Joseph Conrad: Chuyện kể
The tale (1917) thuộc đoạn cuối của Conrad, một trong những truyện thực sự kỳ diệu, nói rõ nhất về văn chương ấy (một bình luận tương đối sáng sủa của Ford Madox Ford). Nền tảng của nó là đạo đức, nhưng là đạo đức gắn với cảm giác mãnh liệt về tội lỗi và bổn phận. Một nhân vật như Graham Greene hẳn sẽ thấy hết sức gần gũi với câu chuyện về những kiểm tra và tàu chiến ở đây - chính Greene cũng từng có trường đoạn tương tự trong Vấn đề là ở chỗ (The heart of the matter, 1948).
Chuyện kể
- Joseph Conrad
Bên ngoài cửa sổ đơn lồng lộng, bóng chiều chạng vạng đang từ từ lịm tắt thành một vùng sáng vuông vô sắc, được viền cứng nhắc bởi những bóng tối đang hội lại trong phòng.
Một căn phòng dài. Ngọn thủy triều mê đắm giữa màn đêm như ùa về góc xa xôi u tịch nhất của nó, nơi tiếng thì thầm của một người đàn ông bỗng bị ngắt thật mãnh liệt để rồi lại cất lên mãnh liệt, dường như đang khẩn khoản đối trước những thì thào hồi đáp của một nỗi buồn miên viễn.
Đến cuối cùng, chẳng có thì thầm hồi vọng nào vang lên. Người đàn ông từ từ quỳ gối đứng dậy bên chiếc ghế dài chìm trong âm u thăm thẳm, tựa trên đó là bóng dáng hư huyền của một người đàn bà đang ngả lưng, và từ chuyển động ấy của hắn hiện lên một vóc dáng cao lớn dưới nền trần ẩm thấp cùng một vẻ u ám thăm thẳm chỉ trừ cái cổ áo trắng nom thật lạc khi đặt dưới cái đầu và tia sáng yếu ớt khẽ loé lên từ những chiếc cúc đồng trên bộ quân phục.
Hắn đứng bên nàng một thoáng, đàn ông và thâm trầm trong sự bất động tuyệt đối, để rồi lại đặt mình xuống một cái ghế gần bên. Hắn chỉ có thể trông thấy dáng trái xoan mờ nhoà của gương mặt nàng bấy giờ đang ngước lên, trông thấy đôi bàn tay phai sắc trải trên nền váy đen tuyền - chỉ một khoảnh khắc trước còn đê mê trong những nụ hôn của hắn mà giờ như thể đã quá mỏi mệt để cựa mình.
Hắn lặng thinh, chẳng dám khuấy động không gian và thu mình như đàn ông vẫn thường làm trước những đòi hỏi tầm thường của cuộc sống. Như thường lệ, phụ nữ mới là kẻ bạo. Giọng nói nàng cất lên - vẫn như thường - trong khi toàn thân rung lên bởi những cảm xúc đối nghịch.
"Nói điều gì với em đi", nàng bảo.
Bóng tối đã che lấp vẻ ngạc nhiên và tiếp sau là nụ cười của hắn. Không phải hắn vừa nói với nàng mọi điều đáng nói trên đời sao - và đó chẳng phải lần đầu!
"Tôi phải nói gì với em đây?" người đàn ông cất tiếng hỏi với giọng ôi sao mà điềm tĩnh! Hắn bắt đầu cảm thấy biết ơn bởi điều gì đó dứt khoát trong giọng nàng khi ấy đã làm dịu đi không khí căng thẳng.
"Sao anh không kể cho em một câu chuyện?"
"Một câu chuyện ư!" Hắn thực sự kinh ngạc.
"Phải. Tại sao không?"
Tiếng nói thoáng hờn trách dịu dàng, với nỗi thất thường của một người phụ nữ được yêu chiều, mà sự thất thường ấy chỉ tồn tại vì nàng ý thức rằng mong cầu của mình là luật - có thể khiến đối phương bối rối, nhưng chẳng thể chối từ.
"Tại sao không?" hắn lặp lại nàng, giọng hơi chế giễu như thể nàng vừa bắt hắn hái trăng cho nàng vậy. Nhưng lúc này hắn không khỏi cảm thấy thoáng bực với sự trơn tuột của nàng - cái khả năng lẩn khỏi một cảm xúc cũng dễ dàng như tuột khỏi một bộ váy lộng lẫy.
Hắn nghe nàng cất tiếng, hơi ngập ngừng rung động, khiến hắn đột nhiên mường tượng đường bay của một con bướm:
“Anh từng kể em nghe… những chuyện đơn giản… chuyện nghề của anh hấp dẫn vô cùng. Hay anh đã kể đủ hấp dẫn để em phải chú tâm. Anh mang trong mình một… một nghệ thuật nào đó ngày xưa ấy… những ngày trước chiến tranh.”
“Thật ư?” hắn đáp, vẻ u ám không kìm được. “Nhưng giờ, em thấy đấy, chiến tranh đang diễn ra,” hắn tiếp tục, giọng vô hồn bình thản đến nỗi nàng thấy rợn. Nhưng nàng vẫn kiên trì. Bởi không gì trên thế gian này kiên định hơn sự thất thường của một người phụ nữ.
“Anh có thể kể một câu chuyện không phải của thế giới này,” nàng giải thích.
“Em muốn câu chuyện về một thế giới khác, một thế giới tốt đẹp hơn sao?”, hắn hỏi, với vẻ ngạc nhiên bình thản. “Thế thì em hãy nhờ những kẻ từng thực sự đến đó.”
“Không. Ý em không phải thế. Ý em là… một thế giới nào đó khác. Trong vũ trụ bao la này… chứ không phải trên thiên đường.”
“Vậy thì anh nhẹ nhõm hơn rồi. Nhưng em quên rằng anh chỉ được nghỉ phép năm ngày sao?”
“Vâng. Và em cũng đã tự cho mình năm ngày nghỉ… khỏi những bổn phận của em.”
“Anh thích cái từ đó.”
“Từ gì?”
“Bổn phận.”
“Nó thật kinh khủng, đôi khi.”
“Ồ, đó là vì em nghĩ nó hẹp. Nhưng đâu phải vậy. Nó bao hàm muôn trùng vô tận, và… và cả…”
“Lại những từ gì thế này?”
Hắn lờ đi lời chen ngang khinh bỉ ấy. “Chẳng hạn sự vô tận của xá tội,” hắn lại tiếp tục. “Nhưng ở cái thế giới bên kia ấy - ai sẽ là người đi tìm và kể câu chuyện về nó đây?”
“Anh chứ ai,” nàng nói, với một sự dịu dàng cả quyết lạ lùng, gần như thô rắn.
Ngồi trên ghế, người đàn ông khẽ cựa một cử chỉ tán thành mà cả bóng đêm đặc lại cũng chẳng che được vẻ mỉa mai.
“Tùy em thôi. Ở thế giới xa xôi đó, ngày xửa ngày xưa có một Sĩ quan chỉ huy và một Người phương Bắc. Làm ơn hiểu những từ này được viết hoa, vì họ không có cái tên nào khác. Đó là thế giới của muôn trùng biển cả, lục địa và đảo…”
“Giống như trái đất,” nàng lầm bầm chua chát.
