favorites
Shopping Cart
Search
Vitanova
Thu 2025
Next

Nghĩ chiến tranh (phần 2)

12/10/2025 00:44

Tiếp tục Nghĩ chiến tranh

Chiến tranh có thể nghĩ được không? Dường như đó là một sự bất khả. Chiến tranh, cũng như tình yêu, cũng như số phận, nghĩa là không nghĩ nổi. Nhưng sự bất khả là điều kiện của nghĩa vụ thực sự, cũng như vinh quang thực sự.

Alain, thầy của Simone Weil, là một trong những nhân vật quan trọng nhất của truyền thống nghĩ chiến tranh. Alain sinh năm 1868. Khi chiến tranh cận kề, Alain viết để vận động cho hòa bình ở châu Âu; khi chiến tranh bùng nổ, Alain không lập tức tình nguyện xung quân, ở tuổi 46. Người thầy không thể chịu nổi ý nghĩ ở lại trong êm ấm, trong khi những người con ưu tú của đất nước - bao gồm nhiều học trò mình - bị đưa ra chiến trường làm bia đỡ đạn. Alain vẫn gọi đó là bia đỡ đạn, không thỏa hiệp với tuyên truyền. Và Alain tình nguyện lên tuyến đầu pháo binh làm bia đỡ đạn, từ chối thăng lên ngạch sĩ quan.

Sự viết chiến tranh của Alain được tập hợp trong một tập đoản luận xuất bản năm 1921 lấy tên Mars ou la guerre jugée. Dưới đây là một vài propos rút ra từ đó. 

 

Chiến tranh truồng

Con người mềm dẻo và có thể bị dẫn dụ trong các dục vọng của mình, mà chẳng hề tự nhận ra. Mọi khổ sở của chúng ta, ở tư cách con người, đều có thể thấy cô đọng nơi những gây gổ giữa trung đoàn này với trung đoàn kia, mà nói cho đúng, chỉ là những áo khoác xanh lăng mạ, khiêu khích, quất đòn và rốt cuộc căm thù những áo khoác đen. Một ngẫu nhiên của giấy tờ có thể ném đúng con người ấy sang phía bên kia. Diễn trình sự viện trong những cuộc chiến quái đản như thế, ai cũng dễ dàng đoán ra: một trận khơi mào mà nguyên nhân chẳng  mấy quan trọng; những kẻ bại trận thì nghĩ mình bị khinh miệt; những kẻ thắng trận thì biết mình bị đe doạ. Những ý nghĩ ấy hiện lên trong ánh mắt, ban đầu chỉ là phỏng đoán, nhưng lập tức trở thành sự thật. Điều đáng sợ của các dục vọng nằm ở chỗ chúng bao giờ cũng được sự vị biện minh; nếu tôi tin rằng tôi có kẻ thù, và nếu kẻ thù giả định kia biết điều đó, thì chúng tôi thành kẻ thù thật. Và kẻ ngây thơ, khi kể lại những cuộc chiến điên rồ và những tưởng tượng đã được hiện thực hoá ấy, sẽ luôn nói: “Chẳng phải tôi đã có lý khi ghét hắn sao?”

Điều đáng kinh ngạc nhất là ở chỗ hận thù ấy - nhất là khi mang tính tập thể - lại được ưa; mọi sự bực bội, mọi cơn giận, mọi nỗi buồn đều tìm thấy ở đó lý do và đồng thời phương thuốc của nó. Theo một hiệu ứng ngược, các đồng minh được giải toả khỏi vị đắng hằng ngày, vì kẻ thù đã chịu thay cho tất cả. Thành thử, nhờ hận thù được đưa vào hệ thống ấy, ai nấy đều thấy dễ chịu hẳn. Ta thấy rằng những cuộc chiến như vậy không có nguyên nhân nào ngoài chính chúng, và do đó chúng sẽ không ngừng trầm trọng thêm nếu có ai đó có lợi ích trong việc kéo dài chúng.

