favorites
Shopping Cart
Search
Vitanova
Prev
Hạ 2025
Next

Mario Vargas Llosa: Nền văn minh thị kỹ

24/07/2025 12:32

Tiếp tục thời chúng ta - kỳ gần nhất ở kia; đó sẽ là trung tâm của một quyển sách; cuốn lý thuyết về Tầng lớp nhàn rỗi cũng đã có thể đặt.

Đây là năm 2008, thời điểm của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu: Mario Vargas Llosa viết cho một tờ báo, về cái chết của văn hóa. 

 

Văn minh thị kỹ (la civilización del espectáculo)

- Mario Vargas Llosa

 

Claudio Pérez, đặc phái viên của nhật báo El País tại New York tường thuật về cuộc khủng hoảng tài chính, đã viết trong bài chronique ngày thứ Sáu, 19 tháng 9 năm 2008: "Các tờ báo lá cải ở New York đang như cuồng loạn truy tìm một nhà môi giới nào đó lao mình từ một trong những tòa nhà chọc trời hùng vĩ, nơi trú ngụ của các ngân hàng đầu tư khổng lồ, những thần tượng đã sụp đổ mà cơn bão tài chính đang dần biến thành tro tàn."

Chúng ta hãy tạm khắc ghi hình ảnh này trong tâm trí: một đám đông paparazzi ngước lên cao, ống kính sẵn sàng để thu vào khoảnh khắc kẻ tự vẫn đầu tiên sẽ mang lại hiện thân đồ họa, kịch tính và ngoạn mục cho đại thảm họa tài chính đã làm bốc hơi hàng tỷ tỷ đô la và đẩy vào cảnh khánh kiệt các doanh nghiệp lớn cùng vô số thị dân. Thiết nghĩ, chẳng hình ảnh nào có thể tóm lược chủ đề của bài nói này xác đáng hơn: nền văn minh thị kỹ [la civilización del espectáculo].

Tôi cho rằng đây là cách định danh đúng nhất cho văn minh của thời chúng ta, một nền văn minh mà các quốc gia Tây phương, những quốc gia tuy không thuộc Tây phương nhưng đã đạt được trình độ phát triển cao tại Á châu và nhiều quốc gia thuộc cái gọi là Thế giới Thứ ba cùng chia sẻ.

Tôi muốn nói điều gì qua cụm từ "nền văn minh thị kỹ"? Đó là thế giới mà vị trí hàng đầu trong thang giá trị hiện hành được dành cho giải trí, nơi mà việc tiêu khiển, thoát buồn chán, trở thành dục vọng phổ quát. Lý tưởng sống này cũng chính đáng thôi. Chỉ một tín đồ Thanh giáo cuồng tín mới có thể khiển trách các thành viên của một xã hội mong muốn mang lại sự khuây khỏa, tiêu khiển, hài hước và lạc thú cho những cuộc đời thường bị đóng khung trong những lề thói buồn tẻ và đôi khi ngu muội. Nhưng việc biến khuynh hướng hưởng thụ tự nhiên đó thành một giá trị tối thượng lại mang đến những hệ lụy đôi khi bất ngờ. Trong số đó có sự tầm thường hóa văn hóa, sự phổ biến của thói phù phiếm, và, trong lãnh vực thông tin cụ thể, sự gia tăng của báo chí vô trách nhiệm, loại báo chí sinh tồn bằng tin nhảm và scandal.

Điều gì đã khiến phương Tây trượt dần về phía văn minh thị kỹ? Đó chính là sự thịnh vượng theo sau những năm tháng cơ cực của Thế chiến thứ hai và sự khan hiếm của những năm đầu hậu chiến. Tiếp sau giai đoạn vô cùng gian khó đó là một thời kỳ phát triển kinh tế phi thường. Trong tất cả các xã hội dân chủ và tự do ở châu Âu và Bắc Mỹ, tầng lớp trung lưu tăng trưởng như vũ bão, tính lưu động xã hội được tăng cường và đồng thời diễn ra một sự cởi mở đáng kể trong các chuẩn mực đạo đức, khởi đầu từ đời sống dục tình, vốn theo truyền thống bị kìm hãm bởi giáo hội và chủ nghĩa thế tục bảo thủ của các tổ chức chính trị, cả cánh hữu lẫn cánh tả. Sự sung túc, tự do trong tập quán và không gian ngày càng mở rộng dành cho sự nhàn rỗi trong thế giới phát triển đã tạo ra một kích thích đáng kể để các ngành công nghiệp giải trí phát triển mạnh mẽ chưa từng có, được thúc đẩy bởi quảng cáo, người mẹ và người thầy ma thuật của thời đại chúng ta. Bằng phương cách này, một cách có hệ thống và đồng thời không thể nhận thấy, việc vui chơi, tránh những gì gây phiền muộn, lo lắng và thống khổ đã trở thành, đối với các tầng lớp xã hội ngày càng rộng lớn, từ đỉnh đến đáy của kim tự tháp xã hội, một mệnh lệnh thế hệ, điều mà ông Ortega y Gasset gọi là "tinh thần của thời chúng ta", vị thần chiều nuông và phù phiếm mà tất cả chúng ta, dù hữu thức hay vô thức, đều đã thần phục ít nhất nửa thế kỷ nay, và ngày càng hơn.

Một yếu tố khác, không kém quan trọng, trong việc kiến tạo nền văn minh thị kỹ là sự dân chủ hóa văn hóa. Chắc chắn đây là một hiện tượng hết sức tích cực, khởi phát từ một ý chí khoan dung: rằng văn hóa không thể tiếp tục là di sản của một tầng lớp tinh hoa, rằng một xã hội tự do và dân chủ có nghĩa vụ đạo đức là đưa văn hóa đến tầm tay của mọi người, thông qua giáo dục, nhưng cũng thông qua việc quảng bá và trợ cấp cho nghệ thuật, văn chương và tất cả các biểu hiện văn hóa. Triết lý đáng tán dương này trong nhiều trường hợp đã gây ra hiệu ứng không mong muốn là sự tầm thường hóa và đại chúng hóa đời sống văn hóa, nơi mà một sự dễ dãi nhất định về hình thức và hời hợt về nội dung của các sản phẩm văn hóa được biện minh bởi mục đích công dân là tiếp cận được số lượng người dùng lớn nhất. Số lượng phải trả giá bằng chất lượng. Tiêu chí này, vốn dễ dẫn đến những hình thức mị dân tồi tệ nhất trong lãnh vực chính trị, đã gây ra những hậu quả không lường trước được trong lãnh vực văn hóa, trong đó có sự biến mất của văn hóa cao cấp, vốn bắt buộc phải là thiểu số do sự phức tạp và đôi khi là tính bí ẩn của các mật mã và quy ước của nó, và sự đại chúng hóa của chính ý niệm văn hóa. Ý niệm này giờ đây gần như chỉ mang nghĩa định ngôn nhân học, theo đó văn hóa là tất cả các biểu hiện đời sống của một cộng đồng: ngôn ngữ, tín ngưỡng, tập quán, trang phục, kỹ thuật, và tóm lại, tất cả những gì được thực hành, tránh né, tôn trọng và ghê tởm trong cộng đồng đó. Khi ý niệm văn hóa trở thành một hỗn tạp như vậy thì gần như không thể tránh khỏi việc nó chỉ được hiểu như một phương cách tiêu khiển thời gian vui vẻ. Dĩ nhiên văn hóa cũng có thể là như vậy, nhưng nếu suy cho cùng nó chỉ là như vậy thì nó sẽ biến chất và mất giá trị: mọi thứ thuộc về nó đều bị san bằng và đồng nhất đến mức một vở opera của Wagner, triết học của Kant, một buổi hòa nhạc của Rolling Stones và một buổi biểu diễn của Cirque du Soleil bị cào bằng.