“Đúng rồi. Em mong đợi điều gì khi đẩy một người trần mắt thịt, được tạo hoá vò nặn nên từ thứ đất sét quằn quại thông thường vào một hành trình thám hiểm cơ chứ? Con người đó có thể khám phá ra điều gì hơn? Em có thể hiểu, quan tâm hay cảm nhận được sự hiện diện của điều gì hơn? Trong đó có hài kịch, và cả giết chóc.”
“Vẫn luôn giống địa cầu chúng ta,” nàng thì thào. “Luôn luôn. Và anh chỉ có thể tìm thấy trong vũ trụ bao la những gì đã bám rễ nơi từng thớ bản thể thẳm sâu trong anh, nên cũng có chút gì tình yêu tồn tại. Nhưng chúng ta sẽ không huyên thuyên về điều đó.”
“Phải. Chúng ta sẽ không bàn đến điều ấy,” nàng đáp, giọng trung tính che giấu cảm giác nhẹ nhõm - hay có lẽ là thất vọng. Sau một hồi lặng im, nàng tiếp: “Hẳn đó sẽ là một câu chuyện hài.”
“À…” hắn cũng đột ngột lặng thinh. “Đúng vậy. Hài hước theo một cách nào đó. Một cách hết sức nghiệt ngã. Nó sẽ là một câu chuyện con người, và như em biết đấy, hài kịch chỉ là vấn đề của góc nhìn. Và sẽ không phải là một câu chuyện ồn ào. Tất cả những khẩu pháo dài trong đó sẽ im lìm… im lìm như bao ống kính thiên văn.”
“À, vậy là có pháo trong đó! Em có thể hỏi… là chúng ở đâu không?”
“Trên biển. Em còn nhớ thế giới mà ta đang nói đến có biển. Một cuộc chiến đang diễn ra. Một điều hết sức nực cười mà cũng vô cùng khốc liệt. Chiến tranh diễn ra trên đất liền, trên biển, dưới lòng đại dương, trên không trung và cả trong lòng đất. Và nhiều chàng trai tham chiến vẫn thường gẫu với nhau trong phòng ăn sĩ quan hoặc phòng sinh hoạt chung trên tàu chiến - xin lỗi em vì cái câu rất phi nghị viện này - các cậu ấy thường bảo, ‘Quả là một cuộc chiến tệ hại, nhưng vẫn còn hơn là không có chiến tranh.’ Nghe có vẻ buông tuồng, phải không?”
Hắn nghe thấy một tiếng thở dài bồn chồn phát ra từ góc ghế dài chìm trong bóng tối, nhưng hắn vẫn tiếp tục không ngừng lại.
“Nhưng trong đó có nhiều hơn những gì mắt thường thấy được. Ý anh là có nhiều khôn ngoan hơn. Sự buông tuồng ấy, cũng giống như hài kịch, chỉ là một ấn tượng ban đầu trên vẻ bề ngoài thôi. Thế giới đó nào có thông thái cho cam. Thế nhưng vẫn tồn tại một dạng trí khôn thực dụng. Tuy nhiên, cái khôn ngoan ấy phần nhiều lại thuộc về những kẻ đứng ngoài cuộc chiến, những kẻ trung lập với vô số toan tính, dẫu công khai hay ngấm ngầm, mà người ta phải theo dõi - phải theo dõi bằng những đầu sắc bén và đôi mắt thật tinh. Phải tinh lắm đấy, anh đảm bảo với em.”
“Em có thể tưởng tượng,” nàng khẽ nói, giọng đầy khâm phục.
“Có điều gì em không thể tưởng tượng?” hắn tuyên bố điềm đạm. “Em có cả thế giới trong mình. Nhưng hãy cùng quay lại với Sĩ quan Chỉ huy của chúng ta, và tất nhiên, ông ấy chỉ huy một loại tàu chiến. Những chuyện anh kể thường là chuyện nghề, như em vừa bảo đấy, nhưng chẳng bao giờ nặng kỹ thuật. Bởi thế, anh sẽ chỉ tiết lộ cho em rằng con tàu này đã từng là một món trang trí tuyệt mỹ, mang trong mình đủ những nét duyên dáng, thanh lịch và xa hoa. Phải, đã từng như thế! Giờ nó như một phụ nữ kiều diễm đột nhiên khoác lên mình áo vải bố và giắt súng lục vào thắt lưng. Nhưng con tàu xinh xắn ấy vẫn nổi thật nhẹ nhõm, vẫn lướt đi thật thanh thoát, mau lẹ, và thế là đủ.”
“Đó là quan điểm của Sĩ quan chỉ huy ư?” giọng nàng vang lên từ góc ghế dài.
“Đúng vậy. Ông ấy từng được cắt cử cùng con tàu đi dọc theo một số bờ biển để xem có thể quan sát được gì. Chỉ vậy thôi. Đôi khi ông ta có một số thông tin sơ bộ để hỗ trợ công việc, đôi khi không. Nhưng rốt cuộc cũng chẳng khác là mấy. Chúng hữu dụng chẳng hơn những mẩu thông tin dò tìm vị trí và hướng đi của một đám mây, hay chuyển động của một bóng ma lúc ẩn lúc hiện, thoắt cái đã tan biến mà chẳng thể nào nắm bắt.
“Đó là vào những ngày đầu chiến tranh. Điều đầu tiên khiến viên Sĩ quan ngỡ ngàng là diện mạo bất biến của đại dương, dáng hình thân thuộc chẳng hiền hoà hơn cũng không hề thêm thù địch. Những ngày quang đãng, mặt trời toả những tia lửa xuống thuỷ vực xanh thẳm; đây đó, một vệt khói yên bình lơ lửng phía chân trời xa, và thật khó mà tin rằng đường chân trời quen thuộc, rõ ràng ấy lại đang vạch ra ranh giới của một vòng phục kích khổng lồ.
“Đúng vậy, không thể nào tin được, cho đến ngày ta chứng kiến một con tàu không phải của ta (thế thì đâu có gì ấn tượng) - một con tàu nào đó trong cùng đội hình đột nhiên phát nổ và chìm nghỉm gần như trước khi ta kịp hiểu chuyện gì đã xảy ra với nó. Khi ấy, ta mới bắt đầu tin. Từ đó trở đi, ta tiếp tục ra khơi, làm nhiệm vụ, dõi theo những gì có thể thấy và vẫn không ngừng tin chắc rằng một ngày nào đó ta sẽ chết bất đắc kỳ tử vì một thứ mà ta không thể thấy. Người ta ghen với những người lính ngoài chiến trường: khi ngày tàn, họ sẽ lau đi mồ hôi và máu trên mặt, đếm số kẻ đã ngã xuống dưới tay họ, ngắm những cánh đồng hoang tàn và đất bị xé toạc như thể cũng đang đau đớn và rỉ máu cùng họ. Đúng vậy, người ta thực sự ghen. Vì ít ra, sự bạo tàn tối cùng ấy vẫn mang hương vị của mãnh liệt nguyên thủy - sự thành thật dữ dội của một cú đánh trực diện, lời kêu gọi thẳng thắn và đáp trả không chút quanh co. Phải, còn biển cả thì không cho ta được bất cứ điều gì như thế, và nó cứ ra vẻ như chẳng có gì bất ổn xảy ra trên thế giới này.”
Nàng ngắt lời, khẽ cựa mình.
“Phải rồi. Chân Thành - Thẳng Thắn - Mãnh Liệt - ba từ trong kinh điển của anh. Em chẳng lạ gì chúng nữa đâu!”
