favorites
Shopping Cart
Search
Vitanova
Prev
Hạ 2025
Next

Javier Marías viết các cuộc đời

22/06/2025 22:48

Nhà văn có thể trò chuyện với nhau (Vargas Llosa và Magris, chẳng hạn), có thể kể chuyện chính mình (ví dụ: Baldwin), nhưng rất nhiều khi, họ cũng kể về các nhà văn khác.

Javier Marías - trong khoảng hai mươi năm vừa qua đã có sự xuất hiện dẫu không quá nổi bật nhưng cũng đã để lại được những dấu ấn nhất định lên các độc giả Việt Nam nào biết tìm ra giá trị giữa quá nhiều thứ vô giá trị - từng làm việc ấy: nếu Colm Tóibín viết cả một cuốn tiểu thuyết về Henry James (ngoài ra còn viết một cuốn tiểu thuyết khác về Thomas Mann, mà tới đây tạp chí Văn Bản sẽ đăng một phần) thì tác giả Trái tim bạc nhược viết về nhiều người trong một cuốn sách.

 

Joseph Conrad trên đất liền

Sách của Joseph Conrad viết về biển nhiều và đáng nhớ đến mức người ta thường có xu hướng hình dung ông đang lênh đênh trên một con thuyền buồm mà quên mất rằng ba mươi năm cuối đời ông sống trên đất liền với lối sống tĩnh tại đến bất ngờ. Thật ra, giống bất kỳ thủy thủ đích thực nào, ông rất ghét việc di chuyển và, điều khiến ông cảm thấy khuây khỏa hơn cả chính là được giam mình trong phòng làm việc, khổ sở vật lộn với từng trang viết hoặc tán gẫu cùng vài người bạn thân thiết nhất. Tuy vậy, cũng cần nói rõ rằng không phải lúc nào ông cũng làm việc trong những căn phòng vốn dĩ dành cho điều này. Quãng cuối đời, ông thường trốn vào những xó hẻo lánh nhất trong khu vườn của ngôi nhà ở Kent, viết nguệch ngoạc lên các mảnh giấy vụn. Có lần, người ta kể rằng ông chiếm dụng phòng tắm suốt một tuần mà chẳng giải thích điều gì với gia đình, trong thời gian ấy họ chỉ được dùng căn phòng hết sức hạn chế. Lần khác, vấn đề lại nằm ở chuyện trang phục, vì Conrad nhất quyết chỉ mặc một chiếc áo choàng tắm sọc vàng bạc màu thảm thương, điều này quả thật gây khó xử vô cùng mỗi khi bạn bè bất ngờ ghé thăm, hoặc khi mấy du khách người Mỹ, không hiểu sao, lại nói rằng chỉ tình cờ vãng lai qua đó.

Mối đe dọa nghiêm trọng nhất đối với sự an toàn của cả gia đình lại xuất phát từ một nhu cầu ăn sâu bén rễ bên trong Conrad khi lúc nào ông cũng phải kẹp một điếu thuốc giữa hai ngón tay. Dù vậy, điếu thuốc ấy thường chỉ ở lại đó vài giây bởi ông sẽ ngay lập tức đặt nó xuống đâu đó rồi quên bẵng. Vợ ông, Jessie, dần dà đành lòng chấp nhận thực tế rằng sách, ga trải giường, khăn trải bàn và cả đồ đạc trong nhà đều lấm tấm những vết cháy. Nhưng suốt nhiều năm liền, bà sống trong trạng thái cảnh giác cao độ, chỉ sợ chồng mình vô tình tự thiêu cháy. Ngay cả khi ông nghe theo lời khẩn khoản của bà và tập thói quen vứt mẩu thuốc lá vào một cái bình lớn đầy nước được đặt sẵn thì tai nạn cháy nổ vẫn liên tục xảy ra. Đã không ít lần quần áo của ông suýt bị bén lửa vì ngồi quá gần lò sưởi, và cũng chẳng có gì lạ nếu cuốn sách ông đang đọc bỗng nhiên bắt lửa chỉ vì nó được soi quá lâu dưới ánh nến.

