favorites
Shopping Cart
Search
Vitanova
Prev
Thu 2025
Next

Jacqueline de Romilly: Các sophist

01/11/2025 21:09

Các sophist lớn tại Athènes vào thời Périclès là cuốn sách Jacqueline Romilly - mà công trình nền tảng về sử gia Thucydide từng có ý nghĩa rất lớn - dùng để điều tra về các sophist, những nhân vật đặc biệt quan trọng của đời sống ở Athènes nhưng về sau này lại không mấy được biết (thế giới Hy Lạp không chỉ có Héraclite, Platon và Aristote). Dưới đây là lời tựa của cuốn sách ấy.

 

Khi người ta gợi về Athènes hồi thế kỷ 5 tr.CN, ai cũng ngay lập tức nảy ra trong tâm trí một chùm những cái tên lớn và những tác phẩm gây choáng ngợp. Người ta biết đấy là "thế kỷ của Périclès", rằng lúc đó Athènes, sau vai trò của nó trong những cuộc chiến tranh Médique [với Ba Tư], là thành phố hùng mạnh nhất của Hy Lạp, rằng nó hiện thân cho dân chủ, rằng hải quân của nó đảm bảo cho nó sự làm chủ các biển, rằng nó cầm đầu một đế chế đúng nghĩa, và rằng nó dùng các nguồn lực của đế chế ấy để cho xây dựng những công trình của Acropole, xung quanh đó ngày nay người ta vẫn chen chúc nhau. Người ta biết rằng vào khoảnh khắc đó điêu khắc gia Phidias điểm xuyết cho nó các tác phẩm nghệ thuật lừng danh. Người ta cũng biết rằng hồi ấy, ngay trước cuộc chiến tranh Péloponnèse, xảy ra vào một phần ba cuối cùng của thế kỷ, rồi cả suốt trong cuộc chiến tranh đó, Sophocle và Euripide đã viết những bi kịch của họ, trong khi Aristophane thì sản xuất những hài kịch của ông. Người ta biết rằng sử gia Hérodote đã đến sống, ít nhất là trong một khoảng thời gian, tại Athènes của Périclès đó và Thucydide thì bắt tay viết một bộ sử sáng suốt một cách táo bạo, lần này được dành cho cuộc chiến tranh Péloponnèse, vốn dĩ đặt Athènes đối lập với Sparte, kia, nó đã bắt đầu dưới thời Périclès và kéo dài gần như cho tận đến cuối thế kỷ. Người ta cũng biết rằng Socrate hồi này ám các phố của thành phố, tranh luận với các thanh niên quý tộc và khiến họ khám phá những ý mới, mà ngày nay chúng ta biết thông qua hai trong số các môn đệ của ông, Platon và Xénophon. Cuối cùng, người ta biết rằng toàn bộ hoạt động trí năng ấy đã được theo đuổi cho tới cuối thế kỷ: khi thất bại của Athènes kết thúc chiến tranh Péloponnèse, vào năm 404, Périclès đã chết từ hăm lăm năm, Sophocle và Euripide thì vừa mới, còn Socrate sẽ bị kết án tử hình vào năm 399 và Thucydide qua đời vào cùng quãng. Vậy là người ta biết rằng từng có khi ấy một khoảnh khắc ngắn ngủi, nhưng chính yếu cho lịch sử văn minh Hy Lạp, và thậm chí cho văn minh phương Tây. Ngược lại, ít người biết các sophist. Những cái tên, Protagoras và Giorgias, đấy là còn chưa nói đến Hippias, Prodicos hay Thrasymaque, gần như chỉ quen thuộc đối với các chuyên gia.

Thế nhưng thật dễ nhận thấy rằng, trong đà bật hết sức đáng kinh ngạc đó, họ đã đóng một vai trò không kém phần đáng kinh ngạc. Quả thật, mọi sự dường đã được hoàn thành dưới ảnh hưởng của họ và với sự tham gia của họ. Tất cả mọi người đều từng công nhận tầm quan trọng của họ. Và tất tật các nhà văn thời ấy từng là môn đệ của họ hoặc học được từ họ điều gì đó, bắt chước họ hoặc giả tranh cãi với họ.