“Hãy nghĩ xem! Chẳng phải chúng là những điều chúng ta cùng tin tưởng sao?” hẳn hỏi, giọng lo âu, nhưng không thực sự chờ câu trả lời mà tiếp tục ngay: “Ấy là cảm giác của Sĩ quan chỉ huy. Khi màn đêm buông xuống biển khơi, che giấu vạn và như thể chôn đi vẻ giả dối của một người bạn cũ, đó thật là giải thoát. Bóng đêm khiến con người trở nên đui mù thành thực - và có những lúc ánh sáng ban ngày lại lại ti tiện, ghê tởm chẳng kém gì sự dối trá. Đêm tối lại hoá ra ổn.
“Về đêm, Sĩ quan chỉ huy cứ để mặc cho suy nghĩ của mình trôi đi - anh sẽ không nói với em rằng trôi về đâu. Chỉ biết rằng đó là nơi mà chẳng còn lựa chọn nào khác ngoài sự thật và cái chết. Thế nhưng trời cứ dày đặc, dẫu có che khuất tầm nhìn khiến ta đui mù âm u thì cũng chẳng thể giải thoát và che mắt ta khỏi bao trăn trở câm lời. Sương mù là hư huyền dối trá, và thứ ánh sáng lờ mờ chết chóc toả ra từ đó thật đáng bực. Nó khiến ta ngỡ như thể mình phải thấy điều gì đó.
“Vào một ngày ảm đạm, ngột ngạt, con tàu cứ thế lướt đi trên hành trình tuần tra, dọc theo một bờ biển trùng trùng đá ngầm và từ xa bỗng nổi lên một màu đen kịt, tựa nét mực tàu trên nền giấy xám. Một thoáng sau, sĩ quan phó trình báo với cấp trên. Anh ta nghĩ rằng mình vừa trông thấy thứ gì đó trên mặt nước, hướng ra biển. Có lẽ là một xác tàu nhỏ.
“‘Nhưng đáng lý không nên có bất kỳ xác tàu nào ở đây, thưa ngài’, viên phó lên tiếng.
“‘Không’, Sĩ quan chỉ huy đáp. ‘Theo báo cáo, những con tàu ngầm bị đánh chìm gần đây nhất nằm xa tít phía tây. Nhưng không ai biết chắc được. Có thể đã có những con tàu khác bị chìm kể từ đó, mà không ai kịp báo cáo hay nhìn thấy. Chúng đã biến mất cùng toàn bộ thuỷ thủ đoàn.’
“Câu chuyện đã bắt đầu như thế. Con tàu thay đổi lộ trình hòng tiến sát vật thể lạ, bởi cần phải quan sát thật kỹ bất cứ thứ gì có thể thấy được. Tiến sát, nhưng không chạm vào; bởi trong hoàn cảnh này, tốt nhất là không nên tiếp xúc với bất kỳ vật thể trôi nổi ngẫu nhiên nào. Tiến sát, nhưng không dừng lại, thậm chí không được giảm tốc vì vào thời điểm đó, thật không khôn ngoan khi nấn nán một chỗ, dù chỉ trong giây lát. Anh có thể nói ngay rằng vật thể đó không hề nguy hiểm. Không cần phải mô tả nó chi tiết làm gì. Nó có thể chẳng đặc biệt gì hơn, chẳng hạn, một cái thùng có hình dạng và màu sắc. Quan trọng là ý nghĩa của nó.”
“Sóng nơi mũi tàu nâng vật thể ấy lên như thể quan sát kỹ hơn, rồi con tàu, quay lại lộ trình cũ, thờ ơ ngoảnh lưng với nó. Trong khi đó, trên boong, hai mươi cặp mắt dõi theo mọi hướng, cố gắng xem có thể phát hiện được gì không.
“Sĩ quan chỉ huy và phó của ông đã thảo luận về vật thể này với nhiều thấu tỏ. Họ thấy rằng đó không hẳn là một bằng chứng về mưu mẹo toan tính mà là bằng chứng cho hoạt động của một số phe trung lập. Trong nhiều trường hợp, hoạt động ấy diễn ra bằng cách tiếp tế dự trữ cho một số tàu ngầm ngoài biển. Người ta vẫn thường tin vào điều này, nếu không muốn nói là biết chắc chắn. Và thực tế những ngày đầu chiến tranh đã chứng rõ. Vật thể, được quan sát kỹ lưỡng rồi bị bỏ lại một cách thờ ơ, đã củng cố xác tín rằng một điều tương tự vừa được thực hiện đâu đó trong khu vực.”
“Bản thân nó đã quá đáng ngờ. Nhưng chính việc nó bị bỏ lại trên khơi như một chứng cứ lộ liễu lại khuấy động bao ngờ vực khác. Liệu đây có phải kết quả của một mưu đồ quỷ quyệt? Về điểm này, mọi suy đoán sớm trở nên vô ích. Cuối cùng, hai sĩ quan đi đến kết luận rằng rất có thể nó bị bỏ lại ngẫu nhiên hoặc do một tình huống bất khả kháng nào đó, chẳng hạn như chuyện đột ngột phải rời thật nhanh khỏi khu vực.
“Họ thảo luận bằng những câu ngắn gọn sắc bén, ngắt bằng những khoảng dài trầm ngâm. Suốt thời gian đó, mắt họ vẫn không ngừng đảo quanh chân trời, với một tinh thần cảnh giác cao độ gần như những cỗ máy. Người sĩ quan trẻ hơn bỗng trầm giọng tổng kết:
“'Dù sao thì, đây cũng là bằng chứng. Chính là thứ mà trước đây ta đã gần chắc như đinh đóng cột. Giờ thì rõ rành rành.’
“‘Và cũng chẳng giúp gì được cho ta,’ Sĩ quan chỉ huy đáp lại. ‘Bọn chúng đã ở cách xa hàng dặm; tàu ngầm thì có quỷ mới biết đang ẩn nấp ở đâu, chờ vung lưỡi hái tử thần; còn những kẻ trung lập cao quý thì chuồn về phía đông, sẵn sàng nói dối!’
“Sĩ quan phó khẽ cười trước giọng mỉa mai ấy. Nhưng anh ta đoán ra rằng những gã trung lập thậm chí chẳng cần phải nói dối nhiều. Những kẻ như thế, trừ khi bị bắt quả tang tại trận, vẫn thấy mình an toàn. Chúng có thể ung dung cười cợt. Tay trung lập kia có lẽ cũng đang cười thầm trong bụng. Rất có thể hắn đã từng tham gia trò chơi chiến trận này trước đây và chẳng hề bận tâm đến mẩu chứng cứ bị bỏ lại. Đây là một trò chơi mà kinh nghiệm thực hành khiến người ta trở nên liều lĩnh và thành công trót lọt.
“Chàng phó lại khẽ cười. Nhưng Sĩ quan chỉ huy của chàng vẫn đang hừng hực căm phẫn trước những thủ đoạn tàn sát lén lút và sự bạo tàn ngỗ ngược của những kẻ đồng lõa - chúng dường như làm hoen ố tận gốc rễ những tình cảm sâu thẳm nhất và những hành động cao cả nhất của con người; chúng làm băng hoại tinh thần - chốn hun đúc nên những quan niệm tối cùng về tồn tại và cái chết. Và ông ta đau đớn…”
Giọng nàng bỗng vang lên từ sofa, cắt ngang lời kể.
