí nó dường còn không nuối tiếc tự do. Cái cơ thể cao quý đó được nhồi đủ mọi thứ cho đến tận giới hạn chính xác nơi nó có cơ vỡ tung ra, vả lại dường mang chính tự do trong mình; hẳn tự do đã trú thân vào góc nào đó nơi quai hàm của nó; và niềm vui sống trào ra từ đáy cái miệng của nó với một thứ lửa dữ dội tới nỗi không dễ để các khán giả đương đầu được với nó. Nhưng họ tự làm chủ được bản thân, vây chặt quanh cái lồng và không muốn nhúc nhích đến một bước."
Không tức là không. Ông đã biết điều đó rồi. Một cô thiếu nữ mười chín tuổi đầy ắp sức khỏe hẳn sẽ không được trao đi để làm vợ cho một người đàn ông bệnh tật gấp đôi tuổi cô, khạc ra máu ("Ta kết án mi vào giây phút này, bố của Georg Bendemann hét lên, phải chết đuối!"), bị các cơn run rẩy do sốt khiến lẩy bẩy ở trên giường. Kafka đã mơ thấy một giấc mơ mới trái nghịch làm sao với thế giới của Kafka?
Nhưng chín tháng với Dora đó không vì vậy mà bớt có những nét ăn nhập với vũ trụ bên trong của ông: một mùa đông khắc nghiệt tại một căn hộ hai phòng sưởi ấm kém, lạm phát ngốn ngấu khoản trợ cấp còm cõi của ông và ném ra các phố Berlin những người đói ăn cùng các kẻ bần hàn, mà sự đau đớn, Dora nói, làm cho khuôn mặt của Kafka trở nên có màu "xám tro"; chính Kafka, mà lao phổi biến đổi và trừng phạt trong da thịt, Dora chăm sóc nhà văn bị bệnh với cùng mức tận tụy và dịu dàng giống em gái của Gregor Samsa tỏ ra với anh trai mình, con bọ. Em gái của Gregor chơi vĩ cầm hay tới nỗi người anh trai tưởng đâu trông thấy mở ra trước mình con đường dẫn anh đến các thứ đồ ăn xa lạ về đó anh hướng toàn bộ con người mình; trong tình trạng của mình, anh tưởng tượng ra em gái ở nhạc viện, vốn dĩ cô được thiên phú đến vậy cho âm nhạc. Âm nhạc của Dora, về phần cô, ấy là ngôn ngữ Hebrew mà cô lớn giọng đọc cho Kafka nghe, mà cô chơi với một sự thành thạo lớn đến mức, theo Brod, Franz khuyên cô học nghệ thuật diễn kịch, điều mà cô sẽ làm dưới sự hướng dẫn của ông.
Kafka, tuy nhiên, chẳng mấy là một con bọ đối với Dora Dymant, cũng như đối với chính ông. Xa khỏi Praha và mái nhà của ông bố, dường như rốt cuộc ông đã được giải thoát, ở tuổi bốn mươi, khỏi nỗi căm ghét bản thân, khỏi mối nghi ngờ thường trực về con người mình và khỏi một cảm giác tội lỗi mà nhu cầu tùy thuộc và xóa nhòa của ông biểu lộ - tất tật những điều đã dẫn ông tới bờ vực của sự điên trong vòng hai mươi năm. Đùng một cái, ông dường đã được miễn nhiễm với niềm tuyệt vọng không cứu thoát kia, thứ xâm chiếm các huyễn tưởng lớn về sự trừng phạt, tức là Phiên tòa, Trại trừng phạt và Biến hình. Nhiều năm về trước, tại Praha, ông đã ra lệnh cho Max Brod phải phá hủy, lúc ông chết, tất tật các giấy tờ của ông, trong đó có ba cuốn tiểu thuyết được viết tay; lúc này, ở Berlin, khi Brod giới thiệu ông với một nhà xuất bản Đức quan tâm đến tác phẩm của ông, Kafka đồng ý cho in một tập sách gồm bốn truyện ngắn, và ông đồng ý như vậy, Brod viết trong cuốn tiểu sử về ông, "mà không cần phải tranh cãi thật lâu nhằm thuyết phục ông". Được Dora giúp, ông mau chóng quay trở lại với tiếng Hebrew; ông tới, mặc cho bệnh tình và cái lạnh, Viện nghiên cứu Do Thái Berlin để theo ở đó một chuỗi thuyết trình về Talmud. Đấy là một Kafka rất khác với con người sầu muộn xa lạ với chính ông, người từng viết trong nhật ký: "Tôi có gì chung với những người Do Thái? Gần như tôi không có gì chung với chính tôi và hẳn tôi sẽ phải ở thật yên trong một góc, hài lòng vì có thể thở được." Và để sự thay đổi còn rõ rệt hơn nữa, ông tìm được sự sung sướng cùng hạnh phúc bên cạnh một phụ nữ: với người bạn đồng hành trẻ tuổi yêu ông vô cùng, ông tỏ ra vui tươi, sẵn lòng làm công việc sư phạm và, ít nhất người ta có thể đặt giả định về điều này khi nghĩ đến bệnh tật của ông (và cả đến hạnh phúc mà ông cảm thấy), ông nhịn mọi khoái lạc da thịt. Nếu không phải một người chồng (như ông từng cố công trở thành với Fräulein Bauer rất hợp quy chuẩn), nếu không phải là một người tình (như ông từng tuyệt vọng thử trở thành với Milena), thì có vẻ không bởi thế mà ông kém trở nên một con người gần như kỳ diệu trong trật tự vật vốn dĩ là trật tự của ông: một ông bố, cách nào đó, đối với người phụ nữ hẳn cũng là một bà mẹ nhiều tình chị em. Một sáng nọ, đi ra từ một giấc mơ nhiều náo động, Franz Kafka tỉnh dậy, bị biến, trên giường của mình, thành một ông bố đúng nghĩa, một nhà văn đúng nghĩa và một người Do Thái đúng nghĩa.
