favorites
Shopping Cart
Search
Vitanova
Prev
Đông 2024
Next

Hòn đảo của Arturo (Chương 3)

11/03/2025 15:26

như vậy là, sau chương 1 (Thanh Nghi) & chương 2 (Huỳnh Bất Thức)

 

Sự xuất hiện của Leopardi và Pavese ở đây đã, bụp một cái, dựng ra cả một phong cảnh Ý (Natalia GinzburgAngelo Maria RipellinoEmanuele Trevi, Umberto Saba, để chỉ điểm qua phần khởi động). Elsa Morante đã rất nhanh trở thành một trung tâm, tuy có thể nói đó là một trung tâm theo lối negative. Agamben kể về điều này trong sổ của mình (một sổ khác). Chúng ta cũng sẽ sớm đến với cuốn sổ ấy.

(Một câu chuyện khác, diễn ra song song: Wien Viên Vienne Vienna. Trung tâm ở đây tất nhiên là Karl Kraus người viết châm ngôn - để biết Kraus có thể tỏa bóng khủng khiếp đến thế nào lên cả một thế hệ, xem ở kia. Nhưng cũng có một chân dung Wien khác, theo lối negative. Người viết ra nó là một phụ nữ, sinh sau Karl Kraus hơn năm mươi năm: Malina của Inge(borg) Bachmann. 

Các câu chuyện gây ngợp, đúng thế.)

 

Quay lại với Hòn đảo. Giống kia, hay kia, ta lại có câu chuyện về ông bố kỳ dị, thường xuyên gây tuyệt vọng nhưng cũng hấp dẫn vô song. Sự lớn lên dưới bóng một nhân vật như thế vừa thảm khốc vừa là một cơ hội hiếm có. Sau hai chương dạo, Arturo bắt đầu cao lên, rất sớm sẽ bắt kịp và vượt người phụ nữ vừa vào nhà. Một linh cảm mơ hồ và mãnh liệt về chuyển hóa thành hình, cùng lúc với sự biến mất của bóng hình người mẹ.

 

Đời sống gia đình

Sáng hôm sau, tôi dậy lúc rạng đông. Bố tôi và cô dâu vẫn còn ngủ, trời thật đẹp. Tôi ra ngoài, và khi về thì đã gần trưa.

Tôi đi vòng quanh nhà, tiến về phía bếp; qua những ô kính của cánh cửa kiểu Pháp, tôi thấy cô ta đang ở trong bếp một mình, chăm chú làm pasta trên khoảng bàn đã được dọn trống. Cô ta đã đổ lòng đỏ trứng vào giữa một ụ bột và đang dùng ngón tay bập mạnh. Cô ta không thấy tôi, và tôi dừng sau tấm kính, sững sờ trước thay đổi của cô ta so với đêm hôm trước.

Làm sao lại có thể khác đến thế chỉ sau một đêm! Cô ta vẫn mặc cái áo len đỏ hôm qua, cái váy ấy, đôi giày cũ ấy; nhưng giờ với tôi cô ta hoàn toàn xa lạ. Tất cả những gì hôm qua làm cô ta đẹp trong mắt tôi đã tan biến hết.

Hôm nay, vẫn theo thói thất thường của bố tôi, cô ta để tóc xõa, nhưng những lọn tóc rối, mới hôm qua còn như một vòng hoa tuyệt diệu, giờ lại khiến cô ta trông nhếch nhác, tầm thường và màu đen của chúng, tương phản với sắc tái nhợt trên mặt, càng làm tăng vẻ âm u. Vẻ nhợt nhạt nặng nề ấy đã xóa hết sắc trắng trong trẻo hôm qua trên má cô ta và hai quầng mắt, hôm qua vẫn còn mong manh khiến tôi nghĩ đến cánh hoa, giờ thâm trĩu tàn tạ. Thỉnh thoảng, trong khi nhào bột, cô ta đưa tay gạt tóc khỏi trán, mí mắt hơi nhếch lên, và ánh nhìn tôi nhớ là đẹp đến thế giờ hiện ra đục mờ, hoang dại, thê thảm.

Nhìn cô ta lúc này, tôi thấy xấu hổ vì hôm qua đã quá gần gũi cô ta, đến mức phun tông tốc những bí mật của mình! Trên băng ghế, cuốn Những Thủ Lĩnh Vĩ Đại còn bỏ quên - cái cảnh làm tôi càng xấu hổ. Tôi giận dữ mở cánh cửa kiểu Pháp và chính lúc đó, cuối cùng cô ta cũng thấy tôi. Một ánh sáng vui mừng, thân thiện hiện lên trên khuôn mặt cô ta, và với một nụ cười dịu dàng, cô ta gọi:

“Artú?”

Nhưng không đáp lại lời chào, tôi nhìn thẳng cô ta với vẻ nghiêm khắc, như cách ta nhìn một kẻ xa lạ, thấp kém, dám tùy tiện vượt qua ranh giới. Ngay lập tức, nét mặt cô ta mất vẻ tự tin vui tươi. Nụ cười biến mất, và tôi thấy cô ta nhìn tôi kỳ lạ - thất vọng, dò hỏi, dữ dội nhưng không có vẻ bị hạ nhục, cũng không hề van vỉ. Tôi không nói một lời nào, chỉ lặng lẽ lấy cuốn sách từ băng ghế rồi bỏ đi.

Suốt ngày hôm đó và những ngày tiếp theo, tôi tránh mặt cô ta, thậm chí sẵn sàng từ bỏ cả sự bầu bạn của bố chỉ để không phải ở cùng chỗ với cô ta. Tôi chỉ nói chuyện với cô ta khi thật sự không tránh được, và vào những lúc hiếm hoi ấy, tôi nhất nhất giữ vẻ lạnh nhạt xa cách để cô ta hiểu rõ rằng với tôi, cô ta còn không bằng một người xa lạ. Bị tổn thương bởi cư xử của tôi - mà nguyên do cô ta không thể nào hiểu được - cô ta đáp lại bằng những lời ngắn gọn, khô khan, ánh mắt nhìn tôi đầy vẻ dè chừng. Nhưng đôi khi, chủ yếu vào buổi tối, khi cả nhà quây quần, cô ta lại mỉm cười e dè như hòa giải, hoặc chừng muốn khiêm nhường hỏi điều gì đã khiến cô ta đánh mất tình bạn của tôi. Những lúc ấy, tôi cảm thấy một sự ghê tởm thực sự đối với cơ thể cô ta, đặc biệt là cái miệng. Giống như cả khuôn mặt, nó đã chẳng còn như ngày đầu tiên tôi gặp. Nó đã trở nên tái nhợt, vô hồn, hơi hé ra khi cô ta thở, với một vẻ thẫn thờ ngu ngốc.

Những ngày đó, bố tôi dẫn cô ta đi khắp đảo, hai người họ lúc nào cũng kè kè bên nhau. Tôi không bao giờ đi cùng họ trong những dạo chơi ấy và tìm mọi cách để tránh mặt họ. Thời tiết vẫn đẹp, và tôi tiếp tục thói quen đơn độc của mình: sáng ra tôi mang theo một mẩu bánh mì lớn và ít pho mát rồi đi lang thang suốt cả ngày, đến tối mới về. Tôi cũng cắp theo một cuốn sách, và khi thấm mệt vì đi lại, tôi ghé vào quán cà phê ở cảng - quán của bà góa phụ pha cà phê Thổ Nhĩ Kỳ trong chiếc ấm tráng men.

Thực tế là quãng đó tôi có tiền - một sự kiện hiếm có và phi thường - bởi trước khi lên đường làm đám cưới, vào buổi sáng đi thu tiền tá điền, bố tôi đã đưa cho tôi năm mươi lire. Với số vốn bất ngờ này trong túi - một khoản khổng lồ đối với tôi, tôi dõng dạc gọi một ly cà phê pha rượu hồi từ bà góa phụ, ném tiền luôn lên quầy, không hạ mình trò chuyện lấy một lời, rồi đi thẳng đến một góc quán, ở đó tôi ngồi đọc bao lâu tùy thích. Vào giờ ấy, tôi là khách duy nhất trong quán; bà chủ hoặc ngủ gà ngủ gật, hoặc mê mải với những ván bài xếp vô tận. Thỉnh thoảng, với vẻ đe dọa và khinh mạn của một kẻ ngoài vòng pháp luật, tôi rút ra cái bật lửa bất hợp pháp nổi tiếng của Silvestro và dù đáng tiếc là nó thiếu đá lửa nên không cháy được, tôi vẫn cố tình bật thật khinh bạc. Khi đọc sách, tôi luôn để sẵn trên bàn một bao thuốc lá rẻ tiền, mới mua nhưng chưa hề động đến - trước đó tôi đã đôi lần rít thử vài hơi từ những điếu thuốc hút dở của bố và thấy thuốc lá thật là kinh tởm.