Những cuộc tranh chấp về chủng tộc cũng chẳng có nguyên cớ gì nghiêm trọng hơn nhưng lại thường kéo dài hơn, vì màu da, đường nét gương mặt và ngôn ngữ bám chặt vào con người hơn một cái áo xanh hay đen. Khi ấy, cũng theo đúng cơ chế của các dục vọng, hình dáng cái mũi và màu tóc trở thành những sỉ nhục người ta ném thẳng vào mắt nhau mà chẳng hề nghĩ ngợi. Nếu các cuộc đấu tranh chính trị nhập vào đó, thế là một quốc gia bị chẻ làm đôi.

Chưa kể chính những cuộc đấu tranh chính trị cũng lệ thuộc các quy luật như thế; ở đó, tưởng tượng hoá rồ, và chẳng mấy chốc hoá độc ác; và sức nóng của những trận đánh không còn chỉ tuỳ thuộc vào lợi ích nữa. Nếu mỗi phe có một đồng phục riêng, chúng ta hẳn sẽ bị kết tội nội chiến. Hãy giả định có khác biệt về ngôn ngữ, hay chỉ cần khác giọng thôi, và thêm vài kẻ tham vọng biết quất roi vào dục vọng, thế là sẽ có một chính trị của lũ rồ. Hoà bình tự thân, không cần phương kế nào khác, sẽ loại bỏ hầu như mọi nguyên cớ xung đột - nhất là vì thay vì tìm cách thực thi quyền lực, ai nấy sẽ làm việc chống lại những lạm dụng quyền lực; như thế, mọi nền cộng hoà sẽ được tổ chức. Từ đó ta thấy “quyền của các chủng tộc tự cai trị mình” theo mọi cách đều trực tiếp đi ngược lại hoà bình.

Từ nhận xét ấy, ta quay lại xem xét các dân tộc đồng minh và các dân tộc thù địch theo cùng những ý ấy. Bởi hận thù nuôi hận thù, giận dữ nuôi giận dữ, chiến tranh nuôi chiến tranh, nên mọi điều người ta nói về những lợi ích bất khả dung hoà đều lạc đề. Cũng như thể bảo rằng các đương sự kiện tụng trở thành kẻ thù vì lợi ích trái ngược; trong khi thật ra họ là kẻ thù vì họ kiện nhau, vì những mệt mỏi, lo lắng, chi phí của mỗi bên đều được ghi vào sổ cái của bên kia. Ai cũng biết rằng cái mũi của kẻ kiện mình nhất quyết không thể nào đẹp được. Tình cảnh của chúng ta sau vụ kiện tốn kém và đẫm máu giữa hai dân tộc chính là như vậy. “Một dục vọng,” Spinoza nói, “thôi là dục vọng ngay khi ta biết đầy đủ nguyên nhân của nó.”

 

Về tế người

Sáng tháng Chín ấy, một người bạn trẻ tuổi kể với tôi về cuộc “chiến tranh quần đỏ” mà tôi đã không được chứng kiến. Hôm đó là ngày giỗ người bạn thân nhất của anh, người đã gục chết ngay bên cạnh anh. Còn anh thì thoát nạn với một cánh tay tàn phế, nhưng điều ấy không ngăn anh về sau trở thành phi công. Hai người dũng cảm.

“Cuộc chiến ấy như thế nào?” tôi hỏi. “Những cuộc tấn công điên rồ, hẳn thế, hoàn toàn không chuẩn bị gì?” “Còn hơn nhiều,” anh nói, “đó là một nghi lễ. Chúng tôi được mời đi chết. Quân lính chạy trần trên một sườn dốc kiểu glacis đỉnh phủ rừng cây, xông vào những chiến hào trang bị súng máy. Quân cứ thế tan chảy. Tướng xin viện binh để bắt đầu lại - ông ta đã bắt đầu lại suốt ba ngày; chẳng ai còn hy vọng nào khác ngoài chết cho ra dáng.” Tôi bỗng lại nhìn thấy những xác người nằm sấp, mặc bộ lễ phục chật chội, nặng nề và chói loà, với ba lô chụp lên đầu; ấy là tất cả những gì tôi từng biết về những đợt xung phong đầu tiên; tôi không có ý định quên, cũng không để người khác được quên.