"Tôi đã tổ chức cái hang của tôi": câu chuyện dài và chậm mà ông viết vào cùng mùa đông đó tại Berlin bắt đầu như vậy; và thêm vào: "tôi thấy nó có vẻ khá lắm..." Sau đó người ta đọc được: "... tại nơi bản vẽ muốn tôi xây dựng, đất bở lắm, rất nhiều cát, cần phải đầm nó để có thể đạt tới được quảng trường lớn có vòm cong và thật tròn trịa kia. Thế nhưng, tôi chỉ có mỗi trán của mình để làm cái nghề ấy. Vậy là với trán của mình cả nghìn, cả nghìn lần, ban đêm, ban ngày, tôi đã lao mình vào đất, sung sướng những khi nào đầu của tôi chảy máu, bởi ấy là một chứng cứ cho thấy vách bắt đầu trở nên chắc; hẳn người ta sẽ nhất trí rằng bằng cái giá đó tôi xứng chiếm được pháo đài của mình."
"Der Bau" là câu chuyện về một con thú nhạy cảm với nguy hiểm quá mức, nó tổ chức cuộc sống của mình quanh nguyên tắc tự vệ. Các khát khao sâu sắc nhất của nó tên là an toàn và thanh thản. Là một Dedalus đầy thiện xảo, nó xây dựng ngầm dưới đất, bằng răng và móng vuốt - và cả bằng đầu nữa - một hệ thống các phòng cùng hành lang lằng nhằng, thứ hẳn sẽ mang đến cho nó sự bình yên tâm trí. Thế nhưng, nếu cái hang đẩy ra xa mối nguy phát xuất từ bên ngoài, thì việc duy trì và bảo vệ nó, ở bên trong, lại là nguồn cho các lo âu: "Những mối lo khiến tôi bận tâm trí khi ở trong đó là các mối lo âu khác với những lo âu từ bên ngoài, các lo âu kiêu hãnh hơn, thực hơn, mà rất thường tôi đẩy dồn xuống, nhưng có lẽ chúng gặm nhấm tôi cũng ngang mức với những lo âu kia." Câu chuyện (mà đoạn cuối đã bị mất) dừng lại ở đoạn có các tiếng ồn âm âm khiến người ta có thể đặt giả định rằng có một con vật khác cũng đang đào hang cho nó về hướng ngôi thành.
Thêm một câu chuyện đen tối nơi ám ảnh cái bẫy nhốt ta lại tự áp đặt với một lực mạnh đến mức mọi phân biệt trở nên bất khả giữa nhân vật và thử thách mà anh ta đang băng ngang. Tuy nhiên, trong câu chuyện tưởng tượng mà Kafka viết vào những tháng "hạnh phúc" của cuộc đời mình này, những tháng cuối, người ta có thể tri nhận được như là ý chí tự hòa giải với bản thân, tự chấp nhận mình, chịu đựng sự điên của riêng mình, điều không xuất hiện trong Biến hình. Sự mỉa mai dạng khổ dâm khủng khiếp mà câu chuyện về Gregor Samsa hé lộ - và cả "Bản án" cũng như Phiên tòa - nhường chỗ cho một phê phán cái tôi cùng các mối bận tâm của nó, chúng, dẫu sát kề sự nhạo báng, không còn tìm cách tự giải quyết thành những hình ảnh tủi nhục và thất bại nữa... Đấy không chỉ là một ẩn dụ cho ego với những tự vệ bệnh hoạn cứ cố công cho sự không thể bị tổn thương bằng cách náu mình đằng sau một tấm khiên, chính là thứ sản sinh một nỗi lo lắng miên viễn; đó còn là một ngụ ngôn rất nhiều chất lãng mạn và tình cảm về cái tại sao và thế nào của nghệ thuật, một bức chân dung nghệ sĩ trong sự trong trắng ngây thơ của anh ta, Narcissus không thương xót chính mình, đơn độc và bí mật, bị gặm nhấm bởi nỗi hoảng sợ và sự không thỏa mãn, bị giao phó cho các ám ảnh loạn thần kinh, bức chân dung ảo thuật gia của suy nghĩ ở chỗ cùng sào, Prospero của Kafka... Đấy là một câu chuyện không khỏi gợi ý, câu chuyện kể lại một cuộc sống trong một cái lỗ. Bởi người ta không thể tự ngăn mình nhắc tới Dora Dymant trong cái tháng Kafka viết "Der Bau" tại căn hộ hai phòng sưởi ấm kém, tổ ấm trái luật của họ. Một người mơ nhiều như Kafka chẳng hề cần phải xâm nhập cơ thể của một cô thiếu nữ thì hiện diện êm dịu của cô mới khơi lên hình ảnh về một cái lỗ bị che giấu, thứ cho phép, chừng nào mọi ham muốn đã thỏa thuê, mọi tham vọng đã được hiện thực hóa, "giấc ngủ êm dịu của sự yên bình"; nhưng là một cái lỗ, nó, chừng nào người ta đã trở thành chủ nhân của nó, hẳn chỉ có thể truyền tới nỗi sợ tàn khốc về một cú sốc dội ngược cùng một sự tước đoạt. "Tôi tìm cách giải mã [bản vẽ] của con thú; nó đang đi chơi xa hay đang làm việc cho cái hang riêng của nó? Nếu nó đang đi xa, thì có lẽ tôi sẽ chẳng thể nào bàn bạc với nó. Nếu nó tới nhà tôi, tôi sẽ đưa cho nó một ít trong số lương thực dự trữ của tôi và nó sẽ có thể đi tiếp. Và thế là, nó sẽ đi tiếp. Trong đống đất của tôi, lẽ dĩ nhiên, tôi có thể mơ mọi điều, thậm chí tôi có thể mơ một mối giao hảo, dẫu tôi biết rất rõ rằng cái đó không thể nào tồn tại và rằng ngay vào giây phút chúng tôi gặp nhau, tôi nói gì nhỉ?, giây phút chúng tôi cảm thấy đang ở gần nhau, hẳn chúng tôi sẽ giương vuốt nhe răng..."
Ông chết vì một u lao phổi và cổ họng vào ngày 3 tháng Sáu năm 1924, một tháng trước sinh nhật lần thứ bốn mươi mốt. Dora, không thể nguôi ngoai, ngày qua ngày thì thầm: "Tình yêu của em, tình yêu của em, người yêu của em..."