Do đó, không có gì lạ khi loại văn chương tiêu biểu nhất cho thời đại chúng ta là văn chương "light", tức là nhẹ, dễ, một loại văn không hề ngượng ngùng tự đặt mục tiêu trước hết và trên hết (và gần như độc quyền) là giải trí. Xin lưu ý, tôi không hề lên án các tác giả của loại văn chương giải trí này, bởi vì trong số họ, bất chấp sự nhẹ của các tác phẩm, vẫn có những tài năng thực sự, chẳng hạn như - chỉ kể những người xuất sắc nhất - Julian Barnes, Milan Kundera, Paul Auster hay Haruki Murakami. Nếu trong thời đại chúng ta không có những cuộc phiêu lưu văn chương táo bạo như của Joyce, Thomas Mann, Faulkner và Proust thì không chỉ vì các nhà văn mà còn vì nền văn hóa mà chúng ta đang sống không khuyến khích, đúng hơn còn làm nản lòng những nỗ lực kiên định đó, vốn đạt đến đỉnh cao trong những tác phẩm đòi hỏi người đọc một sự chú tâm trí tuệ gần như mãnh liệt tương đương với sự chú tâm của người tạo ra chúng. Độc giả ngày nay muốn những cuốn sách dễ tiếp thu, giúp họ giải khuây, và nhu cầu đó tạo ra một áp lực trở thành động lực mạnh mẽ cho các nhà sáng tạo.

Cũng không phải ngẫu nhiên mà phê bình gần như đã biến mất khỏi các phương tiện thông tin của chúng ta và đã ẩn náu trong những tu viện kín cổng cao tường là các Khoa Nhân văn và đặc biệt là các Khoa Ngữ văn, nơi các công trình nghiên cứu chỉ dành cho các chuyên gia. Đúng là các tờ báo và tạp chí nghiêm túc nhất vẫn còn đăng các bài điểm sách, điểm triển lãm và hòa nhạc, nhưng còn có ai đọc những người bảo vệ đơn độc đó, những người cố gắng thiết lập một trật tự thứ bậc nào đó trong khu rừng và sự hỗn loạn mà nguồn cung văn hóa ngày nay đã biến thành? Sự thật là phê bình, vốn trong thời đại của ông bà và cụ kỵ chúng ta đóng vai trò trung tâm trong thế giới văn hóa vì nó tư vấn cho công chúng trong nhiệm vụ khó khăn là đánh giá những gì họ nghe, thấy và đọc, ngày nay là một loài đang trên đà tuyệt chủng mà không ai để ý, trừ những trường hợp nó cũng biến thành giải trí và diễn cảnh.

Văn học "light", cũng như điện ảnh "light" và nghệ thuật "light", mang lại cho độc giả và khán giả cảm giác thoải mái rằng mình là người có văn hóa, cách mạng, hiện đại, đi đầu, trong khi chỉ cần bỏ ra nỗ lực trí tuệ tối thiểu. Bằng cách này, nền văn hóa tự cho là tiên tiến và đột phá đó thực ra lại truyền bá chủ nghĩa bảo thủ thông qua những biểu hiện tồi tệ nhất của nó: sự tự mãn và tự hài lòng.

Trong văn minh thị kỹ, việc ẩm thực và thời trang chiếm một phần đáng kể trong các chuyên mục dành cho văn hóa là điều bình thường và gần như bắt buộc, và các "đầu bếp" cùng "nhà tạo mẫu" ngày nay đóng vai trò chủ đạo trước đây thuộc về các nhà khoa học, nhà soạn nhạc và triết gia. Bếp lò và sàn diễn thời trang bị xếp lộn sòng cùng sách vở, hòa nhạc, phòng thí nghiệm và nhà hát opera; các ngôi sao truyền hình ấn ảnh hưởng của mình lên tập quán, thị hiếu và thời trang: vị trí trước đây thuộc về các nhà tư tưởng và (thậm chí trước đó nữa) các nhà thần học. Nửa thế kỷ trước, một Edmund Wilson, trong các bài viết của mình trên The New Yorker hoặc The New Republic, là người quyết định sự thất bại hay thành công của một tập thơ, một cuốn tiểu thuyết hay một bài tiểu luận. Ngày nay, đó là các chương trình truyền hình của Oprah Winfrey. Tôi không nói rằng như vậy là sai. Tôi chỉ đơn giản nói rằng nó là thế đấy.

Khoảng trống do sự biến mất của phê bình để lại đã được lấp đầy bởi quảng cáo; quảng cáo ngày nay không chỉ thành một bộ phận cấu thành của đời sống văn hóa mà còn là yếu tố quyết định của nó. Quảng cáo có ảnh hưởng quyết định đến thị hiếu, sự nhạy cảm, tưởng tượng và tập quán.  Chức năng mà trước đây thuộc về các hệ thống triết học, tín ngưỡng tôn giáo, ý thức hệ và học thuyết, cũng như những người mà ở Pháp được gọi là các bậc thầy của thời đại ngày nay được thực hiện bởi những "nhà sáng tạo" vô danh của các công ty quảng cáo. Theo một cách nào đó, điều này là bắt buộc phải xảy ra kể từ thời điểm tác phẩm văn chương và nghệ thuật được coi là một sản phẩm bán mua, đánh cược cái sống chết của mình vào biến động của thị trường. Khi một nền văn hóa đã xếp việc suy nghĩ vào kho lưu trữ những cái lỗi thời và thay ý bằng hình, các sản phẩm văn chương nghệ thuật sẽ được quảng bá, và được chấp nhận hay từ chối, bởi các kỹ thuật quảng cáo và các phản xạ có điều kiện ở một công chúng thiếu khả năng phòng vệ trí tuệ và cảm xúc để phát hiện ra những mánh khóe buôn lậu và tống tiền mà họ là nạn nhân. Bằng con đường đó, những bộ trang phục kỳ dị mà một John Galliano cho trình diễn trên các sàn diễn ở Paris hay những thử nghiệm của nouvelle cuisine (ẩm thực mới) đạt được vị thế công dân danh dự của văn hóa cao cấp.

