favorites
Shopping Cart
Search
Vitanova
Prev
Đông 2024
Next

Natalia Ginzburg: Chân dung một người bạn

11/01/2025 17:14

Natalia Ginzburg (đã bắt đầu ở kia) là một người Ý, một phụ nữ Ý. Sinh năm 1916 và có bố là người Do Thái, một giáo sư giải phẫu thần kinh đại học Turin có ba trợ lý nghiên cứu đoạt giải Nobel, Ginzburg trải qua thời phát xít với nhiều khốn khổ: bố bị đuổi việc, anh em chịu tù tội vì các hoạt động phản kháng, chồng chết trong một nhà tù ở Rome. Ginzburg đã phải dùng bút danh để xuất bản quyển sách đầu tiên, năm 1943, vì luật cấm người Do Thái xuất bản thời điểm ấy. 

Chân dung một người bạn (1957) được viết để tưởng niệm Cesare Pavese, cũng có quãng bị giam giữ bởi các hoạt động chống phát xít và đã qua đời vì tự tử vào mùa hè bảy năm trước đó, trong một phòng khách sạn gần ga. 

 

Chân dung một người bạn

- Natalia Ginzburg

Thành phố mà người bạn của chúng tôi yêu đã vẫn vậy: có vài thay đổi, nhưng không lớn; người ta đã lắp đặt xe trolleybus, người ta đã đào vài đường hầm. Không có các rạp chiếu phim mới. Những rạp cũ vẫn ở đó, tên vẫn thế, chúng đánh thức ở chúng tôi, khi nhắc đến chúng, tuổi thơ và tuổi trẻ của mình. Chúng tôi, lúc này, sống ở chỗ khác, tại một thành phố khác, lớn hơn và rất khác; và nếu gặp nhau, nhắc về thành phố của mình, thì chúng tôi nhắc tới nó mà không hối tiếc vì đã rời khỏi nó; chúng tôi nói rằng giờ đây hẳn chúng tôi không thể sống ở đó được nữa. Nhưng, những lúc quay về đó, chỉ cần băng ngang sảnh nhà ga và bước đi trong màn sương mù các phố là đã đủ để chúng tôi thực sự cảm thấy mình đang được ở nhà; và nỗi buồn mà thành phố truyền sang cho chúng tôi, mỗi lần nào chúng tôi quay lại đó, ấy là buồn vì cảm thấy được ở nhà mình và, cùng lúc, cảm thấy rằng chúng tôi, tại nhà mình, không còn lý do nào để ở lại đó nữa; bởi ở đây, tại nhà mình, ở cái thành phố nơi đã diễn ra tuổi trẻ của chúng tôi này, kể từ nay gần như chẳng còn lại gì sống động cho chúng tôi, và chúng tôi chỉ được đón tiếp bởi một đoàn lũ những kỷ niệm cùng bóng ma.