Khi trời nhá nhem, mụ góa thắp một ngọn đèn nhỏ trên quầy và tiếp tục ván bài. Ngọn nến thấp tè cháy trước bức chân dung ông chồng quá cố tỏa ra một thứ ánh sáng lập lòe, gần như u ám giữa những quầng tối đục; và tôi ngồi đó, thực sự vênh vang. Tôi thấy mình như một cướp biển thực thụ, đang ngồi trong một quán rượu ám muội của bọn phiêu lưu: có lẽ ở một làng nào đó bên Thái Bình Dương, hoặc trong những con hẻm Marseille u tối.

Nhưng vì ánh sáng yếu không đủ để đọc, tôi chóng thấy chán và, không chào lấy một lời, rời khỏi quán cà phê, men theo con đường tối mù quay lại Casa dei Guaglioni.

Vừa về đến nơi, tôi đi thẳng vào phòng và tự nhốt mình trong đó, không buồn tìm kiếm hai vợ chồng mới cưới. Rồi, một cảm giác cô đơn - loại cô đơn trước đây chưa từng biết - bắt đầu xâm chiếm tôi. Ngay cả mẹ tôi - con chim hoàng yến vàng óng trong cổ tích, từng hiện ra ngay khi tôi cất tiếng gọi - cũng không còn đến cứu tôi nữa. Và điều tồi tệ nhất nằm ở chỗ không phải bà đã phản bội; bà chỉ không còn hiện diện. Tôi, chính tôi đã đột ngột đánh mất mọi khao khát kiếm tìm bà, tự tay phủ nhận con người huyền bí của bà. Sự mất lòng tin đã từng chừa lại một mình bà giờ cũng đẩy bà xuống lòng đất, vào cõi của những người chết - những kẻ chẳng là gì và không còn lời nào để đáp lại tôi. Đôi khi, một nỗi khao khát vẫn chợt dấy lên, nhưng ngay lập tức, tôi tàn nhẫn tự nhủ: “Mày đang nghĩ cái gì thế? Bà ấy CHẾT rồi.”

Cứ thế, tôi chịu đựng những khoảnh khắc khó khăn. Nhưng cả những lúc ấy, tôi vẫn thích ở một mình hơn là phải đối diện với cặp vợ chồng mới cưới. Thời điểm duy nhất cả ba chúng tôi có mặt cùng nhau là vào buổi tối, trong bữa ăn.

Mẹ kế tôi đã đưa vào nhà một thói quen mới: tối nào chúng tôi cũng có bữa nóng và bếp luôn đỏ lửa suốt cả ngày. Đây thật ra là cải cách duy nhất mà cô ta mang đến cho nếp sống gia đình. Còn lại, vì không phải là một nội trợ giỏi, cô ta chỉ biết kéo gọn chăn và thỉnh thoảng quét nhà - qua loa nhưng rất hăng - bắt đầu từ bếp rồi lần lượt các phòng. Nhờ vậy, may thay, nhà chúng tôi vẫn y như trước, với lớp bụi lịch sử và vẻ lộn xộn tự nhiên của nó.

Còn Costante của chúng tôi, từ khi có cô dâu mới, đã rất hài lòng khi từ bỏ vai trò đầu bếp kiêm người hầu, trở về với cuộc sống trang trại. Giờ cô ta có thể tự lo cho nhà cửa; ông chỉ ghé qua một hai lần mỗi tuần để mang trái cây và các sản phẩm từ trang trại.

Đến giờ ăn tối, bố tôi cất tiếng gọi lớn và tôi đi xuống. Sau buổi tối đặc biệt đầu tiên, những bữa ăn chung của chúng tôi dần trở nên trầm lặng. Mẹ kế tôi lúc nào cũng dè dặt, lo lắng trước mặt bố tôi; nhưng không như ngày đầu, giờ, gần như theo phản xạ, cô ta lúc nào cũng ở sát bên ông, ngồi thu lu cạnh ông. Có lúc bố tôi để mặc, có lúc ông bực bội tránh xa. Nhưng như tôi đã kể, những ngày ấy ông không rời cô ta dù chỉ một lúc.

Sau bữa tối, tất cả chúng tôi đi ngủ. Thường thì tôi trước, rất chóng vọt về phòng, khép cửa và không buồn bật đèn, chui tọt vào chăn. Rồi chẳng bao lâu, tôi nghe tiếng bước chân họ ngoài hành lang và tiếng cửa phòng đóng lại sau lưng. Theo phản xạ, tôi siết chặt tay, bịt chặt tai, sợ sẽ lại nghe thấy tiếng hét ấy vọng ra từ phòng họ. Tôi không thể tự giải thích lý do, nhưng thà đối diện với thú dữ còn hơn phải nghe lại âm thanh đó.

 

Chủ gia đình bắt đầu buồn chán

Sau một tuần trời đẹp, mưa lại bắt đầu phủ lên hòn đảo, nhưng sáng sáng tôi vẫn ra ngoài, đôi khi trở về ướt sũng. Những ngày cô độc của tôi cứ thế trôi qua, cho đến giữa tuần thứ hai, khi bố tôi bắt đầu nói chuyện ra đi. Tôi không thể chịu nổi nỗi cay đắng của việc mất đi những giờ cuối cùng bên ông và do đó cố gắng ở gần ông hơn, dù phải chịu đựng sự có mặt của mẹ kế.

Hôm ấy là buổi chiều, và giống hôm mới đến, cả ba chúng tôi ở trong phòng bố. Ông nằm nghiêng trên giường, hút thuốc như thường lệ. Khói thuốc Nazionale, mà ông đã châm liên tục từ sáng sớm, khiến bầu không khí trong phòng thật nặng nề. Ngoài cửa trời đục mờ, những đám mây khổng lồ theo gió lừ lừ qua. Không ai có hứng nói chuyện. Bố tôi ngáp dài, liên tục đổi tư thế trên giường như người lên cơn sốt; đôi mắt ông là một quầng xanh nhạt nhuốm bụi. Nỗi buồn chán với ông dường là một thứ gánh nặng cay đắng và bi thảm, một tai họa trời giáng. Và trong khoảnh khắc đó, tôi nhận ra những luật bí ẩn của ông - mà tôi đã ngưỡng mộ từ bao giờ: chính những luật ấy, quan trọng hơn bất cứ lý do nào, đã từng khiến ông suýt ngất khi tôi còn nhỏ, chỉ vì một vết đốt của con sứa.

Cả sự buồn chán khiến ông héo hon ấy cũng đầy sức mê hoặc. Tôi thấy rõ rằng ông chỉ muốn rời khỏi đảo và tôi càng cay đắng tiếc những ngày vừa qua, những ngày bị đánh mất khi ông vẫn còn ở đây, trong tầm tay tôi mọi lúc - thế mà tôi lại tránh né ông! Tất cả là lỗi của mẹ kế tôi, và một cơn điên giận báo thù bùng lên trong tôi.

(Nhìn lại sau ngần ấy năm, tôi cố hiểu những cảm xúc kỳ lạ bắt đầu chen chúc trong mình những ngày đó nhưng vẫn không thể phân biệt rõ hình dạng chúng. Tất cả rối tung trong tôi, không được soi rọi bởi bất kỳ suy nghĩ nào. Trong ký ức, tôi hình dung một thung lũng sâu, biệt lập trong đêm đặc mây đen: dưới thung lũng ấy, một bầy thú hoang - sói hoặc sư tử - đang lao vào trận chiến, thoạt đầu như đùa giỡn rồi dần ác liệt. Trong khi đó, mặt trăng vẫn lặng lẽ trôi qua bên ngoài những đám mây, nơi vùng trời quang đãng xa vời.)