Tình trạng này đã thúc đẩy sự tôn vinh âm nhạc đến mức biến nó thành dấu hiệu nhận dạng của các thế hệ mới, ở phạm vi toàn thế giới. Các ban nhạc và ca sĩ thời thượng thu hút nhân quần tràn ngập mọi sân khấu trong các buổi hòa nhạc, giống như các lễ hội ngoại giáo Dionysus ở Hy Lạp cổ đại, là những nghi lễ tập thể của sự phóng túng và thanh tẩy, của sự sùng bái bản năng, dục vọng và cái phi lý. Hẳn là không gượng khi so những lễ kỷ niệm này với các lễ hội tín ngưỡng dân gian lớn thời xưa: tinh thần tín ngưỡng đó đã được thế tục hóa cho phù hợp với xu hướng thời đại, đã thay thế giáo lý của các tôn giáo truyền thống bằng những biểu hiện của thần bí âm nhạc, nơi mà, theo nhịp điệu của giọng hát và nhạc cụ được khuếch đại đến mức không thể tin được, cá nhân bị phi cá nhân hóa, trở thành đám đông và một cách vô thức quay trở lại thời kỳ nguyên thủy của ma thuật và bộ lạc. Đó là cách thức đương đại, chắc chắn thú vị hơn nhiều, để đạt được trạng thái xuất thần mà Thánh Teresa hay Thánh Gioan Thánh Giá đã đạt được thông qua khổ hạnh và đức tin. Trong buổi hòa nhạc đông đảo, những người trẻ tuổi ngày nay hiệp thông, xưng tội, được cứu chuộc và ngây ngất mãnh liệt, cơ bản là thoát ra khỏi chính mình.

Đại chúng hóa là một dữ kiện khác, cùng với cái phù phiếm, của văn hóa thời chúng ta. Trong đó, thể thao đã đạt được một tầm quan trọng mà trong quá khứ chỉ có ở Hy Lạp cổ đại. Đối với Plato, Socrates, Aristotle và những người thường xuyên lui tới Học viện, việc rèn luyện thân thể bổ sung cho việc rèn luyện tinh thần, bởi vì người ta tin rằng chúng làm phong phú lẫn nhau. Sự khác biệt với thời đại chúng ta là bây giờ, việc tập luyện thể thao được thực hiện bằng cách hy sinh và thay thế cho công việc trí tuệ. Trong số các môn thể thao, không môn nào nổi cho bằng bóng đá, một hiện tượng đại chúng, giống như các buổi hòa nhạc hiện đại, thu hút số đông và kích thích họ hơn bất kỳ cuộc vận động công dân nào: các cuộc mít tinh chính trị, đám rước tôn giáo hay các buổi trưng cầu dân ý. Một trận bóng tất nhiên có thể là một cảnh tượng tuyệt vời đối với những người hâm mộ - và tôi cũng thế thôi - về sự khéo léo và hài hòa của tập thể cũng như sự tỏa sáng cá nhân làm phấn khích và chinh phục người xem. Nhưng trong thời đại chúng ta, các trận đấu bóng đá lớn chủ yếu có vai trò, giống như các rạp xiếc La Mã, như cái cớ và lối thoát cho sự phi lý trí, sự thoái lui của cá nhân về tình trạng là một phần của bộ lạc, một mảnh ghép bầy đàn, trong đó, được che chở bởi sự ẩn danh ấm áp và phi cá nhân của khán đài, cá nhân thả lỏng bản năng hung hăng của mình để từ chối người khác, để chinh phục và tiêu diệt đối thủ một cách tượng trưng (và đôi khi là thực sự). Các "barras bravas" (cổ động viên quá khích) nổi tiếng của một số CLB và những tàn phá mà họ gây ra với những cuộc ẩu đả chết người, phóng hoả khán đài với hàng chục nạn nhân cho thấy trong nhiều trường hợp, cái thu hút người hâm mộ - hầu như luôn là nam giới, mặc dù ngày càng có nhiều phụ nữ đến sân vận động - đến các sân cỏ không phải việc tập luyện thể thao mà là cảnh tượng giải phóng trong cá nhân những bản năng và xung động phi lý trí cho phép họ từ bỏ tình trạng văn minh của mình và hành xử, trong suốt trận đấu, như một người nguyên thủy.

Nghịch lý thay, hiện tượng đại chúng hóa lại song hành với sự lan rộng của việc sử dụng ma túy ở mọi tầng lớp xã hội. Dĩ nhiên, việc sử dụng chất gây nghiện có một truyền thống lâu đời ở phương Tây nhưng, cho đến tương đối gần đây, nó gần như là độc quyền của giới tinh hoa và các thành phần thiểu số và bên lề, như giới bohemian, văn nghệ sĩ, nơi mà, vào thế kỷ XIX, những "bông hoa nhân tạo" đã có những người sùng bái đáng kính như Charles BaudelaireThomas de Quincey.

Hiện nay, sự phổ biến của việc sử dụng ma túy không hề giống như vậy, nó không đáp ứng nhu cầu khám phá những cảm giác hay ảo ảnh mới được thực hiện với mục đích nghệ thuật hay khoa học. Nó cũng không phải là một biểu hiện của sự nổi loạn chống lại các chuẩn mực đã được thiết lập bởi những người bất mãn, quyết tâm chấp nhận các hình thức tồn tại thay thế. Trong thời đại chúng ta, việc tiêu thụ cần sa, cocaine, thuốc lắc, crack, heroin, v.v. ứng với một môi trường văn hóa đẩy cả đàn ông lẫn phụ nữ vào việc tìm kiếm những thú vui dễ dàng và nhanh chóng, giúp họ miễn nhiễm với sự lo lắng và trách nhiệm, với việc đối mặt với chính mình thông qua suy tư, những hoạt động trí tuệ ưu tú mà văn hóa phù phiếm bác bỏ, bởi vì nó coi chúng là nhàm chán. Món tiêu khiển ấy là nhằm thoát khỏi sự trống rỗng và nỗi thống khổ do cảm giác tự do và buộc phải đưa ra quyết định - phải làm gì với bản thân và thế giới xung quanh, đặc biệt nếu đối mặt với những thách thức và bi kịch. Đối với hàng triệu người, ma túy ngày nay có vai trò, giống như tôn giáo và văn hóa cao cấp ngày xưa, xoa dịu những nghi ngờ và bối rối về thân phận con người, cuộc sống, cái chết, thế giới bên kia, ý nghĩa hay sự vô nghĩa của sự tồn tại. Chúng sự hưng phấn hoặc thanh thản nhân tạo mà chúng tạo ra mang lại sự an toàn nhất thời rằng mình được an toàn, được cứu chuộc và hạnh phúc. Đây là một hư cấu, không lành tính mà là ác tính; nó cô lập cá nhân và chỉ giải phóng ở bề ngoài. Cuối cùng tất cả những điều đó sẽ lại bủa vây họ, đòi hỏi họ ngày càng nhiều liều lượng gây mê muội và kích thích và, thay vì lấp đầy, sẽ làm sâu sắc thêm sự trống rỗng tinh thần của họ.

Trong nền văn minh thị kỹ, chủ nghĩa thế tục đã giành được nhiều ưu thế hơn so với các tôn giáo, ít nhất là về bề ngoài. Và trong số những người vẫn còn đức tin, số người chỉ tin nhất thời và ngoài miệng, một cách hời hợt và xã giao, trong khi phần lớn cuộc đời hoàn toàn không cần đến tôn giáo, đã tăng lên. Ảnh hưởng tích cực của việc thế tục hóa đời sống là tự do giờ đây sâu sắc hơn so với khi nó bị cắt xén và bóp nghẹt bởi các giáo điều và sự kiểm duyệt của giáo hội. Nhưng nếu có kẻ nào tin rằng vì ngày nay thế giới phương Tây có ít người Công giáo và Tin lành hơn trước đây nên tôn giáo đã biến mất trong các thành phần đã theo chủ nghĩa thế tục thì họ đã nhầm. Điều đó chỉ xảy ra trong các số liệu thống kê. Thực tế, cùng lúc nhiều tín đồ từ bỏ các giáo hội truyền thống, các giáo phái thì các hình thức thờ cúng và đủ loại thực hành tôn giáo thay thế bắt đầu sinh sôi nảy nở, từ chủ nghĩa tâm linh phương Đông trong tất cả các trường phái và nhánh của nó - Phật, Thiền, Tantra, Yoga - đến các nhà thờ Tin Lành Phúc âm hiện đang mọc lên như nấm và phân nhánh, rồi lại phân nhánh nhỏ hơn nữa trong các khu dân cư nghèo khó, và những sự thay thế kỳ lạ như Con Đường Thứ Tư, Hội Hồng Thập Tự, Giáo hội Thống Nhất - những người "Moonies", Khoa Luận giáo, rất phổ biến ở Hollywood, và những giáo hội thậm chí còn kỳ lạ và hời hợt hơn.