Conrad là người đãng trí, nhưng điều đáng nói là hai bản tính nổi bật nhất ở ông - dễ cáu và kính cẩn - thoạt nghe có vẻ mâu thuẫn, dường lại bổ sung và lý giải cho nhau. Trạng thái tự nhiên của ông là bồn chồn, gần như lo âu, và sự quan tâm sâu sắc đến người khác khiến ông dễ bị lay động, chỉ cần một người bạn gặp trục trặc nho nhỏ là ông có thể phát cơn gút - căn bệnh ông mắc từ thời còn trẻ ở quần đảo Mã Lai và đã hành hạ ông suốt phần đời còn lại. Khi con trai ông, Borys, đang tham chiến trong Thế chiến thứ nhất, có một buổi tối vợ ông trở về nhà sau cả ngày vắng mặt và được đón bởi cô hầu gái đang khóc rấm rứt rồi kể với bà rằng Mr. Conrad báo với mọi người trong nhà rằng Borys đã tử trận, từ lúc đó đến giờ ông đã tự nhốt mình trong phòng con trai. Khi Jessie George Conrad, chân run lẩy bẩy, lên lầu tìm người chồng đang rối trí và hỏi ông làm sao có thể chắc chắn như vậy, ông đáp lại với vẻ bị xúc phạm: “Chẳng lẽ tôi không được quyền có linh cảm như bà sao? Tôi biết nó chết rồi!” Một lúc sau, Conrad dịu lại và thiếp đi. Linh cảm ấy đã sai, nhưng xem ra, một khi trí tưởng tượng của ông buông lỏng, thì không gì có thể ngăn cản nổi. Ông sống trong một trạng thái căng thẳng tột độ kéo dài triền miên, đó là nguồn cơn cho tính khí dễ cáu gắt, một thứ mà ông gần như không thể kiểm soát, nhưng mỗi khi cơn bực tức ấy qua đi, nó chẳng để lại dấu vết hay ký ức nào. Khi vợ ông đang sinh đứa con đầu lòng, tức Borys như đã nhắc đến, Conrad đi đi lại lại đầy lo âu trong vườn. Đột nhiên ông nghe thấy tiếng trẻ con khóc liền tức tối bước thẳng vào bếp và nói với cô hầu: “Mau đưa đứa bé đó đi ngay! Nó sẽ quấy rầy bà Conrad đấy!” Nghe vậy cô hầu lớn tiếng quát lại ông: “Thưa ông, đó là con ông đấy ạ!”

Conrad dễ cáu đến mức mỗi khi làm rơi cây bút, thay vì cúi xuống nhặt và tiếp tục viết, ông sẽ ngồi lì tại chỗ gõ ngón tay lên mặt bàn đầy bực dọc như thể một tai họa vừa giáng xuống. Bản tính ông là một điều bí ẩn đối với những người xung quanh. Trạng thái kích động bên trong khiến ông đôi khi rơi vào những khoảng lặng kéo dài, ngay cả khi đang ngồi giữa bạn bè. Họ thường kiên nhẫn đợi cho đến khi ông lên tiếng trở lại và lúc ấy, ông thường nói năng rất sôi nổi, thể hiện một năng khiếu kể chuyện trời phú. Người ta kể rằng giọng ông khi ấy giống với giọng trong The Mirror of the Sea hơn là trong các truyện ngắn hay tiểu thuyết. Sau những khoảng lặng mênh mông ấy, ông thường bất ngờ thốt ra một câu hỏi trật lất: “Anh nghĩ gì về Mussolini?”