2
Chúng ta đang ở vào năm 1942. Tôi lên chín tuổi; thầy giáo dạy tiếng Hebrew của tôi, Dr Kafka, thì năm mươi chín. Đối với các thằng nhóc con theo lớp học hằng ngày từ "bốn đến năm giờ", ông được biết - người ngoại quốc xa lạ và sầu muộn, đối tượng cho toàn bộ mối ác cảm của chúng tôi, ông, người bắt chúng tôi phải học một lối viết cổ xưa vào đúng cái giờ lẽ ra chúng tôi đang phải gào toáng lên trên sân thể thao - ông được biết tới dưới biệt danh Kishka, được đặt như vậy, tôi xin thú nhận, do tôi. Mùi chua trong hơi thở của ông, mà vào lúc năm giờ chiều các chất dịch trong ruột của ông tạo ra, làm cho trở nên đặc biệt nhiều sức khơi gợi, tôi nghĩ thế, cái từ Yiddish muốn nói "lòng dạ". Lời đùa tàn độc, chắc hẳn, nhưng, sự thật là, chưa từng bao giờ, đúng là chưa bao giờ, tôi tưởng tượng được chuyện biệt danh ấy lại đi vào truyền thuyết. Vốn là đứa trẻ được nuông chiều, chính tôi còn chưa tự hình dung được mình như một con người có chút sức thuyết phục, và hoàn toàn không phải như một lực của văn chương. Mấy trò đùa cợt của tôi hẳn sẽ chẳng gây tổn thương một ai, tôi quá đáng yêu. Và nếu bạn không tin tôi, thì cứ đi mà hỏi gia đình tôi cùng các ông thầy của tôi. Cây hài mới chớm nở, một chân ở trường, chân kia để ở Catskill, tôi mua vui cho các bạn tôi, Schlossman và Ratner, trong bóng tối con đường đưa chúng tôi về nhà, bằng cách bắt chước Kishka, nhà sự phạm tỉ mẩn, với âm sắc Đức của ông, tiếng ho của ông, vẻ cau có của ông. "Tiến sĩ Kishka!" Schlossman hét lên, và như một kẻ man dã cậu lao sầm vào công toa bán báo của ông chủ hiệu thực phẩm, tối nào cậu cũng khiến ông trở nên điên hơn một chút. "Tiến sĩ Franz - Tiến sĩ Franz - Tiến sĩ Franz - Kishka!" Ratner hú lên, và cậu bạn béo ị nhỏ bé của tôi, sống phía bên trên nhà chúng tôi, tọng đầy mồm mứt thục quỳ và cacao, chỉ ngừng cười được, như thường lệ (mẹ cậu đã nhờ tôi giám sát cậu chỉ vì mỗi lý do ấy), khi đã đái ướt quần. Schlossman tận dụng nỗi nhục của cậu ta để xé từ quyển vở của Ratner một trang giấy rồi huơ nó trước mặt cậu ta: đó là bài tập mà TS Kafka vừa trả chúng tôi, đã chữa. Ông đã bắt chúng tôi tự viết ra một bảng chữ cái bằng các đường thẳng, đường cong cùng dấu chấm. "Đây là một bảng chữ cái, ông giải thích cho chúng tôi. Đây là tiếng Hebrew. Đây là tiếng Anh. Những đường thẳng, đường cong và dấu chấm." Bảng chữ cái của Ratner, thứ khiến cậu phải nhận điểm kém, giống một hàng gồm hăm sáu cái sọ xếp hàng nối đuôi nhau. Tôi thì nhận điểm tối đa cho một bảng chữ cái tròn vo, mà con số tám đã truyền cảm hứng cho tôi (nếu tin vào lời nhận xét của TS Kafka viết phía trên tờ giấy). Schlossman thì ăn điểm không vì thậm chí đã chẳng buồn làm bài tập, đấy là điều mà cậu chẳng hề quan tâm chút nào. Lúc nào cậu cũng sung sướng, ngập tràn niềm vui. Được giơ một mẩu giấy lên, hét thật to "Kishka! Kishka!", đối với cậu không cần gì hơn là đã thấy hạnh phúc vô cùng. Ai mà chẳng mơ có được cơ may ấy?
Ở nhà, một mình trước ngọn đèn "làm việc" của tôi, nó vươn dài cái cổ ngỗng trong một luồng ánh sáng màu đỏ (sau bữa tối, tôi bật nó lên ở trong bếp, phòng học của tôi), hình ảnh ông thầy người tị nạn của chúng tôi, cứng đơ bên dưới bộ com lê sờn, một bộ com lê đầy đủ lệ bộ màu xanh, đối với tôi không còn gây nhiều vui thú lắm nữa, nhất là khi cái tên Kishka đã trở nên thân thiết với trái tim cả lớp tiếng Hebrew, nơi tôi là học sinh chuyên cần nhất. Cảm giác tội lỗi đánh thức ở tôi những viễn tưởng về sự anh hùng cứu chuộc, các viễn tưởng mà tôi vẫn hay có những khi nào nghĩ tới "những người Do Thái châu Âu". Tôi phải cứu ông. Nếu không phải tôi, thì ai sẽ là người cứu ông đây? Schlosman đầy tính cách Satan chăng? Hay Ratner phúng phính thiên thần? Và nếu tôi không cứu ông vào lúc này, thì bao giờ đây? Bởi tôi đã được biết rằng TS Kafka sống trong một căn phòng tại nhà một bà Do Thái già, phía dưới Avon Avenue, khu phố hạ tiện nơi vẫn còn trolleybus, nơi những người da đen nghèo khổ nhất của Newark đi lên đi xuống phố, lết chân, ánh mắt hèn mọn vẫn quay về phía Mississippi. Chỉ độc một căn phòng. Và là ở khu phố đó! Căn hộ của chúng tôi không phải là một cung điện, nhưng ít nhất nó là của chúng tôi, trong chừng mực chúng tôi trả được ba mươi tám đô la năm mươi tiền thuê nhà hằng tháng; và nếu các hàng xóm của chúng tôi không giàu, thì họ cũng từ chối việc mình nghèo, họ từ chối phải hèn mọn. Bị giằng xé giữa nỗi xấu hổ và niềm sầu khổ, tôi lao mình, mắt đầy nước, vào phòng khách để nói với bố mẹ tôi điều mà tôi đã nghe nói (nhưng tôi đã không nghe thấy điều đó trong khi chúng tôi, một phút trước giờ học, chơi một ván đổ xúc xắc ngắn ở chỗ bức tường nhà thờ, đằng sau, hay thậm chí còn tệ hại hơn, ngay bên dưới cửa sổ có các ô kính viết dòng chữ nổi ghi tên những người chết): "Thầy giáo tiếng Hebrew của con sống trong một căn phòng, chỉ có mỗi một căn phòng."