Lý do cho việc gia tăng các giáo hội và nguỵ giáo hội này là chỉ có một bộ phận rất nhỏ con người có thể hoàn toàn không cần đến tôn giáo: nó là cần thiết với đại đa số bởi vì chỉ có sự an toàn mà đức tin tôn giáo mang lại về cái siêu việt và linh hồn mới giải phóng họ khỏi sự bất an, sợ hãi và hoang mang của ý nghĩ về sự tuyệt vọng, về sự hoại diệt thể xác. Và, trên thực tế, cách duy nhất để đa số con người hiểu và thực hành đạo đức là thông qua tôn giáo. Chỉ các thiểu số mới có thể giải phóng mình khỏi tôn giáo bằng cách thay thế khoảng trống mà nó để lại bằng văn hóa: triết học, khoa học, văn học và nghệ thuật. Nhưng văn hóa duy nhất có thể thực hiện chức năng này là văn hóa cao cấp, đối mặt với các vấn đề chứ không lảng tránh chúng, cố gắng đưa ra những câu trả lời nghiêm túc chứ không phải giải trí cho những bí ẩn, nghi vấn và xung đột lớn lao bao quanh tồn tại con người. Văn hóa thị kỹ, bề mặt và hào nhoáng, trò chơi và điệu bộ, không đủ để thay thế những sự vững chắc, huyền thoại, bí ẩn và nghi lễ của các tôn giáo đã tồn tại qua thử thách của nhiều thế kỷ. Trong xã hội thời đại chúng ta, các chất gây nghiện và rượu cung cấp sự thanh thản tinh thần nhất thời cùng sự nhẹ nhõm mà ngày xưa những lời cầu nguyện, sự xưng tội, sự hiệp thông và các bài giảng của các linh mục mang lại cho cả đàn ông và phụ nữ.

Cũng không phải ngẫu nhiên mà, cũng như trong quá khứ các chính trị gia trong chiến dịch tranh cử muốn được chụp ảnh và xuất hiện cùng với các nhà khoa học và nhà viết kịch lỗi lạc, ngày nay họ tìm kiếm sự ủng hộ và bảo trợ của các ca sĩ nhạc rock và diễn viên điện ảnh. Những người này đã thay thế các trí thức làm người định hướng lương tâm chính trị cho các tầng lớp trung lưu và bình dân, và họ dẫn đầu các bản tuyên ngôn, đọc chúng trên các diễn đàn và xuất hiện trên truyền hình để thuyết giảng về những gì là tốt và xấu trong kinh tế, chính trị và xã hội. Trong văn minh thị kỹ, diễn viên hài là vua. Sự hiện diện của các diễn viên và ca sĩ không chỉ quan trọng ở vùng ngoại vi của đời sống chính trị, tức là dư luận. Một số người trong số đó đã tham gia tranh cử và, như Ronald Reagan và Arnold Schwarzenegger, đã đạt được những vị trí quan trọng như tổng thống Hoa Kỳ và thống đốc California. Dĩ nhiên, tôi không loại trừ khả năng các diễn viên điện ảnh và ca sĩ nhạc rock hay rap có thể đưa ra những gợi ý đáng giá trong lãnh vực ý tưởng, nhưng tôi không cho rằng vai trò chính trị mà họ đang có ngày nay có liên quan gì đến sự sáng suốt hay trí thông minh của họ. Hoàn toàn không: cái đó hoàn toàn là do sự hiện diện truyền thông và khả năng diễn xuất của họ.

Sự kiện đặc thù của văn minh thị kỹ là sự lu mờ của một nhân vật mà từ nhiều thế kỷ trước cho đến vài năm gần đây đã đóng một vai trò quan trọng trong đời sống các quốc gia: trí thức. Người ta nói rằng danh xưng "trí thức" ra đời trong vụ Dreyfus ở Pháp, và những cuộc tranh luận mà Émile Zola đã khơi mào bằng bài "Tôi tố cáo" ("J'accuse") nổi tiếng, được viết để bảo vệ viên sĩ quan Do Thái bị vu tội phản quốc bởi âm mưu của các chỉ huy cao cấp bài Do Thái trong quân đội Pháp. Nhưng mặc dù thuật ngữ "trí thức" chỉ trở nên phổ biến từ đó, sự thật là sự tham gia của những người tư tưởng và sáng tạo vào đời sống công cộng, vào các cuộc tranh luận chính trị, tôn giáo và tư tưởng đã có từ buổi bình minh của phương Tây. Nó hiện diện ở Hy Lạp của Plato và ở Rome của Cicero, trong thời Phục hưng của Montaigne và Machiavelli, trong thời Khai sáng của Voltaire và Diderot, trong thời Lãng mạn của Lamartine và Victor Hugo và trong tất cả các giai đoạn lịch sử dẫn đến thời hiện đại. Song song với công việc nghiên cứu, học thuật hoặc sáng tạo của mình, một số lượng lớn các nhà văn và nhà tư tưởng lỗi lạc đã ảnh hưởng bằng các tác phẩm, tuyên bố và lập trường của họ đến các sự kiện chính trị và xã hội, như đã xảy ra khi tôi còn trẻ, ở Anh với Bertrand Russell, ở Pháp với Sartre và Camus, ở Ý với Moravia và Vittorini, ở Đức với Günter Grass và Enzensberger, và tương tự ở hầu hết các nền dân chủ châu Âu. Chỉ cần nghĩ đến, ở Tây Ban Nha, những sự can thiệp vào đời sống công cộng của Don José Ortega y Gasset. Ngày nay, trí thức đã biến mất khỏi các tranh luận công cộng, ít nhất là những cuộc đối thoại quan trọng. Đúng là một số người trong số họ vẫn ký tên vào các bản tuyên ngôn, gửi thư cho các tờ báo và tham gia vào các cuộc tranh luận, nhưng không có gì trong số đó có tác động nghiêm trọng đến tiến trình của xã hội, nơi các vấn đề kinh tế, thể chế và thậm chí cả văn hóa được quyết định bởi quyền lực chính trị và hành chính và cái gọi là các thế lực thực tế, trong đó các trí thức chỉ nổi bật bởi sự vắng mặt của họ. Ý thức được tình thế khó xử mà họ bị xã hội mà họ đang sống đẩy vào, đa số trí thức đã chọn sự kín đáo hoặc kiêng dè trong các tranh luận công cộng. Bị giới hạn trong chuyên môn hoặc công việc cụ thể của mình, họ quay lưng lại với cái mà nửa thế kỷ trước được gọi là "sự dấn thân" dân sự hoặc đạo đức của nhà văn và nhà tư tưởng với xã hội. Đúng là có một số ngoại lệ, nhưng những ngoại lệ thường được tính đến - bởi vì chúng tiếp cận được các phương tiện truyền thông - lại thường hướng đến việc tự quảng bá và phô trương hơn là bảo vệ một nguyên tắc hay một giá trị. Bởi vì trong nền văn minh thị kỹ, trí thức chỉ được quan tâm nếu anh ta tuân theo trò chơi thời thượng và trở thành một tên hề.