Chừng chẳng ai trong chúng tôi nói lời nào suốt nửa giờ. Mẹ kế lặng lẽ ngồi trên ghế, có lẽ e dè tôn trọng tâm trạng thất thường của bố tôi. Cuối cùng, chính ông phá tan bầu im lặng, gầm lên bực dọc: “Đủ rồi. Không thể chịu đựng hòn đảo này thêm nữa. Phải đi khỏi đây thôi.” Và ông ném điếu thuốc mới châm xuống sàn, vẻ chán ghét tột cùng.

Như đã kể, bố tôi vẫn nhắc luôn đến chuyện lên đường nhưng chưa bao giờ ấn định ngày cụ thể. Tất nhiên ai cũng hiểu rằng lần này ông cũng sẽ đi một mình: cô dâu sẽ đợi ông ở Procida, như bổn phận. Cô ta biết rõ điều đó, và khi nghe tiếng gầm giận dữ của ông, cô ta chỉ cúi đầu, không phản đối gì. Trong dáng thu mình, đôi vai cô ta - quá nhỏ so với vòng ngực đầy - khiến cô ta có vẻ thật mong manh. Nhưng hàng mi đen dài rủ dường như phủ lên khuôn mặt một nét nghiêm nghị bí ẩn; dưới lớp áo len đỏ, nhịp thở đều đặn của cô ta vẫn có thể thấy rõ.

Bố tôi nhìn cô ta, ánh mắt pha giữa giận dữ và một thứ trìu mến khó hiểu - như thể muốn đi nhưng vẫn tiếc khi để cô ta lại; ông đang âm thầm trách cô ta, có lẽ vô thức, vì đã khiến ông lưu lại đến tận giờ. Rồi ông thình lình kêu lên: “Quá đủ rồi! Còn chờ cái quái gì mà chưa đi chứ?” Ngay lúc đó, cô ta chớp mắt, và ánh mắt họ chạm nhau. Rồi cô ta khẽ nói, ngước lên nhìn ông với đôi mắt trầm lặng:

“Ông chưa cưới được hai tuần mà đã muốn rời nhà sao?”

Cô ta nói bằng một giọng nhiều thở than cam chịu hơn là phản kháng, nhưng lời nói ấy đủ sức xóa sạch mọi dấu vết thân thiện trong ánh mắt bố tôi. “Có gì lạ?” Ông gầm lên khinh miệt. “Chẳng lẽ cưới chưa được hai tuần là tôi phải vứt bỏ cái quyền làm những gì mình muốn à? Cô sợ quái vật sẽ ăn thịt cô nếu phải ở lại Procida mà không có tôi sao?”

“Arturo,” ông nói thêm với vẻ tự hào, “đã ở lại Procida mà không có tôi vô số lần, và thằng bé chưa bao giờ làm rối lên mỗi lần tôi đi. Còn dây đến đàn bà thì thế đấy.”

Cô ta lắc đầu, bồn chồn vân vê những lọn tóc xoăn: “Nhưng… em… Vilèlm…” “Cô là ai chứ? Cô mong đợi cái gì mới được?” Bố tôi cắt ngang. Ngay khi nghe cái tên Vilèlm được thốt ra từ miệng cô ta, ông đã nhăn mặt, và cả thứ cử động nhỏ nhặt - ngón tay cô ta xoắn những lọn tóc - cũng khiến ông khó chịu. “Mà bỏ ngay cái trò nghịch tóc bẩn thỉu đó đi,” ông ra lệnh. “Thay vào đó tìm cách tống khứ những đòi hỏi ngu ngốc của cô ra khỏi đầu, nếu mà cô dám… Nhưng em, Vilèlm! Cô trông mong gì thế hử, chỉ vì bây giờ cô trở thành signora của tôi?”

Mẹ kế tôi lặng im, mặt sầm lại lắng nghe. Nhưng đôi mắt cô ta vẫn vô thức ánh lên vẻ phụ thuộc và trung thành.

Ông vung chân chồm xuống khỏi giường và đứng lù lù trước mặt cô ta. Tôi cảm thấy trong ông dâng lên một mối hằn học khó hiểu, thứ dường như chỉ cô dâu mới khơi lên được; nó từng bộc phát một lần trước đó, trong chính căn phòng này, hôm đầu tiên. Nhưng lần ấy trong thâm tâm tôi đã đứng về phía cô ta, còn hôm nay, ngược lại, tôi thấy hài lòng khi ông sỉ nhục cô ta. Thậm chí tôi hy vọng ông sẽ giận dữ đến mức ra tay, quăng cô ta xuống sàn rồi giẫm lên người cô ta chẳng hạn. Gần như tôi cảm giác một cuộc tấn công như thế sẽ mang đến cho tôi một sự thanh thản nào đó.

“Nhớ,” ông tiếp tục, giọng càng lúc càng cuồng nộ, “rằng dù đã cưới hay chưa, tôi cũng luôn tự do đi về tùy thích, không phải báo cho ai hết! Với tôi, không có nghĩa vụ hay bổn phận nào, TÔI TUYỆT ĐỐI LÀ BÊ BỐI! Không, em yêu dấu, tôi không việc gì phải giải thích với cô cả! Hoàng đế vĩ đại có thể nhốt Wilhelm Gerace vào lồng hẵng còn chưa ra đời! Và nếu cô, con búp bê rách nát bị rệp cắn, nghĩ rằng sau khi kết hôn tôi sẽ phải bám lấy mấy miếng giẻ rách của cô thì tốt nhất là hãy từ bỏ ảo tưởng ngay!”

Ông nhướng mắt về phía cửa sổ, đôi mắt xanh tuyệt đẹp đã tối sầm bởi sự hành hạ không sao chịu nổi của buồn chán và hoài nhớ cuồng loạn: “Ôi, tại sao,” ông hét lên, “đêm nay lại không có cái tàu nào? Tại sao lại phải chờ đến mai? Tôi muốn đi ngay lập tức, lên con tàu hơi nước đầu tiên, và sẽ một thời gian dài không báo tin gì về!” Ánh mắt ông quay lại phía cô dâu, sốt ruột và cay đắng. Lúc đó, có cảm giác như chỉ tồn tại của cô ta, chỉ vì cô ta đang đứng đó chắn không gian trước mặt ông, đã là một tội lỗi, là sự đe dọa đối với quyền của Wilhelm Gerace. Quyền đó là được cảm thấy mình tự do như thiên thần - và tôi hoàn toàn tin rằng sự bướng bỉnh tuổi trẻ mà bố tôi dùng để bảo vệ quyền ấy là chính đáng. Bởi lẽ, trong mắt tôi, chính tự do ấy là nguồn cho ân sủng của ông và có thể nói là cả sự bất tử của ông.

"Em... em đâu có nói đến chuyện chống lại ý muốn của ông... như thế là trọng tội! Ông là chồng em... em đã thề vâng phục ông... ông là chủ trong nhà... và ông có quyền ra lệnh cho em..." mẹ kế tôi nói, đầy xác tín. Nhưng cô ta sợ run trước cơn thịnh nộ cuồng loạn, đến mức nước mắt bắt đầu ậng lên. Kể từ khi biết cô ta, tôi chưa bao giờ thấy cô ta khuất phục trước cám dỗ của nước mắt. Đây là lần đầu tiên cô ta để mình khóc.

Nhìn thấy những giọt nước mắt ấy, bố tôi lập tức mất đi chút lòng trắc ẩn hay khoan dung cuối cùng còn lại. "Cái gì!" ông hét lên, gần như kinh hãi. "Chúng ta đã đến mức này rồi sao - cô khóc chỉ vì tôi đi?"

Ông nhìn cô ta với ánh mắt nghi hoặc, không phải căm ghét mà là ghê tởm thực sự. Như thể cô ta vừa giật bỏ lớp mặt nạ và để lộ khuôn mặt của một yêu nữ, kẻ muốn cầm tù Wilhelm Gerace.

"Tôi lệnh cho cô trả lời," ông quát, gương mặt lạnh lùng như thể đang buộc cô ta một tội ác nào đó. "Cô đang khóc vì đau buồn khi tôi đi? Hả? Cô khóc VÌ CÁI ĐÓ à?"

Cô ta nhìn ông với một sự táo bạo lạ lùng, đôi mắt ủ dột nhưng kiêu hãnh, bất chấp những giọt nước mắt, và kiên quyết đáp rằng không.

