favorites
Shopping Cart
Search
Vitanova
Prev
Hạ 2025
Next

Paul Ricoeur về Kierkegaard

27/07/2025 23:19

Ricoeur không xa lạ với Kierkegaard, không những thế Ricoeur còn rất thân thiết với Jean Wahl, tác giả của Études kierkegardiennes danh tiếng, cuốn sách có ý nghĩa "cấp giấy chứng thực" cho Kierkegaard trong địa hạt của triết học đúng nghĩa.

Dưới đây là một trong hai text quan trọng hơn cả mà Paul Ricoeur từng viết về Kierkegaard, đều trong năm 1963 (bài còn lại bàn về Kierkegaard trong địa hạt của cái ác).

 

Triết lý sau Kierkegaard

Khi Kierkegaard bắt đầu được biết đến ở Đức, nhờ bản dịch đầy can đảm của Gottsched, trông như thể một món cược thua, rồi tại Pháp, nhờ những bản dịch đáng ngưỡng mộ của Tisseau cùng Études kierkegaardiennes nổi tiếng của Jean Wahl, nhà tư tưởng Đan Mạch ngay lập tức bị khoác lên mình chức năng nhân đôi: phản kháng và thức tỉnh. Ngày nay, ba mươi hay bốn mươi năm sau cú xuyên mình vào văn chương triết học và thần học châu Âu ấy, chuyện như thế nào?

Cần phải thú nhận rằng ngày nay chúng ta không nhìn được sáng sủa mấy về biểu nghĩa triết học của Kierkegaard. Nhà tư tưởng phản kháng? Nhưng chống lại cái gì? Đồng lòng như một chúng ta nhắc lại, với chính Kierkegaard: thì chống lại hệ thống, chống lại Hegel, chống lại lý tưởng luận Đức. Nhà tư tưởng thức tỉnh? Nhưng là cho điều gì? Mốt Kierkegaard mời chúng ta đáp: cho hiện sinh. Chính hai điều hiển nhiên có trước này là những thứ mà tôi muốn đặt thành nghi ngờ, nhằm khởi thảo một sự đọc thứ hai mà chúng tôi đã chuẩn bị trong suy tưởng ngay trước [tức là text về Kierkegaard và cái ác] - sự đọc hẳn có lẽ sẽ mang lại được một tương lai mới cho tác phẩm của Kierkegaard, vì giờ đây sự đọc thứ nhất đã vét kiệt tất tật các khả thể của nó.

Chúng ta bắt đầu bằng nghi ngờ đầu tiên: Kierkegaard, cha đẻ của hiện sinh? Với độ lùi vài thập kỷ, xếp loại này chỉ còn là một trò đánh lừa, có lẽ là cách thức thiện xảo hơn cả nhằm thuần hóa ông, bằng cách cho ông nhập catalogue trong một thể loại đã biết. Ngày hôm nay chúng ta đã được chuẩn bị tốt hơn để thừa nhận rằng cái gia đình của các triết học ấy không tồn tại; cùng lúc, chúng ta sẵn sàng trả tự do cho Kierkegaard ở khía cạnh đó. Chúng ta từng thấy nơi ông tổ tiên của một gia đình nơi Gabriel Marcel, Karl Jaspers, Heidegger và Sartre hẳn là anh em họ của nhau. Ngày nay, sự vỡ tan của nhóm, vả lại đấy là nói nếu có bao giờ nó từng tồn tại ở đâu khác ngoài trong các sách giáo khoa, là hiển nhiên: hiện sinh, ở tư cách triết học chung, không tồn tại, cả ở những luận điểm chính yếu của nó lẫn trong phương pháp của nó, thậm chí cả nơi các vấn đề nền tảng của nó cũng không nốt; Gabriel Marcel thích mình được gọi là người tiền Socrate hơn còn Jaspers nhấn mạnh sự đoàn kết của ông với triết học cổ điển; bản thể luận nền tảng của Heidegger đã vỡ tung ra về phía một suy nghĩ thuộc khoảng giữa, nhiều tính cách cổ xưa và thơ ca. Về phần Sartre, ông coi hiện sinh của chính mình như một ý luận cần được tái diễn giải trong khuôn khổ mác xít; hai trường hợp cực điểm ấy là dấu hiệu cho thấy là ít sức soi sáng hơn, giờ đây so với cách đây hai mươi năm, việc coi hiện sinh như là một chìa khóa cho sự diễn giải nhiều sức xuyên thấu đối với Kierkegaard.

