favorites
Shopping Cart
Search
Vitanova
Prev
Đông 2025
Next

Lại nói về Nguyễn Tuân

14/12/2025 20:20

           Cách đây vài tuần, tôi có nói với một người, rằng tôi không ưa Nguyễn Tuân. Cũng giống Tô Hoài, người kia nhận xét rằng với Nguyễn Tuân, người ta chỉ có thể yêu hoặc ghét, chứ không thể lưng chừng. Anh cũng nói thêm, rằng Nguyễn Tuân là con người có nhiều tầng; rằng tôi đã dại dột khi đọc và nhận xét Nguyễn chỉ dựa trên mỗi tập Vang Bóng Một Thời. Anh khuyên tôi đọc thêm Quê hương, Chiếc Lư Đồng Mắt CuaMột Chuyến Đi - nếu tôi nhớ không nhầm.

Tôi làm theo lời anh; thậm chí còn đi thêm vài dặm nữa. Hư cấu của Nguyễn, tôi đọc thêm Chùa Đàn, tập Nguyễn (Thời Đại in, 1945), cộng thêm các truyện ngắn đăng lẻ tẻ trên báo: Đánh Mất Ví, Gỡ Cái Vạ Vịt, Dĩa Sứ Giang Tây, Mười Năm Trời Mới Gặp Lại Cố Nhân, Thời Sự, Một Người Muốn Đập Vỡ Đàn, Tóc Chị Hoài (không rõ là truyện ngắn hay tuỳ bút). Về mảng phi hư cấu, tôi đã đọc cả hai tập Dầu Lạc. Trước ’45, Nguyễn in hai tập tuỳ bút, đánh số I và II. Tập Tuỳ bút I, tôi chỉ chừa ra ba tuỳ bút, “Một lá thư”, “Một buổi mai đã mất” và “Được ốm”. Tập thứ II, khi trương lực và kiên nhẫn đã hao mòn, tôi bỏ cuộc khi vẫn còn 3 tuỳ bút nữa. Hồi hôm, tôi đã đọc thêm tuỳ bút có phần tai tiếng, Phở. Có một tuỳ bút đăng lẻ khác, tôi đọc lẻ được, và thấy có duyên, mang tên Chảy.

Xin bạn đừng hiểu là tôi khoe sức đọc, bởi nếu có sức, tôi còn phải đọc thêm Sông ĐàHà Nội Đánh Mỹ Giỏi. Tôi liệt kê những tác phẩm của Nguyễn mà mình đã đọc, sở dĩ vì hai lý do. Thứ nhất - và đây là phán đoán chủ quan của tôi - thời kỳ trước ’45 là thời kỳ Nguyễn viết “Nguyễn” nhất, là thời kỳ ông cho ra đời các tác phẩm mà người đời dựa vào để đánh giá ông nhiều nhất. Lẽ nữa, là nếu thấy tác phẩm nào của Nguyễn có thể thay đổi những ý kiến tôi sắp sửa trình bày dưới đây, các bạn đọc hãy cho tôi biết. Tôi sẽ rất sẵn lòng đọc những gì các bạn khuyên đọc thêm.

Đã đọc các tác phẩm nói trên, tôi tự phụ tuyên bố rằng: tôi có thể đứng lưng chừng! Tôi đã ghét Nguyễn; nhưng giờ, tôi không ghét Nguyễn nữa, mặc dù tôi không ái mộ văn chương của Nguyễn. Thái độ này sẽ được tôi làm rõ dưới đây.

Các truyện ngắn đăng lẻ tẻ trên báo của Nguyễn Tuân không có gì đáng nói. Dường như ngày ấy, người ta không có nhiều chủ đề mà khai thác: hoặc là những thói tật thối tha của quan lại từ cao xuống thấp, hoặc là tiểu tư sản và bần nông túng thiếu, hoặc là các truyện Chàng Nàng. (Chính Nguyễn Tuân hình như đã viết các truyện Chàng, Nàng, và tự giễu việc ấy trong một tuỳ bút nào đó.) Tôi thấy các truyện ngắn đăng lẻ này không khác truyện Nguyễn Công Hoan: tuy cho thấy kỹ năng xây dựng câu chuyện có đầu và cuối, nhưng nội dung sáo mòn và châm biếm theo lối “hài Bắc”. Rất có thể Nguyễn không lấy gì làm tự hào về các tác phẩm này.