Thêm nữa, thành phố của chúng tôi buồn, từ bản tính của nó. Những sáng mùa đông, nó tỏa ra một mùi đặc biệt chỉ nó mới có, của nhà ga và của bồ hóng, lan rộng trên tất tật các con đường và tất tật các phố. Tới nơi vào buổi sáng, chúng tôi thấy nó xám xịt sương và bị bọc trong mùi của nó. Đôi khi, xuyên qua sương mù, le lói chút nắng nhạt, nó điểm sắc hồng và tím hoa cà lên những đống tuyết, các cành cây trụi lá. Tuyết, trên các phố và lối đi, đã được quét và dồn lại thành những ụ nhỏ, nhưng các công viên thì vẫn bị chôn vùi dưới một lớp dày nguyên xi và mềm xốp, cao một ngón tay trên những băng ghế bỏ không và trên các gờ vòi nước. Cái đồng hồ to của lối cưỡi ngựa đã chết, từ hồi nảo hồi nào, dừng ở mười một giờ kém mười lăm. Quá con sông là ngọn đồi, cả nó cũng trắng tuyết, nhưng lốm đốm đây đó các bụi rậm màu đỏ nhạt; và đỉnh đồi được đội vương miện bằng một tòa công trình màu cao hình tròn, nó từng là trụ sở của Trường cho đám phát xít trẻ. Nếu có chút nắng, và vòm tròn kính của Salon Ô tô ánh ỏi lên, còn dòng sông, với phản chiếu lấp lánh màu lục, chảy dưới những cây cầu đá lớn, thì thậm chí thành phố còn có thể, trong chốc lát, mang vẻ tươi cười và nhiều hiếu khách; nhưng đó chỉ là một ấn tượng thoáng qua. Bản tính cốt yếu của thành phố là nỗi buồn; con sông, mất hút đi về phía xa xôi, bốc hơi ở chân trời thành một làn sương mù tím nhạt, nó khiến người ta nghĩ đến hoàng hôn cho dù đang là giữa trưa, và ở mọi nơi người ta ngửi thấy cùng cái mùi u tối và cần cù ấy của bồ hóng, và người ta nghe thấy tiếng còi xúp lê những đoàn tàu. Thành phố của chúng tôi giống, giờ đây chúng tôi tri nhận được điều này, người bạn mà chúng tôi đã mất, với anh thành phố quý giá lắm. Nó, cũng như anh, thật cần cù, cau có trong hoạt động bừng sốt và bướng bỉnh của mình, và cùng lúc lại ơ hờ và có xu hướng ăn không ngồi rồi, có xu hướng mơ mộng. Tại cái thành phố giống anh này, chúng tôi cảm thấy người bạn của mình sống lại ở mọi chỗ nào chúng tôi tới; nơi mỗi góc phố và mỗi chỗ rẽ, chúng tôi thấy dường có thể đột nhiên trồi lên bóng dáng cao ngỏng của anh, với cái áo khoác sẫm màu chẽn lưng, khuôn mặt vùi vào cổ áo, cái mũ sụp xuống tận mắt. Người bạn của chúng tôi đi qua thành phố bằng sải chân dài, bướng bỉnh và cô độc của mình; anh ẩn mình vào các quán cà phê hẻo lánh nhất và đậm đặc khói thuốc nhất, mau chóng cởi áo khoác cùng cái mũ ra, nhưng vẫn giữ, treo tòng teng ở cổ, cái che mũi sáng màu xấu xí của anh; anh dùng những ngón tay quấn các lọn tóc dài màu hạt dẻ, rồi đầy ngẫu hứng xới tung chúng lên bằng một cử chỉ đột nhiên. Anh viết đầy hàng trang, hàng trang giấy bằng chữ viết rộng thoáng và nhanh của mình, vội vã gạch xóa; và anh vinh danh, trong các câu thơ của mình, thành phố:

Đấy là ngày sương mù dâng lên từ sông./Vào thành phố đẹp, giữa đồng cỏ và đồi,/Và mờ đi như một kỷ niệm.

Những câu thơ của anh vang lên bên tai chúng tôi, những khi chúng tôi quay trở lại thành phố, hay những khi nào chúng tôi nghĩ đến nó; và thậm chí chúng tôi chẳng còn biết nữa, đấy có phải là các câu thơ hay hay không, bởi chúng thuộc vào chúng tôi, bởi đối với chúng tôi chúng phản chiếu hình ảnh tuổi trẻ của chúng tôi, những ngày kể từ nay đã thật xa nơi chúng tôi lắng nghe chúng lần đầu tiên, qua giọng sống động của người bạn chúng tôi, và chúng tôi khám phá được, với một niềm kinh ngạc sâu sắc, rằng ngay cả với thành phố xám xịt, nặng nề và thiếu chất thơ của chúng tôi, người ta cũng có thể làm ra thơ.

Người bạn của chúng tôi sống trong thành phố như một đứa thiếu niên, và anh sống như vậy cho tới cùng. Các ngày của anh, cũng như các ngày của bọn thiếu niên, rất dài, đầy các giờ. Anh biết cách, trong quãng thời gian ấy, tìm ra những khoảnh khắc để học và để viết, để kiếm sống và để chây lười trên các con đường mà anh yêu; và chúng tôi, vốn dĩ do dự, bị kẹp vào giữa sự lười và hoạt động, chúng tôi mất nhiều tiếng đồng hồ nhằm quyết định xem mình lười biếng hay năng nổ. Trong vòng nhiều năm dài anh không muốn quy thuận trước một thứ thời gian biểu của văn phòng, chấp nhận một cái nghề xác định rõ; nhưng, lúc anh chấp nhận ngồi xuống trước cái bàn của một văn phòng, thì anh trở thành một nhân viên tỉ mỉ và một người lao động hăng say, nhưng vẫn giữ được cho mình một khoảng lề ăn không ngồi rồi rộng rãi; anh dùng các bữa của mình thật chóng vánh, ăn ít và không bao giờ ngủ.