Mối nghi thứ nhất này được khích lệ bởi việc chúng tôi đọc Khái niệm hoảng sợ và Căn bệnh chết; chúng tôi đã tìm được tại đó một nhà tư tưởng chuyển dịch một kinh nghiệm rất mạnh vào một biện chứng sắc lẹm, người tưởng tượng ra theo lối trừu tượng các chặng của tồn tại, nhiều tính cách được xây dựng hơn so với sở nghiệm, và chế tạo ra chúng nhờ phương tiện là một biện chứng gãy: hữu tận [hữu hạn]-vô tận, khả dĩ-có thật, ngoài ý thức-ý thức, v.v... Mối nghi đã nảy ra với chúng tôi, theo đó biện chứng gãy kia có thể có nhiều dây mơ dễ má với kẻ thù oách nhất của ông - Hegel hơn là với những người tự nhận là kế thừa ông.

Nhưng mối nghi ấy ngay tức thì bị chặn đứng bởi một niềm tin mạnh hơn ở vẻ ngoài: người ta quá biết rằng Kierkegaard thì chống Hegel; ông nói điều đó; có lẽ thậm chí ông chỉ nói mỗi điều đó; còn hơn thế nhiều, người ta quá biết rằng ông khai trương một kỷ nguyên mới của suy nghĩ, tiếp nối lý tưởng luận Đức: kỷ nguyên của hậu triết học, bằng cách ấy người ta coi là đúng luôn, chuyện triết học đã đạt đến cái kết của nó với Hegel, định ngôn [hay được gọi là "diễn ngôn"] triết học thì đã đầy đủ với và nhờ ông và, sau Hegel, một cái gì đó khác xuất hiện, không còn là định ngôn nữa. Diễn giải này về suy nghĩ hiện đại được khích lệ bởi sự dồn tụ những tấn công của Marx, của Nietzsche và của Kierkegaard vào lý tưởng luận. Sự bảo vệ chỉ riêng cá nhân trước Chúa, hư vô luận châu Âu và đánh giá lại các giá trị, sự hiện thực hóa triết học như là praxis cách mạng, ba khuynh hướng lớn đó của suy nghĩ hiện đại hẳn trình hiện cái kết của triết học, vốn dĩ được hình dung như là định ngôn toàn thể, và khởi đầu của hậu triết học.

Sự kết hợp Kierkegaard vào với Nietzsche và với Marx có nhiều sức soi sáng hơn so với việc nhập ông vào cái gọi là hiện sinh hay không?

Tôi không chắc chắn về việc khái niệm kết cục của triết học đó sáng sủa hơn khái niệm hiện sinh. Mối nghi của tôi là một mối nghi kép: ai kết thúc triết học? Hegel? Có chắc vậy không? Về phần bộ ba của hậu triết học, nó có thực sự ở bên ngoài và xa lạ với lý tưởng luận Đức hay chăng?

Đúng, ai kết thúc triết học? Chúng tôi công nhận rằng Kant, Fichte, Schelling và Hegel tạo nên một dải duy nhất, nó lên tới đỉnh cao ở Bách khoa thư các khoa học triết học của Hegel; nhưng tiền giả định ấy đã là một diễn giải nhiều tính cách Hegel về lý tưởng luận Đức; chúng ta quên mất là Schelling đã chôn Hegel và, nếu tôi dám nói, rất xa; chúng ta lơ là toàn bộ sự phong phú chưa được dò khám của Fichte và của Schelling đoạn cuối; và, nhất là, chúng ta chẳng hiểu mấy chính Hegel. Có lẽ, xét cho cùng, chúng ta là nạn nhân của sự đọc tệ hại mà Kierkegaard và Marx từng thực hiện. Một sự đọc Kierkegaard mới chắc hẳn đoàn kết với một sự đọc Fichte, Schelling mới, cả chính Hegel nữa. Nhưng tôi không muốn đẩy đi xa thêm nữa nghi ngờ của tôi liên quan đến chính khái niệm sự hoàn thành của triết học phương Tây và gợi ý rằng những cái được gọi là hậu triết học thuộc vào kỷ nguyên triết học của lý tưởng luận Đức. Heidegger đã cho thấy với sự đáng tin nhất định rằng Nietzsche hoàn thành một trong các mong muốn của suy nghĩ phương Tây; nếu suy nghĩ đó được làm cho sống động nhờ sự phóng to lên của chủ quan tính, bởi sự xong xuôi của subjectum ở tư cách chủ thể, thì tức là Nietzsche hiện thực hóa truy tìm triết học ấy của suy nghĩ phương Tây. Nếu, ngược lại, chúng ta nói, lần này với Marx, rằng triết học cho tới giờ đã "nhìn nhận thế giới mà không thay đổi nó", thì Kierkegaard và Nietzsche vẫn thuộc vào những triết học của định ngôn. Đến lượt mình, đối với Nietzsche, Marx vẫn tận tâm với các lý tưởng của đám đông, với huyền thoại học của khoa học - "tôn giáo cuối cùng của chúng ta" - hậu duệ cuối cùng của Ki-tô giáo và của Platon luận. Đối với một độc giả của Kierkegaard, Marx vẫn là một hegelian, nhưng vì những lý do hoàn toàn khác: trong chừng mực biện chứng của lịch sử vẫn là một logic của thực tại, Marx trình hiện chính sự xong xuôi của định đề Hegel theo đó cái thực thì duy lý còn cái duy lý thì thực.