Điều gì đã dẫn đến sự suy yếu và biến mất của trí thức trong thời đại chúng ta? Một lý do cần xem xét là sự mất uy tín mà nhiều thế hệ trí thức đã phải gánh chịu do sự đồng tình của họ với các chế độ toàn trị của Đức Quốc xã, Liên Xô và Mao Trạch Đông, cũng như sự im lặng và mù quáng của họ trước những nỗi kinh hoàng như Holocaust, Gulag và những cuộc tàn phá của Cách mạng Văn hóa. Thật vậy, thật đáng bối rối và choáng ngợp khi, trong rất nhiều trường hợp, những người dường như là những bộ óc ưu việt của thời đại họ lại đứng về phía các chế độ chịu trách nhiệm về các cuộc diệt chủng, những sự vi phạm nhân quyền khủng khiếp và việc bãi bỏ mọi quyền tự do. Nhưng, trên thực tế, lý do thực sự cho sự mất hoàn toàn sự quan tâm của toàn xã hội đối với các trí thức là tầm quan trọng nhỏ xíu của suy nghĩ trong văn minh thị kỹ.

Một đặc điểm khác của nó là sự nghèo nàn của các ý với tư cách là động lực của đời sống văn hóa. Ngày nay, hình ảnh áp đảo ý. Đó là lý do tại sao các phương tiện nghe nhìn, điện ảnh, truyền hình và bây giờ là internet đã dần bỏ lại phía sau những cuốn sách, thứ mà, theo dự đoán bi quan của George Steiner, sẽ sớm đi vào hầm mộ. (Những người yêu văn hóa sách lỗi thời, như tôi, không nên than thở, bởi vì, nếu điều đó xảy ra, sự bên lề hóa đó có lẽ sẽ có tác dụng thanh lọc và tiêu diệt toàn bộ văn chương best-seller, văn chương thuần giải trí, văn chương có thể được gọi thẳng là rác rưởi - không chỉ vì sự hời hợt của các câu chuyện và sự nghèo nàn của hình thức, mà còn vì tính chất phù du của nó, thứ văn chương thời sự, được tạo ra để tiêu thụ và biến mất, giống như xà phòng và nước ngọt.)

Điện ảnh, tất nhiên, luôn là một nghệ thuật giải trí, hướng đến quảng đại nhân quần, đồng thời, trong lòng nó, đôi khi như một dòng chảy bên lề và đôi khi là trung tâm, đã có những tài năng lớn, những người, bất chấp những điều kiện khó khăn mà các nhà làm phim luôn phải chịu do ngân sách và sự phụ thuộc vào các hãng sản xuất lớn, đã có thể tạo ra những tác phẩm có sự phong phú, sâu sắc và độc đáo lớn, mang dấu ấn cá nhân không thể nhầm lẫn. Nhưng thời đại của chúng ta, theo áp lực không thể lay chuyển của văn hóa thống trị, vốn ưu tiên sự khéo léo hơn trí tuệ, hình ảnh hơn ý, hài nhảm hơn nghiêm túc, tầm thường hơn sâu sắc và phù phiếm hơn nghiêm cẩn, không còn sản sinh ra những nhà sáng tạo như Ingmar Bergman hay Luchino Visconti hay Luis Buñuel nữa. Điện ảnh ngày nay tôn vinh ai làm biểu tượng đấy? Woody Allen, người mà, so với một David Lean hay một Orson Welles, cũng giống như Andy Warhol so với Gauguin hay Van Gogh trong hội họa, hoặc Dario Fo so với Thomas Mann trong văn chương.

Chẳng đáng ngạc nhiên lắm khi trong kỷ nguyên thị kỹ, các hiệu ứng đặc biệt trong điện ảnh đã đóng một vai trò chủ đạo đến mức đẩy các chủ đề, đạo diễn, kịch bản và thậm chí cả diễn viên xuống hàng thứ yếu. Người ta có thể phản bác rằng điều này phần lớn là do sự phát triển công nghệ phi thường trong những năm gần đây, cho phép thực hiện những phép màu thực sự trong lãnh vực mô phỏng và ảo ảnh thị giác. Một phần, chắc chắn là vậy. Nhưng một phần khác, và có lẽ là phần chính, là do một nền văn hóa khuyến khích nỗ lực trí tuệ tối thiểu, không lo lắng hay thống khổ, và cuối cùng là không suy nghĩ, đúng hơn là buông thả trong tư thế thụ động, vào cái mà Marshall McLuhan - lý thuyết gia đã bị lãng quên nhưng bất chấp mọi điều có thể bị chỉ trích là cường điệu - gọi là "tắm trong hình ảnh", sự đầu hàng trước những cảm xúc và cảm giác được giải phóng bởi một cuộc bắn phá hình ảnh bất thường và đôi khi rực rỡ, mặc dù chúng, do bản chất sơ đẳng và nhất thời của mình, làm cùn nhụt sự nhạy cảm và trí tuệ.