Conrad đeo kính một mắt và không ưa thơ. Theo lời vợ ông, cả đời ông chỉ tán thưởng đúng hai tập thơ, một của một chàng trai trẻ người Pháp mà bà không nhớ nổi tên, và một của người bạn thân Arthur Symons. Tuy nhiên, cũng có người cả quyết rằng ông thích Keats nhưng ghét Shelley. Nhưng tác giả mà ông căm ghét nhất chính là Dostoyevsky. Ông ghét vì Dostoyevsky là người Nga, vì đó là một người điên và rối rắm; chỉ cần nghe nhắc đến tên Dostoyevsky thôi cũng đủ khiến Conrad nổi trận lôi đình. Ông ngấu nghiến sách vở, đặc biệt tôn sùng Flaubert và Maupassant, hai cái tên đứng đầu trong danh sách những nhà văn ông ngưỡng mộ nhất; niềm say mê văn xuôi của ông lớn đến mức, từ rất lâu trước khi ngỏ lời cầu hôn với người phụ nữ sau này trở thành vợ mình (tức là khi giữa họ vẫn còn khá xa cách), ông đã trong đêm mang đến một xấp bản thảo và đề nghị cô gái trẻ ấy đọc to một vài trang - chính là đoạn trích từ cuốn tiểu thuyết thứ hai ông đang viết. Đầy sợ hãi và run rẩy, Jessie George làm theo lời ông, nhưng chính sự căng thẳng của Conrad lại chẳng giúp ích được gì: “Bỏ qua phần đó đi, ông nói. “Phần đó sẽ bị bỏ... đừng bận tâm... đọc từ dòng thứ ba phía dưới ấy; lật đi, lật đi.” Ông thậm chí còn chê cả cách bà phát âm: “Phát âm rõ vào; nếu mệt thì nói; đừng nuốt chữ. Người Anh các em ai cũng vậy, chữ nào đọc cũng như nhau cả.” Điều trớ trêu là chính con người cầu toàn và khe khắt như Conrad lại mang một giọng ngoại quốc rất nặng cho đến tận cuối đời, trong chính ngôn ngữ mà với tư cách nhà văn, ông đã chinh phục và sử dụng thuần thục hơn bất cứ ai cùng thời.

Mãi đến năm ba mươi tám tuổi Conrad mới kết hôn, và khi cuối cùng cũng ngỏ lời, sau nhiều năm quen biết và làm bạn, thì lời cầu hôn ấy lại bi quan chẳng khác nào một trong những câu chuyện u ám của ông khi tuyên bố rằng mình không còn sống được bao lâu và hoàn toàn không có ý định sinh con. Phần lạc quan đến sau đó khi ông nói thêm rằng với cuộc sống hiện tại của mình, ông nghĩ rằng ông và Jessie có thể cùng nhau chung sống vài năm hạnh phúc. Mẹ của cô dâu tương lai chỉ lạnh lùng bình luận: “Chẳng hiểu sao cậu ta lại muốn lấy vợ.” Conrad, dù vậy, vẫn là một người chồng tận tụy: ông thường mang hoa tặng vợ và mỗi khi hoàn thành một cuốn sách, ông luôn luôn dành cho bà một món quà hào phóng.

Dù mất cha mẹ từ khi còn nhỏ và hầu như không lưu giữ được nhiều ký ức về họ, Conrad lại là người rất bận tâm đến truyền thống gia đình và tổ tiên. Thậm chí ông nhiều lần bày tỏ nỗi tiếc nuối về một sự kiện liên quan đến một người họ hàng vĩ đại của mình trong cuộc rút lui cùng Napoléon khỏi Matxcơva, do đói khát cực độ, viên sĩ quan này - cùng với một vài đồng đội - buộc phải xoa dịu bằng cách hy sinh “một con chó xui xẻo của người Lithuania”. Việc một người thân trong gia đình từng ăn thịt chó khiến ông thấy thật ô nhục, và hơn nữa, ông còn đổ lỗi gián tiếp cho chính Bonaparte về chuyện ấy.

Conrad đột ngột qua đời vào ngày 3 tháng Tám năm 1924 tại ngôi nhà ở Kent, hưởng thọ sáu mươi sáu tuổi. Ông cảm thấy không khỏe vào ngày hôm trước nhưng không có bất kỳ dấu hiệu nào cho thấy cái chết đang cận kề. Chính vì vậy, khi cái chết đến, ông đang ở một mình trong phòng, nằm nghỉ. Vợ ông, lúc ấy ở phòng kế bên, nghe thấy ông kêu lên: “Ở đây...!” rồi tới một từ thứ hai nghẹn lại mà bà không thể nghe rõ, tiếp theo là một tiếng động mạnh. Conrad ngã khỏi ghế, gục xuống sàn nhà.