Nếu tôi dùng Schelling chống lại Hegel, dùng Hegel chống lại chính ông, rồi thì Nietzsche, Kierkegaard và Marx chống lại lẫn nhau như vậy, thì đấy là chỉ nhằm biến thành đáng nghi chính cái ý về sự xong xuôi hay kết cục của triết học phương Tây và để giải phóng việc đọc Kierkegaard khỏi sơ đồ ấy và định kiến ấy. Giờ đây chúng ta đã sẵn sàng cho vấn đề: làm thế nào mà người ta có thể triết lý sau Kierkegaard? Chúng ta không còn bị buộc phản phân tách số phận ông khỏi số phận của lý tưởng luận và biến ông trở thành chi lưu của hiện sinh nữa.

Câu trả lời của tôi gồm ba mức. Trước hết tôi muốn bỏ sang một bên những khía cạnh thực sự phi lý tính của Kierkegaard. Sau đó tôi muốn nhìn nhận đóng góp của ông cho một phê phán các khả năng thuộc tồn tại. Rốt cuộc, tôi muốn đặt phê phán đó vào quan hệ với lý tưởng về định ngôn triết học ở tư cách hệ thống.

 

"Ngoại lệ"

Có một khía cạnh của Kierkegaard không thể được tiếp tục cả bởi triết gia lẫn nhà thần học. Cái phần đó là tồn tại bất khả thông giao của ông; nhưng có một phần có thể được tiếp tục, vì nó thuộc vào lập luận triết học, vào suy tư và vào tư biện; phần này được trình hiện bằng những bút danh. Người ta không thể triết lý sau "existant" Kierkegaard [cái chủ thể tồn tại - cf. chẳng hạn Emmanuel Levinas], nhưng có lẽ là sau những bút danh của ông thì được, trong chừng mực chúng thuộc về cùng tầng cầu triết học với lý tưởng luận Đức.

Chúng ta hãy nhìn nhận mặt thứ nhất của nghịch lý ấy. Một mặt, Kierkegaard giữ mình bên ngoài triết học và thần học. Câu hỏi ở đây chúng ta phải đương đầu là câu hỏi về thiên tài tính, như là nguồn không triết học của triết học. Thậm chí tôi đồng ý rằng trường của thiên tài tính này được mở rộng đi rất xa: nó phủ lên không chỉ Kierkegaard thực - và không được biết - mà cả Kierkegaard huyền thoại được tạo ra bởi các câu chuyện của chính ông. Tất cả mọi người đều nhất trí rằng cuốn tiểu thuyết về tồn tại thật [effectif, như trong hệ thống của Hegel] của ông tạo dựng một cái gì đó độc nhất trong lịch sử của suy nghĩ: dandy của Copenhagen, vị hôn phu lạ thường của Regine, người độc thân với cái dằm cắm trong da thịt, nhà kiểm duyệt không thể chịu đựng nổi của giám mục Mynster, nạn nhân đau đớn của tạp chí Cướp biển, người hấp hối tại bệnh viện công cộng - chẳng nhân vật nào trong số những nhân vật đó có thể được cả nhắc lại lẫn thậm chí được hiểu cho đúng. Nhưng tồn tại nào có thể như thế đây?