Nghệ thuật tạo hình đã đi trước tất cả các biểu hiện khác của đời sống văn hóa trong việc đặt nền móng cho văn hóa thị kỹ, thiết lập rằng nghệ thuật có thể là trò giải trí - và không hơn. Kể từ khi Marcel Duchamp, một thiên tài cách mạng hóa các khuôn mẫu nghệ thuật của phương Tây, thiết lập rằng một cái bồn cầu cũng là một tác phẩm nghệ thuật nếu nghệ sĩ muốn như vậy, thì mọi thứ đều có thể xảy ra trong lãnh vực hội họa và điêu khắc, đến mức một triệu phú trả mười hai triệu rưỡi euro cho một con cá mập được bảo quản trong một bể kính fo-man-đê-hít, và tác giả của trò đùa đó, Damien Hirst, ngày nay được tôn kính không phải như một tay bán hàng lừa đảo phi thường mà là một trong những nghệ sĩ vĩ đại của thời chúng ta. Có lẽ ông ta đúng là vậy, nhưng điều đó không cho thấy ông ta tốt, mà chỉ chứng tỏ rằng thời đại chúng ta đã trở nên quá hủi, một thời đại mà sự khoác lác, cử chỉ khiêu khích và vô nghĩa đôi khi là đủ, với sự đồng lõa của các băng đảng kiểm soát thị trường nghệ thuật và các nhà phê bình đồng lõa hoặc ngớ ngẩn, tôn vinh những uy tín giả tạo, trao vị thế nghệ sĩ cho những nhà ảo thuật che giấu sự nghèo nàn và trống rỗng của mình đằng sau sự lừa bịp và sự xấc xược được cho là. Tôi nói "được cho là" bởi vì cái bồn cầu của Duchamp ít nhất cũng có phẩm chất khiêu khích. Nhưng trong thời đại chúng ta, khi cái được mong đợi ở các nghệ sĩ không phải là tài năng, thậm chí không phải là kỹ năng, mà là khoác lác và vênh váo, thì những táo bạo của họ không gì khác hơn là mặt nạ của một chủ nghĩa bảo thủ mới. Những gì trước đây là cách mạng đã trở thành thời trang, trò tiêu khiển, trò chơi, một loại axit tinh vi làm biến chất công việc nghệ thuật và biến nó thành trò biểu diễn Grand Guignol. Trong nghệ thuật tạo hình, cái phù phiếm đã đạt đến mức báo động. Sự biến mất của những sự đồng thuận tối thiểu về các giá trị thẩm mỹ khiến cho hiện tại mọi thứ đều được phép. Trong lãnh vực đó, sự hỗn loạn ngự trị và sẽ ngự trị trong một thời gian dài, bởi vì không còn có thể phân biệt một cách khách quan đâu là tài năng hay thiếu tài năng, đâu là đẹp và đâu là xấu, tác phẩm nào đại diện cho một cái gì đó mới mẻ và bền vững và tác phẩm nào chỉ là một ngọn lửa ma trơi. Sự hỗn loạn đó đã biến thế giới nghệ thuật tạo hình thành một lễ hội hóa trang nơi các nhà sáng tạo chân chính và những kẻ khôn lỏi, lừa đảo trà trộn vào nhau và thường rất khó để phân biệt họ. Một sự báo trước đáng lo ngại về những vực thẳm mà một nền văn hóa có thể đạt tới khi hy sinh mọi động lực và mục đích khác cho việc giải trí và tiêu khiển.

Trong nền văn minh thị kỹ, chính trị đã trải qua một sự tầm thường hóa có lẽ còn rõ rệt hơn cả văn chương, điện ảnh và nghệ thuật tạo hình. Ở đó, quảng cáo và các khẩu hiệu, những điều sáo rỗng, sự phù phiếm và những thói quen của nó chiếm gần như toàn bộ công việc vốn dành cho lý lẽ, chương trình, ý tưởng và học thuyết. Chính khách ngày nay, nếu muốn duy trì sự nổi tiếng của mình, buộc phải dành sự chú ý hàng đầu cho cử chỉ và hình thức trình bày, những thứ quan trọng hơn cả giá trị, niềm tin và nguyên tắc của ông ta.

Chăm sóc nếp nhăn, chứng hói đầu, tóc bạc, gọng kính và độ bóng của răng cũng như trang phục có giá trị ngang bằng, đôi khi còn hơn cả việc giải thích những gì chính trị gia dự định làm hoặc không làm khi cầm quyền. Việc người mẫu và ca sĩ Carla Bruni bước vào Điện Elysée với tư cách Bà Sarkozy cùng màn pháo hoa truyền thông mà sự kiện đó mang lại - vẫn chưa dứt cho thấy ngay cả Pháp, quốc gia tự hào duy trì truyền thống lâu đời coi chính trị là một công việc trí tuệ, một sự đối chiếu các học thuyết và ý tưởng, cũng không thể chống cự và đã chịu thua sự phù phiếm đang chiếm lĩnh toàn cầu.

(Có lẽ nên làm rõ hơn cái tôi gọi là phù phiếm. Từ điển định nghĩa "phù phiếm" là nhẹ dạ, huyễn hoặc và vô bổ, nhưng thời đại chúng ta đã gán cho nó một ý nghĩa phức tạp hơn. Phù phiếm bao gồm việc có một bảng giá trị đảo ngược hoặc mất cân bằng, trong đó hình thức quan trọng hơn nội dung, vẻ bề ngoài quan trọng hơn bản chất, cử chỉ và sự phô trương - sự trình diễn - thay thế cho tình cảm và ý tưởng. Trong một cuốn tiểu thuyết mà tôi ngưỡng mộ, Tirant lo Blanc, một bà mẹ tát con trai mình, một đứa bé sơ sinh, để nó khóc vì cha nó lên đường đến Jerusalem. Độc giả chúng ta cười thích thú trước sự vô lý đó, như thể những giọt nước mắt mà cái tát đó gây ra cho đứa trẻ tội nghiệp có thể bị nhầm lẫn với sự buồn bã. Nhưng cả người phụ nữ đó lẫn những nhân vật chứng kiến cảnh tượng đó đều không cười, bởi vì đối với họ, tiếng khóc - tức là hình thức thuần túy - chính là nỗi buồn. Và không có cách nào khác để buồn ngoài việc khóc - "rơi lệ sống động", cuốn tiểu thuyết viết - bởi vì trong thế giới hình thức đó, chính hình thức mới quan trọng, và nội dung của các hành động phải phục vụ cho nó. Đó chính là phù phiếm, một cách hiểu thế giới, hiểu cuộc sống, theo đó mọi thứ đều là vẻ bề ngoài, tức là sân khấu, tức là giải trí.)

Bình luận về cuộc cách mạng Zapatista thoáng qua của phó chỉ huy Marcos ở Chiapas - mà Carlos Fuentes gọi là "cuộc cách mạng hậu hiện đại" đầu tiên, cái tên chỉ có thể chấp nhận được theo nghĩa là một sự trình diễn đơn thuần, không có nội dung hay ý nghĩa gì, một trò hề do một chuyên gia về kỹ thuật quảng cáo dàn dựng - Octavio Paz đã chỉ ra một cách chính xác tính chất phù du, không có tính liên tục của các hành động (hay đúng hơn là các mô phỏng) của các chính trị gia đương thời:

Văn minh thị kỹ thì tàn nhẫn. Khán giả không có ký ức; vì vậy họ cũng không có sự hối hận hay lương tâm thực sự. Họ sống bám vào sự mới lạ, bất kể nó là gì, miễn là nó mới. Họ quên nhanh chóng và chuyển từ những cảnh chết chóc và tàn phá của Chiến tranh vùng Vịnh Ba Tư sang những đường cong, sự uốn éo và những rung động của Madonna và Michael Jackson không hề chớp mắt. Các chỉ huy và giám mục cũng phải chịu chung số phận; họ cũng đang chờ đợi Cái Ngáp Lớn [el Gran Bostezo - một từ của Octavio Paz], vô danh và phổ quát, đó là Ngày Tận thế và Ngày Phán xét Cuối cùng của xã hội thị kỹ.