Cũng giống như việc muốn xóa bỏ câu chuyện ăn thịt chó ở Lithuania của người họ hàng, về sau này, đôi khi ông cũng phủ nhận rằng mình từng viết một số tác phẩm (bài báo, truyện ngắn hay các chương sách viết chung với Ford Madox Ford) mặc dù đó rõ ràng là tác phẩm của ông và được xuất bản dưới tên ông. Dù vậy, ông vẫn một mực chối bỏ và tuyên bố rằng mình hoàn toàn không nhớ gì về những trang viết đó. Khi người ta đưa ra bản thảo và chứng minh rằng những trang giấy kia không thể nghi ngờ chính là bút tích của ông, ông chỉ khẽ nhún vai, một trong các cử chỉ đặc trưng nhất của ông, rồi im lặng. Tất tật những ai từng gặp ông đều đồng ý rằng ông đầy chất mỉa mai, nhưng đó là kiểu mỉa mai mà những đồng hương người Anh mà ông có sau này không phải lúc nào cũng nắm bắt được, hoặc có lẽ, không hiểu nổi.


Henry James trong chuyến ghé thăm

Có thể nói rằng Henry James vừa bị giày vò lại vừa tìm thấy niềm vui từ cùng một điều, chỉ làm một kẻ quan sát và hầu như không thực sự tham gia đời sống, hoặc ít nhất là không dự phần vào những khía cạnh sôi động và mãnh liệt nhất của nó. Mặt khác, trong suốt nhiều năm, ông lại sống một đời sống xã hội vô cùng sôi nổi và đòi hỏi khắt khe, đến mức chỉ riêng trong một mùa lễ duy nhất, 1878–79, ông đã nhận (và có đến thật) chính xác một trăm bốn mươi lời mời dự tiệc tối. Ấy là thời kỳ nơi không buổi công diễn khai màn hay dạ tiệc nào không bị coi là kém nếu ông vắng mặt.

Tuy vậy, hầu hết mười tám năm cuối đời ông sống ở Lamb House, ngôi nhà miền quê của ông tại Rye song cũng không hẳn là thiếu người bầu bạn: ngoài bốn người hầu, người làm vườn và thư ký, suốt các mùa còn có nhiều khách viếng thăm, tuy nhiên luôn luôn theo cách có trật tự và kín đáo, vì ông không bao giờ tiếp quá hai vị khách cùng lúc. Gần đó có vài nhà văn sống lân cận, như Joseph ConradFord Madox Ford - khi ấy vẫn còn mang họ Hueffer. James ít khi qua lại với Conrad, bởi tuy ngưỡng mộ tác phẩm của Conrad, ông vẫn không thực sự thích con người ấy, chủ yếu vì “suy cho cùng” đó là một người Ba Lan, một tín đồ Công giáo, một nhà lãng mạn và là một kẻ bi quan mang tâm hồn Xlavơ. Tuy vậy, mỗi khi gặp nhau, họ thường trò chuyện với sự trang trọng và tôn kính cao độ và, luôn luôn dùng tiếng Pháp; cứ khoảng ba mươi giây James lại thốt lên “Mon cher confrère!” [Đồng nghiệp thân mến của tôi!], Conrad cũng không kém phần long trọng đáp lại “Mon cher maître!” [Người thầy kính mến của tôi!] Còn với Ford (hay Hueffer), vốn kém James khá nhiều tuổi, họ gần như gặp nhau thường xuyên, thậm chí vượt mức James mong muốn: có bằng chứng rõ ràng rằng khi đang đi cùng thư ký, James đã nhảy qua một con mương để tránh chạm mặt trên đường dẫn vào Rye, nơi mà Hueffer thường đứng chờ ông đi qua.