"Tôi không muốn ai khóc vì yêu tôi, tôi không muốn tình yêu," ông cảnh báo, ghê tởm nhại lại giọng cô ta khi thốt ra chữ tình yêu - giọng pha trộn của ông phát âm nó là ammore, theo kiểu Napoli. "Biết cho rõ, cô nương, tôi sẽ không bao giờ cưới cô nếu tôi không chắc chắn một điều: rằng cô KHÔNG có tình cảm gì với tôi. Cô chấp nhận cuộc hôn nhân này là vì bổn phận vâng lời mẹ. Cô không yêu tôi, may quá! Và tôi khoái chí khi thấy mẹ cô và mụ  đỡ đầu của cô, tưởng đâu mình tinh ranh lắm, cố công che giấu chuyện đó trước tôi. Nhưng với tôi, đó mới là lý tưởng! Cô nên nhớ kỹ điều này, vợ ạ: đừng bao giờ có tình cảm gì với tôi. Tôi không biết phải làm gì với tình cảm của đàn bà. Tôi không muốn tình yêu của cô."

Suốt bài diễn văn ấy, cô dâu cố nén nước mắt, nhìn bố tôi với đôi mắt mở to nhưng không chút ngạc nhiên, như thể đang nghe một thứ ngôn ngữ xa lạ và man rợ. Trong khi đó, ông bắt đầu đi qua lại từ giường đến cửa sổ, ném về phía cô ta những ánh nhìn gay gắt.

“Tổ tiên tôi, trong bức chân dung kia, đã nói rằng đàn bà giống như bệnh hủi: cứ bám lấy ai là muốn nuốt chửng người đó từng chút và tách hắn ra khỏi thế giới. Tình yêu của đàn bà chỉ đem lại xui xẻo, đàn bà không biết yêu. Tổ tiên tôi, cô nương ạ, là một vị thánh và chỉ nói sự thật thôi. Aaaa!” Rồi bố tôi thình lình giật bức chân dung Amalfitano khỏi tường, ôm chặt nó một cách khoa trương. Trong tư thế của một giọng nam cao bi thiến, ông bất ngờ phá lên cười - tràng cười rõ ràng, tự nhiên - như thể đang chế giễu cả mẹ kế và Amalfitano.

 

Chống lại các bà mẹ (và đàn bà nói chung)

Bất chợt, mẹ kế tôi hất mạnh tóc, hất cao cằm với vẻ thách thức bất phục.

“Cái con người đó,” cô ta bật lên, như bị xâm chiếm bởi một tinh thần chiến đấu lạ lùng, “cái đồ phù thủy đó, hắn quên mất mẹ hắn rồi! Nói về đàn bà như thế à! Trời ơi! Nhưng nếu không có đàn bà thì ai đẻ ra hắn?” Nói đến đây, cô ta bắt đầu đong đưa tới lui, dáng ngạo nghễ đến mức gần như xấc xược: “Điều mà ngay cả lũ ngu cũng biết, ngay cả lũ cũng biết,” cô ta tiếp tục, “đó là mẹ thì đẹp biết bao nhiêu! Và không có ai quên bà bao giờ, bà là tình yêu đầu tiên của tất cả chúng ta! Ai mà lại…”

“Câm ngay, đồ đàn bà xấc xược nhếch nhác!” bố tôi cắt ngang.

Rồi ông gục xuống giường, lại sằng sặc cười, nhưng lần này là một tràng cười run rẩy đứt đoạn, hoàn toàn khác tiếng cười khi nãy. “Mẹ ư!” ông nhại lại, giọng mai mỉa. Rồi ông đắc thắng quay sang mẹ kế tôi: “Tổ tiên tôi không có mẹ! Ông ta sinh ra từ cuộc gặp giữa mây và sấm!”

“Thật sao!” mẹ kế tôi nói, giọng đầy nghi hoặc. “Mây và sấm.”

“Phải, may cho ông ấy! Giá mà chúng ta đều được sinh ra theo cách đó… từ một thân cây… một miệng núi lửa Vesuvius… một mảnh đá lửa… từ bất cứ thứ gì không phải dạ con đàn bà!”

“Nhưng… đàn bà… hy sinh tất cả… vì con cái…” mẹ kế cố phản bác (dù rõ là cô ta đang sợ run lên trước lời đả kích). “Đủ rồi, tôi bảo im đi!” bố tôi lại ngắt lời. “Hy sinh… Cô có muốn biết một chân lý vĩnh cửu không, đồ yêu nữ, đồ hổ cái? Nhớ cho kỹ: HY SINH LÀ SỰ BIẾN DẠNG DUY NHẤT CỦA CON NGƯỜI! Tôi không ưa gì cái sự hy sinh. Còn những hy sinh của người mẹ ư… Aaa! Trong tất cả những mụ đàn bà tệ hại mà người ta có thể gặp trong đời, kẻ tệ hại nhất chính là mẹ của mình! Thêm một chân lý vĩnh cửu!”

Tôi kinh ngạc đến mức không kìm được tiếng thở dài, nhưng tôi nghĩ bố tôi không nghe thấy. Ông ngả đầu ra gối, vừa hét vừa quăng quật chăn mạnh đến mức cả cái giường lắc lư như một con thuyền giữa bão. Sau khi đã buộc mẹ kế phải im, ông tiếp tục một mình thuyết về các bà mẹ, không cần biết có ai nghe không nữa. Lúc thì ông nghiến răng cãi vã với chính mình, lúc lại cất giọng sấm rền, thỉnh thoảng xen những tràng cười thình lình hay những câu rủa tục tĩu; và tôi lại nhận ra cái giọng đặc thù ấy - giọng khinh miệt, xảo trá, đầy kịch tính - với nó, để tự mua vui, ông đôi khi như khiêu khích cả người chết.

Rồi trong ký ức, tôi lại thấy bức ảnh cũ: giữa những bạn cùng lứa, một cô gái đẫy đà ủy mị bị đánh một dấu thập nhỏ bằng mực…

“… Ít nhất,” bố tôi vẫn tiếp tục lý lẽ, “người ta có thể tự cứu mình khỏi những người đàn bà khác, làm bọn họ nản lòng, không dám yêu mình nữa; nhưng ai có thể cứu chính mình khỏi mẹ mình? Bà ta có cái thói đạo hạnh thánh thiện… Bà ta cứ chuộc mãi cái tội đã sinh ra ta, và chừng nào còn sống, bà ta - bằng tình yêu của bà ta - sẽ không đời nào để ta thực sự sống. Điều đó hoàn toàn dễ hiểu: bà ta, một mụ đàn bà nhỏ bé tầm thường, chẳng có gì ngoài tội lỗi ấy trong quá khứ, và tương lai của bà ta chỉ có ta, đứa con bất hạnh, là biểu hiện duy nhất của số phận. Bà ta chẳng có gì khác để yêu. A, thực là địa ngục khi bị yêu bởi một kẻ không yêu hạnh phúc, không yêu cuộc sống, không yêu chính mình mà chỉ yêu ta! Và cứ thử nhăm nhe thoát khỏi sự lạm dụng ấy, sự áp bức ấy mà xem, bà ta sẽ gọi ta là Giu-đa! Đúng đấy, ta là kẻ phản bội chỉ vì khao khát được lang bạt trên đường chinh phục thế giới, trong khi bà ta lại muốn giữ rịt ta mãi cạnh mình, trong căn nhà tí hin chỉ có một phòng và một bếp!”

Tôi theo dõi bài nói của ông với một hứng phấn cực độ nhưng cũng đầy bất an. Thật kỳ lạ, tôi có cảm giác rằng trong khi ông nói, một người mẹ bí ẩn, to lớn đẫy đà từ một miền Bắc xa lạ nào đã hiện diện ở đó, đang hành hạ ông theo cách tàn nhẫn nhất, như để trừng phạt ông vì đã xúc phạm bà. Và dù chủ đề các bà mẹ luôn khiến tôi say mê, tôi vẫn mong ông dừng lại. Nhưng ông vẫn tiếp tục, càng lúc càng căng thẳng và lê thê. Như thể, để giết thời gian một ngày buồn chán, ông đang tự kể cho mình một truyện cổ tích khó chịu:

“Và trong khi ta lớn lên, trở nên đẹp đẽ thì bà ta tàn phai… Ai cũng biết số phận không thể nào trộn lẫn với khốn khổ, đó là luật của tự nhiên! Nhưng bà ta không hiểu luật ấy, và mụ già muốn ta còn phải khốn khổ hơn mình - già nua, xấu xí, có lẽ tàn tật hay bại liệt - chỉ để giữ ta rìn rịt cạnh mình. Bà ta không có tự do và muốn ta cũng thành nô lệ cùng mình. Đó, cái đó, chính là tình mẫu tử!