Trong lãnh vực dục tình, thời chúng ta đã trải qua những biến đổi đáng chú ý, nhờ vào việc thoát khỏi những định kiến và cấm kỵ cổ xưa mang tính tôn giáo, vốn kìm hãm đời sống tình dục trong những điều cấm đoán. Trong địa hạt này, phương Tây đúng là đã có một sự tiến bộ phi thường với việc chấp nhận các mối quan hệ tự do, sự biến mất của sự phân biệt đối xử gia trưởng chống lại phụ nữ, người đồng tính và các nhóm thiểu số tình dục, những người đang dần dần được hòa nhập vào một xã hội công nhận, mặc dù đôi khi miễn cưỡng, quyền tự do dục tình giữa những người trưởng thành. Tuy nhiên, mặt trái của sự giải phóng tình dục tích cực này cũng là sự tầm thường hóa hành vi dục; nó đã, đối với nhiều người, đặc biệt là ở các thế hệ mới, trở thành một môn thể thao hoặc trò tiêu khiển, một hoạt động chung không quan trọng hơn, và có lẽ còn ít quan trọng hơn, thể dục, khiêu vũ hoặc bóng đá. Có lẽ sự phù phiếm hóa tình dục này là lành mạnh xét về mặt cân bằng tâm lý và cảm xúc, mặc dù nó nên khiến chúng ta suy ngẫm về thực tế là, trong một thời đại như của chúng ta, với sự tự do tình dục đáng kể, tội phạm tình dục vẫn không giảm và có lẽ còn tăng. Tình dục "light" là tình dục không có tình yêu và không có tưởng tượng, tình dục thuần túy bản năng và động vật. Nó giải tỏa một nhu cầu sinh học nhưng không làm phong phú đời sống tình cảm hay cảm xúc, cũng không thắt chặt mối quan hệ của cặp đôi vượt ra ngoài giao hợp xác thịt; thay vì giải phóng người đàn ông hay người phụ nữ khỏi sự cô đơn, sau hành vi thể xác nhất thời và chóng vánh, nó lại đẩy họ trở lại với sự cô đơn đó cùng một cảm giác thất bại và thất vọng không thể tránh khỏi.

Phong tình đã biến mất, cùng lúc với phê bình và văn hóa cao cấp. Tại sao ư? Bởi phong tình, vốn biến hành vi dục thành một tác phẩm nghệ thuật, một nghi lễ mà văn chương, nghệ thuật tạo hình, âm nhạc và một nhạy cảm tinh tế thấm nhuần những hình ảnh có tính nghệ thuật thẩm mỹ cao, không tương thích, là sự phủ nhận chính thứ tình dục dễ dãi, nhanh chóng và bừa bãi mà nghịch lý thay, sự tự do mà các thế hệ mới giành được đã dẫn đến. Phong tình tồn tại như một sự đối lập hoặc bất tuân chuẩn mực, ngụ ý một thái độ thách thức các tập quán đã được tôn sùng và do đó, ngụ ý sự bí mật và lén lút. Khi được đưa ra ánh sáng công cộng, bị tầm thường hóa, nó trở nên vô vị và nhạt nhẽo, không tạo ra sự phi động vật hóa và nhân văn hóa tinh thần và nghệ thuật của hoạt động tình dục như trước đây. Nó tạo ra nội dung khiêu dâm, hình thức hạ thấp một cách tục tĩu và đê tiện của phong tình, vốn trong quá khứ đã tưới tắm một dòng chảy phong phú các tác phẩm văn chương và nghệ thuật tạo hình, những tác phẩm, được truyền cảm hứng từ những tưởng tượng táo bạo nhất của ham muốn tình dục, đã tạo ra những sáng tạo thẩm mỹ đáng nhớ, thách thức hiện trạng chính trị và đạo đức, đấu tranh cho sự hưởng thụ của con người và tôn vinh một bản năng động vật bằng cách biến nó thành hoạt động sáng tạo, thành tác phẩm nghệ thuật.

Tôi đã đi một vòng dài để đến một vấn đề cốt lõi của bài nói này: báo chí đã ảnh hưởng đến nền văn minh thị kỹ và ngược lại như thế nào?

Trước hết, hãy nói rằng ranh giới theo truyền thống phân tách báo chí nghiêm túc khỏi báo chí giật gân và lá cải đã dần mất đi sự rõ ràng, nhiều trường hợp nó bốc hơi luôn. Một trong các hệ quả của việc biến giải trí và tiêu khiển thành giá trị tối cao của một thời đại là tạo ra, trong lãnh vực thông tin, một sự xáo trộn ngấm ngầm trong các ưu tiên: tin tức trở nên quan trọng hay thứ yếu chủ yếu, và đôi khi độc quyền, không phải vì ý nghĩa kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội của chúng mà vì tính chất mới lạ, giật gân, bất thường, tai tiếng và ngoạn mục của chúng. Không hề có chủ đích, báo chí ngày nay, theo mệnh lệnh văn hóa thịnh hành, tìm cách giải trí và tiêu khiển trong khi thông tin, với kết quả không thể tránh khỏi là thúc đẩy, nhờ sự biến dạng tinh vi này của các mục tiêu truyền thống của nó, một loại báo chí cũng "light", nhẹ nhàng, dễ chịu, hời hợt và giải trí, mà trong những trường hợp cực đoan, nếu không có sẵn thông tin loại này để đưa tin, thì chính nó sẽ bịa ra.

Do đó, chúng ta không nên ngạc nhiên khi những trường hợp đáng chú ý nhất về việc chinh phục công chúng lớn của các cơ quan báo chí ngày nay không phải là các ấn phẩm nghiêm túc, những ấn phẩm tìm kiếm sự chặt chẽ, sự thật và tính khách quan trong việc mô tả các sự kiện thời sự, mà là cái gọi là "tạp chí của trái tim" (tạp chí lá cải chuyên về đời tư người nổi tiếng), những tạp chí duy nhất bác bỏ - nhờ các ấn bản hàng triệu bản của mình - tiên đề rằng trong thời đại chúng ta, báo chí giấy đang phải lùi bước trước sự cạnh tranh của nghe nhìn. Sự thu hẹp ấy chỉ đúng với loại báo chí vẫn cố gắng bơi ngược dòng để có trách nhiệm, để thông tin trước khi giải trí hay tiêu khiển cho độc giả. Nhưng có thể nói gì về một hiện tượng như Hola? Tạp chí đó, hiện không chỉ được xuất bản bằng tiếng Tây Ban Nha mà còn bằng bốn hoặc năm ngôn ngữ khác, đang được hàng triệu độc giả trên toàn thế giới - trong đó có độc giả ở các quốc gia văn hóa nhất hành tinh, như Pháp và Anh - háo hức đọc, có lẽ chính xác hơn là lướt qua - những người, đã được chứng minh, rất thích thú với những tin tức về cách những người giàu có, thành đạt và nổi tiếng của thung lũng nước mắt này kết hôn, ly hôn, tái hôn, ăn mặc, cởi đồ, cãi nhau, làm lành và tiêu xài hàng triệu đô la, những sở thích thất thường và thị hiếu tồi của họ. Khi phiên bản tiếng Anh của Hola, Hello, xuất hiện, tôi sống ở London và đã tận mắt chứng kiến tốc độ chóng mặt mà sinh vật báo chí Tây Ban Nha đó chinh phục đất nước của Shakespeare. Không quá lời khi nói rằng Hola và các ấn phẩm tương tự là những sản phẩm báo chí chân thực nhất của văn minh thị kỹ.

Biến thông tin thành công cụ giải trí là dần dần mở cửa cho tính hợp pháp và trao sự tôn trọng cho những gì, trước đây, ẩn náu trong một loại báo chí bên lề và gần như bí mật: bê bối, sự bội tín, tin đồn, sự xâm phạm quyền riêng tư, trong những trường hợp tồi tệ nhất là phỉ báng, vu khống và bịa đặt.