Bố mẹ tôi bèn làm nhiều hơn so với những gì tôi nghĩ bất kỳ người nào có thể thực sự làm: Mời ông ấy đến ăn tối đi, mẹ tôi bảo. Ở đây? Đúng rồi, ở đây - tối thứ Sáu; mẹ chắc chắn, bà nói, ông ấy sẽ nhận lời mời tới một bữa ăn nấu tại nhà và thích có chút bầu bạn. Thế rồi bố tôi nhấc ngay máy điện thoại lên để gọi cho dì Rhoda của tôi, đang sống cùng bà tôi, mà dì tận tụy chăm sóc giống chăm sóc những cái cây của dì, trong tòa nhà ở góc phố. Từ gần hai mươi năm nay, bố tôi tự cho là nghĩa vụ của mình việc giới thiệu cô em gái "trẻ tuổi" của mẹ tôi, giờ đã bốn mươi, cho những người đàn ông Do Thái độc thân hoặc góa vợ của New Jersey. Chưa có kết quả gì cho đến lúc này. Dì Rhoda, "chuyên trang trí nội thất" ở gian hàng dệt sợi tại một cửa hàng lớn ở Elizabeth, mang vú giả (tôi biết thông tin này nhờ anh tôi) mà chỉ đống nịt ngực tràn trề đăng ten che đi. Nếu tin vào biên niên sử gia đình, ngày nào bà cũng bỏ hàng tiếng liền trong phòng tắm để thoa phấn, bôi son, dựng cho đứng lên trên đầu bộ tóc cứng đơ thành một cấu trúc bề thế; nhưng mặc cho sự hào nhoáng cùng sự phô trương ấy, bà vẫn, theo lời bố tôi, "hoảng sợ trước các chuyện của cuộc đời". Về phần mình, không chút nao núng, ông đều đặn và đầy nhã nhặn nói cho bà cách điều trị cần phải theo: "Cứ để mặc đi, Rhoda, vậy là tốt, cô biết đấy!" Tôi, máu thịt của bà, thì tôi có thể chấp nhận những lời dạn dĩ nhường đó ở giữa bốn bức tường phòng bếp của chúng tôi, nhưng TS Kafka sẽ nghĩ gì đây? Ồ, và nữa, giờ thì đã quá muộn rồi. Chẳng còn làm được gì nữa. Cỗ máy cưới xin nặng nề đã được khởi động nhờ tay ông bố không thể chế ngự của tôi và những pít tông bôi trơn dầu mỡ nơi lòng hiếu khách của mẹ tôi đã kiêu hãnh khởi lên trong tiếng ro ro êm ái. Tôi phải lao mình nằm chắn giữa đường nhằm chấm dứt công trình đó ư? Thế thì cũng ngang với tìm cách làm lụn bại công ty điện thoại bằng cách để cho ống nghe treo lủng lẳng trên dây. Giờ chỉ mỗi TS Kafka còn có thể cứu được tôi. Nhưng trước lời mời mà tôi nói với ông trong một tiếng thì thào, ông đáp, với một cú cúi đầu khẽ đầy nghiêm trang, nó làm má tôi đỏ lựng lên - đã bao giờ người ta nom thấy một người lớn làm điều gì tương tự bên ngoài màn ảnh chưa? - ông đáp là mình sẽ rất vinh dự được làm khách ăn tối ở nhà tôi. "Dì em, tôi liến thoắng thông báo với ông, cũng sẽ ở đó." Tôi thấy dường như mình vừa thốt ra vài lời rất dễ chịu; bởi lạ làm sao, tôi thấy TS Kafka mỉm cười. Rồi, thở dài: "Tôi sẽ rất mừng được làm quen với bà ấy." Làm quen? Như vậy ông không biết là ông phải lấy bà ư? Làm sao mà cảnh báo được điều này cho ông đây? Và làm thế nào báo trước được cho dì Rhoda (vốn dĩ hết sức ngưỡng mộ tôi, đứa học trò giỏi) là hơi thở của ông hôi thối, nước da xỉn xám, có các cung cách của một thời đại khác, chúng chẳng thể nào ăn nhập được với vẻ chic hiện đại của bà? Tôi cảm thấy mặt mình đỏ như lò lửa, như thể từ mặt tôi sắp bắn ra thứ lửa sẽ hư vô hóa nhà thờ, Torah cùng toàn bộ những thứ khác, đang như thế thì tôi thấy TS Kafka ghi lại địa chỉ nhà chúng tôi vào quyển sổ của ông và viết thêm lên phía trên vài từ bằng tiếng Đức. "Chào thầy." "Chào nhé, và cám ơn, cám ơn lần nữa." Tôi khởi sự chạy, tôi chạy, nhưng không đủ nhanh: tôi nghe thấy ở ngoài phố Schlossman - đồ phản bội! - thông báo với đám bạn cùng lớp của tôi, chúng đang nện lẫn nhau dưới đèn đường, bên dưới các bậc thang của nhà thờ (nơi cũng đang diễn ra một ván bài giữa lũ nhóc sắp làm lễ bar mitzvah), tôi nghe thấy nó thông báo: "Roth đã mời Kishka đến nhà cậu ấy! Để ăn!"
Sao mà bố tôi mất nhiều công sức vì Kafka! Toàn bộ những trò kia, cho hạnh phúc gia đình! Hãy xem thử là oách đến thế nào khi có hai đứa con trai ngoan và một người vợ tuyệt vời! TS Kafka có thể tưởng tượng được điều đó không? Ông có thể tưởng tượng được biết bao nhiêu sự bừng sốt, biết bao nhiêu niềm thỏa mãn, biết bao nhiêu là kiêu hãnh, hay chăng? Người khách của chúng tôi được biết rằng các họ hàng, bên phía mẹ tôi, đã tụ hội lại để lập ra một "hiệp hội gia đình" gồm hơn hai trăm người phân chia ra bảy Bang, kể cả Bang Washington! Có các họ hàng cho tới tận Viễn Tây: nhìn này, TS Kafka, có ảnh chụp họ trong quyển sách này, mà chúng tôi đã bỏ hết tiền in, năm đô la mỗi bản; tất tật những thành viên của gia đình đều xuất hiện trong đó, ngay cả các vú em, và anh có thể đọc ở trong đó toàn bộ câu chuyện của chúng tôi, do ông bác Lichtblau, tám mươi lăm tuổi, trưởng lão của bộ lạc, kể. Đây là tờ tập san của chúng tôi, in mỗi năm hai kỳ, và được phân phát cho tất tật họ hàng của chúng tôi tại khắp nước Mỹ. Đây, trong cái khung này, anh có thể thấy thực đơn bữa tiệc đã được hiệp hội gia đình tổ chức vào năm ngoái để vinh danh bà mẹ của bố tôi, mừng sinh nhật thứ bảy mươi lăm của bà. Mẹ tôi, người ta nói cho TS Kafka biết, trong vòng sáu năm liên tiếp từng là thư ký kiêm thủ quỹ của hiệp hội. Bố tôi từng đảm nhiệm vị trí chủ tịch trong vòng hai năm, cũng như mỗi người trong số ba anh em ông. Giờ đây chúng tôi đang có mười bốn chàng thanh niên chiến đấu dưới cờ. Philip tháng nào cũng viết thư cho năm người anh em họ đang ở trong quân đội của nó. "Đầy thành kính", mẹ tôi cắt ngang, đưa tay vuốt tóc tôi. "Tôi thực sự nghĩ, bố tôi nói, rằng gia đình là thứ quả ngọt của mọi điều."