Nhưng nói chung, các truyện ngắn, dài và tiểu thuyết của Nguyễn đều mắc những lỗi cơ bản của văn học hư cấu. Aristotle đã nhận ra, rằng ở những tác giả non tay, nhân vật và ngôn từ được phát triển và đánh bóng trước, sau đó mới đến cốt truyện. Điều này rất đúng ở Nguyễn. Đại loại, về đường thông tin, người ta rõ ông Huấn Cao, hai ông Đầu Xứ, Bạch và Dung là những người như thế nào. Người ta biết Nguyễn là một lãng tử thích sống không ràng buộc, bị cầm chân thì chán ghét người và đời. Người ta hình dung được chiếc va ly anh cắp theo và tưởng tượng được một chàng trai ngấp nghé trung niên mê nhà trò con hát và uống rượu giỏi. Nhưng mới mường ra chân dung họ, người đọc biết ngay họ sắp sửa được đưa vào một câu chuyện tồi. Người ta biết Huấn Cao sẽ sắm vai kiệt hiệt mất đầu và di ngôn răn đời. Người ta biết tất cả nhân vật quanh Bạch của Quê hương sẽ bị làm cho tầm thường đi, để Bạch được làm một lãng tử vô hạnh (ở nhiều nơi, Nguyễn đặc biệt vội vàng giảng nghĩa từ “vô hạnh” này), để Bạch phong sương từng trải được hiện lên là một nhà lý thuyết phi phàm. Người ta chập chững tưởng tượng ra một Lãnh Út hào hoa giàu có, để rồi phải kiên nhẫn đến cùng với cái cốt truyện “vợ chết → sũng trong tửu sắc bốc giời bệnh hoạn → nhờ một buổi đàn hát tài hoa → hoàn lương về lại cuộc đời”. Ý tôi ở đây, là ý tưởng truyện của Nguyễn không mạnh: “đời loạn thì biết giữ mình”, “nghề chơi cũng lắm công phu”, “đánh cờ phải thế này này”, “pha và thưởng trà phải thế kia cơ”, “vì cái đẹp thoáng chốc, tôi chết bỏ cũng cam” (hãy đọc “Chuyến xe tình”!) và nhất là “khao khát tôi vượt lên cái bình thường, không ai hiểu cả”. Những ý tưởng này, tôi phải gọi chúng bằng tên gì đây? Một số thì sáo bã, một số thì “mới lớn”. (Về “mới lớn”, tôi sẽ nói ở đoạn cuối.)

Vấn đề nhân vật khó mà tách biệt khỏi vấn đề cốt truyện hay ý tưởng, nhưng tôi sẽ cố trình bày thành một ý riêng. Tôi cho rằng tội tình lớn nhất của Nguyễn, là tầm cỡ của nhân vật trong truyện không to lớn được như nhân vật mà Nguyễn tưởng tượng. Nguyễn muốn Bạch là một lãng tử bất cần, “khinh bạc” (theo nghĩa của Vũ Ngọc Phan), rày đây mai đó, lấy cỏ làm chiếu, lấy các tán thông làm màn, v.v. Thế nhưng Bạch của Nguyễn thực ra là một người hay phàn nàn. Bạch ấy vật vã mãi vì thân này “mắc cạn”, vì thấy mình không được vợ(!) và người đời (kiểu ông đại gia Đức Trần!) thấu hiểu. Bạch không phải là nhân vật anh hùng kiểu Byron như Nguyễn hẳn đã muốn. Một anh hùng kiểu này - như Pechorin của Lermontov - là người hoàn toàn mù loà với một số nguyên tắc đạo đức, nhưng hết sức sắc sảo và quyết liệt theo đuổi các nguyên tắc còn lại. Pechorin vô cảm với bạn bè, biết quyến rũ và bội bạc với đàn bà; song chàng là người biết khinh cái thật sự đáng khinh, can đảm trong nguy hiểm, biết tiếp thu tự nhiên và (tôi nói thế được chăng?) biết chung tình. Còn Bạch thì sao? Bạch không mù với một đạo lý nào. Giống Nguyễn của tập truyện cùng tên, Bạch bị tất cả đạo lý ràng buộc. Bạch bị vợ con, bị đạo Hiếu giằng kéo, và Bạch rên xiết dưới những sức kéo và áp lực ấy. Khác với Bạch, nhân vật byronic không bao giờ bị phiền, bởi sự vô cảm đã được tôi luyện đến độ anh ta không cảm thấy ràng buộc đạo lý nào để bị phiền. Nhưng - cũng khác Bạch - anh ta đã vô cảm bao nhiêu, thì cũng theo đuổi say mê bấy nhiêu cuộc đời phiêu lưu và chết bỏ.

Tập Nguyễn cũng cho thấy những triệu chứng này. Trừ hai truyện cuối, còn ở đâu Nguyễn của Nguyễn cũng là một nhân vật đầy tự ái tổn thương. “Cái mặt Nguyễn, cái giọng lưỡi Nguyễn khinh bạc thế kia, đồng tiền nào mà dám tìm đến”, rồi thì “Nguyễn đã phải mang lấy cái nghiệp thanh bạch và về mặt tiền bạc, chàng đành nhường tất cả cái hay ho cho thiên hạ.” Rượu vào không chỉ là dịp cho đại ngôn, mà cho cả hờn dỗi: “Chị phải biết, ở đời có những người chỉ muốn mình khuất nhục trước mặt họ một tị là họ hả hê lắm. Họ cứ lồng lộn tức tối […] chỉ vì cái lẽ là họ thấy mình nghênh ngang không dây dưa gì với họ.” Tủ cà vạt đen có được nhân hoá đến đâu cũng là một bối cảnh quá mỏng; những chiếc cà vạt cũng là thứ vật dụng tầm thường ngay cả với người tầm thường: làm sao Nguyễn Tuân có thể dùng nó mà vẽ ra một Nguyễn lạnh lùng, khinh bạc khi đứng trước lãnh cung vải lụa?