Đôi khi, anh rất buồn; nhưng suốt một thời gian dài chúng tôi đã tưởng anh sẽ khỏi được chứng buồn đó, chừng nào anh quyết định trở thành người lớn; vì đối với chúng tôi nỗi buồn của anh dường là nỗi buồn của một đứa bé, sầu muộn đẫm nhục cảm và mơ mộng của một đứa bé, hẵng còn chưa chạm đất và loay hoay nơi cái thế giới cằn khô và cô độc của những mộng. Đôi khi, vào buổi tối, anh tới gặp chúng tôi: anh ngồi xuống, nhợt nhạt, khăn quàng ở cổ, vuốt và xới tóc, hoặc vò nhàu một tờ giấy: cả tối anh chẳng thốt ra lời nào; anh không đáp lại câu hỏi nào của chúng tôi. Rốt cuộc, anh bật dậy, vơ lấy cái ái khoác và đi khỏi. Cảm thấy bị làm nhục, chúng tôi hỏi nhau không biết có phải anh thất vọng khi ở với chúng tôi hay chăng, có phải anh đã đến tìm ở chỗ chúng tôi một sự khích lệ nhưng không thấy, hay ngược lại chỉ đơn giản anh đã định có một buổi tối im lặng bên dưới một ngọn đèn không phải đèn của anh.

Mặt khác, nói chuyện với anh không bao giờ là một việc dễ dàng, ngay cả vào những khi anh có tâm trạng tốt; nhưng một cuộc trò chuyện với anh, ngay cả khi chỉ gồm rất ít từ, có thể nhiều bổ dưỡng và kích thích hơn so với bất kỳ ai. Ở bên anh, chúng tôi trở nên trí tuệ hơn nhiều, chúng tôi cảm thấy bị thúc đẩy đặt vào trong các từ những gì tốt đẹp nhất và nghiêm túc nhất mà chúng tôi có được, chúng tôi vứt bỏ đi những sáo mòn, các ý thiếu chính xác, các lời mù mờ.

Ở gần anh, chúng tôi thường cảm thấy mình bị làm nhục, vì chúng tôi không biết cách, giống anh, tỏ ra dè dặt, cũng không khiêm tốn như anh, và nữa, không hào phóng và vô vụ lợi được như anh. Anh đối xử với chúng tôi, bạn bè của anh, rất cục cằn, và không tha thứ cho bất cứ khiếm khuyết nào của chúng tôi; nhưng, nếu chúng tôi bất hạnh hoặc bị ốm, anh liền đột nhiên tỏ ra ân cần như một bà mẹ. Về nguyên tắc, anh từ chối làm quen với những người mới mẻ; nhưng có thể xảy ra chuyện, đùng một cái, với một người bất ngờ và xa lạ, một người thậm chí còn mơ hồ đáng khinh, anh tỏ ra lắm lời và nhiều trìu mến, thoải mái rộng tay cho các cuộc hẹn cùng những dự định. Nếu chúng tôi nêu với anh nhận xét rằng người kia, ở nhiều khía cạnh, rất khó chịu và đáng khinh bỉ, thì anh đáp là anh hoàn toàn biết những cái đó; và vì luôn luôn thích biết mọi điều, chẳng bao giờ anh để cho chúng tôi được cảm thấy thỏa mãn vì đã dạy được cho anh một điều gì đó; nhưng vì nguyên do gì mà anh cư xử thân tình với kẻ kia như thế, và ngược lại không trao tình bạn của mình cho những người khác xứng đáng hơn nhiều, thì anh không giải thích, và chúng tôi đã chẳng bao giờ biết được. Đôi khi anh quan tâm đến những người đối với anh dường thuộc về thế giới thanh lịch, và anh giao du với bọn họ; có lẽ anh nghĩ đến việc dùng bọn họ cho những cuốn tiểu thuyết của mình; nhưng anh nhầm trong đánh giá của anh về sự tinh xảo xã hội hay hành xử, và anh tưởng đâu những cái đít chai là pha lê; và ở điểm này thì anh hết sức ngây thơ, nhưng chỉ ở điểm này mà thôi. Anh nhầm về sự tinh xảo của hành xử; nhưng về phần sự tinh xảo của trái tim và tinh thần, thì anh chưa bao giờ bị lừa.

Anh có một cách thức hà tiện và bủn xỉn trong việc chìa tay ra để chào, vài ngón tay giao phó đi và bị thu về; một cái lối rất cẩn trọng và tiết kiệm những khi nhón lấy thuốc lá trong túi đựng và nhồi vào tẩu; và anh có một lối đột ngột và đột nhiên khi đưa tiền cho chúng tôi, nếu anh biết chúng tôi đang cần, một cách thức đột ngột và đột nhiên tới nỗi chúng tôi phải ngây ra; anh nói là mình hà tiện với tiền mà anh có và thấy khổ sở nếu xa rời chúng; nhưng, ngay khi đã xa rời xong rồi, thì anh thây kệ luôn. Nếu chúng tôi đi xa khỏi anh, anh không viết thư cho chúng tôi, cũng không hồi đáp thư của chúng tôi; hoặc giả anh trả lời bằng ít câu gọn nhẹ và băng giá; vì, anh nói, anh không biết cách yêu bạn bè mình những khi nào họ ở xa; anh không muốn chịu đau đớn vì sự vắng mặt của họ, và trong tâm trí ngay tức thì anh nghiền nát họ thành tro bụi.