“Không thể làm đầy tớ cho ta, bà ta đành tự thỏa mãn với câu chuyện bi thương của một người mẹ tử đạo và một đứa con không trái tim. Ta, tất nhiên, chẳng ưa gì, và ta bật cười chế giễu: ta thích những câu chuyện khác, những trái tim khác… Bà ta khóc, ngày càng trở nên u ám, lẩn thẩn, cay nghiệt! Mọi thứ quanh bà ta đều nhuốm nước mắt. Và ta, dĩ nhiên, càng ngày càng muốn tránh xa. Nhưng cứ hễ ta xuất hiện, bà ta lại buộc tội ta…Lời buộc tội của bà ta là tối thượng, như thánh kinh. Bà ta gọi anh là sát nhân đê tiện và những thứ còn khủng khiếp hơn nhiều. Không một ngày nào bà ta không ngâm nga bài kinh đó! Có lẽ bà ta muốn gieo vào ta sự căm ghét chính mình, muốn tước đoạt con người ta, để có thể thay thế lòng kiêu hãnh và những huyễn tưởng của ta, biến ta thành của mình, giống như một nữ hoàng cay nghiệt.

“Và dù chạy trốn đến đâu, rời xa bà ta vào sống trong thành phố, ta cũng không sao thoát được tình yêu ấy - thứ ký sinh trùng vĩnh cửu ấy. Nếu, chẳng hạn, ta nghe thấy tiếng sấm hoặc mưa, ta có thể thề rằng ngay khoảnh khắc đó, trong căn nhà tồi tàn của mình, bà ta đang tuyệt vọng nghĩ: Giờ thì nó sẽ ướt sũng, nó sẽ cảm lạnh, hắt hơi… Còn nếu trời quang mây tạnh thì sao? Ta có thể chắc rằng bà ta sẽ than van: Trời ơi, với thời tiết đẹp đẽ này, thằng sát nhân sẽ không bước chân vào nhà trước khi trời tối…

“Không có hiện tượng nào trong vũ trụ, không có biến cố nào trong lịch sử tồn tại đối với bà ta ngoài mối quan hệ với ta. Và theo cách đó, toàn bộ tạo hóa có nguy cơ trở thành một cái lồng. Bà ta sẽ mãn nguyện, bởi vì tình yêu của bà ta không mơ gì khác. Bà ta muốn giữ ta làm tù nhân mãi mãi, như khi còn trong bụng bà ta. Và khi ta trốn thoát, bà ta sẽ tìm cách trói từ xa, áp đặt hình bóng mình lên toàn bộ thế giới của ta, để ta không bao giờ quên được nỗi nhục của việc đã được một người đàn bà sinh ra!”

*

(Mẹ kế tôi và tôi nín thở lắng nghe cơn bùng nổ dữ dội này của bố; nhưng dù không lên tiếng về những nghi ngờ của mình, tôi vẫn thấy hoang mang. Không phải vì những lý lẽ của bố không thể chữa khỏi tình yêu bẩm sinh và đầy bất hạnh của tôi dành cho các bà mẹ; ngược lại, đôi lúc đang nghe, tôi bắt gặp chính mình không kìm được mà nghĩ: "Quỷ thật! Đúng là kẻ có phúc thì không biết hưởng, còn kẻ khao khát lại chẳng bao giờ có..."

(Thực ra, những lý do mà vị thủ lĩnh của chúng tôi đưa ra để chứng minh sự độc hại của các bà mẹ phần lớn lại chính là những lý do khiến tôi luôn cảm thấy bất công vì mình mồ côi mẹ! Ý nghĩ về một con người chỉ yêu Arturo Gerace, không một ai khác và coi Arturo Gerace là mặt trời, là trung tâm vũ trụ - cái ý đó không khiến tôi thấy bị xúc phạm chút nào. Cũng vậy, tôi không hề thấy ghê tởm trước viễn cảnh có một người ngày đêm than khóc và thở dài thườn thượt vì tôi. Nếu có những hành động vốn đã lôi cuối - chẳng hạn lao vào một cơn bão không sợ hãi hoặc xông thẳng vào chiến trường - thì sẽ còn mê hoặc biết bao nếu trong khi đó, có ai đó đang tuyệt vọng vì tôi.)

(Về những lời sỉ nhục mà bố tôi than phiền, tôi lại tin chắc rằng có những lời sỉ nhục không hề giống thuốc độc mà ngược lại, có thể là sự dịu dàng và ánh sáng. Thêm nữa, ông lý lẽ dựa trên kinh nghiệm của riêng ông, tức là dựa trên hình ảnh mẹ của ông - một đàn bà Đức cao lớn, đẫy đà. Nhưng mẹ tôi thì khác, bà là một người Ý nhỏ nhắn đến từ Massa Lubrense. Những người đàn bà Massa Lubrense xưa nay luôn nổi tiếng đoan trang, thậm chí còn quá dịu dàng, chẳng bao giờ biết đến lời cay nghiệt. Tôi nghĩ, kể cả khi bị ép bởi một sắc lệnh của chính phủ, mẹ tôi cũng sẽ không bao giờ sỉ nhục tôi.

(Còn chuyện người mẹ tàn phai trong khi con trai ngày càng khôi ngô? Với tôi, đó hoàn toàn là lợi thế. Khi một người đàn bà đã tàn phai, đã mất đi tuổi trẻ thì ngay cả khi đứa con trai không sở hữu vẻ đẹp hoàn mỹ như bố tôi, nó vẫn sẽ là hoàng đế của cái đẹp trong mắt bà. Và chính điều đó sẽ là thỏa mãn lớn nhất của tôi: có một người mãi mãi xem tôi là kỳ diệu, là vô song, là đế vương của cái đẹp. Còn với bố tôi, vốn đã hoàn mỹ, điều đó hiển nhiên chẳng mấy ý nghĩa. Và tôi càng ngưỡng mộ sự cao ngạo bất cần của ông.)

*

Mẹ kế tôi thở dài và cuối cùng lấy hết can đảm cất lời; nhưng giọng cô ta vang lên hoang mang xa xăm, như tiếng mèo lạc trong đêm:

“Nếu,” cô ta thì thầm, “nếu những tình cảm ông vừa kể ra là xúc phạm, thì con người chẳng nên yêu nữa…”

Bố tôi quay đầu về phía cô ta. “Cô im đi,” ông đáp. “Cô mới đẻ hôm qua và vừa đẻ ra đã ngu thậm tệ! Nếu còn nói thêm một lời nào nữa, tôi sẽ giết cô. Tôi chẳng cần mấy thứ tình cảm đó: cứ để chúng cho lũ khốn khổ, những kẻ chỉ được tự do vào Chủ nhật. Tôi không thích bất kỳ chuyện tình yêu nào. Tình yêu của đàn bà là ĐI NGƯỢC tình yêu!”

Rồi ông lại tiếp bài độc thoại của mình; và giữa cơn buồn chán lẫn bồn chồn, ông vừa nói vừa không ngừng ngáp, cười, trằn trọc xoay trên gối, như một đứa trẻ vật vã trong cơn sốt nửa tỉnh nửa mê.

“Mưu đồ của đàn bà là biến cuộc sống thành đê hạ. Chính đó là ý nghĩa truyền thuyết của người Do Thái, về việc con người bị đuổi khỏi Thiên đường trần thế vì một mụ đàn bà. Nếu không phải vì đàn bà, số phận của chúng ta sẽ không phải là sinh ra rồi chết đi như thú vật. Giống đàn bà căm ghét sự quá mức; nó là kẻ thù của tất cả những gì không có giới hạn… Cái giống xấu xí ấy muốn bi kịch và hy sinh, nó muốn thời gian, sự suy tàn, tàn sát và hy vọng… nó muốn cái chết! Nếu không có đàn bà, tồn tại sẽ là một tuổi trẻ vĩnh cửu, một khu vườn! Con người sẽ đẹp đẽ, tự do và hạnh phúc, yêu nhau chỉ để bộc lộ cho nhau thấy ta đẹp nhường nào. Tình yêu khi ấy sẽ là một niềm vui không vụ lợi, một vinh quang hoàn mỹ, giống như nhìn thấy mình trong gương; nó sẽ là… một sự tàn nhẫn tự nhiên, không chút ăn năn, như một cuộc đi săn kỳ diệu trong khu rừng vương giả. Tình yêu đích thực là như thế: nó không mục đích, không lý do, không khuất phục trước bất cứ quyền lực nào ngoài vẻ đẹp con người. Còn tình yêu của đàn bà là nô lệ số phận, nó chỉ phục vụ cho sự kéo dài của cái chết và ô nhục. Mưu mô, tống tiền, đòi hỏi vụ lợi - những cái đó tạo thành thứ tình cảm nô lệ ấy… Aaa! Mấy giờ rồi? Nhìn hộ ta cái đồng hồ, đây, trên cổ tay. Ta chẳng muồn giơ tay lên nữa.”