Phải nói, nhân vật Bạch là kiểu lữ khách tồi nhất. Đây là điều chí mạng nhất đối với Quê hương, và hẳn Bạch hiện lên trong độc giả thua rất xa Bạch mà Nguyễn tưởng tượng ra. Tôi có thể nói vậy, bởi các tuỳ bút của Nguyễn cho thấy những người du hành tầm cỡ hơn. Nói Bạch là lữ khách tồi nhất, bởi anh ta hướng vào mình nhiều nhất. Nguyễn có liệt kê - theo cách mà tôi cho là lười biếng - những trải nghiệm và kiến văn của Bạch, hòng vẽ ra một người say tình với những chốn anh qua: nào geisha ở Nhật (có thể dễ đoán hơn không?), nào gái làng chơi bên Thượng Hải, nào thuốc lá sợi, nào tẩu gỗ tẩu đất, nào chiếc va-li sờn. Thế nhưng Nguyễn không đậu lại ở ký ức nào đủ lâu, đủ kỹ, để cho người đọc thấy Bạch yêu những thứ anh ta quan sát - thật khác với chàng Pechorin của Lermontov, với những chấm phá thiên nhiên vùng Kavkaz gây cảm hứng cho hội hoạ về sau! Dục vọng của Bạch là xê dịch, chứ không phải nhân vật mà xê dịch ấy cho anh ta tiếp cận. Anh ta đi để tìm một cảm xúc mình đã có và muốn tiếp tục có, chứ không phải để tiếp thu ngoại vật và cho nó nhào nặn mình. Bạch thích đi để ngắm các bến tàu và hoàng hôn chứ không thực sự tiếp thu bến tàu và hoàng hôn ấy.

Tương tự, Nguyễn của Nguyễn là triết gia tồi tệ nhất. Tôi có nên trích một vài suy nghĩ từ điểm nhìn của anh?

“Mỹ Thuật vốn không là bà con với Luân Lý của thời đại.”

“Cái bắt tay sốt dẻo ấy đã đánh lừa được hết thảy khách qua đường. Người ta gọi xã giao là một nước sơn xì rất loáng.”

“Nguyễn là người sinh ra để mà thờ Nghệ Thuật. Nghệ Thuật với hai chữ hoa. Người ấy quý Nghệ Thuật hơn cả cái thân mình.”

“Những cuộc thí nghiệm thành thực và can đảm [của Nguyễn] thường để lại vô khối là sứt sẹo trên thân hình một cái trí tuệ muốn ngược lại dòng chúng nhân, muốn vượt ra ngoài những khuôn sáo hèn nhát.”

Và còn rất nhiều câu như thế nữa. Những điều này không sai; nhưng nhân vật Nguyễn không có một thời lượng triết luận đủ dày để từ từ dẫn đến những suy nghiệm này. Không phải người đọc không đồng ý; nhưng họ không tin - cũng y như cách họ cười ngượng nghịu khi một đứa bé lớp Sáu nói: “Ngày nay cái gì chả là tiền!”

Tầm cỡ của nhân vật là một điểm yếu trong văn Nguyễn Tuân nói chung. Ở Vang Bóng Một Thời, sự yếu kém này còn rõ hơn. Tôi chưa kịp tin Đầu Xứ Anh và Đầu Xứ Em là hai ông đầu xứ, thậm chí là hai nho sinh triển vọng. Lý do, tôi nghĩ, là vì Nguyễn chỉ ném ra những “từ ngữ chuyên môn” của giới khoa bảng, còn am hiểu về chuyện trường ốc của ông thì thật ra không nhiều; đương nhiên giải thích này có thể sai. Tôi cũng chưa kịp thấy Huấn Cao là người cô cao, anh liệt khí khái thế nào - chỉ có Nguyễn bảo tôi ông ta là người như thế. Nguyễn chưa cho tôi kịp tin vào lời mình kể, thì truyện đã đóng lại với một vẻ đắc chí và những tiếng hoan hô khó hiểu. Phần tôi, không biết nhiều về thư pháp, nhưng tôi đã đọc vài tác phẩm lãng mạn hoá loại người mà dân gian xưa gọi là “kiệt hiệt”. Hãy nghĩ đến Lý Tự Thành hay Chu Nguyên Chương của Kim Dung, hay những vị chưởng môn độc ác nhưng “không để mất phong độ tôn sư một phái” như Tả Lãnh Thiền hay Đồng Mỗ, và thử xét xem họ có hơn Huấn Cao không?

Vì các hero đã như thế, cho nên các nhân vật phụ ở Nguyễn cũng kém. Họ hay bị làm cho phiến diện, bị tác giả cố ý tầm thường hoá, để tôn lên người anh hùng vốn không anh hùng trong tiểu thuyết của ông. Hãy nghĩ đến Dung, đến Phối, đến ông Đức Trần của Quê hương: những nhân vật một màu và tội nghiệp. Tính cách của họ là thứ tính cách dễ đoán nhất, được minh hoạ bằng những tình huống sáo lười nhất. Dung đức hạnh, chiều chồng, thương con - đương nhiên là thế. Và đương nhiên là nàng lấy con ra để giữ chồng, nàng làm việc nhà, nấu nướng ngon lành, nàng giữ chàng bằng những câu trách gần trách xa, những lời doạ xa doạ gần mà chúng ta thường nghe anh em khoái trá kể khi ngồi ở hàng nước hay trên chiếu rượu. Phối, với việc đi xa thì chỉ như trinh nữ, với lễ số trên giang hồ thì chỉ như con đười ươi chưa học phép tắc con người. Một Phối tiện lợi cho Bạch, và cũng chí mạng cho cái già đời của Bạch vậy? Còn ông Đức Trần, vị thương gia béo tốt đáng tội ấy: Nguyễn đã quên rồi sao, rằng phiêu lưu nhất trong lịch sử loài người là lính tráng, thuỷ thủ và các thương gia nửa nhà buôn nửa ăn cướp?