“Em hiểu điều đó trong ông ta biết bao!”
Người đàn ông hơi nghiêng người về trước.
“Phải. Anh cũng vậy. Trong tình yêu và chiến tranh, mọi thứ nên công bằng và minh bạch. Quang minh như vầng dương toả rạng, bởi cả hai đều là tiếng gọi của một lý tưởng thiêng - một lý tưởng mà chao ôi quá dễ dàng bị chà đạp, và quá khủng khiếp để bị bôi nhọ nhân danh Chiến thắng!”
Hắn ngưng lại một chút rồi tiếp tục: “Chàng phó không biết Sĩ quan chỉ huy đã đi sâu vào tình cảm của mình đến vậy. Nhưng ôi, ông ấy thực sự đã bị giằng xé bởi nó, bởi một niềm bi ai vỡ mộng! Có lẽ ông thậm chí còn ngờ mình là một gã khờ. Con người xưa nay vốn muôn hình vạn trạng. Nhưng ông ấy nào có thời giờ để đắm chìm trong tự vấn, bởi từ phía tây nam kia, một bức tường sương gió đã ập về phía con tàu. Những xoáy hơi nước khổng lồ cuộn trào, uốn mình quanh cột buồm và ống khói, tựa như đang dần tan chảy. Rồi chúng mất hút.
“Con tàu dừng lại, mọi âm rung đất trời như im bặt, và ngay cả màn sương cũng trở nên bất động, mịt mù hơn và như thể ngưng tụ lại trong câm lặng rợn ngợp. Những người đứng gác không còn nhìn thấy bóng dáng nhau nữa. Tiếng bước chân nghe thật rón rén; những tiếng gọi lác đác, bâng quơ và xa vắng, để rồi dần lịm tắt mà không để lại chút dư âm. Một sự tĩnh mịch âm u, trắng xoá như đang ngự trị cả thế giới.
“Dường như sự âm u ấy sẽ kéo dài nhiều ngày. Không phải là màn sương lúc nào cũng mịt mù đến vậy. Thi thoảng, sương nhoà đi một cách thần bí, hé mở cho người một bóng hình ít nhiều ma mị về con tàu. Vài lần, bóng dáng bờ biển cũng hiện ra mờ tối trước con mắt họ, trôi qua trong thứ ánh sáng đục ngầu, chập chờn của mây trắng khổng lồ đang ôm lấy nước.
“Tận dụng những khoảnh khắc ấy, con tàu mon men dịch lại gần bờ. Giữa bầu âm u dày đặc này, thật vô nghĩa khi cứ lênh đênh ngoài khơi mãi. Các sĩ quan trên tàu tường tận mọi ngóc ngách bờ biển dọc tuyến tuần tra của họ. Họ nghĩ rằng neo tàu trong một vịnh nhỏ sẽ hợp lý hơn. Nơi ấy không rộng, chỉ đủ chỗ cho một con tàu xoay quanh mỏ neo. Sẽ có một khoảng thời gian yên ổn hơn đợi chờ đến khi sương tan.
“Thật chậm rãi, trong sự thận trọng và kiên nhẫn vô hạn, họ len lỏi ngày càng gần hơn, chỉ trông thấy dáng hình vách đá mờ nhoà tựa một bóng tối thoảng qua, với một đường viền bọt sóng dữ dội ào ào dưới chân vách. Khi thả neo, màn sương dày đến mức nếu chỉ nhìn bằng mắt thì người ta có thể nghĩ mình đang ở giữa khơi cách bờ nghìn dặm. Nhưng dù thế, vẫn có thể cảm nhận được sự chở che của đất liền yêu dấu. Có một phẩm chất lạ lùng trong sự tĩnh lặng của không khí. Rất khẽ, rất mơ hồ, tiếng sóng gợn vỗ vào bờ bao quanh vọng vào tai họ, dù thi thoảng lại lặng ngắt u uẩn.
Neo đã thả, dây chì được thu vào. Sĩ quan chỉ huy bước xuống khoang mình. Nhưng ông ta chưa ở yên được bao lâu thì ngoài cửa lại vang lên một giọng yêu cầu ông trở lại. ‘Lại chuyện gì nữa đây?’ Bực bội trong ông dâng lên khi bị gọi ra để đối mặt với màn sương não nề lần nữa.
“Ông nhận thấy sương mù đã mỏng đi đôi chút và đang nhuốm u ám từ những vách đá tối tăm, không hình thù, không đường nét, hiện diện như thể một bức màn hắc ám bao quanh con tàu, chỉ trừ một điểm sáng le lói là lối vào từ biển. Một vài sĩ quan có lẽ đang trên cầu tàu trông ra hướng đó. Viên phó bước đến, thở hổn hển và thì thào báo rằng có một tàu khác đang ở trong vịnh.
“Nó đã được phát hiện bởi nhiều cặp mắt chỉ vài phút trước. Nó đang neo rất gần lối vào - chỉ một vết nhoè mờ ảo trên sương sáng. Và Sĩ quan chỉ huy, bằng cách chăm chú nhìn về hướng mà những bàn tay háo hức chỉ ra, cuối cùng cũng bằng mắt mình nhận ra nó. Hẳn là một con tàu.
“‘Thật kỳ diệu khi chúng ta không đâm sầm vào nó khi tiến vào,’ viên phó kêu lên.
‘Phái ngay một chiếc thuyền sang đó trước khi nó biến mất,’ Sĩ quan chỉ huy ra lệnh. Ông đoán đây là một tàu buôn ven biển. Khó có thể là gì khác. Nhưng một ý nghĩ đột nhiên nảy lên trong đầu ông.
‘Đúng là lạ thật,’ ông nói với viên phó, khi ấy vừa quay lại sau khi đã phái thuyền đi.
“Đến lúc đó cả hai mới đều nhận ra rằng con tàu vừa được phát hiện kia đã không hề báo hiệu sự hiện diện của mình bằng cách rung chuông.
“‘Đúng là chúng ta đã tiến vào rất êm,’ viên sĩ quan trẻ tuổi kết luận. ‘Nhưng ít nhất họ cũng phải nghe thấy tiếng chúng ta dùng dây dò độ sâu chứ. Chúng ta không thể đi cách họ quá năm mươi thước. Một khoảng suýt soát! Có khi họ còn thấy chúng ta, vì chắc chắn họ phải biết có thứ gì đó đang tiến vào. Và kỳ lạ là chúng ta chưa từng nghe thấy một âm thanh nào từ họ. Mấy người trên tàu hẳn đã phải nín thở.’
“‘Phải,’ Sĩ quan chỉ huy trầm ngâm đáp.
“Cuối cùng chiếc thuyền được phái đi tiếp cận đã quay trở lại, nó bất ngờ xuất hiện bên mạn, như thể vừa len lỏi qua sương. Viên phó bước lên định báo cáo tình hình nhưng chỉ huy chẳng cho anh cơ hội cất lời. Từ xa, ông đã hắng giọng hỏi:
“‘Đấy là tàu buôn ven biển, phải không?’
“‘Không, thưa ngài. Đó là một con tàu lạ - tàu trung lập,’.
“‘Không thể nào! Nếu vậy thì kể ta nghe xem. Nó đang làm gì ở đây?’