TS Kafka, đã chăm chú lắng nghe bài diễn văn rất hay của bố tôi và, trước các tài liệu mà ông lật giở hết sức nhẹ nhàng, có vẻ đang chịu một hấp lực, nó khiến tôi nhớ đến chính tôi, cúi người xuống những con tem của mình, lần đầu tiên cất lời để nói về chủ đề gia đình. Giọng êm ái, ông nói: "Tôi đồng ý với ông", và ông lại đắm chìm vào quyển album gia đình của chúng tôi. "Sự cô đơn, bố tôi nói thay lời kết luận, sự cô đơn, thưa TS Kafka, đấy là con sâu ở trong quả." TS Kafka, chậm rãi đặt quyển sách lên cái bàn nhỏ sáng lấp lánh nơi mẹ tôi bày bộ đồ uống trà, gật đầu ra dấu ông chia sẻ tình cảm ấy. Mẹ tôi, giờ đây, luồn các ngón tay vào những lọn tóc trên gáy tôi. Vào lúc này tôi không có ý thức về điều đó, không hơn so với bà. Cuộc đời tôi, ấy là sự được ve vuốt; cuộc đời bà, ấy là vuốt ve bố tôi, và anh tôi, và tôi.
Anh tôi phải đi đến một cuộc họp hướng đạo sinh, nhưng trước hết bố tôi thấy cần giữ anh lại một lát, đứng đó trước mặt TS Kafka, cái khăn phu la quàng quanh cổ, để tán dương những tài năng đã khiến anh được nhận từng cái huy hiệu kia. Tôi được bảo mang quyển album tem ra khoe với TS Kafka loạt vignette hình tam giác ghi tên Zanzibar. "Zanzibar!" bố tôi hào hứng kêu lên, như thể tôi từng, mà vốn dĩ tôi đây còn chưa tròn mười tuổi, có chuyến đi tới hòn đảo. Bố tôi dẫn chúng tôi, TS Kafka và tôi, ra đến "hàng hiên" nơi lũ cá ngoại lai của tôi bơi trong thiên đường êm ả mà tôi đã tạo dựng cho chúng bằng tiền tiêu vặt của mình. Tôi được khích lệ nói với TS Kafka những gì mà tôi biết về tính cách của một con, tập tục của một con khác. Tôi biết rất nhiều về những cái đó. "Và nó đã tự học một mình đấy, bố tôi bảo TS Kafka. Nó có thể giảng cho tôi cả một bài về cá vằn và cá thần tiên. Phi thường lắm, thưa TS Kafka. - Tôi rất muốn nghĩ vậy", Kafka đáp.
Lúc chúng tôi quay trở vào phòng khách, đột nhiên dì Rhoda của tôi lao mình vào một độc thoại u tối về "vải len Ê-cốt", có vẻ như là được hình dung chỉ nhằm giáo huấn cho mẹ tôi. Ít nhất thì bà chăm chăm nhìn mẹ tôi trong khi nói. Tôi còn chưa nhìn thấy bà quay mặt nhìn về phía TS Kafka, ngay cả trong bữa tối vào lúc ông hỏi có bao nhiêu nhân viên tại cửa hàng nơi bà làm việc. "Làm sao anh lại muốn tôi biết điều đó được đây?" bà đã đáp; và ngay lập tức nối lại cuộc chuyện trò với mẹ tôi liên quan tới một ông hàng thịt sẵn sàng "ngầm ý" tạo thuận lợi cho bà nếu bà kiếm được bít tất nylon cho vợ ông ta. Trong tâm trí tôi không nảy ra cái ý cho rằng bà không nhìn TS Kafka do tính rụt rè: một người ăn vận cồ quẹt như thế kia hẳn chẳng thể nào rụt rè được. Tôi chỉ nghĩ là bà thấy kinh tởm. Do hơi thở của ông. Do âm sắc giọng nói của ông. Do tuổi tác của ông.