Có chỗ mà đổ bể của ý tưởng và của nhân vật thực ra là một. Chính là ở Chiếc lư đồng, một truyện dài khi mới đọc tôi khá thích, mà tai ương này đã xảy ra. Một khởi đầu chậm rãi, một nhân vật “tôi” hiện ra, chứ không phải là Nguyễn với cái mặt mà Trường Chinh cũng thấy là to. Chuyến tàu vào Vinh và cuộc phùng trường tác hý ở đó nghe vẫn ổn. Những chuyện ăn chơi trác táng ở nhà ông bà Thông Phu rất có hình thù câu chuyện. Thế nhưng đổ vỡ xảy ra ở cuối, nơi Nguyễn không biết tống khứ ông Thông Phu theo cách nào. Và, theo một lối rất Nguyễn Tuân, ông Thông Phu đột ngột được gán cho một cái tài khác: tài đánh cờ. Tài này được thêm vào một cách gượng gạo và ad hoc vô cùng, bởi tác giả muốn (1) ông Thông Phu phải là người của các thứ tài và (2) ông ta phải chết trong lúc thi triển một cái tài trong số đó. Vậy là ông Thông Phu ngã bệnh theo cách vụng về và hấp tấp nhất, đến nỗi bao nhiêu mỹ từ tác giả vồn vã gán cho ông để lột tả cái tài cờ của ông, cũng không cứu được câu chuyện.

Có lẽ ông Thông Phu là nhân vật có thật, bởi Nguyễn có nhắc tới ông này và quê của ông trong một tuỳ bút ghi lại chuyến về chơi Thanh Hoá. Có lẽ ông Thông Phu thật có tài “kỳ”, thật đã đột quỵ trong một trận cờ người mà ông là kẻ thất cơ trước đôi môi dè bỉu và ánh mắt xấc xược của đối thủ. Nhưng tài cờ của ông và cuộc cờ định mệnh nọ là chi tiết then chốt; vì vậy “cờ” phải là một chủ đề được khởi đầu và phát triển ngay từ đầu, lúc ông Thông Phu mới bước lên sân khấu của Chiếc Lư Đồng. Nguyễn có thể đã quên nói toàn bộ sự thật từ đầu, cho nên người đọc không thể tin những thêm thắt sau này nữa.

Ở đây, tôi muốn nói hai điều về cách dựng truyện. Tôi xin nói với tâm thế dịu dàng và khiêm ti nhất, bởi đây không phải là phát hiện của tôi. Phát hiện đã được những người tài giỏi hơn đúc kết và áp dụng.

Cách dựng truyện của Nguyễn, thật là ngược lại hẳn với một nhà văn mà tôi tuy không thích nhưng rất khâm phục: Yasunari Kawabata. Có bao giờ văn hào này thông báo tính cách nhân vật cho chúng ta, theo kiểu “Bá Nhỡ là…”, “Bạch xem mình là…”, “Phối là người chưa…”? Không; với mỗi chủ đề hay tính nết nhân vật, ông kể một câu chuyện tuyệt vời để kêu tên nó. Chủ đề là “cô gái bị theo dõi đã thích kẻ bám theo”; thay vì phát biểu điều này, ông đã kể một câu chuyện xuất sắc trong chương Một. Còn gì thuyết phục hơn, khi Hisako giả vờ tin vào lời xàm của thầy Gimpei, và mang cho thầy một lọ thuốc bôi chân mà cô biết thầy không hề cần đến? Một bên là gầm thét hoặc lải nhải một điều gì đó để người ta tin; bên kia, là cho người ta một myth, một câu chuyện xuất sắc mà từ đó người ta dùng để đặt tên cho thứ trước nay chưa có tên.

Điều thứ hai, ấy là cách chọn chi tiết quyết định, chi tiết bản lề của câu chuyện. Ở “Chữ người tử tù”, thì đó là con chữ. Ở Chùa Đàn, đó là tiếng đàn và tiếng hát của Bá Nhỡ và cô Tơ. Nguyễn đã không khôn ngoan khi chọn những chi tiết này làm then chốt: con chữ là đối tượng của thị giác, còn đàn hát là đối tượng chủ yếu của thính giác, cho nên chúng không thể nào bừng lên trong tưởng tượng ở một nhiệt độ đủ cao để xứng tầm chi tiết then chốt. Tả thiên nhiên diêm dúa vốn là lỗi nhiều người mắc; Milton đã quá rậm rạp trong Chương Bốn của Paradise Lost, còn các nhà văn nhà thơ lãng mạn thì thôi, khỏi bàn: tại sao họ không thôi luyên thuyên về cỏ cây mây trời vậy? Chúng ta đều biết Turgenev đã mạo hiểm thế nào khi ký lại cuộc thi hát giữa hai người đàn ông trong quán rượu. Nguyễn vẫn có thể thành công, hoặc thất bại của ông dễ tha thứ hơn, nếu ông khôn ngoan hơn trong miêu tả con chữ và âm thanh. (Về âm thanh, tôi sẽ lại nói ở cuối.)

Tôi đã nói xong về truyện. Giờ tôi nói về phi hư cấu. Wikipedia - nói theo ai không rõ - cho biết Nguyễn Tuân sở trường tuỳ bút và ký sự, và quả thật như thế. Đọc tuỳ bút của Nguyễn, tôi thấy là cả một trải nghiệm khác. Vì phóng sự và ký sự của Nguyễn cũng như tuỳ bút vậy, tôi sẽ chỉ gọi chúng bằng tên ấy.