“Chàng trai trẻ trình bày rằng anh vừa được nghe một câu chuyện dài dòng phức tạp về sự cố động cơ. Nhưng xét từ góc độ chuyên môn, câu chuyện ấy vẫn đủ hợp lý và hội tụ những tình tiết quen thuộc: một con tàu hỏng hóc, trôi dạt vô định dọc theo bờ biển, thời tiết thì thất thường, mịt mù trong nhiều ngày, lo sợ gió bão, cuối cùng quyết định tiến vào và neo ở bất cứ đâu trên bờ biển, v.v. Khá hợp lý đấy chứ?
“Động cơ tàu vẫn hỏng à?’ Sĩ quan chỉ huy hỏi.
“‘Không, thưa ngài. Vẫn đang có hơi nước.’
“Ông chỉ huy kéo xệch chàng phó sang một bên. ‘Trời ạ!’ ông kêu lên, ‘cậu nói đúng! Họ đã nín thở khi chúng ta đi ngang qua. Đúng là thế rồi.’
“Nhưng giờ sĩ quan phó lại bắt đầu nghi ngờ.
“‘Một màn sương mù như thế này có thể át đi những âm thanh khẽ khàng, thưa ngài,’ anh nhận xét. ‘Và rốt cuộc thì mục đích của hắn có thể là gì?’
‘Lẻn ra ngoài mà không bị phát hiện,’ Sĩ quan chỉ huy trả lời.
‘Vậy thì tại sao hắn không làm thế? Hắn hoàn toàn có thể làm được, ngài biết đấy. Có lẽ không hoàn toàn là không bị để ý. Tôi không nghĩ hắn có thể cắt neo mà không gây ra bất cứ tiếng động nào. Nhưng dù sao đi nữa, chỉ trong khoảng một phút thôi, hắn sẽ mất tăm hơi - biến mất hoàn toàn trước khi chúng ta kịp nhận diện rõ ràng. Nhưng hắn đã không làm vậy.’
“Họ nhìn nhau. Sĩ quan chỉ huy lắc đầu. Những ngờ vực như điều vừa nảy ra trong đầu ông thật không dễ gì chứng minh. Ông ta thậm chí còn không nói nó ra. Viên sĩ quan phụ trách xuồng lên tàu kiểm tra để hoàn thành báo cáo. Hàng hóa trên tàu hoàn toàn vô hại và là đồ hữu dụng. Tàu đang trên đường đến một cảng của Anh. Giấy tờ và mọi thứ đều hợp lệ. Không thấy bất cứ dấu hiệu đáng ngờ nào.
“Tiếp đó là báo cáo về thuỷ thủ đoàn, anh chàng cũng chỉ mô tả họ như người bình thường ta vẫn hay thấy trên boong tàu. Những kỹ sư kiểu quen thuộc và rất tự hào về thành tích sửa động cơ của họ. Hoa tiêu thì gắt gỏng. Còn thuyền trưởng là một người phương Bắc điển hình, khá lịch thiệp nhưng hình như có hơi men trong người. Dường như ông ta đang hoàn hồn sau một cơn say bí tỉ.
“‘Tôi đã nói với ông ta rằng tôi không thể cho phép tiếp tục hành trình. Ông ta đáp rằng dẫu có được cho phép hay không, ông ta cũng chẳng dám di chuyển dù chỉ một khoảng ngang bằng thân tàu trong thời tiết thế này. Dù vậy, tôi vẫn để lại một người trên tàu.’
“‘Hợp lý.’
“Viên chỉ huy, sau một lúc nghiền ngẫm những hoài nghi của mình, gọi sĩ quan phó sang bên.
“‘Giả sử nó chính là con tàu đã tiếp tế cho một tàu ngầm quỷ quyệt nào đó thì sao?’ ông ta trầm giọng.
“Viên phó giật mình. Thế rồi, với một vẻ kiên định:
“‘Con tàu đó sẽ thoát tội. Ngài không thể chứng minh được điều đó đâu, thưa ngài.’
“‘Tôi muốn tự mình kiểm tra.’
“‘Dựa vào báo cáo vừa nghe, tôi e rằng ngài thậm chí còn không thể đưa ra được một lý do hợp lý để nghi ngờ, thưa ngài.’
“‘Dù vậy, tôi vẫn sẽ lên tàu.’
“Ông ta đã quyết định rồi. Sự hiếu kỳ là động lực mãnh liệt nhất của thù hận và tình yêu. Ông mong chờ sẽ tìm thấy gì đây? Ông ta chẳng thể nói với bất kỳ ai - thậm chí cả chính mình.
“Điều ông ta thực sự trông chờ ở đó là bầu không khí - bầu không khí của sự phản bội vô cớ, mà theo quan điểm của ông thì chẳng gì có thể biện minh được, bởi ông ta cho rằng cả một dục vọng bất chính thuần túy cũng không thể bào chữa cho nó. Nhưng ông ta có thể nhận ra nó chăng? Ngửi thấy nó? Nếm được vị? Đón được một tín hiệu bí ẩn có thể biến những ngờ vực sắt đá thành một sự chắc chắn đủ vững mạnh để thúc đẩy hành động, bất chấp mọi rủi ro?
“Thuyền trưởng diện kiến ông ta trên boong sau, hiện lên lờ mờ trong sương giữa những hình thù hư huyễn của các thiết bị quen thuộc trên tàu. Đó là một người phương Bắc vạm vỡ, râu ria rậm rạp và đang ở độ sung mãn. Một cái mũ da tròn ôm sát đầu ông ta. Hai tay ông đút sâu vào túi áo khoác da ngắn. Ông giữ nguyên điệu bộ ấy trong khi giải thích rằng mình thường sống trong phòng hải đồ khi ở trên biển, và rồi ung dung bước dẫn đường. Ngay trước khi đến cánh cửa dưới cầu tàu, ông ta lảo đảo một chút rồi lấy lại thăng bằng, mở tung cửa và đứng né sang một bên, tựa vai vào vách tàu như thể vô thức, ánh mắt mơ hồ nhìn vào khoảng không mịt mù sương khói. Nhưng rồi ông ta nhanh chóng bước vào theo Sĩ quan chỉ huy, đóng sập cửa, bật đèn điện lên và vội vã đút tay vào túi như thể sợ ai đó bất chợt tóm lấy, dẫu là bằng hữu hay thù địch.
“Căn phòng ngột ngạt và oi bức. Kệ bản đồ trên trần đã đầy ắp và tấm bản đồ trên bàn thì được giữ cố định bằng một chiếc cốc rỗng đặt trên đĩa lót với một thứ chất lỏng đen bị đổ. Một cái bánh quy cắn dở bỏ trên hộp đựng đồng hồ. Có hai ghế dài, và một trong hai đã được kê thành giường, trải gối và chăn, trông rất lộn xộn. Người phương Bắc ngả mình phịch xuống, tay vẫn đút trong túi.
“‘Chà, tôi đây,’ ông ta bắt đầu với một vẻ kỳ khôi như thể đang ngạc nhiên trước giọng nói của chính mình.
“Sĩ quan chỉ huy, ngồi trên chiếc ghế dài còn lại, quan sát khuôn mặt tuấn tú, đỏ bừng của ông ta. Những giọt sương lắng đọng trên bộ râu và ria mép vàng hoe của người đàn ông phương Bắc. Đôi lông mày sẫm màu hơn hẳn thì nhíu lại bối rối, và đột nhiên ông ta bật dậy.