Anh chưa từng bao giờ có vợ, con, hay nhà. Anh sống ở nhà một người chị gái đã lấy chồng, rất yêu anh, mà anh cũng rất yêu; nhưng trong gia đình anh vẫn giữ hành xử đột ngột thường lệ, anh cư xử như một đứa trẻ con hoặc một người xa lạ. Đôi khi anh tới nhà chúng tôi và, mày nhíu lại, đầy vẻ tốt tính, săm soi những đứa con mà chúng tôi có, những gia đình mà chúng tôi xây dựng: anh nghĩ, cả anh nữa, đến việc có một gia đình, nhưng anh nghĩ đến cái đó như thế nào mà theo năm tháng cái ý trở nên càng lúc càng phức tạp và ngoằn ngoèo hơn; ngoằn ngoèo tới nỗi anh chẳng thể nào gieo được bất kỳ kết luận đơn giản nào. Theo năm tháng, anh tự tạo ra cho mình một hệ thống suy nghĩ và nguyên tắc rối mù và hiểm hóc đến độ thực tại đơn giản nhất cũng bị cấm ngặt khỏi anh: và thực tại đơn giản ấy càng trở nên bị cấm và bất khả, ham muốn chinh phục nó càng sâu sắc hơn nơi anh, rối mù lên và rẽ nhánh giống một thứ thực vật tăm tối và gây ngạt thở. Đôi khi anh buồn đến mức chúng tôi những muốn giúp anh: nhưng anh không bao giờ cho phép chúng tôi nói một lời thương hại nào, có một cử chỉ an ủi nào: thậm chí từng xảy tới với chúng tôi chuyện, bắt chước cách thức của anh, đẩy lòng cảm thông của anh vào một giờ nản chí. Đối với chúng tôi anh không phải là một người thầy, dẫu đã dạy cho chúng tôi biết bao nhiêu điều, vì chúng tôi thấy được các phức tạp trong suy nghĩ của anh phi lý đến thế nào, anh nhốt tù tâm hồn giản đơn của anh ở trong đó; và chúng tôi những muốn, cả chúng tôi nữa, dạy cho anh một điều gì đó, dạy cho anh sống theo một lối sơ đẳng và dễ thở hơn: nhưng chúng tôi chưa từng bao giờ dạy được cho anh điều gì, vì, những khi nào chúng tôi định trình bày cho anh quan điểm của mình, thì anh liền giơ tay lên bảo chúng tôi là anh đã biết toàn bộ những cái đó rồi.

Anh có, vào quãng cuối, một khuôn mặt trũng xuống, nhiều lồi lõm, bị tàn phá bởi những suy nghĩ nhiều sức hành hạ của mình: nhưng, cho tới cuối cùng, anh vẫn giữ được, trong dáng dấp, vẻ duyên dáng của một đứa thiếu niên. Trong những năm cuối, anh trở thành một nhà văn nổi tiếng; nhưng điều này không thay đổi gì trong các thói quen xù xì của anh, cũng như sự khiêm tốn trong thái độ của anh, và lòng khiêm hạ, nhiều chăm chú đến mức đắn đo, trong sự cần cù thường nhật của anh. Khi chúng tôi hỏi anh có sung sướng vì đã nổi tiếng không, anh đáp, với một cú nhếch mép cao ngạo, rằng lúc nào anh cũng đã trông chờ cái đó; bởi anh có, đôi khi, cái cười nhạo báng và cao ngạo, con nít và đầy ác ý, nó lóe lên như một tia chớp, rồi biến mất. Nhưng cái sự thể đã lúc nào cũng trông chờ điều đó đồng nghĩa với việc khi đạt được đích thì anh chẳng hề thấy chút niềm vui nào: anh không có khả năng tận hưởng các vật và yêu chúng, ngay khi nào có được chúng. Anh nói kể từ nay mình biết nghệ thuật của mình rõ ràng tới nỗi nó chẳng còn dâng cho anh bí mật nào nữa: và vì không còn dâng cho anh các bí mật nữa, nó không còn khiến anh quan tâm. Chính chúng tôi, các bạn của anh, anh bảo chúng tôi, chúng tôi cũng chẳng còn các bí mật cho anh nữa, và chúng tôi làm anh bị buồn chán khủng khiếp; và chúng tôi, hết sức phật lòng vì khiến anh buồn chán, chúng tôi không sao mà nói nổi với anh rằng chúng tôi thấy rõ nhầm lẫn của anh nằm ở đây; đấy là không muốn cúi mình mà yêu dòng chảy thường nhật của tồn tại, vốn dĩ nó trôi đi theo lối đồng phục, và chẳng hề có bí ẩn bề ngoài. Lẽ ra anh đã phải chinh phục thực tại hằng ngày: nhưng đối với anh, nó bị cấm ngặt và không thể nắm bắt, đối với anh, người vốn vừa ham muốn nó vừa kinh hãi nó; thành thử anh chỉ có thể nhìn nó, như là ở một chốn xa xôi không giới hạn.