Hai tập Ngọn ĐènTàn Đèn khiến tôi ngỡ tôi đang đọc ông Nguyễn nào, chứ không phải ông Nguyễn Tuân. Đã không còn diêm dúa những mỹ từ, những diễn đạt điệu đà. Đã không còn những câu đùa vô duyên. Đã tắt hẳn những khoe khoang kênh kiệu. Đã không còn Nguyễn Tuân, mà thật chỉ có “nhân vật tôi”. Gần như thiên nào trong hai tập này, cũng là một câu chuyện hoàn chỉnh. Dấu hiệu nhận biết sự hoàn chỉnh đó, là ta không còn hỏi “Đây là phích hay non-phích đây?” Sao cũng được - cũng như Paradise Lost là thần học hay tiểu thuyết hay kịch cũng được tuốt.

Một khi câu chuyện đã hoàn chỉnh, những thiện lành khác cũng đi theo. Có ai không tưởng tượng ra được ông Ba Quynh cáu ghét, tróc lở, cầm dọc tẩu chạy khắp băm sáu phố? Có ai không tức cười anh chàng Lưu Thần “mặc quần cụt, múa dọc tẩu, hát nghêu ngao với hai người lạ mặt”, dối bạn trốn vợ, nhảy xe ngược lên Hà Nội để ăn nằm trong tiệm? Có ai không ớn lạnh vị tiên sinh “phi yến thu lâm”, ăn bám, bòn rút từ bà vợ hộ sinh tiền trà thuốc, vừa kiêu căng mà vừa nhục nhã? Có ai cả đời mình không nhớ các sư thầy trên Yên Tử, ăn thuốc, nấu thuốc, bán hoa quả và cả thuốc phiện để “cải thiện”? Có ai không ngấm lại lần nữa cái câu “con nghiện trình bày”, khi đọc đến anh bẹp khoát luận trên một Thiên Hương Các nhớp nháp dưới Hoàng Mai?

Đã có câu chuyện hay, nhân vật tốt, lại có duyên trong diễn đạt nữa. “Tôi đã nói xấu Ả Phiền. Sự cắn nhau đau đã thay cho sự yêu nhau lắm”, “Tôi nằm còng queo như một con tôm rang”, “mưa không hạ hồi phân dải, mưa như đái một cách rất liên miên”. Ngôn ngữ không còn bị dùng làm thứ khoe khoang nữa; nó là phương tiện để kể chuyện, và nó thành công vì nó đốt bừng những hình dung mà tác giả muốn, trong tâm trí người đọc.

Và rất may, là khi khoe - ở truyện về ông Ba Quynh, một ông nghiện chấm chiếu sắp khai trương tiệm hút - tác giả đã khoe đúng chỗ, và chỉ thiếu chút nữa là quá mức mà thôi. Ông đã có dịp thao thao về các loại điếu, các kiến thức thị trường cần có khi mở tiệm, về việc pha trà hãm thuốc. Chính là ở đây, chứ không phải ở Vang bóng, mà Nguyễn đã biết khoe cho ăn vào câu chuyện, như Kim Dung đã khoe hiểu biết về hoa sơn trà qua anh đồ gàn Đoàn Dự, về rượu và chén uống qua lời Tổ Thiên Thu. Nguyễn như người thợ đã biết đúc ghế nhựa hoàn chỉnh, chứ không còn là anh thợ hàn, đắp những miếng nhựa nham nhở vào cái ghế gãy nữa.

Hai tập tuỳ bút I và II không đều tay như hai tập về những trò ăn hút. Thú thực, tôi không quý trọng chúng bằng hai tập sách bị dễ bị cho là tiếu lâm kia. Đọc các tuỳ bút ấy, tôi không hẳn có nhiều hăm hở đi tiếp như khi đọc Ngọn đèn Tàn đèn. Chúng không hay, mà cũng không dở. Điều tích cực, là tôi đã thấy một Nguyễn Tuân có tài thật, có lao động lương thiện, chứ không - xin lỗi cho một lời nói nặng - bịp bợm như trong các truyện ngắn dài và tiểu thuyết của ông.

Tập Một chuyến đi thậm chí còn có đoạn cho thấy Nguyễn là người có tài “chứng minh, chứ đừng khẳng định”. Ấy là tuỳ bút “Một ngày một đêm cuối năm”. Trước và sau đó, Nguyễn đã không biết bao nhiêu lần than thở nhớ nhà, nhớ Tết quê hương, loay hoay trong buồn chán và túng thiếu của cái cảnh “vẽ mặt, nhảy nhót, làm trò” ở xứ người. Nhưng thử hỏi bao lời than van, bao ví von về nỗi thương nhớ và cám cảnh, có tài tình được cho bằng hai, ba trang giấy tả Hương Cảng đỏ thắm và tấp nập ngày cuối năm, cho bằng cảnh túi nhẵn, một mình xô đẩy và bị xô đẩy, chen chúc giữa một biển người xa lạ, cho bằng rưng rưng “tôi tưởng như đang đứng ở phố Hàng Bồ, Hà Nội, cách đây hơn hai chục năm, để nghe tiếng pháo hiệu Khách đóng cửa đốt pháo ăn tết, để dứt tiếng pháo là lăn xả vào mà nhặt những quả pháo tắt ngòi không nổ…” Có gì sublime cho bằng một ý thức tí hon, bị xô đẩy, hầu như bị giày đạp, bởi một vô biên xa lạ, có ý thức mà cũng như vô ý thức? Đó là lần đầu tiên tôi tin Nguyễn buồn khi Nguyễn nói Nguyễn buồn.