Nhưng trường hợp của Kierkegaard còn dị thường hơn nữa: không ai từng thành công được như ông trong việc chuyển dịch tiểu sử riêng của mình vào một dạng huyền thoại cá nhân; nhờ sự đồng hóa của ông vào với Abraham, với Job, với Ahasvérus và với nhiều nhân vật huyền hoặc khác, ông đã tạo ra một dạng nhân cách hư cấu phủ và giấu đi hoàn toàn tồn tại thực của ông; tồn tại thuộc thơ đó cũng có chút được đặt vào trong cái khung và phong cảnh của thông giao thông thường giống một nhân vật tiểu thuyết hoặc, nếu muốn hay hơn, một tính cách [caractère] cực điểm của bi kịch Shakespeare. Phải, điều được tặng cho và bị từ chối cho sự hiểu thuộc triết học, ấy là một tính cách, một nhân vật, được tạo ra bởi những cuốn sách của chính ông; ấy là một tác giả, người con trai của các tác phẩm của ông, một existant đã tự phi hiện thực hóa chính mình và bằng cách ấy thoát khỏi sự nắm giữ của mọi bộ môn đã biết. Bởi thậm chí ông còn không thuộc vào những "chặng đường đời" của chính ông; ông không đủ mức don Juan, không đủ là kẻ quyến rũ để trở thành nhà cảm năng luận; ông không trở thành được con người của đạo đức, bởi vì ông không có nghề nhằm kiếm sống, ông cũng không phải cả người chồng lẫn ông bố và tự loại bỏ mình khỏi chương trình về đạo đức do cố vấn Wilhelm họa ra; gia đình của ông đã đúng: "Làm sao mà không sầu muộn cho được khi người ta ăn hết sạch tài sản của chính mình theo cách ấy!" Nhưng ông có tôn giáo theo nghĩa mà ông nói không? Thứ Ki-tô giáo mà ông họa ra cực đoan tới nỗi chẳng ai có thể thực hành nó; nhà tư tưởng đầy chủ quan trước Chúa, người cùng thời thuần túy của Ki-tô, bị đóng đinh thập giá cùng Người, không Nhà thờ, không truyền thống, không thờ phụng, thì ở ngoài lịch sử. "Tôi là nhà thơ của cái tôn giáo", ông nói. Tôi nghĩ là cần phải tin ông theo từng lời một. Nhưng điều đó nghĩa là thế nào? Chúng ta không biết gì. Kierkegaard ở đâu đó, trong những quãng cách giữa những chặng của ông, ở các khoảng giữa, ở những đoạn nối, như một giản yếu của chặng cảm năng và chặng tôn giáo, hẳn nhảy qua chặng đạo đức. Bằng cách ấy ông thoát khỏi thế phân đôi mà chính ông đã đặt vào Hoặc là... hoặc là. Kierkegaard chẳng có thể tìm thấy ở đâu theo những phạm trù của chính ông. Hẳn là phải hình dung ra sự trùng hợp choáng váng của mỉa mai, của sầu muộn, của sự thuần khiết trái tim, của tu từ học nhiều sức xói mòn, thêm vào đó một dúm hề đùa, rốt cuộc choàng lên toàn bộ căn cước của cảm năng luận tôn giáo và của kẻ tuẫn đạo...

Đúng, Kierkegaard là một "ngoại lệ"; cần phải không chỉ đọc lại ông, mà còn phải đào sâu sự tin chắc về ông, tức là đọc Kierkegaard, rồi để ông vẫn là người mà ông vốn dĩ nơi ông vẫn ở: bên ngoài triết học và bên ngoài thần học. Tôi nói rất rõ: để ông vẫn là người mà ông vốn dĩ; chẳng được tích sự gì khi sửa chữa ông, phản bác ông, hoàn chỉnh ông. A! một người nói, giá kể ông có nhiều hơn một chút ý thức về tha thứ và ít đi một chút ý thức về phạm tội; một chút nhiều hơn cảm giác phạm tội tập thể và một chút nhiều hơn cảm giác về Nhà thờ! A! một người khác bảo, giá kể ông có nhiều hơn một chút ý thức về cộng đồng, về đối thoại! A! người thứ ba nói, tăng lên nữa, giá kể ông có nhiều hơn một chút ý thức về lịch sử, nhiều hơn một chút lòng kính trọng dành cho đám đông và tình trìu mến dành cho dân chúng! A! người cuối cùng bảo, giá như ông có nhiều hơn một chút sự giản dị, sự sáng sủa, sự liền lạc! Ai trong số chúng ta, các triết gia, nhà chính trị hay nhà thần học, đã không thì thầm theo hướng ấy chống lại Kierkegaard? Bạn cảm thấy rõ rằng toàn bộ những cái đó lố bịch và vô vọng: bạn có đi sửa chữa Othello hay Cornelia không? hay Trưởng giả học làm sang? Nietzsche từng nói: "Người ta không phản bác một âm thanh!" Điều mà người ta không phản bác, ở Kierkegaard, đó là existant, existant thực, tác giả những tác phẩm của ông, và existant huyền thoại, đứa con từ những tác phẩm của ông. Người ta không phản bác Kierkegaard, người ta đọc ông, người ta nghiền ngẫm ông, và sau đó người ta làm việc của mình, "ánh mắt dán chặt vào ngoại lệ".