Về điều này tôi nhầm: nguyên do nằm ở cái mà dì Rhoda gọi là "ẩn ức vượt trội" của ông. "Anh chị đã thấy anh ta tỏ bộ dạng như thế nào chưa, nụ cười đầy khinh miệt của anh ta ấy?" dì tôi hỏi, chính bà cũng lấy một dáng điệu vượt trội. "Khinh miệt?" bố tôi nhắc lại, ngây cả ra. "Anh ta chế nhạo chúng ta, đúng đấy!" dì Rhoda nói thêm. Mẹ tôi nhún vai. "Tôi thì tôi không tin là anh ta chế nhạo đâu. - Thôi nào, kìa, anh ta vui thú lắm đấy, nhờ chúng ta. Tôi biết cái đám châu Âu đó. Bọn họ tưởng đâu mình là chủ nhân của tòa lâu đài." Và bố tôi, nghiêng đầu sang, ngón tay trỏ chỉ thẳng: "Cô có muốn tôi nói với cô, Rhoda, là tôi nghĩ cô đang yêu rồi. - Yêu anh ta? Anh điên à? - Anh ta quá lu mờ cho Rhoda, mẹ tôi nói. Anh ta có một cái gì đó của hoa vi-ô-lét. Rhoda là một người rất năng nổ, nó cần những người năng nổ ở xung quanh. - Một bông hoa vi-ô-lét, thật hả! Một bông hoa vi-ô-lét! đấy là một gentleman, chỉ vậy thôi. Và anh ta chỉ có một mình." Bố tôi nói thế, đầy độc đoán, vừa nói vừa ném một ánh mắt thịnh nộ vào mẹ tôi, kẻ đã dám, vào lúc đang có mặt ông, nói xấu Kafka. Dì Rhoda của tôi đã bốn mươi tuổi, và bà không hoàn toàn là một con thuyền nhỏ xinh đẹp sẵn sàng đi ra biển. "Đấy là một gentleman, một người có học, và nếu các vị muốn biết, anh ta sẵn sàng cho đi con ngươi của mắt mình để có được một tổ ấm cùng một người vợ ở bên cạnh. - Ừ thì, anh ta cứ đi mà tìm thôi, dì Rhoda đáp, bởi vì anh ta có học đến vậy. Một người như thế, mà anh ta sẽ không phải nhìn xuống từ cái mũi của mình với cặp mắt to buồn bã người tị nạn của anh ta! - Tôi đã nói rồi mà", và bố tôi ấn tay lên đầu gối Rhoda với một cử chỉ chinh phục, "cô yêu rồi. - Yêu anh ta?" bà kêu to, nhảy dựng lên, làm xập xòe đống vải sa như một màn pháo hoa. "Yêu Kafka? bà hỏi, giọng châm biếm. Em sẽ chẳng cho đi một ngày duy nhất trong đời em cho cái lão già đó đâu!"
TS Kafka đến thăm chúng tôi và đưa dì Rhoda đi ra rạp xem phim. Tôi rất ngạc nhiên, cả với việc ông tới, cả với việc bà đi cùng ông. Cuộc đời, dường như vậy, đáng tuyệt vọng hơn so với những gì tôi từng có thể thấy trong bể cá của tôi. TS Kafka dẫn dì Rhoda đi xem một vở kịch do Tuổi trẻ Do Thái diễn. TS Kafka ăn cùng bữa trưa ngày Chủ nhật với bà tôi và dì Rhoda và, cuối buổi chiều, trang nghiêm cúi người xuống như ông vẫn hay quen làm, ông nhận cái bình đựng món xúp bông đại mạch xay nát mà bà tôi bắt ông mang theo lên xe bus số 8. Có vẻ như là ông đã hết sức trìu mến khu rừng rậm các cây nhỏ, và bà tôi hồi đáp lại ông rất nồng nhiệt. Họ nói chuyện về làm vườn bằng tiếng Yiddish. Một sáng thứ Tư, chỉ một tiếng sau khi cửa hàng mở, TS Kafka xuất hiện trước mặt dì Rhoda. Ông chỉ muốn, ông nói, xem nơi bà làm việc. Tối đến, ông viết vào nhật ký: "Với khách hàng, cô ấy tỏ ra trung thực và vui tươi, và nhiều chỉ đạo về những vấn đề thuộc "gu" đến mức, nghe cô ấy giải thích cho một cô dâu mới có các đường nét căng mẩy tại sao màu lục và màu xanh "không thể đi cùng nhau", mình hết sức sẵn sàng tin rằng Tự nhiên đã nhầm còn R. mới nắm được sự thật."
Một tối nọ, vào lúc mười giờ, tôi nhìn thấy TS Kafka và dì Rhoda bất chợt hiện ra. Một bữa tiệc nhỏ ngẫu hứng được tổ chức trong bếp - người ta mời khắp xung quanh cà phê cùng bánh ngọt, và thậm chí một chút whiskey - để ăn mừng việc dì Rhoda quay trở lại sân khấu. Tôi từng chỉ nghe nói đến những tham vọng làm diễn viên của bà. Anh tôi bảo hồi tôi còn nhỏ Chủ nhật bà hay đến diễn rối cho chúng tôi xem; hồi ấy bà đi lưu diễn ở New Jersey và dàn dựng những buổi diễn tại các trường học, thậm chí tại các nhà thờ: có hai phụ nữ điều khiển lũ rối, nhưng dì Rhoda là người nói tất tật các giọng. Cùng quãng đó, bà cũng thuộc Nhà hát tập thể của Newark, một đoàn kịch "dấn thân" về cốt yếu được thành lập cho mục đích truyền bá chính trị. Ở Newark, tất cả mọi người, trong chừng mực tôi biết được, hết sức hy vọng Rhoda Pilchik có sự nghiệp tại Broadway - tất cả mọi người, chỉ trừ bà tôi. Thời kỳ lịch sử ấy đối với tôi cũng khó hình dung ngang với thời đại của những thành phố dưới hồ, mà người ta đang nói với chúng tôi vào lúc này ở trường; người ta bảo với chúng tôi rằng từng có thời con người sống như vậy; tôi muốn tin điều đó lắm, nhưng dẫu sao đối với tôi cũng thật khó mà tưởng tượng được thực tại đó khi mà tôi đang nhìn thấy ở quanh mình toàn bộ những gì mà tôi vẫn thấy.
Tuy nhiên, bố tôi, vốn dĩ là toàn bộ những gì thực hơn cả, bố tôi ở đó, trong bếp, một cốc schnaps cầm ở tay để chúc mừng cho thành công của Rhoda. Dì tôi đã giành được một trong những vai đầu tiên trong vở kịch nổi tiếng của Chekhov, Ba chị em, sáu tuần nữa sẽ được diễn bởi đoàn kịch nghiệp dư của Tuổi trẻ Do Thái Newark. Toàn bộ, dì Rhoda tuyên bố, bà có được đều là nhờ Franz và các khích lệ của ông. Chỉ một cuộc trò chuyện là đã đủ - "Chỉ một!" bà vui vẻ kêu lên - để TS Kafka chiến thắng được các phòng ngừa của bà tôi, người từng lúc nào cũng đánh giá rằng diễn viên không phải là những con người đúng nghĩa. "Và bản thân anh ấy cũng là diễn viên giỏi làm sao, dì Rhoda nói. Anh ấy đã mở mắt cho bà ấy về ý nghĩa mọi điều bằng cách đọc cho bà ấy nghe vở kịch!" Bởi ông đã đọc nó từ đầu đến cuối, diễn tất tật các vai, và bà tôi đã khóc! Dì Rhoda: "Nghe này. Đây là câu đầu tiên, nó là chìa khóa cho toàn bộ. Nghe này. Tôi nghĩ đến cái đêm bố tôi chết; tôi đã tự hỏi chúng tôi rồi sẽ ra sao đây, rồi đây tất tật chúng tôi sẽ làm gì - và... nhưng nghe này, nghe này!