Phải nói là tôi cũng quý Cửa Đại của Nguyễn; nhưng đó là vì tôi yêu đất Quảng, và cũng lưu luyến với đất đai, biển cả và giọng nói của nó như Nguyễn lưu luyến vậy.

Là khen hay chê, nếu tôi nói rằng các triết lý của Nguyễn - nếu gạt đi những câu nông choèn, chỉ giữ lại những nghiền ngẫm về thiên nhiên - nghe rất giống một nhân vật khác mà tôi có chút dính líu: Thoreau? Đọc Quê hương, tôi thấy Nguyễn (qua Bạch) còn thua Thoreau, vì ít nhất người Mỹ kia còn biết say sưa với một thứ ở bên ngoài mình. Nhưng các tuỳ bút của Nguyễn đã giúp tôi dễ chịu hơn, dịu dàng hơn với Nguyễn. Những câu “Lấy lòng mình ra làm mực mà viết vào đá bên đường và bọt sóng bể không là đủ rồi hay sao mà lại còn phải dùng đến bút giấy nữa” hay “Tôi sống với ngoài dường, với những người đi trên đường, với luân lý của người bộ hành”: trời đất, những câu như thế này nhiều lắm, và chúng chẳng nghe như từ môi miếng Thoreau đó ư? Còn lời tâm sự về chuyện sống đêm của Nguyễn (trong Chiếc lư đồng, cái tác phẩm suýt hay ấy) đã kỹ càng và lắng đọng đến tầm của Charles Lamb. Quả thật đây là con người chỉ thuận tay khi viết tiểu luận, hoặc những gì lấy thẳng từ đời sống của anh ta.

Giờ tôi xin nói chút gì đó về tầm vóc của Nguyễn Tuân. Từ đoạn này trở đi, những điều tôi nói sẽ hơi có hướng “luận anh hùng”. Nhưng tôi sẽ cố đưa ra bằng chứng hay lý do ở nơi có thể đưa ra những thứ ấy.

Nguyễn thường được nói là nhà văn “tài hoa”. Tôi biết ông Vũ Ngọc Phan đã nói điều này về Nguyễn, và chắc là nhiều người cũng nhận như vậy. Tôi thấy Nguyễn có tài, nhưng không phải là người tài hoa. Tài hoa, theo tôi, không phải là sử dụng thứ ngôn ngữ trau chuốt và điệu đà. “Trau chuốt”, “điều đà” chỉ là tuỳ thể, có thể có, cũng có thể không, chứ không tham gia vào định nghĩa của tài hoa. Tài hoa là sử dụng bất kỳ thứ ngôn ngữ nào để tạo ra một đối tượng đẹp trong tưởng tượng người đọc. Trong men rượu của một bữa giỗ, “Lạp thấy trong mình dâng lên một nỗi buồn dịu dàng”: câu ấy của Tô Hoài là một biểu hiện của tài hoa. “Nhưng mà mặt trăng lên, mặt trăng rằm vành vạnh. Và ánh trăng chảy trên đường trắng tinh”: ai đã ở nông thôn hay tỉnh lẻ và đã nhìn thấy trăng đêm, chắc chắn phải nhận câu ấy là tài hoa. “Mỗi mùa xuân én mở thêm vòng lượn/có một người con gái bỗng thành em” là tài hoa. “Thơ mây dìu tóc rối/trôi theo mười chín năm” là tài hoa. “Vườn ai mướt quá, xanh như ngọc” - ai đã nhìn thấy một khu vườn rực sáng trong nắng chiều ở đất Phú Yên, ắt thấy câu ấy là tài hoa. Kể cả “rừng cọ đồi chè, đồng xanh ngào ngạt”, xét cả hình ảnh lẫn nhạc tính của nó, không thể không cho là tài hoa!

Có hai hệ quả từ quan niệm này của tôi. Một, nếu ta cho Nguyễn là tài hoa - và quả thật Nguyễn có nhiều diễn đạt sáng bừng - thì cũng phải nhận rất nhiều cây viết khác là tài hoa, dù họ vốn không được xem như vậy. Người ta sẵn sàng cho Tô Hoài là tài hoa không? Tố Hữu, người có nhiều diễn đạt đẹp mà ngày nay người ta ít nói đến rồi, có phải người tài hoa như Nguyễn? Và rồi Nguyễn Bính của “hoa xoan đã nát dưới chân giày”, của “hoa xoan nở, xác con ve hoàn hồn!” cũng nhất định là người tài hoa! Đương nhiên, “tài hoa” tức là phải sản xuất được nhiều và đều tay những diễn đạt như trên. Nhưng nếu thế, thì sao nói được Nguyễn có nhiều diễn đạt như vậy hơn ai? Đó là chưa kể rất nhiều diễn đạt mang tính then chốt của Nguyễn, chỉ là những diễn đạt giả-tài hoa. Ta hãy so sánh hai đoạn sau; xin lưu ý, cô Tơ là ca nhi:

“Tiếng hát đã sưa làn rồi khê và mực hát đã có chỗ bửng. Cả hát cả đàn đang dắt tay nhau sa lầy trên cái mênh mông bùn sũng ngào vỏ ốc, mờ rộng xanh lơ ngút chân trời. Cô Tơ rùng mình. Hình như đây là pháp trường đang có những tiếng mớm chiêng đồng. Như ăn phải bát cháo lú bên sông Hắc Thuỷ, Cô mê thiếp đi. Tiếng hát méo dần.”