Tôi nhìn giờ trên cổ tay ông và nói cho ông biết. Ông hé mắt nhìn tôi rồi lười biếng gọi: “Arturo?” Sau một thoáng ngừng, ông hỏi: “Con có nghe những gì ta nói về đàn bà không? Con nghĩ sao, hả? Ta có đúng không?”

Tôi lập tức nghĩ rằng đây là cơ hội tuyệt vời để làm nhục mẹ kế, và tôi dứt khoát đáp: “Phải, nếu không có đàn bà thì ta sẽ tốt đẹp hơn nhiều. Bố nói đúng.”

“Nhưng cũng có thể,” ông nói, giọng bỗng ngập ngừng, như thể đang băn khoăn giữa đau đớn và hoài nghi, “ta chẳng đúng mà cũng chẳng sai. Ta vừa nói về một tồn tại vĩnh cửu, không giới hạn… như thể bất tử là may mắn và niềm vui. Nhưng nếu sống mãi mãi hóa ra cũng chỉ dẫn đến buồn chán vô tận thì sao? Có lẽ cái chết được tạo ra để cân bằng lại quá nhiều chán nản… phải không hử? Arturo?”

“Không. Con không nghĩ vậy. Với con, người chết chắc hẳn phải chịu một nỗi buồn chán khủng khiếp,” tôi nói, rùng mình trước ý nghĩ ghê tởm ấy.

Bố tôi bật cười. “Vậy ra con thích sống lắm, hử moretto?” ông hỏi. “Nhưng con đã biết gì về nỗi buồn chán chưa? Nói ta nghe, con có bao giờ chán không?”

Tôi ngẫm nghĩ một chặp. “Thật sự chán ư?” tôi trả lời. “Không, chưa bao giờ. Đôi lúc, có lẽ… con thấy bực.”

“Aha. Chẳng hạn khi nào…?”

Chẳng hạn, trong mấy ngày vừa qua, tôi đã bực bội tự nhốt mình trong phòng chỉ để tránh phải nhìn thấy bố và mẹ kế bên nhau. Nhưng điều đó tôi chẳng muốn thú nhận, thế nên tôi im lặng. Dù sao thì bố tôi cũng không còn quan tâm đến câu trả lời của tôi nữa: ông đã quay đầu về cái gối, vẻ lơ đãng. Chẳng mấy chốc, qua nhịp thở nặng nề của ông, chúng tôi nhận ra rằng ông đã ngủ.

Mẹ kế tôi liền đứng dậy, lấy cái chăn len từ chiếc giường nhỏ bên cạnh, đắp lên người bố tôi. Cử động ấy trông như một phản xạ tự nhiên, nhẹ đến gần như vô thức. Và sự tự nhiên ấy khiến tôi tổn thương sâu sắc. Trong sự giản đơn tất yếu, nó dường như bảo rằng: “Ông ấy có thể đã nói những lời tệ bạc về đàn bà; nhưng vẫn có hai luật không gì xóa bỏ được: một là tôi, với tư cách vợ ông ấy, thuộc về ông ấy; hai là ông ấy, với tư cách chồng tôi, thuộc về tôi!”

Tất nhiên tôi không có ý bảo rằng trí óc tôi lúc ấy đã phân tích cử chỉ của cô ta (với cả hai nghĩa đó) một cách logic, rõ ràng như bây giờ, khi hồi tưởng lại. Thực ra tôi còn chẳng tự hỏi tại sao nó lại khiến tôi thấy bị xúc phạm đến thế. Nhưng cảm giác tôi trải qua lúc ấy vô cùng rõ ràng và sâu sắc - như thể một thứ vũ khí bí ẩn, hai lưỡi đều mài sắc, đã đâm xuyên tim tôi.

Nhát đâm ấy quá nhanh, đến mức lập tức tôi quên ngay nó. Nhưng chắc hẳn nó dữ dội lắm, nên hôm nay, sau ngần ấy năm, tôi vẫn nhớ mồn một. Thực tế là, dù không nhận thức được, tôi đã phải chịu đựng những thử thách còn cay đắng hơn cả Othello! Bởi ít ra gã da đen khốn khổ ấy, trong bi kịch của mình, còn có một chiến trường rõ ràng để chiến đấu: một bên là người yêu, một bên là kẻ thù. Trong khi đó, chiến trường của Arturo Gerace lại là một nghịch lý không thể giải mã, không có hy vọng nào để bấu víu, cũng không có sự báo thù nào để an ủi.

 

Một mình với bố

Ngay sau đó, mẹ kế thì thào rằng cô ta phải xuống bếp nhóm lửa cho bữa tối, rồi đi.

Cho đến giờ ăn, tôi không rời khỏi phòng bố. Tôi cảm thấy mình yêu ông hơn bao giờ hết, đồng thời lại bị nghiến chặt bởi một nỗi bồn chồn chưa từng trải qua. Nếu cố gắng dịch ra, có lẽ tôi chỉ có thể nói đó là nỗi tuyệt vọng vì không biết số phận của mình. Trước đây, sự vô tri về số phận - thứ hiện diện trong mỗi khoảnh khắc - đã luôn mang lại cho tôi một phấn hứng phiêu lưu, nhưng hôm nay chính nó lại khiến tâm hồn tôi trĩu nặng. Tôi nhìn bố ngủ say, cảm thấy một thứ tình cảm gần như hoang dã dành cho ông. Nhưng sự bất khả vĩnh viễn của việc tìm được một câu trả lời, một sự an ủi từ ông khiến tôi cảm thấy rõ sự yếu đuối trẻ con của mình. Tôi ước gì ông ôm hôn tôi, vuốt ve tôi, như những người cha khác vẫn làm với con cái họ.

Đây là lần đầu tiên tôi có ao ước ấy. Giữa tôi và bố chưa bao giờ có những âu yếm kiểu đó - những thứ rõ ràng thuộc về đàn bà và rất không đàn ông.

Nụ hôn duy nhất giữa chúng tôi là nụ hôn mà một đêm trong mơ, tôi đã bí mật đặt lên gói thuốc lá của ông. Nhưng về phần ông, ngay cả trong mơ tôi cũng chưa từng nghĩ rằng đôi môi ông có thể ban phát nụ hôn. Người ta có bao giờ nghĩ tới những điều như vậy khi nói đến một vị thần? Nụ hôn đầu tiên tôi thấy ông trao cho ai đó, kể từ khi tôi sinh ra, chính là nụ hôn mà hôm nay ông đã đặt lên bức chân dung Amalfitano. Nhìn điều đó, tôi bị cơn ghen thiêu đốt. Tại sao bức chân dung của một kẻ đã chết lại nhận được điều tôi không thể có?

Cả đời mình, theo như tôi nhớ, tôi chưa từng biết đến nụ hôn (ngoại trừ những cái hôn của Immacolatella, mà nó thì lúc nào cũng hôn tôi quá mức nồng nhiệt đúng như một con chó). Về sau Silvestro có kể rằng khi tôi còn bé, lúc chăm tôi, anh thường đặt những cái hôn ướt át lên má tôi, như các bảo mẫu vẫn làm, và anh khẳng định rằng tôi đã từng hôn lại anh nhiều lần. Điều đó hẳn đúng vì Silvestro không phải kiểu người khoác lác, nhưng kể cả thế thì tôi cũng chẳng nhớ gì. Tôi chỉ biết rằng vào thời điểm đang kể đây, tôi chưa từng hôn ai, cũng chưa từng được ai hôn.