“‘Ý tôi là, tôi chẳng biết mình đang ở đâu nữa. Thật sự không biết,’ ông thốt lên thành thực. ‘Chết tiệt! Bằng cách nào đó, tôi đã bị xoay vòng. Sương mù đã đeo bám tôi suốt một tuần. Hơn một tuần chứ. Và rồi động cơ tôi lại hỏng. Tôi sẽ kể ông nghe chuyện xảy ra.’
“Ông ta đột ngột trở nên liến thoắng, không hấp tấp nhưng dai dẳng. Mặc dù vậy, lời nói của ông ta không hẳn là liên tục. Mạch nói bị ngắt quãng bởi những khoảng lặng kỳ lạ. Mỗi lần im lặng ấy kéo dài không quá vài giây, nhưng dường như lại thăm thẳm một nỗi trầm tư vô hạn. Khi ông ta cất tiếng nói tiếp thì chẳng có dấu hiệu nào cho thấy ông ta ý thức được những khoảng dừng ấy. Vẫn ánh nhìn chăm chú đó, vẫn một giọng điệu tha thiết chẳng hề thay đổi. Ông ta thực sự chẳng hay. Thậm chí, có hơn một lần, ông ta đã ngưng lại ngay giữa câu.
“Sĩ quan chỉ huy lắng nghe câu chuyện. Với ông, nó có vẻ hợp lý quá mức, hơn cả những sự thật bình thường. Nhưng dường như đó chỉ là định kiến. Suốt khoảng thời gian tay phương Bắc thao thao bất tuyệt, chỉ huy trưởng luôn nghe thấy một giọng nói nội tâm, một tiếng thì thầm nghiêm trang trong tận đáy sâu con người mình, đang kể một câu chuyện khác, như cố tình giữ cho cơn phẫn nộ và giận dữ trong ông không nguôi. Một nỗi căm tức với trước lòng tham thấp hèn, hay là thứ góc nhìn thiển cận vốn nằm sâu trong gốc rễ của những lý lẽ giản đơn thường tình nhất.
“Đây chính xác là câu chuyện mà người phương Bắc đã kể cho viên sĩ quan lên kiểm tra tàu khoảng một giờ trước đó. Chỉ huy trưởng thi thoảng gật đầu nhẹ. Người phương Bắc cuối cùng cũng kết thúc lời kể và đưa mắt nhìn đi nơi khác. Thế rồi ông ta chợt bồi thêm, như thể một suy nghĩ đến muộn:
“‘Chừng đó có đủ khiến một người phát điên vì lo lắng không chứ? Đây cũng là chuyến hải trình đầu tiên của tôi đến khu vực này. Và con tàu này là của riêng tôi. Sĩ quan của ngài đã xem giấy tờ rồi. Chẳng có gì đặc biệt, như ngài có thể tự mình thấy đấy. Chỉ là một tàu chở hàng cũ. Kiếm sống tằn tiện cho gia đình tôi thôi.’
Ông ta giơ cánh tay to lớn, chỉ về dãy ảnh chụp dán trên vách ngăn. Động tác ấy thật nặng nề, như thể cánh tay ông ta làm bằng chì. Sĩ quan chỉ huy thản nhiên nói:
“‘Anh sẽ kiếm được cả một gia tài cho mái ấm của mình bằng con tàu cũ kỹ này.’“‘Phải, miễn là tôi không làm mất nó,’ Người phương Bắc rầu rĩ đáp.
“‘Ý tôi là - nhờ vào cuộc chiến,’ Sĩ quan chỉ huy tiếp tục.
“Người phương Bắc bỗng nhìn ông ta bằng ánh mắt hiếu kỳ, vừa vô tình hờ hững, vừa như rất chú tâm, một ánh nhìn mà chỉ những đôi mắt xanh thẳm mới có thể mang lại.
“‘Và ngài sẽ không tức giận vì điều đó,’ ông ta nói, ‘phải không? Ngài quá quân tử để mà phẫn nộ thế này. Chúng tôi đâu có gây ra chuyện này. Mà giả sử chúng tôi có gục xuống và than khóc đi chăng nữa thì có ích gì? Hãy để những kẻ gây ra rắc rối tự mà khóc,’ gã kết luận đầy quả quyết. Người ta vẫn nói thời gian là vàng bạc. Vâng - chính lúc này, thời gian cũng là vàng là bạc. Ồ! Chẳng phải vậy sao!’
“Sĩ quan chỉ huy cố gắng kìm cảm giác ghê tởm tột cùng. Ông tự nhủ rằng cảm giác này thật phi lý. Con người vốn dĩ là vậy - là những kẻ ăn thịt đồng loại dưới vỏ bọc đạo mạo, nuôi sống bản thân trên bất hạnh của kẻ khác. Ông nói lớn:
“‘Anh đã giải thích rất rõ ràng lý do vì sao anh có mặt ở đây. Nhật ký hành trình của anh cũng xác nhận điều đó rất chi tiết. Tất nhiên, một cuốn nhật ký hành trình có thể bị nhúng tay chỉnh sửa. Chẳng có gì dễ dàng hơn.’
“Người phương Bắc không hề nhúc nhích. Ông ta nhìn chằm chằm xuống sàn tàu, dường như không nghe thấy gì. Một lúc sau, ông ta mới ngẩng đầu lên.
“‘Nhưng ngài không thể nghi ngờ tôi về bất cứ điều gì,’ ông ta lầm bầm lơ đãng.
“Sĩ quan chỉ huy thầm nghĩ: ‘Tại sao hắn lại nói thế?’
“Ngay sau đó, người phương Bắc tiếp tục: ‘Hàng hóa của tôi là chuyển đến một cảng của Anh.’
“Giọng ông ta trở nên khàn đặc trong thoáng chốc. Sĩ quan chỉ huy trầm tư: ‘Đúng vậy. Không có gì đáng ngờ cả. Ta không thể nghi ngờ hắn. Nhưng nếu thế, tại sao hắn lại nằm im với động cơ còn đang chạy trong màn sương này - và sau đó, khi nghe thấy ta tiến vào, tại sao hắn không có bất kỳ dấu hiệu nào cho thấy sự hiện diện? Tại sao chứ? Liệu có thể là gì ngoài lương tâm tội lỗi? Hắn có thể nhận ra đây là tàu chiến chỉ qua tiếng đo độ sâu.’
“Phải rồi - tại sao? Sĩ quan chỉ huy tiếp tục suy nghĩ: ‘Giả sử ta hỏi hắn và rồi quan sát nét mặt biến chuyển. Chắc chắn hắn sẽ tự bộc lộ điều gì đó. Rõ ràng là gã này đã uống. Phải, hắn có hơi men trong người nhưng chắc chắn cũng đã chuẩn bị sẵn một lời nói dối.’ Chỉ huy trưởng là một trong những người mà chỉ cần nghĩ đến việc phải vạch trần một lời nói dối cũng đã đủ thấy khó chịu - không chỉ về đạo đức mà gần như cả thể xác. Ông ghê tởm và khinh bỉ hành động ấy, một cảm giác không thể lay chuyển bởi nó thuộc về bản năng nhiều hơn là luân lý.
“Lẽ vậy, ông ta bèn đi ra boong tàu và ra lệnh tập hợp thủy thủ đoàn để tiến hành kiểm tra chính thức. Ông nhận thấy họ đúng hết như những mô tả trong báo cáo của viên sĩ quan kiểm tra. Và qua câu trả lời của họ, ông ta không thể phát hiện ra bất cứ sơ hở nào trong câu chuyện được ghi chép ở sổ hành trình.