Giờ bạn hãy đọc đoạn dưới đây:

“Vậy là, tay chủ thầu bước lên phía trước, lim dim mắt và cất lên giọng kim cao vút. Giọng anh ta khá dễ ưa và ngọt ngào, tuy có hơi rè. Anh ta hát và lượn giọng như quất một con quay, không ngừng lướt từ giọng cao xuống giọng thấp và không ngừng trở lại những nốt cao mà anh duy trì và ngân dài với vẻ cố gắng đặc biệt.”

Đoạn trên, trích từ Chùa Đàn, đã bão hoà mỹ từ. Tiếng hát vốn là thứ khó tả bằng từ ngữ; nay nó bị làm cho rối rắm hơn vì những phép ví von. Tôi đọc mà không hiểu gì hết. Nhưng đến đoạn thứ hai, lấy từ “Những người hát hay” của Turgenev, chúng ta thấy khác hẳn. Chính một tiếng hát đẹp lại cần những ngôn từ dung dị nhất, chỉ đủ để gợi ra tiếng hát ấy. Nhà văn thứ nhất đã thay tiếng hát đẹp bằng những ngôn từ chập choả, hoa mắt và điếc tai; còn nhà văn thứ hai đã dùng từ sao cho ngôn từ biến đi, chỉ còn lại tiếng hát đẹp. Chúng ta kết luận rằng Turgenev đã tài hoa, còn Nguyễn Tuân thì không. Những lỗi như thế này ở Nguyễn rất nhiều, nhưng tôi không cần trích thêm, bởi bạn đọc đã hiểu.

Hệ quả thứ hai, tôi đã trót nói rồi. Cái mà ông Vũ Ngọc Phan gọi là “giọng tài hoa”, thì ra không phải là tài hoa. Cái đẹp phải nằm ở cái được tưởng tượng ra - giọng hát, mái tóc, cô gái mới lớn, một nỗi buồn - chứ không phải ngôn ngữ được dùng để sản xuất ra nó. Người ta hay nói Yasunari là một nhà văn giỏi tạo ra cái đẹp: nhưng thử hỏi rằng ông có bao giờ dùng thứ ngôn ngữ mà ông Vũ sẽ gọi là “tài hoa”? Tôi không biết tiếng Nhật, nhưng tôi nói rất cứng: Không! Những cấu trúc mà Yasunari phóng lên tấm màn tưởng tượng chúng ta mới thật là đẹp, trong khi ngôn ngữ mà ông dùng để thổi bừng nó lên, là thứ ngôn ngữ dung dị nhất, đơn sơ nhất, ít khoe mình nhất. Và cũng vì thế, mà chính những người thích “giọng tài hoa” lại là những độc giả không trân trọng sự tài hoa. Vì rằng - như C. S. Lewis đã nói - họ là những người buôn văn bán chữ, họ không thực sự đi theo tưởng tượng mà con chữ sai khiến, họ đánh giá hiệu quả của nó dựa trên âm thanh trống rỗng mà nó tạo ra. Gặp những mô tả mù đặc, họ không mảy may buồn bực; gặp những mô tả đơn sơ nhưng có sức thổi bừng trí tưởng tượng, họ không tưởng tượng theo và không trân trọng những mô tả đó. Họ không liên kết được con quay của Turgenev với giọng hát luyến trầm luyến bổng (chắc hơi giống tiếng ca anh chàng Lê Bảo Bình?); họ thoả mãn mà đi ngủ với “cái mênh mông bùn sũng ngào vỏ ốc” của Nguyễn Tuân.

Từ những lời phê của ông Vũ, và từ chia sẻ của người mà tôi đã trò chuyện trên kia, tôi có thể tạm đoán vì sao Nguyễn viết như chàng đã viết. Hai tập Ngọn đènTàn đèn chỉ nhận được vài lời nhận xét qua loa từ ông Vũ. Ông Nguyễn Đăng Mạnh không có gì nhiều để nói về chúng: điều ấy đã đành. Vang bóng, Quê hương Nguyễn (trừ hai truyện cuối trong tập ấy) và Chùa Đàn, hay những đoạn cao đàm khoát luận về thú chơi phong nhã trên hẳn bọn tầm thường trong Chiếc lư đồng: đây mới là thứ cho Nguyễn sự chú ý, những lời ngợi khen và ngân lượng. Độc giả (có nói quá nếu tôi nói đây là độc giả Bắc Kỳ?) thích những thú chơi sang, thứ thái độ kiêu bạc và lối thưởng thức đời sống “có văn hoá” mà các tác phẩm này đại diện. Có độc giả Hà Nội nào, để cho ngầu, đã không từng hút thuốc lá sợi thay cho thuốc điếu; hay mua sách, nhất là sách cũ, về bày và “chơi” nhiều hơn là đọc; hay tha về những thứ ấm đất có linh khí đặc biệt; hay chơi các thứ xe máy, xe đạp, cà vạt, đá quý đắt tiền; hay tự hào có một tổ phụ đã từng làm quan, từng đỗ đạt, hoặc từng giàu có đến bạc vạn, chơi đủ món yên hoa trà tửu trên đời? Nếu các bạn là một trong số ấy - tôi đây nhận là tôi đã từng - thì Nguyễn đã viết các tác phẩm này cho các bạn đấy! Còn như Ngọn đèn Tàn đèn, người đọc lại dễ xem nó là tầm phào, tiếu lâm, thậm chí có hại cho đạo đức. Đến đây, chắc tôi phải nhắc Nguyễn bằng một câu mà chính Nguyễn đã dùng để tự răn: “Nghĩ đến mà rùng mình cho nhân phẩm”!