- Chúng tôi đang nghe đây", bố tôi vừa đáp vừa cười. (Dẫu thế nào thì tôi cũng đang lắng nghe, từ giường của mình.)
Một quãng nghỉ. Hẳn dì Rhoda đã tiến lên đến giữa bếp trên nền nhà phủ lino. Bà nói, tông giọng thể hiện nỗi kinh ngạc: "Bố chết đã được tròn một năm rồi.
- Suỵt! mẹ tôi khẽ nói, em sẽ làm thằng bé mơ thấy ác mộng mất thôi."
Tôi không phải là người duy nhất thấy dì tôi "đã thay đổi" trong những tuần tập diễn kịch. Mẹ tôi bảo là bà đã quay trở lại giống hệt cái thời vẫn còn là một cô bé gái. "Hai má hồng, lúc nào hai má cũng hồng, nóng rực, và chẳng cần gì hết cũng làm nó bấn lên, ngay cả là đi tắm. - Nó sẽ bình tĩnh thôi, em đừng lo, bố tôi nói, và chính lúc đó anh ta sẽ cầu hôn. - Phỉ phui", mẹ tôi đáp. Và bố tôi: "Nào, anh ta biết cách, anh ta thấy rõ một gia đình nghĩa là gì và, tin anh đi, anh ta không đánh mất một mẩu nhỏ nào trong đó đâu. Cứ nhìn anh ta những lúc anh ta ngồi trong cái phô tơi này mà xem. Giấc mơ của anh ta đang được hiện thực hóa đấy. - Rhoda bảo là hồi còn sống ở Berlin, trước Hitler, anh ta từng có một cô bạn gái; họ đã sống cùng nhau suốt nhiều năm và nhiều năm, và rồi cô ấy đã bỏ anh ta. Để đi theo một người khác. Cô ấy đã chán phải chờ đợi. - Đừng lo, lúc nào đến lúc, anh sẽ đẩy anh ta một chút. Anh ta không vĩnh cửu, và anh ta biết điều đó."
Một đợt cuối tuần, nhằm nghỉ ngơi sau nỗi mệt của các cuộc tập kịch vào ban đêm (TS Kafka đều đặn có mặt ở đó, trong cái áo măng tô cùng cái mũ của mình, ở tận cuối khán phòng, trước khi đưa dì Rhoda về nhà), họ đi Atlantic City một chuyến. Kể từ khi cập vào bến của chúng tôi, TS Kafka đã muốn xem đường dạo chơi lát ván và con ngựa nhảy xuống nước. Nhưng ở đây, nhiều điều vuột thoát khỏi tôi: hễ có mặt tôi là cuộc trò chuyện về chủ đề được thực hiện bằng tiếng Yiddish. TS Kafka gửi cho dì Rhoda bốn bức thư trong vòng ba hôm. Dì Rhoda đến nhà chúng tôi ăn tối và ở lại trong bếp cho tới nửa đêm, khóc lóc suốt. Bà gọi điện thoại cho Tuổi trẻ Do Thái để nói (vẫn khóc sướt mướt) là mẹ bà vẫn ốm và bà không thể đến tập; thậm chí bà còn có thể bị buộc phải từ bỏ vở kịch. Không, bà không thể, bà không thể, mẹ bà quá đuối, bản thân bà thì bị đảo lộn quá mạnh, chào nhé! Rồi bà quay trở lại ngồi xuống bên bàn bếp để khóc tiếp. Bà không thoa phấn hồng lên mặt, không bôi son môi, và mái tóc màu hạt dẻ của bà, rũ rượi, chọc thẳng lên như các sợi của một cái chổi kiêm bàn chải.
Anh tôi và tôi lắng nghe từ phòng của chúng tôi, qua cánh cửa mở hé.
"Anh chị đã bao giờ...? dì Rhoda vừa khóc vừa hỏi, đã bao giờ...?
- Đứa trẻ khốn khổ", mẹ tôi nói.
Trong một tiếng thì thào, tôi hỏi anh tôi: "Ai? Dì Rhoda hay...? - Suỵt! anh tôi đáp. Im đi!"
Trong bếp, bố tôi phát ra những tiếng làu nhàu. Ông đứng dậy, bước đi, lại ngồi xuống, và làu nhàu. Tôi chú tâm lắng nghe tới nỗi tri nhận được tiếng sột soạt của những bức thư mà người ta gấp lại rồi mở ra, mà người ta nhét trở lại vào phong bì của chúng, mà người ta lại rút ra, để đọc lại, gí mắt vào gần thêm.
"Rồi sao? dì Rhoda hỏi, rồi sao?
- Rồi sao gì cơ? bố tôi đáp.
- Rồi sao, giờ thì anh có gì để nói?
- Anh ta đã hoàn toàn mất trí, cái đó thì anh nhất trí với cô. Một meschugeneh [kẻ điên], vậy đấy.
- Và thế nhưng, dì Rhoda nói, khóc nức lên, đã chẳng ai muốn tin em!
- Rhody, Rhody. (Mẹ tôi đã lấy cái giọng ru ngủ ấy, nó làm tôi đi ngược lên cái hồi người ta tháo kim băng cho tôi, cái hồi tôi tỉnh dậy đầm đìa nước mắt, ngồi trên sàn nhà, dưới giường tôi.) Rhody, bình tĩnh nào, em yêu quý. Xong rồi mà, con mèo nhỏ của chị, xong rồi."
Tôi vươn mình về phía cái giường đôi và kéo chăn. Cả đời chưa từng bao giờ tôi hoang mang như thế, ngay cả những khi nào tôi nghĩ tới cái chết. Mọi sự diễn ra sao mà chóng vánh! Toàn bộ hạnh phúc trên đời bị phá hủy chỉ trong một giây lát! Nhưng do cái gì? "Cái gì?" tôi thì thào hỏi. "Có chuyện gì thế?"
Anh tôi, hướng đạo sinh, mỉm cười vẻ biết tỏng, và đáp lại nỗi hoang mang của tôi bằng một tiếng huýt, nó nói cho tôi biết rất đầy đủ: "Chuyện sex!"