“Ông bèn cho họ giải tán. Ấn tượng của ông ta về họ là một nhóm người được chọn lọc kỹ càng, được hứa hẹn một món tiền to nếu kế sách trót lọt, tất cả đều có chút lo lắng nhưng chẳng hề nao núng. Không ai trong số họ là có vẻ sắp sửa làm lộ chuyện. Họ không hề cảm thấy tính mạng bị đe doạ. Họ hiểu quá rõ về nước Anh và cách làm việc của người Anh!
“Ông cảm thấy lo âu khi nhận ra mình đang nghĩ suy như thể những ngờ vực mơ hồ nhất đang dần chắc nịch. Bởi quả thật, không có một mảy may lý do nào biện minh cho những suy luận đó. Không có gì để ‘bại lộ’ cả.
“Ông ta quay lại phòng hải đồ. Người phương Bắc vẫn nán lại đó và dường như có một thay đổi rất tinh tế trong dáng vẻ hắn, ánh mắt xanh thăm thẳm vô hồn bỗng trở nên táo bạo hơn, khiến Sĩ quan chỉ huy kết luận rằng hắn đã nhân cơ hội này nhấp thêm một ngụm từ cái vỏ chai mà hắn đã giấu đâu đó.
“Ông ta cũng nhận thấy rằng khi bắt gặp ánh mắt mình, người Bắc Âu lập tức làm bộ ngạc nhiên quá mức. Ít nhất thì, cái vẻ mặt ấy dường như được dàn dựng kỹ. Không thể tin gì cả. Và người Anh chợt tin chắc rằng mình đang đối diện với một lời nói dối khổng lồ, vững chãi tựa tường thành, không có cách nào xuyên đến sự thật, và một gương mặt xấu xa, đằng đằng sát khí dường như đang lấp ló sau bờ tường, nhìn ông bằng một nụ cười nhạo báng.
“‘Tôi dám chắc,’ ông ta đột nhiên lên tiếng, ‘anh đang băn khoăn về hành động của tôi, dù tôi đâu có giữ anh lại, đúng không? Anh cũng không dám di chuyển trong màn sương mù này đâu, phải không?’
“‘Tôi đâu biết mình đang ở đâu,’ người phương Bắc thốt lên, vẻ thành thật. ‘Tôi thực sự không biết.’
“Hắn nhìn xung quanh như thể chính những vật trong phòng hải đồ cũng trở nên xa lạ với hắn. Sĩ quan chỉ huy hỏi liệu hắn có nhìn thấy bất kỳ vật thể lạ nào trôi nổi khi đang lênh đênh ngoài khơi không.
“‘Vật thể ư! Vật thể nào cơ? Chúng tôi đã lần mò trong sương mịt mù suốt bao nhiêu ngày.’
“‘Vẫn có vài lúc trời quang đãng’, viên chỉ huy nói. ‘Và tôi sẽ cho anh biết chúng tôi đã thấy gì và kết luận của tôi về nó.’
“Ông ta kể ngắn gọn. Ông nghe thấy một tiếng hít vào gấp gáp rít lên qua hàm răng nghiến chặt. Người đàn ông phương Bắc, tay đặt trên bàn, đứng bất động tuyệt đối và câm lặng. Hắn ta đứng như thể vừa bị sét đánh. Thế rồi hắn nặn ra một nụ cười ngớ ngẩn.
“Hoặc ít nhất, đó là cách mọi thứ hiện ra trước mắt Sĩ quan chỉ huy. Điều này có hàm chứa gì không, hay là chẳng tồn tại ý nghĩa gì cả? Ông ta không biết, không thể khẳng định. Tất cả sự thật dường như đã biến mất khỏi thế giới này, như thể bị lôi kéo vào, bị nuốt trọn trong sự gian tà khủng khiếp này - người đàn ông kia hoặc có tội, hoặc không.
“‘Xử bắn là còn quá nhẹ đối với những kẻ nhìn nhận sự trung lập theo cách đáng khinh này,’ Sĩ quan chỉ huy nhận xét, sau một hồi im lặng.
“‘Phải, phải, phải,’ người phương Bắc vội vã đồng tình - rồi bất ngờ nói thêm, ‘Có lẽ vậy’ với giọng mơ màng.
“Hắn đang giả vờ say, hay đang cố tỏ ra tỉnh táo? Ánh mắt hắn nhìn trực diện, thế nhưng có phần đờ đẫn. Đôi môi hắn viền khuôn rõ nét dưới bộ ria mép vàng hoe, nhưng lại khẽ giật. Có thật là giật không? Và tại sao tư thế hắn lại chùng xuống thế này?
“‘Chẳng có gì là “có lẽ” ở đây cả,’ viên Sĩ quan chỉ huy nghiêm nghị tuyên bố.
“Người phương Bắc đã đứng thẳng dậy. Và bất ngờ thay, hắn cũng lộ vẻ nghiêm trang.
“‘Không. Nhưng còn những kẻ xúi giục thì sao? Tốt nhất là giết hết chúng đi. Cỡ khoảng bốn, năm, sáu triệu tên ấy chứ,’ hắn nói, giọng gằn lại; thế nhưng cái giọng ấy đã vội chuyển sang than van. ‘Nhưng tốt hơn hết là tôi nên im lặng. Ngài có chút nghi ngờ rồi.’
“‘Không, tôi không nghi ngờ gì cả,’ Sĩ quan chỉ huy tuyên bố.
“Ông ta không hề do dự. Vào khoảnh khắc đó, ông ta đã chắc như đinh đóng cột. Không khí trong phòng hải đồ dường như dày đặc tội lỗi và dối trá, thứ dối trá trơ trẽn thách thức sự phát giác, bất chấp cả lẽ phải giản đơn, phẩm giá chung, mọi tình cảm nhân đạo cùng lương tâm đạo đức.
“Người phương Bắc hít một hơi dài. ‘Được rồi, chúng tôi biết rằng người Anh các ngài là những quý ông. Nhưng hãy nói thật đi. Vì sao chúng tôi phải yêu mến các ngài? Các ngài đã làm gì để đáng được yêu đâu. Tất nhiên, chúng tôi cũng chẳng yêu gì những bọn kia. Chúng cũng chẳng làm gì để đáng được yêu cả. Một gã nào đó xuất hiện với một túi vàng... Tôi đâu có đến Rotterdam chuyến trước chỉ để chơi suông.’
“‘Vậy thì khi vào cảng, anh có thể kể vài chuyện thú vị cho người của chúng tôi nghe đấy,’ Sĩ quan ngắt lời.
“Có thể lắm. Nhưng các ngài cũng có người của mình ở Rotterdam rồi mà. Cứ để họ báo cáo. Tôi là người trung lập, phải không nào?... Ngài đã bao giờ thấy một người nghèo ở một bên và một túi vàng ở bên kia chưa? Dĩ nhiên, tôi không thể bị cám dỗ. Tôi không đủ gan để làm điều đó. Thực sự là không có. Việc ấy chẳng liên quan gì đến tôi cả. Tôi chỉ đang bộc bạch một lần thôi.’
“Phải. Và tôi đang nghe anh,’ Sĩ quan chỉ huy bình thản đáp.