Ngay từ khởi đầu, chúng ta thấy người đầu tiên trong số họ, Protagoras, ở trong mối quan hệ chặt chẽ với Périclès, nhân vật chính của Athènes. Đời Périclès của Plutarque cho chúng ta thấy cảnh hai người tranh luận suốt một ngày liền về vấn đề trách nhiệm luật định trong một tai nạn thể thao. Cuộc tranh luận tầm phào và thuần kỹ thuật? Cuộc tranh luận của các "sophist" theo nghĩa hiện đại của từ này? Cũng được thôi, nếu muốn; nhưng cũng là sự phân tích ý niệm trách nhiệm và suy tư về luật nữa: toàn bộ tiến hóa về quyền của Athènes cùng tất tật những tranh cãi của các nhà hùng biện, các sử gia hay các nhà bi kịch về trách nhiệm đã có ở đó, được ủ trong đó. Và sophist của chúng ta hiện ra, trong hoàn cảnh đó, như một người xuất chúng và được kính trọng. Cũng thêm, lúc Périclès tổ chức, vào năm 443, chuyến đi của một đoàn thực dân toàn Hy Lạp tới Thourioi, ở Nam Ý, thì chính Protagoras là người được giao việc viết các luật cho nó: một trách nhiệm rất cao đối với người nước ngoài ấy, và nó xác nhận sự coi trọng mà ông được hưởng.

Về phần các nhà văn, thậm chí còn không dừng lại nơi ảnh hưởng gián tiếp mà vài con người đó từng thực thi và nơi danh tiếng vốn dĩ họ mang, cũng không cần nêu rất nhiều ám chỉ của Aristophane, người đối xử với họ như những người mà ai cũng biết, sự thật là phần lớn tác giả từng là học trò của họ và chỉ những dữ kiện thuần sự vị thôi cũng gây sửng sốt. Euripide được coi là đã theo, ngoài sự dạy dỗ của Anaxagore, sự dạy dỗ của Protagoras và của Prodicos, hai trong số những sophist đó; và quả thật sân khấu của ông đầy ngập các ý, các vấn đề, hay các thủ thuật phong cách hiển nhiên được vay mượn từ những thói quen của họ. Thucydide, thì được cho từng là môn đệ của Gorgias, của Prodicos và của Antiphon, ba trong số họ; có lẽ truyền thống này chỉ là một kết luận rút ra từ các mối quan hệ gần gũi hiển nhiên mà tác phẩm của ông có với sự dạy dỗ của các sophist; những quan hệ gần gũi ấy là không thể nghi ngờ: chúng đập vào mắt, cho dù về phương pháp phân tích, sự trình bày biện chứng, tinh thần thực chứng hay thậm chí các tìm kiếm về phong cách. Chính Socrate cũng được giới thiệu với chúng ta như là có những quan hệ thường hằng với các sophist. Ông coi trọng một số trong đó. Và Platon để cho ông nói, trong Ménon, rằng ông là học trò của một trong số họ, Prodicos; quả đúng là ông nói rõ trong Cratyle - nhằm chế nhạo, nhưng chuyện có vẻ rất thật - là mình từng nghe Prodicos, không phải bài giảng trị giá năm mươi drachme, mà là bài giảng "một drachme". Về sau, Platon thường trực quy chiếu đến mấy con người đó; và, giữa các đối thoại của ông, vốn dĩ thường đưa họ lên sàn diễn, có hai đối thoại mang nhan đề chính là tên của hai sophist hàng đầu: GorgiasProtagoras. Rốt cuộc, Isocrate, người lập ra, vào đầu thế kỷ 4, một trường mới dạy tu từ học và triết học, định nghĩa nó trong tương quan với các sophist, mà ông sửa chữa một số khuynh hướng, nhưng đi theo rất sát tinh thần: chính ông từng là học trò của sophist Gorgias, mà ông đã đến Thessalie để theo các cua. Khắp nơi, trong văn chương thời ấy, người ta bị gửi trả về các sophist như về với những người mà ảnh hưởng lúc đó có tính cách hết sức quyết định.

Làm thế nào, trong những điều kiện như vậy, lại không muốn hiểu xem họ là ai? Và làm thế nào, khi người ta là chuyên gia về thế kỷ 5 của Athènes, lại không mong muốn, sau nhiều năm dài nghiên cứu các văn bản của giai đoạn đó, rốt cuộc cũng đi ngược được đến những nhân vật hết sức ít được biết nhưng lại vô cùng quan trọng ấy? Nói cho đúng, người ta không hiểu được gì về cả thế kỷ của Périclès lẫn "phép mầu Hy Lạp", nếu không có một ý sáng sủa về bản tính và tầm vóc ảnh hưởng của họ.