Về tầm vóc của Nguyễn, tôi còn một điều chưa nói. Ấy là hai chữ “mới lớn” mà tôi đã buông ở trên kia. Aristotle chắc sẽ coi di sản văn học hư cấu của Nguyễn là non tay, mới vào nghề. Tôi nghĩ “mới lớn” là từ thích hợp nhất cho kỹ thuật và cả cái nhân sinh quan mà Nguyễn để lại cho chúng ta. Sự mới lớn này rõ rệt nhất ở Quê hương và tập Nguyễn. Hero là ai? Là người muốn tỏ ra trải đời và đôi lần vỡ mộng. Anh ta luôn khẳng định sự khác biệt giữa mình với số đông kém biết hoặc một hạ cấp nào đó. Tôi sẽ không sống yên ổn bên vợ con như bao người. Công việc này, do một đại thương gia mời làm, đáng nhẽ người thường sẽ nhảy vào, còn lãng tử như tôi thì quyết không. Tiếng đàn này, chỉ X là hiểu. Món đồ cổ này, chỉ Y là biết giá trị đích thực. Nét chữ này, đố những phường tục tử biết quý! Thứ văn này chỉ những người Z mới đọc được, còn thì… Các bạn hãy xem mở đầu của “Tiệm thuốc văn chương” trong tập Tàn đèn mà tôi đã khen, sẽ thấy rõ.

Đây, cái tâm lý thích làm người lớn, người già đời, người hùng này, tôi gọi là tâm lý mới lớn. Bởi có gì trẻ con cho bằng giả vờ làm người lớn và làm việc lớn! Tai hại thay, thói này cũng len vào các tuỳ bút của Nguyễn - nhất là cái lúc người ta ở dưới kia đang nôn thốc nôn tháo, còn Nguyễn trên boong đang còn bận say rượu giang hồ! (Xem Một chuyến đi). Nó đôi khi còn biến Nguyễn thành nạn nhân của chính mình: chính thói phờ phỉnh làm màu và giả vờ lúc nào cũng làm Đại Sự đã khiến Nguyễn lầm tưởng nhà sản xuất phim rõ ràng vô tích sự Hàn Vị Lê là một nghệ sĩ đang trong quá trình làm nên nghệ phẩm đích thực. Nhưng con nít vẫn là con nít. Các nhân vật trượng phu hay phong nhã của Nguyễn không bao giờ chứng tỏ được tầm cỡ của họ. Họ phong nhã và trượng phu vì tác giả nói thế, và chỉ vì họ khinh thường những kẻ họ cho là tục tĩu.

Bạn đọc chắc còn biết nhiều lý do hơn tôi vì sao người đọc hoặc yêu, hoặc ghét Nguyễn đến tận cùng. Trong đám người yêu Nguyễn, chắc cũng có nhiều nhóm. Nhóm yêu Nguyễn vì nhờ ông họ được sống gửi cái đời phong nhã hào hoa, cái đời lãng tử vô hạnh, ngông nghênh xê dịch: nhóm người này, thôi không cần bàn đến. Tôi tin có người vừa thích cái hào quang ấy, nhưng đồng thời cũng trân trọng tài năng có thật của Nguyễn. Nhưng tôi không chắc có ai yêu Nguyễn chỉ vì những tài năng có thật. Vì rằng những tài năng thực chất của Nguyễn - những truyện hài hước tầm phào, những lời tâm sự không làm bộ làm tịch, những bài tả cánh sống động, những phút say sưa cất bước du hành - tuy có, nhưng chưa thể đưa Nguyễn lên một tầm chót vót, đủ cao để ai yêu. Nhưng trân trọng thì chắc chắn có!

Hỡi các bạn ghét Nguyễn Tuân: tôi cũng từng là một trong số các bạn. Tôi rất thông cảm. Tôi thông cảm với những bạn ghét cái mũi to tướng của Nguyễn, hiển hiện trên những trang của tập Vang bóng hay Nguyễn, thậm chí Quê hương; trên những câu văn được tung hô là “khinh bạc” nhưng thực chất chỉ là những câu “tưởng mình hay”, rất vô duyên và vô vị. Tôi thông cảm với bất kỳ ai ghét những người yêu Nguyễn theo lối mà tôi đã thôi không bàn đến nữa. Nhưng tôi muốn nói, rằng Nguyễn không chỉ là Nguyễn cảnh vẻ, “kênh kiệu vờ để hách lác thật”. Nguyễn cũng có thể rất nhẫn nại viết hai, ba trang giấy chỉ tả cảnh cuối năm ở phố Tàu để nói lên nỗi niềm có thật trong lòng. Nguyễn có thể lê la ở các tiệm hút, các chùa hút chiền hút tận Quảng Ninh xa xôi, để quên đi những dục vọng bản thân, hoá thân thành một “tôi” khác, mà soạn ra hai tập Ngọn đèn Tàn đèn được tôi xem là để đời.

Nguyễn Công Nam

 

Về Trên và Dưới trong truyện

Về Địa đàng đã mất

favorites
Thêm vào giỏ hàng thành công