“Người phương Bắc ngả người về phía trước, chống tay lên bàn. ‘Giờ thì tôi biết ngài không nghi ngờ gì, tôi nói thật lòng. Ngài không biết thế nào là một kẻ nghèo hèn. Nhưng tôi thì biết. Bản thân tôi cũng nghèo. Con tàu cũ kỹ này chẳng đáng giá bao nhiêu, lại còn bị thế chấp nữa. Chỉ đủ sống, không hơn. Dĩ nhiên, tôi không đủ can đảm. Nhưng một người có gan ư! Hãy nhìn xem. Hàng hoá hắn chở trên tàu trông chẳng khác gì những loại hàng khác - kiện hàng, thùng gỗ, hộp thiếc, ống đồng - đủ thứ. Hắn đâu thấy nó hoạt động. Với hắn, chẳng có gì là thật. Nhưng hắn thấy vàng. Đó mới là thứ có thật. Dĩ nhiên, chẳng gì có thể khiến tôi dính vào chuyện đó. Tôi sẽ khổ vì tâm bệnh. Tôi sẽ phát điên vì lo lắng… hoặc… hoặc là… sa đoạ vào rượu chè hay gì đó. Rủi ro là quá lớn. Tại sao chứ… hủy hoại một đời!’
“‘Phải là tử hình.’ Sĩ quan chỉ huy bật dậy sau lời tuyên bố, và kẻ đối diện ông ta lại chỉ nhìn chằm chằm với ánh mắt sắc lạnh gượng gạo. Nỗi ghê tởm dâng lên trong Sĩ quan chỉ huy trước bầu không khí đồng loã nhuốm mùi chết chóc bao trùm quanh ông, dày đặc đến mức chẳng gì có thể phá tan, xuyên thủng, như thể mịt mùng hơn cả màn sương ngoài kia.
“‘Chuyện đó chẳng hề gì tới tôi,’ người phương Bắc lẩm bẩm, lảo đảo thấy rõ.
“‘Dĩ nhiên rồi,’ Sĩ quan chỉ huy đáp, cố giữ chất giọng thâm trầm bình thản. Sự đinh ninh đã bùng lên mãnh liệt trong ông. ‘Nhưng tôi sẽ tống khứ tất cả đám các anh khỏi vùng duyên hải này lập tức. Và tôi sẽ bắt đầu với anh. Anh phải rời khỏi đây trong vòng nửa tiếng.’
“Khi ấy, Sĩ quan đang sải bước dọc boong tàu với người phương Bắc lầm lũi bên cạnh.
“‘Cái gì cơ! Trong màn sương dày đặc này sao?’ hắn khàn giọng kêu lên.
“Phải, anh sẽ phải đi ngay trong màn sương này.’
“‘Nhưng tôi không biết mình đang ở đâu. Tôi thực sự không biết.’
“Sĩ quan chỉ huy quay ngoắt lại. Một cơn thịnh nộ xâm chiếm ông ta. Ánh mắt hai người đàn ông chạm nhau. Đôi mắt của gã phương Bắc ánh lên vẻ sửng sốt tột cùng.
“‘Ồ, anh không biết đường ra sao?’ Sĩ quan chỉ huy nói, vẻ bình tĩnh nhưng tim đập thình thình vì bất an và phẫn nộ. ‘Tôi sẽ chỉ cho anh lộ trình. Cứ lái hướng nam chếch đông, hơi nghiêng về phía đông, đi khoảng bốn dặm, rồi có thể chuyển hướng về phía đông để đến cảng. Sẽ sớm trời quang mây tạnh thôi.’
“‘Tôi phải đi sao? Điều gì có thể khiến tôi làm vậy? Tôi không có gan đâu.’
“‘Nhưng anh vẫn phải đi. Trừ khi anh muốn…’
“‘Tôi không muốn,’ gã phương Bắc thở hổn hển. ‘Tôi đã chịu đủ rồi.’
“Sĩ quan chỉ huy xuống thuyền. Người phương Bắc vẫn đứng bất động như thể chân đã mọc rễ trên boong. Trước khi con thuyền nhỏ kịp trở về tàu, Sĩ quan chỉ huy đã nghe thấy tiếng neo của tàu kia được thu lên. Thế rồi, ẩn hiện trong màn sương hư ảo, nó rẽ sóng lao đi theo lộ trình đã định.
“‘Phải’, ông nói với các sĩ quan của mình, ‘Tôi đã để anh ta đi.’”
Người đàn ông kể chuyện khẽ nghiêng về phía chiếc ghế dài, nơi không có chuyển động nào biểu lộ sự hiện diện của một con người đang sống.
“Nghe đây”, người đàn ông cất giọng trĩu nặng. “Lộ trình đó sẽ dẫn gã người phương Bắc lao thẳng đến một dải đá ngầm chết chóc. Và Sĩ quan chỉ huy đã chỉ nó cho hắn. Hắn đã lái thẳng theo hướng đó - để rồi đâm sầm vào dãy đá hiểm trở và chìm xuống biển sâu. Vậy là hắn đã nói sự thật. Hắn thực sự không biết mình đang ở đâu. Nhưng điều đó chẳng chứng minh được gì cả. Không có gì. Có thể đó là sự thật duy nhất trong toàn bộ câu chuyện dối trá của hắn. Thế nhưng... dường như hắn đã bị ép buộc, bị đuổi đi chỉ bởi một ánh nhìn đe dọa - không hơn.”
Anh không còn vờ vĩnh nữa.
“Phải, annh chính là người đã đưa lộ trình đó cho hắn. Lúc đó, với anh, đó là phép thử tối thượng. Anh tin - không, anh không tin. Anh không biết nữa. Vào khoảnh khắc đó, anh chắc chắn. Tất cả bọn họ đều đã chìm xuống; và anh không biết liệu anh đã thực thi công lý nghiêm khắc hay đã đoạt mạng người; liệu anh có vừa ném xuống đại dương sâu thẳm những con người hoàn toàn vô tội hay những kẻ xứng đáng bị trừng phạt. Anh không biết. Anh sẽ không bao giờ biết.”
Người đàn ông đứng bật dậy. Người phụ nữ trên ghế dài cũng đứng lên, vòng tay ôm lấy cổ hắn. Đôi mắt nàng long lanh hai tia sáng giữa bóng tối u huyền sâu thẳm nơi căn phòng. Nàng hiểu khát khao tìm đến sự thật của người thương, nỗi kinh hoàng của hắn trước sự dối trá và sự nhân đạo trong con người hắn.
“Ôi, anh tội nghiệp của em…”
“Sẽ không bao giờ biết được,” hắn lặp lại nghiêm khắc, gỡ tay nàng ra, nâng chúng lên môi hôn rồi bước ra ngoài.
Tâm Nguyên dịch
Joseph Conrad
Cùng sào (1902)
Bão lớn (1902)
Gaspar Ruiz (1906)
Tôn ông Roman (1911)
Giữa đất và nước (1912)
May (1913)
Chủ đồn điền ở Malata (1914)
Chuyện kể (1917)
ở trong lồng
Edgar Allan Poe (1809–1849)
Melville (1819–1891)
Henry James (1843–1916)
Robert Louis Stevenson (1850–1894)
Joseph Conrad (1857–1924)
Ford Madox Ford (1873–1939)
Linda Lê đọc Conrad
Ford Madox Ford: Chỉ Joseph Conrad mới làm được điều đó
Ford Madox Ford về Joseph Conrad
Joseph Conrad và Ford Madox Ford
Henry James: Về May
James, Conrad, và Stevenson
Những phụ nữ
Tàu buồm và tàu hơi nước