Chỉ có điều, thế đấy! việc này cũng hóc búa ngang mức với nó cần thiết. Bởi té ra những con người rất nhiều ảnh hưởng ấy, và là những người từng dồn tụ hết khảo luận này tới khảo luận khác tại rất nhiều địa hạt, bị vuột mất khỏi chúng ta theo lối rất tàn nhẫn. Người ta biết rõ, nhìn chung, họ là ai. Nếu có thể có một số do dự về chi tiết đối với nhân vật này hay nhân vật kia, thì người ta biết tên của họ, niên đại của họ, danh tiếng của họ. Đấy là những ông thầy từ nhiều thành phố khác nhau tới và hồi đó dạy học tại Athènes - trong nửa sau của thế kỷ 5 tr. CN và quá đó một chút. Người ta có nhiều lời chứng đa dạng về hoạt động của họ và về thể loại dạy dỗ mà họ cung cấp. Nhưng những khó khăn bắt đầu ngay lúc người ta thử nhìn rõ ràng hơn thêm một chút.

Trước hết người ta phải đương đầu với nghịch lý theo đó những tác phẩm của họ, các khảo luận ấy, hết sức đa dạng và nổi tiếng, ngày nay về cơ bản đã mất hết. Có lẽ chúng quá mức kỹ thuật chăng? Dẫu có thế nào thì, từ khối to lớn những gì từng được viết đó, chỉ còn lại các mẩu nhỏ xíu, phần lớn chỉ gồm vài dòng, và được cứu nhờ những trích dẫn. Tất tật các mẩu từ những sophist của chúng ta, nối hết vào với nhau, không tạo ra nổi hai mươi trang. Hơn thế nữa, chúng đến với chúng ta mà chẳng hề có bất cứ bối cảnh nào. Cứ công nhận rằng các trích dẫn, được thực hiện sau nhiều thế kỷ, đúng và trung thành (điều này hẳn thật đáng kể), chúng cũng thường được thực hiện bởi những tác giả chẳng hề tìm cách mang lại một ý về các học thuyết, mà đôi khi dâng tặng một ví dụ về phong cách, hay bày ra một số nét chung thông qua đó những thế kỷ cổ điển dường xác nhận các ý riêng của chúng, hoài nghi hoặc lý tưởng luận tùy theo các trường hợp. Nói cách khác, vấn đề đầu tiên là một vấn đề về diễn giải. Và hết sức cần thiết, việc người nào cũng đặt vào đó một phần không nhỏ trí tưởng tượng. Thành thử các cãi cọ rất ỏm tỏi... Tôi rất biết: người ta cũng có các lời chứng, mà một số có niên đại từ thời Platon. Quả thật, ai cũng nghĩ đến Platon, người đã gần như không ngừng, ở toàn bộ tác phẩm của ông, đưa các sophist lên sàn diễn. Ông là người dẫn đường tốt nhất của chúng ta. Nhưng, nghịch lý mới, người dẫn đường đó hết sức hiển nhiên nhiều thiên ái; bởi, nếu ông đưa các sophist lên sàn diễn, thì đấy là nhằm phản bác những luận đề của họ, bởi Socrate! Vậy thì người ta thấy có chút lo lắng khi đi theo ông, và người ta có cảm giác rằng các sophist kia rất có nguy cơ trở thành những nạn nhân cho một sự soi sáng vốn dĩ đầy đánh lừa.

Như vậy, nếu phải tìm cách tái dựng những tranh cãi đó, thì chuyện thật không dễ. Và nỗ lực từng được thực hiện theo hướng ấy thỉnh thoảng có các kết quả gây nản chí thì hơn là giúp được gì. Các nhà bác học đã cúi xuống chăm chú vào từng mảnh, đã dịch, bình luận, chấn chỉnh và tranh luận. Họ đã làm việc này với hiểu biết và sự sáng suốt. Nhưng rất thường, họ rơi vào một mối nguy nhân đôi.

Thoạt tiên, ở những người tỉ mỉ hơn cả, khó khăn của các vấn đề và rất nhiều điểm tranh chấp mang lại cho những cãi cọ của họ một tính cách về uyên thâm có chút gây o ép: việc nghiên cứu các sophist đã gần như chạm vào môn thần bí, với những bất tiện mà điều này hàm chứa.