Anh chết trong mùa hè. Thành phố của chúng tôi, trong mùa hè, hoang vắng, và có vẻ rất rộng, sáng sủa và vang động như một quảng trường; bầu trời trong vắt nhưng không rực sáng, với sự nhợt nhạt ánh sữa; dòng sông chảy đi, phẳng dẹt như một con lộ, không tỏa ra cả sự ẩm ướt lẫn tươi mát. Các đám mây bụi bốc lên từ những lối đi; từ sông tới, những cỗ xe to tướng đi ngang, chở đầy cát; đá lát của đường đầy vụn sỏi, bị nấu nhừ trong nhựa đường. Bên ngoài, dưới các cái ô to có diềm, những cái bàn quán cà phê bị bỏ mặc và nóng rẫy.

Chẳng ai trong số chúng tôi ở đó. Anh chọn, để chết, một ngày nào đó của cái tháng Tám nóng như thiêu đó; và anh chọn phòng của một khách sạn gần ga: vì muốn chết, tại cái thành phố thuộc về anh này, như một kẻ xa lạ. Anh đã tưởng tượng ra cái chết của mình trong một bài thơ mà anh viết nhiều năm về trước:

Người ta sẽ không cần ra khỏi giường./Chỉ bình minh đi vào căn phòng trống./Sẽ chỉ cần cửa sổ để phục trang cho mỗi vật/Bằng một làn sáng êm đềm, gần như là một luồng sáng,/Đặt một cái bóng gầy lên khuôn mặt lật sấp:/Các kỷ niệm sẽ là những cục vón bóng tối,/Bị vùi như than đã nguội lạnh trong bếp lò./Ký ức sẽ là ngọn lửa lớn/Nó, mới hôm qua thôi, vẫn còn ngốn ngấu những con mắt đã tắt.

Chúng tôi đi, không lâu sau khi anh chết, vào khu đồi. Có các quán trọ trên đường, với những cái giàn phủ đầy nho đang chín, những người chơi bi sắt, các đống xe đạp; có những trang trại với các bó ngô, và cỏ đã phạt được rải ra phơi khô trên những bao tải: phong cảnh, ở rìa thành phố và ở điểm mút của mùa thu, mà anh yêu. Chúng tôi nhìn, trên các bờ sông cỏ mọc và trên những cánh đồng đã cày bừa, màn đêm tháng Chín dâng lên. Tất tật chúng tôi đều là những người bạn thân, và chúng tôi quen biết nhau từ nhiều năm; chúng tôi từng luôn luôn làm việc và suy nghĩ cùng nhau. Giống chuyện hay xảy ra khi người ta yêu nhau rất nhiều, và gặp phải một nỗi bất hạnh, chúng tôi tìm cách còn yêu nhau nhiều hơn nữa, và bảo vệ lẫn nhau, vì chúng tôi cảm thấy rằng anh, theo cách thức bí hiểm của mình, từng lúc nào cũng chăm lo cho chúng tôi, và đã luôn bảo vệ chúng tôi. Hơn bao giờ hết, anh hiện diện trên khoảng rìa đồi này.

Mỗi ánh mắt tìm thấy lại được đều lưu giữ vị/Của cỏ cùng những gì đẫm nắng,/Vào buổi tối trên bãi biển. Giữ một hơi thở của biển./Cái bóng mơ hồ kia, gồm toàn những e sợ và run rẩy đã cũ,/Thật giống một biển đêm, mà bầu trời lướt qua,/Và nó, hằng tối, quay trở lại. Những giọng chết/Giống bọt của biển ấy.

Huỳnh Bất Thức dịch

Praga Magica

Correspondence

Viết chết

favorites
Thêm vào giỏ hàng thành công