Tôi đã mong bố hôn tôi, ngay cả khi ông chưa hoàn toàn tỉnh táo, trong nỗi mơ màng giấc ngủ, hôn vì nhầm lẫn cũng được; hoặc ít nhất, tôi đã mong mình có thể hôn ông, nhưng tôi không dám. Tôi chỉ co mình như một con mèo dưới chân ông, lặng lẽ nhìn ông ngủ. Chỉ nghe tiếng thở nhẹ hay tiếng ngáy của ông với tôi cũng đã quá quý giá, bởi dẫu thế nào đó vẫn là chứng tích về hiện diện mong manh của ông trên hòn đảo này - về khoảng thời gian ông ở lại mà tôi đã bỏ lỡ - và giờ tôi chắc chắn đã chuẩn bị qua.

 

Trong phòng mình

Ngày hôm sau, đúng như vậy, bố tôi đi. Mẹ kế và tôi tiễn ông ra đến tàu hơi nước. Khi đi từ cảng về, tôi tách khỏi cô ta, chọn một con đường khác, lang thang một mình qua những cánh đồng.

Chưa bao giờ, trong tất cả những lần ra đi trước đây của bố - dù tàn nhẫn đến đâu - tôi cảm thấy đau đớn như lần này. Dù không có lý do gì để nghi ngờ việc ông sẽ quay lại (bởi sớm muộn gì ông cũng trở về hòn đảo), tôi vẫn bị một nỗi tiếc nuối tuyệt vọng và chung quyết nghiến chặt, như thể lời tạm biệt lúc nãy trên bến tàu chính là vĩnh biệt! Lời tạm biệt ấy, giống như tất cả những lần trước, không có một nụ hôn nào. Mong ước trẻ con đã bất ngờ xâm chiếm tôi hôm qua rốt cuộc không được thực hiện. Nhưng còn hơn thế, hôm nay, mong ước ấy bỗng trở nên vô nghĩa. Một nỗi cô độc khô cằn tràn ngập tôi, và từ sâu thẳm cô độc ấy, tôi lại thấy trỗi dậy nỗi lo âu bất thường mà hôm qua tôi đã trải lần đầu. Nỗi bất an của kẻ không biết số phận mình.

Thời tiết lúc này đẹp như mùa xuân. Tôi không về nhà cho đến khi trời tối. Bước vào qua cánh cửa kiểu Pháp, tôi thấy mẹ kế đang ở trong bếp, vừa nhóm lửa vừa hát, theo thói quen. Sự vô tư lự của cô ta làm tôi khó chịu. Chỉ mới vài giờ trước, tôi còn căm ghét cô ta vì kè kè bên bố tôi như một con chó, cướp bố khỏi tôi. Giờ tôi lại thầm oán cô ta vì chẳng đau khổ gì khi lìa xa chồng mình. Một bản năng đen tối trong tôi trỗi dậy - phải trừng phạt cô ta mới được. Khi cô ta dọn bàn, tôi tàn nhẫn bảo:

“Này, giờ bố tôi đi rồi, cô sẽ phải học cách ngủ một mình vào ban đêm đấy!”

Rõ ràng là cô ta chưa thực sự nghĩ đến thử thách không thể tránh này. Tôi thấy mặt cô ta biến sắc như thể chỉ những lời của tôi cũng đủ để nhắc cô ta nhớ lại. (Đây là một trong những dấu hiệu còn sót của tuổi thơ nơi cô ta: trí tưởng tượng ấy, luôn sẵn sàng cho những chuyện cổ tích hay những thứ trẻ con khác, đôi khi lại khá chậm chạp trong việc nhận thức những gì có thể gây đau đớn hay trở ngại. Cứ như thể cô ta tin tưởng vào từng ngày đến và gán cho chúng một lòng nhân từ có ý thức - như thể cả thời gian cũng có một trái tim Kitô.)

Suốt bữa tối chỉ kéo dài vài phút, cô ta không nói gì, chỉ im im nghĩ ngợi. Tôi ăn thật nhanh, không nói lời nào rồi đi thẳng vào phòng. Tôi đã kiệt sức sau một ngày bồn chồn và buồn ngủ rã rời. Như thường vậy những hôm trời lạnh, tôi không thay đồ, chỉ cởi giày ra, và vừa đặt lưng xuống giường là thiếp đi ngay.

Nhưng chưa đầy một giờ sau, tôi bỗng bị đánh thức bởi những tiếng gõ nhỏ, dồn và run rẩy cùng tiếng gọi thấp, tuyệt vọng của mẹ kế phía sau cánh cửa: “Artú! Artú!” Tôi không biết mình đã mơ gì trong khoảng ngủ chập chờn ấy, nhưng chắc chắn tôi đã lang thang qua những miền rất xa và hoàn toàn quên bẵng cô ta. Chưa hiểu chuyện gì, tôi nửa tỉnh nửa mê ngồi dậy, bật đèn cạnh giường lên và đúng lúc đó, cửa mở, cô ta hiện ra. “Artú, tôi sợ quá,” cô ta thì thào, giọng run bần bật.

Trông cô ta như thể vừa chạy bắn khỏi giường, vẫn nguyên bộ dạng đi ngủ: người chỉ khoác áo lót, chân trần không giày. Chân cô ta chỉ có đôi tất len rách tả tơi vẫn thường mang khi ngủ. Còn kiểu tóc ban đêm của cô ta - cột túm thành một búi cao - khiến tôi tưởng đến thứ vương miện lông xoăn trên đầu một số loài chim nhiệt đới.

Khi tỉnh táo lại, tôi ném cho cô ta ánh mắt khinh miệt lạnh lùng. Đây không phải lần đầu tiên tôi thấy cô ta chỉ độc áo lót thế này; những ngày trước đó, tôi từng thoáng nhìn thấy cô ta băng qua hành lang hoặc đi lại trong phòng bố. Cô ta cũng chẳng buồn che chắn trước mặt tôi, cứ tự nhiên, bình thản như thể không thấy có gì phải ngượng trước một thằng bé mười bốn tuổi. Thật đáng ghét, cái sự nhơn nhơn ấy!

“Tôi không định đánh thức cậu đâu, Artú,” cô ta giải thích, môi đã trắng bợt. “Tôi đã cố ngủ… Tôi đã đọc hết những lời cầu nguyện của Thánh Rita, cầu xin người giúp tôi ngủ được… nhưng không thể… Tôi quá sợ phải ngủ một mình… trong phòng không còn ai…”

Cô ta liếc ra hành lang tối mờ với vẻ nghi ngại rồi rụt rè tiến thêm một chút vào quầng sáng yếu ớt từ cái đèn của tôi, như thể tìm kiếm sự chở che. Nhưng tôi, vẫn thô lỗ và khinh bỉ, không hề mời cô ta ngồi hay bước vào; và cô ta cứ đứng đó, treo mình nơi khung cửa như một con hầu hèn mọn.

Cái áo lót để lộ đôi vai gầy của cô ta - đôi vai rất trắng, mảnh và thanh tú. Còn bộ ngực, được lớp vải mỏng ôm sát đến gần như trần trụi, hiện ra trước mắt tôi với dáng vẻ đầy bí ẩn của sự trưởng thành - thật mềm mại và yếu đuối, đến mức khiến tôi cảm thấy một nỗi xót xa kỳ lạ.

Với một sự mẫn cảm quái đản, tôi bỗng hình dung nỗi đau khủng khiếp mà cô ta sẽ phải chịu nếu có ai nhẫn tâm làm tổn thương bộ ngực ấy… Trong khoảnh khắc, tâm trí tôi tràn ngập hình ảnh của sự dày vò kia. Và tôi gần như không thể tin được rằng một sinh vật như cô ta - quá đỗi yếu đuối, mong manh, ngây thơ, khờ khạo - lại có thể tồn tại giữa thế gian này mà không chịu thương tổn…

“Cô hơn mười sáu tuổi rồi,” tôi nói, giọng đầy thương hại, “vậy mà không dám ngủ một mình ban đêm. Thế mà cô dám tự nhận mình là đàn bà trưởng thành, làm như người khác là con nít không bằng! Nực cười quá đấy! Đến tuổi nào đó mà vẫn còn sợ thế thì chỉ tổ làm trò cười cho thiên hạ thôi! Cô thử nhìn quanh xem, có ai mà lại sợ ngủ một mình không hả?”