Mặt khác, để tranh luận những vấn đề đó, phải là nhà bác ngữ học và triết gia; nhưng hai năng lực hẳn chẳng thể nào được đong liều lượng ngang nhau. Khi triết học chiếm thế thượng phong, trật tự các vật làm cho những vấn đề được nêu lên được nêu chiểu theo một suy nghĩ nhiều chuyên môn hóa hơn và hiện đại hơn so với các suy nghĩ của các sophist. Từ đó mà, cho diễn giải mảnh nào đó của Protagoras, chẳng hạn, có một diễn giải "kiểu Hegel" và một diễn giải "kiểu Nietzsche". Từ đó lại còn có thói quen đọc tác giả cổ xưa nào đó "trong ánh sáng" của một triết gia của thời hiện đại. Thế là người ta nhận thấy - và điều này gần như là không thể tránh - rằng, đối với tổng thể chuyển động trí năng được hiện thân ở các sophist của chúng ta, mỗi trường triết học đều hướng đến chỗ đọc những mảnh hết sức thiếu hụt ấy bằng cách tìm thấy lại ở chúng các vấn đề của chính nó hoặc các định hướng của chính nó. Đôi khi người ta đã thấy ở đó một lý tính luận thuần túy, hoặc giả một kinh nghiệm thuộc tồn tại; vào thời chúng ta, hẳn nói đúng hơn người ta sẽ thấy trong những mảnh của các sophist những yếu tố của một triết học về ngôn ngữ - điều này sẽ không khiến ai ngạc nhiên.

Một tìm kiếm thuộc típ này - với điều kiện nó được tiến hành thật thận trọng - có thể có một giá trị nhiều kích thích đối với tất tật và mở ra các phối cảnh nhiều sức gợi ý. Nhưng rất rõ, việc nó quay lưng, theo lối đầy chủ ý, lại với lịch sử sở nghiệm - lịch sử mà cái khung là Athènes thế kỷ 5, mà hành động đặt vào hiện diện, một mặt, của những người say hiểu biết như điếu đổ và, mặt khác, những ông thầy được một tinh thần mới làm cho sôi động lên kia. Chính từ lịch sử ấy mà ở đây chúng ta sẽ xuất phát; và chính là về với nó mà người ta muốn quay lại, trong cuốn sách này, bằng cách ấy đề cập các sophist dưới một góc độ hơi khác.

Quả thật chủ đích của cuốn sách này là lịch sử của các ý, được hiểu theo nghĩa rộng nhất của cụm từ đó. Đây không phải là một cuốn sách về triết học, cũng như về triết gia. Chắc chắn, người ta không thể nghiên cứu Hy Lạp cổ điển mà không tắm trong triết học, nó, hồi ấy, đã xâm nhập mọi thứ. Nhưng, xét cho đến cùng, các triết gia hồi thế kỷ 5 đã không chỉ dạy cho các triết gia và đã không chỉ có ảnh hưởng lên các triết gia. Thucydide và Euripde hết sức thẩm thấu sự dạy dỗ của họ, cũng như Isocrate về sau này. Aristophane từng nhắc đến họ và, những lúc Platon đặt họ lên sàn diễn, thì không phải lúc nào cũng là trong các đối thoại khổ hạnh nhất. Họ đã trộn lộn vào với cuộc sống của thành phố. Và vậy thì phải được phép cho người nào từng biết rõ những môn đệ đó và những chứng nhân đó, việc tìm cách ước lượng vai trò của họ, ngang mức với bất kỳ ai. Theo cách này, người ta có cơ may nắm bắt được suy nghĩ của họ trong chính những từ ngữ mà các tác phẩm của những người đương thời phản chiếu. Ngoài ra, vậy thì người ta có cơ may định nghĩa suy nghĩ ấy chiểu theo cuộc phiêu lưu ngoạn mục trong đó Athènes đón nhận nó, phản đối nó, rồi rốt cuộc đồng hóa nó. Chúng tôi đã xử lý các sophist trong mối quan hệ của họ với văn hóa Athènes kia, mà họ tạo dấu ấn lên hết sức sâu sắc.

Điều này hàm ý một lượng những im lặng nhất định, chúng là có chủ ý, cùng một niềm hy vọng cụ thể, thứ mang lại nghĩa cho công việc.

favorites
Thêm vào giỏ hàng thành công