Nhiều năm về sau, mới ghi tên vào trường Đại học, tôi nhận được từ bố mẹ tôi, cắt ra từ tờ The Jewish News, một tờ báo tuần nào cũng được gửi đến các tổ ấm Do Thái thuộc hạt Essex, tin về cái chết của TS Kafka. Đấy là mùa hè, kỳ học đã kết thúc, nhưng tôi vẫn ở lại trong căn phòng sinh viên của tôi, một mình, tìm cách viết các truyện ngắn. Tôi được nuôi ăn bởi một cặp vợ chồng trẻ (người chồng là thầy giáo dạy tiếng Anh) để đổi lại công việc trông trẻ con. Tôi tìm cách nói với những người chủ nhà trọ dễ mến của tôi, họ cũng cho tôi vay tiền nhà, tại sao tôi không thể quay về nhà bố mẹ. Ở bàn ăn tối, tuy nhiên, tôi chỉ có thể nói với họ về những cãi cọ của tôi với bố tôi. "Để cho con thoát được khỏi ông ấy đi!" Và mẹ tôi: "Có chuyện gì thế, con yêu, có chuyện gì nào?" Có chuyện gì thế?... cùng câu hỏi, vẫn nó, mà tôi từng dùng để tra tấn anh tôi, ngày nay nó lại được đặt cho chính tôi, và là trong cùng nỗi hoang mang, trong cùng sự trong trắng. "Ông ấy yêu con, con biết mà."
Đấy chính là trở ngại. Những người khác bị nghiền nát bởi sự kiểm soát của ông bố; tôi thì cảm thấy bị áp bức bởi niềm ngưỡng mộ mà bố tôi dành cho tôi. Có đúng (và tôi có thể chấp nhận điều đó không?) là tôi đã đi tới chỗ căm ghét ông vì đã yêu tôi tới vậy, vì đã ca ngợi tôi nhiều tới vậy? Xuẩn ngốc! Xem kẻ bội bạc kìa! Được yêu, chẳng phải đó là một ân phước ư, chẳng phải đó là ân phước lớn nhất ư? Tối đến tôi chỉ cần lắng nghe những người bạn thân nhất của tôi, những người ở tờ tạp chí văn chương và đoàn kịch, là đủ: các câu chuyện gia đình mà họ kể tranh đoạt về sự hãi hùng với cuốn tiểu thuyết của Samuel Butler, The Way of All Flesh; họ quay lại từ kỳ nghỉ như sau một cuộc đấu giáp lá cà. Có gì mà họ chẳng sẵn sàng cho đi để được xỏ đôi păng túp mạ vàng của tôi! "Có chuyện gì thế?" Mẹ tôi cầu xin tôi; nhưng làm sao mà tôi có thể trả lời bà được đây, khi mà thậm chí tôi còn không chắc chắn được vào việc có chuyện gì đó, hay việc chính tôi là người gây ra chuyện gì đó. Cứ nghĩ rằng bố mẹ tôi, những người từng cùng nhau nhổ đi tất tật các trở ngại trên con đường của tôi, giờ đây đối với tôi lại là trở ngại cuối cùng! Có gì đáng kinh ngạc đây khi nỗi điên giận của tôi làm tôi khóc như một đứa bé đầy xấu hổ, bị hành hạ, bị lạc. Tức là toàn bộ những gì mà chúng tôi đã xây dựng trong vòng hai mươi năm, chính là hai mươi thế kỷ, tôi phải hư vô hóa chúng đi nhân danh nhu cầu bạo chúa ấy: "độc lập" của tôi! Mẹ tôi, để ngỏ con đường, gửi cho tôi một bức thư: "Bố mẹ nhớ con", và bà gửi kèm tin báo cái chết. Ngoài lề, bên dưới mẩu tin cắt từ báo ra, bà viết (bằng nét chữ với đó bà viết cho tôi những lời xin lỗi và ký vào học bạ của tôi, bằng cái nét chữ xưa kia đã vạch cho tôi một con đường trong thế giới): "Con còn nhớ Kafka khốn khổ chứ, người từng theo đuổi dì Rhoda?"
"TS Franz Kafka, mẩu tin nói, người từng, từ 1939 đến 1948, là thầy giáo dạy tiếng Hebrew tại Trường Talmud thuộc Nhà thờ lớn tại Schley Street, đã chết vào ngày 3 tháng Sáu ở Trung tâm tim phổi Brown Mills, tại New Jersey, nơi ông đã được nhận vào năm 1950. Ông 70 tuổi. Sinh tại Praha, Tiệp Khắc, TS Kafka đã tị nạn ở Mỹ để thoát khỏi Nazi. Ông không để lại người con nào."
Ông cũng không để lại cuốn sách nào: không Phiên tòa nào, không Lâu đài nào, không Nhật ký nào. Giấy tờ của người quá cố, chẳng ai muốn nhận; tất tật chúng biến mất đi, trừ bốn bức thư của "meshugeneh", chúng, vào lúc này, theo như tôi được biết, thuộc vào số các kỷ niệm được dồn tụ lại bởi tay dì tôi, vẫn sống độc thân, cùng những tấm áp phích Broadway, tờ quảng cáo cửa hàng ở Elizabeth, và những nhãn hiệu của các hãng tàu biển xuyên Đại Tây Dương.
Chính bằng cách ấy mà mọi dấu vết của TS Kafka tan biến. Vì số phận vẫn đúng như nó vốn dĩ, làm sao mà chuyện lại có thể khác được đây? Nhân viên đo đạc có đến được lâu đài hay không? K. có thoát được khỏi bản án của tòa hay không? Georg Bendemann, lời phán xử của bố anh? "Nào, giờ thì dọn toàn bộ những cái này đi! viên thanh tra ra lệnh. "Và người ta chôn người nhịn đói cùng lúc với rơm." Đã được viết sẵn, hết sức đơn giản, rằng Kafka sẽ không bao giờ trở thành Kafka Người Duy Nhất; điều này hẳn còn lạ thường hơn so với sự thể một người bị biến thành bọ. Hẳn sẽ chẳng ai tin vào điều đó, Kafka còn ít hơn bất kỳ người nào khác.
Lê Công Tăng dịch [các trích dẫn trong bài do LCT dịch]
nhìn
Pietro Citati nhìn Katherine Mansfield
Walter Benjamin nhìn Nikolai Leskov
Henry James nhìn Joseph Conrad
Czesław Miłosz nhìn Simone Weil
Ford Madox Ford nhìn Joseph Conrad
Baudelaire nhìn Thomas de Quincey