Nhưng ý tôi không phải là khơi dậy phẫn nộ; chẳng ai có thể bảo đảm rằng một viên tướng sẽ biết chiến tranh trước khi thực hiện chiến tranh. Điều tôi muốn nhớ là nghi thức của sự hiến tế thuần tuý này. Dẫu người ta có phô bày bao nhiêu lý do đại chính trị hay chỉ là tự vệ, người lính thường có những lý do khác, kín đáo hơn, và có lẽ còn mạnh hơn. Ấy là chuyện công khai, long trọng chứng tỏ rằng mình biết cách chết. Và vì danh dự cá nhân, danh dự gia đình, danh dự tổ quốc cùng đồng thanh đòi hỏi bằng chứng ấy, toàn bộ ý chí dồn hết vào việc cung cấp nó một cách bất khả bác bỏ, không nhằm mục đích nào khác. Thế là ý chí chiến thắng, thậm chí hy vọng chiến thắng, có thể lùi bước trước ý chí chiến thắng ngay trong chính mình cái điều làm mình ô nhục. Vì cái đẹp, vì đức hạnh, trận chiến vô ích ấy cũng đủ. Chính tầm vóc của thử thách giải thích nỗi nôn nóng muốn chết. Phải xét cả những nguyên do ấy; và đó là việc của những người lớn tuổi, theo tôi, bởi lẽ giờ họ đã rửa tay khỏi tất cả những máu me, thì phải làm sao để những nguyên do ghê gớm ấy không có dịp phát huy tác dụng. Tôi sẽ còn nhắc đi nhắc lại rằng căn nguyên sâu xa của các cuộc chiến nằm trong các dục vọng, và hầu như đều cao quý. Danh dự quốc gia giống như một khẩu súng đã lên đạn. Xung đột lợi ích chỉ là dịp khởi sự của chiến tranh, không phải là nguyên nhân. Vậy hãy luôn trở về với phong hoá, với đánh giá, và sau cùng là với chính những đánh giá của các bạn, những điều mà các bạn mắc nợ với người chết cũng như người sống.

Ngọn lửa của lòng can đảm nơi chiến trường sưởi ấm và thanh luyện, nhưng phép lạ ấy tắt ngay dưới lòng đất. Và hãy nghĩ kỹ: dẫu các bạn mơ điều gì, cảm xúc ấy ở những người không chiến đấu là đáng ngờ, chưa nói là tệ hơn. Người ta từng kể về những kẻ không chịu nổi mối nghi ngờ ấy nơi chính mình, cái dũng khí rối bời chỉ biết khâm phục; và, bất chấp tuổi tác, họ đã muốn bước vào hiểm nguy - không phải để hành động khác đi, không phải để góp phần phòng thủ, mà là tự phơi mình trước cái chết. Và về những người ấy, cũng phải nói rằng họ tìm kiếm hiểm nguy hơn là chiến thắng. Vậy điều ít ỏi nhất có thể đòi hỏi ở những ai sẽ không hiến mạng sống mình, và trước hết ở mọi phụ nữ, là đừng quá phát rồ với những châm ngôn giết người. Tôi để mặc cho các nhà thương thuyết chuyện liệu hoà các lợi ích - những bài toán mênh mông mà chẳng ai nắm trọn. Nhưng ít ra tôi đo được một nguy cơ chắc chắn, như thể một thứ thuốc nổ mang tính người, nếu khán giả lại đi đến chỗ hoài nghi giá trị con người theo những quan niệm ấu trĩ, rồi xô đẩy và quất roi vào đám thanh niên, trong khi lẽ ra phải níu họ lại. Hễ bàn tới sinh mạng của kẻ khác, từ nay chúng ta hãy lạnh lùng như bọn cho vay nặng lãi.

 

Léviathan

Các ý kiến chung có một sức mạnh mà tôi biết rõ, và tôi cũng phải chịu đựng như bất kỳ ai. Khi giữa một cuộc tụ họp bỗng bùng cơn sôi sục, và khi dư luận chung bốc lên bằng diễn từ, hoan hô hay ca hát, chẳng ai còn đi tìm bằng chứng nữa. Một lời khẳng quyết như thế còn mạnh hơn mọi chứng cứ; cảm xúc được bắt chước, dội lại, nhân lên, gieo vào mỗi người lòng tin hoang dại của con Léviathan nghìn đầu; và thế là tất cả chúng ta đều sẵn sàng liều chết.