Bởi vì không có cách nào hiệu quả hơn để giải trí và tiêu khiển cho bằng dung túng những dục vọng thấp hèn. Trong số này, việc tiết lộ sự riêng tư của người khác chiếm một vị trí nổi bật, đặc biệt nếu người đó là một nhân vật của công chúng, nổi tiếng và có uy tín. Đây là một môn thể thao mà báo chí ngày nay thực hành không chút đắn đo, được che chở bởi quyền tự do thông tin và, mặc dù có luật pháp về vấn đề này và đôi khi - hiếm khi - có các vụ kiện và bản án trừng phạt những hành vi thái quá, nó đã thực sự khiến cho, trong thời đại chúng ta, quyền riêng tư biến mất, không một ngóc ngách nào trong cuộc sống của bất kỳ ai xuất hiện trên vũ đài công cộng thoát khỏi việc bị điều tra, tiết lộ và khai thác nhằm thỏa mãn cơn đói giải trí và tiêu khiển vô độ mà các tờ báo, tạp chí và chương trình thông tin buộc phải tính đến nếu muốn tồn tại và không bị loại khỏi thị trường. Để đáp ứng yêu cầu của công chúng, các cơ quan báo chí đã vô tình đóng góp tốt hơn bất kỳ ai vào việc củng cố nền văn minh "light" đó, vốn đã trao cho sự phù phiếm vị trí tối cao trước đây vốn thuộc về các ý tưởng và thành tựu nghệ thuật.

Trong một bài báo gần đây, "Không chút xót thương cho Ingrid hay Clara", Tomás Eloy Martínez đã phẫn nộ trước sự quấy rối mà các nhà báo theo chủ nghĩa giật gân đã gây ra cho Ingrid Betancourt và Clara Rojas, khi họ được giải thoát, sau sáu năm bị FARC bắt cóc trong rừng rậm Colombia, với những câu hỏi tàn nhẫn và ngu ngốc như họ có bị hãm hiếp không, họ có thấy những người bị giam cầm khác bị hãm hiếp không, hoặc - câu hỏi này dành cho Clara Rojas - bà có cố gắng dìm chết đứa con mà bà có với một du kích quân xuống sông không. "Loại báo chí này - Tomás Eloy Martínez viết - vẫn tiếp tục cố gắng biến các nạn nhân thành những mảnh ghép của một cảnh tượng được trình bày như thông tin cần thiết, nhưng chức năng duy nhất của nó là thỏa mãn sự tò mò bệnh hoạn của những người tiêu thụ scandal." Sự phản đối của ông là chính đáng, tất nhiên. Sai lầm của ông là cho rằng "sự tò mò bệnh hoạn của những người tiêu thụ scandal" là tài sản của một thiểu số. Điều đó không đúng: sự tò mò đó gặm nhấm những đám đông rộng lớn mà chúng ta đề cập đến khi nói về "dư luận", cái thiên hướng nói xấu, đáng ghê tởm và phù phiếm đó chính là thứ tạo nên sắc thái văn hóa của thời đại chúng ta và là nhu cầu cấp thiết mà toàn bộ báo chí, ở các mức độ khác nhau và với chuyên môn và hình thức khác nhau, buộc phải đáp ứng, cả loại báo chí được gọi là chất lượng lẫn loại báo chí trắng trợn giật gân.

Một vấn đề khác cũng rất giải trí là thảm họa. Tất cả các loại, từ động đất và sóng thần đến các vụ giết người hàng loạt, đặc biệt là nếu trong đó có các yếu tố của khổ dâm và lệch lạc dục tính. Trong thời đại chúng ta, ngay cả báo chí nghiêm túc nhất cũng không thể tránh khỏi việc không gian của mình bị nhuốm máu, xác chết và những kẻ ấu dâm. Đó là món ăn bệnh hoạn mà cơn thèm giải trí cần và đòi hỏi, cơn thèm đó vô thức gây áp lực lên các phương tiện truyền thông từ phía công chúng đọc, nghe hay xem.

Dĩ nhiên mọi khái quát hóa đều sai. Dĩ nhiên vẫn có sự khác biệt và một số cơ quan báo chí vẫn cố gắng chống lại áp lực của môi trường mà họ hoạt động, không từ bỏ các mô hình cũ về sự nghiêm túc, khách quan, chặt chẽ và trung thành với sự thật, mặc dù điều đó có thể nhàm chán và gây ra ở độc giả và người nghe Cái Ngáp Lớn mà Octavio Paz đã nói đến. Tôi chỉ ra một xu hướng đánh dấu công việc báo chí của thời đại chúng ta mà không phủ nhận rằng có sự khác biệt về tính chuyên nghiệp, ý thức và hành vi đạo đức giữa các cơ quan báo chí khác nhau. Nhưng sự thật đáng buồn là không một tờ báo, tạp chí và chương trình thông tin nào ngày nay có thể tồn tại - tức là, duy trì một lượng công chúng trung thành - nếu nó hoàn toàn không tuân theo các đặc điểm nổi bật của văn hóa thống trị của xã hội và thời đại mà nó hoạt động. Dĩ nhiên, các cơ quan báo chí lớn không phải là những chong chóng đơn thuần quyết định đường lối biên tập, hành vi đạo đức và các ưu tiên thông tin của mình chỉ dựa trên các cuộc thăm dò của các cơ quan về thị hiếu công chúng. Chức năng của chúng cũng là định hướng, tư vấn, giáo dục và làm sáng tỏ những đúng sai, công bằng hay bất công, đẹp đẽ hay đáng tởm trong vòng xoáy chóng mặt của thời sự. Nhưng để chức năng này có thể thực hiện được, cần phải có công chúng. Và cơ quan báo chí nào không hiệp thông trên bàn thờ của diễn cảnh có nguy cơ mất đi công chúng và chỉ nói chuyện với những bóng ma.

Vì vậy, kết luận của tôi là bi quan. Báo chí tự mình không thể thay đổi văn minh thị kỹ, nền văn minh mà nó đã góp phần tạo dựng. Đây là một thực tế đã ăn sâu vào thời đại chúng ta, là giấy khai sinh của các thế hệ mới, một cách sống, một cách tồn tại và có lẽ cả một cách chết của thế giới mà chúng ta, những công dân may mắn của các quốc gia này, những người mà nền dân chủ, tự do, ý tưởng, giá trị, sách, nghệ thuật và văn chương phương Tây đã ban cho đặc ân biến giải trí nhất thời thành khát vọng tối cao và quyền được chiêm ngưỡng với sự hoài nghi và khinh miệt tất cả những gì nhàm chán, đáng lo ngại và nhắc nhở chúng ta rằng cuộc sống không chỉ là niềm vui, mà còn là bi kịch, đau khổ, mịt mù và thất vọng.

Madrid, tháng 9 năm 2008

Bạch Dương dịch từ nguyên tác tiếng Tây Ban Nha

 

thời chúng ta/ tôn sùng sự trung bình

Lý thuyết tầng lớp nhàn rỗi

Các hình thức của kinh nghiệm tôn giáo

Ortega Y Gasset: Sự trỗi dậy của con người nhân quần

Q. D. Leavis: Văn chương hư cấu và công chúng đọc

Báo chí, sự ngu xuẩn và chính trị

Cioran: Một bức thư

Sebald đọc Thomas Bernhard

William Morris: Nghệ thuật và lao động

Roland Barthes: Hạt giọng

Đoản luận về Giáo dục

Allan Bloom: Đóng tinh thần

favorites
Thêm vào giỏ hàng thành công