Nhưng điều đó nghĩa là gì, đối với triết gia, theo đuổi việc của mình, mắt chằm chằm vào ngoại lệ? Tôi nghĩ trước hết đấy là khám phá lại quan hệ thiết thân của mọi suy nghĩ triết học, của mọi công việc triết học, với không-triết học. Ngoại lệ Kierkegaard, thiên tài tu từ học-tôn giáo, dandy tuẫn đạo không tạo dựng một vị thế duy nhất. Triết học lúc nào cũng gặp chuyện với không-triết học, vì triết học không có đối tượng riêng. Nó suy nghĩ về kinh nghiệm, về mọi kinh nghiệm, về cái tổng của kinh nghiệm: khoa học, đạo đức, cảm năng, tôn giáo. Triết học có các nguồn của mình ở ngoài chính nó. Tôi nói các nguồn của nó, chứ không hề nói điểm xuất phát của nó; triết học chịu trách nhiệm về điểm xuất phát của nó, về phương pháp của nó, về sự hoàn thành của nó; triết học tìm điểm xuất phát của nó; nó đi về phía điểm xuất phát của nó; về điểm này, Pierre Thévenaz, Thévenaz yêu quý và luôn luôn được nuối tiếc của chúng ta, từng nói những điều thật thuyết phục, quyết định: triết học có điểm xuất phát của nó ở phía trước nó. Nhưng, nếu phải đi tìm điểm xuất phát, thì nó lại nhận được các nguồn của mình; nó bố trí điểm xuất phát của nó, chứ nó không bố trí được các nguồn của nó, tức là những gì tiếp tế cho nó và ngấm ngầm dạy dỗ cho nó. Chính bằng cách đó mà tôi hiểu câu của Karl Jaspers: "chúng ta, vốn dĩ không phải là ngoại lệ, chúng ta phải triết lý với ánh mắt chằm chằm vào ngoại lệ". Kierkegaard, ở tư cách thiên tài tính cảm năng-tôn giáo, là một trong những nguồn ấy, nhưng là ở cùng hạng với Stirner, với Kafka, với Nietzsche, trong chừng mực Nietzsche cũng phải được đối xử như là thiên tài tính triết học - điều đặc trưng hóa ông cũng ít một cách hoàn chỉnh y như Kierkegaard (nhưng ở đây tôi đang nghĩ tới Nietzsche tại Sils-Maria, tới Nietzsche người từ chức khỏi ghế giáo sư của mình tại Bâle, tới con người cô độc ở Engadine, tới tác giả của các châm ngôn, tới Nietzsche được Zarathoustra bịa ra, tới Nietzsche người nói chuyện với Dionysos và với Đấng bị Đóng đinh Thập giá, tới Nietzsche chìm đắm vào sự điên, ở điểm này tương tự với người sỉ nhục giám mục và kẻ tuẫn đạo Kierkegaard). Như vậy tôi nói: triết học ở vào thế tranh cãi với Kierkegaard như với mọi thiên tài không triết học; việc riêng của nó vẫn cứ là tìm nguyên tắc hay nền móng, trật tự hoặc sự liền lạc, biểu nghĩa của sự thật và của thực tại; việc của nó có tính cách suy tư và tư biện.

Đấy là câu trả lời đầu tiên; nhưng ai cũng cảm thấy rằng cách công nhận thiên tài cảm năng-tôn giáo của Kierkegaard đó cũng là một cách lưu đày ông ra khỏi triết học. Ai cũng cảm thấy rằng Kierkegaard không phải - hoặc không chỉ - là không-triết gia. Kierkegaard gây rối trí cho chúng ta là vì ông ở vào, trong tương quan với triết học, thế vừa bên ngoài vừa bên trong.

Lê Công Tăng dịch

 

(còn nữa)

 

Và vì sám hối của Søren Kierkegaard là sự quay lưng khỏi sự sống, sám hối ấy phải được nâng lên, làm cho càng vĩ đại bởi tấm mặt nạ kẻ có tội mà ông cao thượng mang vào, tấm mặt nạ ngụy trang cho tội lỗi thực của ông.

favorites
Thêm vào giỏ hàng thành công