Khi ấy, nhà nước thần kinh suy nhược được dịp trả thù; cái sự nghĩ mềm nhũn, không đánh giá cũng chẳng có đối tượng, vốn làm người ta bật cười, bỗng sống dậy bằng nghìn sinh lực gom lại. Người ta kinh ngạc nhận ra rằng cuồng tín lại có thể rước rinh làm chiến lợi phẩm những học thuyết trẻ con nhất hay ít vẻ đúng nhất như thế. Ấy là vì sự đồng thuận thật và được cảm thấy trong mỗi người có thể làm bằng cho bất cứ điều gì. Chính sự thờ phụng nâng đỡ vị thần. Từ đó, các nhà xã hội học kết luận: trên đời chẳng có gì thiêng liêng, đáng cho cá nhân hy sinh ngoài sự đồng thuận ấy, sự trở về đời sống chung ấy, linh hồn tập thể duy nhất ấy.

Họ có lý. Với tư cách những nhà “tự nhiên học” của con Léviathan nghìn đầu, họ có lý. Con thú đáng sợ ấy, hễ nó tái kết hình, là nắm lấy cả chúng ta. Nó không chỉ lăn nghiền và giày xéo cá nhân tìm cách kháng cự bằng sức mạnh của nó. Chuyện nó làm còn tồi tệ hơn cưỡng bức: nó thuyết phục. Ở kẻ gào thét cuồng nộ điều “phải nói”, nghĩ cuồng nộ điều “phải nghĩ”, và rốt cuộc tụng niệm theo công đồng, tôi không còn phân biệt được hoan lạc siêu phàm vì được tán thành với nỗi sợ bị đánh đập nữa.

Hãy nhìn gần vào trạng thái kỳ lạ ấy - trạng thái của người công dân trong cơn sôi sục. Biết chắc rằng mình rồi sẽ nhượng bộ nỗi sợ, y không chờ đến hạn ấy mà lao thẳng vào cuồng hứng. Trong trạng thái “cảm hứng” ấy, nơi mọi phần trong y đều bị thúc đẩy bởi đủ hạng động cơ, y mang ý kiến của mình như con lừa mang thánh tích. Không phải lúc để trái lời; coi chừng đấy: bạn sẽ đồng thời đụng đầu với kẻ hèn nhát, kẻ thận trọng, kẻ ngây thơ, kẻ lười biếng và kẻ rụt rè; tất cả cộng lại thành một đội quân hết sức thô bạo. Thô bạo vì sao? Trước hết bởi một mặc cảm tội lỗi ngấm ngầm, do ý nghĩ khó chịu mà bạn đánh thức - ý nghĩ mà y không muốn đánh thức bằng bất cứ giá nào: “Có thể điều tôi đang gào lên là hoàn toàn sai, thậm chí lố bịch; nhưng tôi không muốn, không thể, không dám thừa nhận; tôi đã nói quá nhiều, đã làm quá nhiều; đã quá muộn rồi.” Đó là lý do Léviathan nghiền nát những ai nó không lôi theo; còn phần tôi, trước sức mạnh tự nhiên ấy - sức mạnh cuồng phong và núi lửa - tôi nhượng bộ và hành động như những người khác. Nhượng bộ trước sức mạnh thì không đáng hổ thẹn.

Nhưng đáng hổ thẹn là khi tinh thần chịu thua. Trong mỗi người đều có một phần biết nghĩ, mà hễ được chất vấn liền đứng lên đòi lại - chống lại sức mạnh, chống lại số đông, chống lại cực hình, chống lại nhà tù. Phần ấy muốn cô độc và tự do, trước miệng núi lửa, và ngay giữa đám đông; không ngừng đo, cân nhắc, đánh giá; hoàn toàn không bị phán xét, trừ bởi một thẩm phán cũng tự do và cô độc; cả bên này lẫn bên kia đều không vũ khí. Và sự vươn cao trong cô độc ấy mới chính là điều duy nhất thuộc về con người mà con người còn biết chào kính - chừng nào họ chưa say.

Anh Hoa dịch

favorites
Thêm vào giỏ hàng thành công