Henry James là một người đàn ông to lớn, gần như béo phì, hoàn toàn hói đầu và có đôi mắt đáng sợ - sắc bén và trí tuệ đến mức người hầu ở một số ngôi nhà ông từng ghé thăm đã run lên khi mở cửa cho ông, tin rằng ánh nhìn ấy có thể xuyên thấu tận xương sống họ. Cái đầu hói khiến ông trông như một nhà thần học, còn đôi mắt thì như của một pháp sư. Thế nhưng trong cách đối xử với người khác, ông luôn luôn tỏ ra hết sức dè dặt và hơi hài hước, như thể cố tình bắt chước nhân vật Pickwick [của Dickens]. Tuy nhiên, nếu có điều gì làm ông bực mình, ông có thể trở nên tàn nhẫn đến khó tin và bộc phát vẻ thù hằn dù chỉ bằng lời nói. Những người gần gũi ông kể rằng tiếng Anh của ông ít khi trở nên thô bạo và trực diện, song những lần hiếm hoi đó thì không ai quên được. Nhìn chung, James nói chuyện giống hệt như cách ông viết, điều này đôi khi dẫn đến sự rườm rà phát bực, nhất là vào những năm cuối đời, khi ông đã quen với việc đọc cho người khác chép lại. Một câu hỏi đơn giản dành cho người hầu cũng phải mất ít nhất ba phút để ông diễn đạt, bởi ông quá khắt khe với ngôn từ và kinh sợ mọi sự thiếu chính xác hay sai sót. Vì quá say mê sự sáng sủa, lời nói của ông rốt cuộc lại trở nên vòng vo và tối nghĩa; có lần, khi muốn nhắc đến một con chó nhưng lại không muốn dùng trực tiếp từ đó, ông gọi nó là “một thứ gì đó màu đen, một thứ mang phẩm tính khuyển tộc”. Ông cũng không thể tự mình nói thẳng rằng một nữ diễn viên rất xấu mà chỉ đành nói rằng “một trong những cô đào bất hạnh ấy có vẻ yêu kiều mang hơi hướm của xác chết”.

Ông nói chuyện đầy những câu chen ngang và mệnh đề lồng ghép, đến mức chính điều đó đẩy ông vào tình huống khó xử: một buổi chiều nọ, như thường lệ, ông đi dạo trên con đường làng ở Rye cùng Hueffer, một nhà văn khác và con chó Maximilian của mình - vốn rất thích đuổi cừu nên luôn luôn bị buộc dây, dù sợi dây ấy đủ dài để nó vẫn có thể tung tăng thoải mái. Có lúc, để kết thúc một câu dài đặc biệt trang trọng, James dừng phắt, cắm cây gậy xuống đất rồi đứng đó thao thao giảng giải, trong khi hai người bạn đồng hành im lặng lắng nghe kính cẩn. Trong lúc ấy, con chó Maximilian chạy tung tăng quanh họ khiến sợi dây dắt quấn vào cây gậy và chân ba người làm họ bị trói chặt vào nhau. Khi “Bậc thầy” James nói xong và định bước tiếp, ông phát hiện mình không thể nhúc nhích. Phải mất một lúc mới gỡ ra được, ông quay lại, mắt sáng quắc, giơ gậy về phía Hueffer và quát: “Hueffer! Cậu còn rất trẻ, nhưng ở cái tuổi này mà bày mấy trò như thế thì đúng là ngu xuẩn! Một sự... ngu... xuẩn!”

Ngoài những cơn giận hiếm hoi, James nổi tiếng vì cung cách lịch thiệp và gần như chẳng bao giờ sơ suất. Ông nói năng nhã nhặn, luôn luôn vòng vo kiểu James, dù là với nhà ngoại giao hay thợ ống khói và, có một sự tò mò vô tận với bất cứ thứ gì lọt vào tầm mắt. Có lẽ vì thế mà người ta dễ mở lòng với ông, và khi sống ở Rye, ông tuyệt nhiên không bao giờ coi thường chuyện tầm phào của làng xóm. Ông lắng nghe không ngừng nghỉ và nói không ngừng nghỉ: ông thậm chí còn nghe một kẻ sát nhân thú tội và có lần còn giảng hẳn một bài về mũ cho cậu con trai năm tuổi của Conrad sau khi cậu bé vô tư hỏi James tại sao cái mũ ông đang đội lại có hình dáng kỳ lạ như thế.

Khi đang chìm đắm trong một cuốn tiểu thuyết, ông có thể rất đãng trí đến mức quên bẵng rằng mình có khách đến ăn trưa cho đến khi họ đã ngồi chờ sẵn quanh bàn. Nhưng về phép tắc hiếu khách, ông lại vô cùng cẩn thận và khắt khe. Chính vì thế, nguy cơ đích thực không nằm ở việc làm khách của ông mà là làm chủ nhà tiếp đãi ông bởi ông sẽ rút ra những kết luận dứt khoát, và trí tưởng tượng của ông sau đó sẽ tô vẽ thêm, tất tật dựa trên mức độ quan tâm mà ông nhận được hoặc bầu không khí trong ngôi nhà ấy. Vì thế, chẳng hạn, dù rất ngưỡng mộ Turgenev cả trong tư cách nhà văn lẫn con người (ông xem Turgenev gần như một bậc vương giả), James lại ghét Flaubert chỉ vì có một lần Flaubert đón tiếp ông và Turgenev trong bộ áo choàng ngủ. Thực ra, đó dường là một loại đồ hoạt động thoải mái, thời ấy ở Pháp gọi là chandail, và rất có thể đó là cách Flaubert thể hiện sự mở lòng đón họ vào không gian riêng tư nhất. Tuy nhiên đối với James, đấy rõ ràng là áo ngủ, và ông không bao giờ tha thứ cho Flaubert vì chuyện này. Từ đó trở đi, Flaubert trong mắt ông là một người làm mọi việc trong bộ áo ngủ, và các tác phẩm của ông đều bị James xem là thất bại, ngoại trừ Madame Bovary thì James miễn cưỡng công nhận là đã được viết trong lúc Flaubert mặc áo gi-lê. Thi sĩ kiêm hoạ sĩ Rossetti đã lặp lại chính sai lầm ấy khi tiếp đón James trong bộ đồ vẽ, với James, như vậy thì chẳng khác nào tiếp khách trong bộ đồ ngủ. Và tiếp ai đó trong bộ dạng như vậy là một sự bất kính, phản ánh tâm hồn của kẻ vừa gây tội: chính sự việc ấy khiến James suy ra rằng Rossetti có những thói quen ghê tởm, không bao giờ tắm và dâm đãng kinh hoàng. Ông hình dung Rossetti ăn sáng bằng thịt nguội đầy mỡ và trứng lòng đào. Cũng thiếu vắng hoàn toàn thiện chí là cuộc gặp với Oscar Wilde, người mà ông gặp ở Mỹ - nơi vị tông đồ của cái đẹp [Oscar Wilde] đang lưu lại. Khi James buột miệng nói rằng mình nhớ London, Wilde liếc ông khinh bỉ và gọi ông là đồ tỉnh lẻ rồi nói: “Thật á! Ông còn bận tâm đến địa điểm cơ à!” Sau đó còn buông thêm một câu cũ rích: “Thế giới là ngôi nhà của tôi!” Kể từ đó James gọi Wilde bằng đủ từ ngữ mỉa mai như “con thú dơ bẩn”, “gã ngốc hợm hĩnh”, hoặc “tên tiểu nhân hạng bét”. Ngược lại, ông hết mực ngưỡng mộ Maupassant chỉ qua một lần gặp: Nhà viết truyện ngắn người Pháp đón tiếp ông trong bữa trưa cùng một phụ nữ khỏa thân đeo mặt nạ. Với James, đó là đỉnh cao của sự tinh tế, nhất là khi được giới thiệu rằng cô ấy không phải gái điếm hay người hầu, mà là một femme du monde [phụ nữ thượng lưu], và James hoàn toàn vui vẻ tin điều đó.

Như ai cũng biết, quan hệ của ông với phụ nữ, vì lý do nào đó, và người ta đã đưa ra nhiều giả thuyết, gần như không tồn tại. Tuy vậy, dường như ông không hoàn toàn dửng dưng với tình dục, dù trong các tác phẩm ông viết hiếm khi trực tiếp nhắc đến cái đó, bởi khi ở một mình với vài người thân thiết, ông chẳng ngại ngần hỏi thẳng không chút ngượng ngùng hay né tránh về các xu hướng tình dục lệch lạc nhất. Suốt nhiều năm, ông luôn luôn tỏ rõ rằng mình sẽ không bao giờ kết hôn: một mặt, mặc dù đã sống ở Anh bốn mươi năm, ông cho rằng ý tưởng lấy một người vợ Anh thật nực cười; mặt khác, như ông từng nói với một người bạn khi bàn về hôn nhân: “Tôi đã vừa đủ hạnh phúc và vừa đủ khổ sở rồi, không muốn tăng thêm ở bất kể phần nào.” Theo ông, hôn nhân không phải là một nhu cầu thiết yếu, mà là xa xỉ phẩm đắt đỏ nhất. Phụ nữ, có vẻ như, từng mang đến cho ông nỗi buồn và day dứt. Có lần, ông kể với một người bạn, bằng giọng hết sức nghiêm túc và đầy ẩn ý, rằng hồi trẻ, tại một thành phố xa lạ, ông đã đứng hàng giờ dưới mưa để dõi theo một khung cửa sổ, chờ một bóng dáng hiện ra, hay có lẽ chỉ là một khuôn mặt không được ngọn đèn rọi tới, một ngọn đèn lóe sáng trong chốc lát rồi vụt tắt mãi mãi. “Vậy đấy...”, James nói rồi im bặt. Và khi Hueffer báo rằng ông sắp sang Mỹ và sẽ đến thăm Newport, Rhode Island, James nhờ Hueffer đi đến một mỏm đá cụ thể để thay mặt mình bày tỏ lòng kính nhớ cái nơi mà ông đã nhìn thấy lần cuối và nói lời từ biệt với người chị họ, nay đã qua đời, người mà lẽ ra - khi còn rất trẻ - ông nên lấy làm vợ.

Những người từng quen biết ông vẫn nhớ ông là một người sáng láng, lanh lợi, bồn chồn, hay lo lắng, thường xuyên dùng tay để diễn đạt khi nói, nhưng đồng thời cũng chậm rãi và cẩn trọng. Ông luôn luôn thận trọng trong lời nói và hành động, nhưng không phải theo kiểu dè dặt; tức là ông thường rất khó quyết định làm điều gì đó, nhưng một khi đã quyết - chẳng hạn như khi viết - thì không gì có thể ngăn cản được. Khi đọc cho người khác chép lại, ông thường đi tới đi lui, và ngay cả khi ăn một mình, ông cũng hay rời bàn đứng dậy vừa nhai vừa đi lại trong phòng ăn. Ông rất thích được chở đi bằng ô tô và lầm tưởng rằng mình biết rõ khu vực xung quanh hay tin rằng mình có khiếu định hướng tuyệt vời, điều đó khiến ông cùng những chủ xe dễ tính thường xuyên đến nơi vừa muộn vừa mệt rũ sau khi bị dẫn qua hết vòng rẽ này đến ngã rẽ khác dưới sự chỉ đường của Henry James. Ông hầu như không bao giờ nói về tác phẩm của chính mình nhưng lại chăm chút thư viện riêng một cách hết sức tỉ mỉ - tự tay lau bụi sách bằng khăn tay bằng lụa. Ông không hiểu vì sao sách của mình lại không bán chạy hơn, dù Daisy Miller suýt chút nữa đã trở thành sách bán chạy. Người bạn thân Edith Wharton từng âm thầm yêu cầu nhà xuất bản chuyển phần lớn tiền nhuận bút của bà vào tài khoản của James. James không bao giờ hay biết điều đó.

Henry James qua đời vào tối ngày 28 tháng Hai năm 1916, thọ bảy mươi hai tuổi, sau một thời gian dài lâm bệnh, trong đó ông nhiều lần rơi vào trạng thái mê sảng. Có lần, ông đã đọc cho chép hai bức thư như thể mình là Napoléon, một trong số đó gửi cho Joseph Bonaparte [anh trai của Napoléon Bonaparte; Napoléon Đệ nhất có nhiều anh em, trong đó từ một người em sẽ sinh ra Napoléon III], thúc giục ông nhận ngai vàng Tây Ban Nha. Vài tháng trước, sau khi hồi phục từ cơn mê sảng đầu tiên, ông đã đủ sức để kể lại rằng, khi ngã xuống sàn, tin chắc mình sắp chết, ông nghe thấy trong căn phòng một giọng không phải của mình cất lên: “Thế là nó đã đến - Điều Trọng Đại!”

Thanh Nghi dịch

favorites
Thêm vào giỏ hàng thành công