“Những đàn bà khác,” cô ta bào chữa, giọng rụt rè ngơ ngác, “khi lấy chồng thì ngủ với chồng…”

Khi lấy chồng. Thế trước khi lấy chồng thì sao? Rồi khi chồng họ đi xa nữa? Họ ngủ với ai? Không ai cả!”

“Không ai cả ư? Làm gì có chuyện! Họ ngủ với mẹ, với chị em gái! Với anh em trai và với bố! Ai trên thế gian này mà chẳng ngủ cùng gia đình mình!”

Rồi cô ta nài nỉ tôi cho cô ta ngủ lại trong phòng tôi, trên cái ghế dài, ít nhất là đêm nay. Bắt đầu từ ngày mai, cô ta sẽ tập ngủ một mình, nhưng tối nay, trong căn phòng ấy, cô ta thấy muốn ngất đi được. Đây là lần đầu trong đời cô ta ở một căn phòng ban đêm mà không có ai thân thích, làm sao mà quen ngay nổi. Có thể dần dần rồi sẽ quen.

Miễn cưỡng, tôi đành chấp nhận để cô ta ở lại. Cô ta chạy vội sang phòng bên để lấy chăn mền rồi gần như lao đầu vào phòng, kéo lê chúng trên sàn, mặt tái nhợt như thể đang chạy khỏi một đám cháy. Nhìn thấy nỗi sợ tột cùng ấy, tôi chợt có một linh cảm kỳ quái, và khi cô ta đã thấy an toàn hơn khi nằm xuống chiếc ghế dài, tôi hỏi có phải tổ tiên của tòa lâu đài cùng các kỵ sĩ gian ác của hắn đã hiện ra trong căn phòng đó hay không… Cô ta lắc đầu, gần như bị xúc phạm. “Cậu tưởng tôi không biết đó chỉ là cổ tích do bố cậu bịa ra à?” Nhưng rồi, với sự thành thật đầy cẩn trọng, cô ta thêm vào: “Mà, tất nhiên rồi… khi người ta phải ở một mình trong phòng vào ban đêm thì đến chuyện cổ tích cũng có thể sợ được.”

Tôi tắt đèn nhưng không ngủ ngay. Sự tò mò khiến tôi cứ thao láo: tôi tự hỏi giấc ngủ đàn bà có giống giấc ngủ đàn ông không, chẳng hạn như khi ngủ, đàn bà có thở như đàn ông không, có ngáy như họ không. Tôi chưa chứng kiến một người đàn bà ngủ bao giờ, dù đã thấy nhiều đàn ông ngủ, và tất cả bọn họ đều ngáy, theo những cách khác nhau. Tiếng ngáy của Costante rền và lê thê như còi báo động, còn tiếng ngáy của bố tôi thì nhẹ và êm ái, như mèo rù.

Vài phút đã trôi qua, nhưng từ cái ghế dài vẫn không phát ra âm thanh nào, không cả một cái bóng của tiếng ngáy. Hay là cô ta chưa ngủ? Tôi khẽ gọi: “Này, ngủ chưa đấy?” Không có tiếng trả lời: vậy là cô ta đã ngủ.

Một chặp sau, tôi cũng chìm vào giấc ngủ, và mơ.

Tôi thấy mình đang bơi trong một hang sâu và tối. Tôi lặn xuống, định hái một nhánh san hô tuyệt đẹp vừa thoáng thấy dưới đáy, nhưng ngay khi bứt nó ra, tôi kinh hoàng nhận ra nước biển bắt đầu ruộm máu.

Tôi choàng tỉnh, và ngay khoảnh khắc mở mắt, tôi theo phản xạ bật đèn lên, đầu vẫn biêng biêng cái ý mơ hồ rằng mình phải kíp đi đâu đó, để ngăn một tội ác hay bi kịch nào chẳng rõ… Nhưng tất cả vẫn bình yên. Đối diện tôi, trên cái ghế dài, mẹ kế tôi vẫn chìm trong giấc ngủ sâu, đến mức ánh sáng đột ngột của ngọn đèn - dù chiếu thẳng vào mặt - cũng không làm cô ta tỉnh giấc. Trong khoảnh khắc đầu tiên, hiện diện của cô ta trong phòng khiến tôi ngỡ ngàng, nhưng ngay lập tức trí nhớ tôi trở lại, và tôi tò mò quan sát cô ta. Cô ta hơi co người để thích nghi với kích thước cái ghế, chăn quấn kín tận cằm, và gương mặt cô ta mang một vẻ thanh thản không xao động. Nhịp thở khẽ khàng của cô ta để lại một hơi ẩm dịu dàng trên môi, và sắc hồng trên má cô ta dường như cũng bắt nguồn từ sự hồn nhiên trong hơi thở ấy. Người ta có thể nghĩ rằng cô ta chẳng hề mơ gì cả, rằng trong giấc ngủ, những ý nghĩ đơn giản mà cô ta có khi thức chỉ càng trở nên giản đơn hơn. Cô ta không còn sống bằng ý thức mà chỉ còn bằng hơi thở - như một bông hoa. Tôi nhận ra trên gương mặt cô ta biểu cảm tuyệt diệu của ngày đầu tiên - đã bị hủy hoại vào buổi sáng sau đó. Những quầng mắt mong manh, mà chỉ một ngày đã đủ phá hủy, giờ lại ẩn hiện dưới hàng mi dài u buồn. Búi tóc xoăn của cô ta xòa trên gối như một đóa hoa đen rỡ đang nở quá độ.

Tôi thấy lúc ngủ cô ta đẹp hơn là thức. Phải chăng vẻ đẹp huyền thoại của đàn bà, thứ được nhắc đến trong tiểu thuyết và thơ, chỉ thực sự lộ ra trong giấc ngủ, vào ban đêm? Nếu thức đến sáng, liệu tôi có thể thấy mẹ kế mình trở nên lộng lẫy như một nữ nhân cổ tích? Những ý nghĩ này, dĩ nhiên, không thực sự nghiêm túc. Tôi chỉ vẩn vơ ra thế để tự mua vui. Nhưng khi tôi chìm lại vào giấc ngủ một chặp sau, chúng hòa vào một nỗi bồn chồn kỳ lạ. Tôi có cảm giác trong phòng mình có một kẻ xa lạ, một sinh vật biết những hóa thân bí ẩn.

Tôi thiếp đi mà quên tắt đèn, và giấc ngủ ấy không sâu. Cả khi đang mơ, tôi vẫn ở trong phòng, và cô ta ngủ trên chiếc ghế dài, y như thực. Nhưng trong mơ, cô ta trở nên một thứ nham hiểm và đê tiện: cô ta đã lừa gạt để lẻn vào phòng tôi, giả vờ rằng mình cũng là một đứa con trai như tôi, mặc một cái sơ mi rủ, ngực phẳng phiu như thể bên dưới không hề có hình dáng đàn bà. Nhưng tôi đã nhìn thấu hết. Tôi biết cô ta là đàn bà và không muốn đàn bà xâm nhập phòng mình. Tôi tiến đến kẻ đang ngủ, tay cầm một con dao găm, định trừng phạt cô ta vì giả mạo. Tôi sẽ vạch trần cô ta bằng cách xé toạc cái sơ mi trên ngực, phơi ra đôi vú tròn trắng muốt… Cô ta hét lên. Tiếng hét ấy không xa lạ với tôi. Trước đây tôi từng nghe nó, chỉ là tôi không nhớ rõ ở đâu, khi nào. Và tôi không biết âm thanh nào có thể làm xáo động tâm trí và thần kinh tôi đến thế.

Tôi giật mình choàng dậy, người nóng bừng, mồ hôi vã như giữa mùa hè. Mắt tôi nhức nhối vì ánh đèn, và qua làn sáng ấy, tôi thấy khách không mời vẫn đang ngủ bình yên, không hay biết. Một cơn thù hận vô lý và dữ dội, bỗng trào lên. “Dậy ngay!” Tôi đột ngột hét lên, bật khỏi giường, túm vai cô ta lay mạnh. “Cô phải ra khỏi phòng tôi ngay! Nghe rõ chưa? Ra khỏi phòng tôi!”

Tôi thấy cô ta giật mình nhỏm dậy khỏi chăn, bối rối để lộ đôi vai trần và khuôn ngực dưới lớp áo lót. Điều đó chỉ khiến tôi càng điên cuồng ghét cô ta. Một khát khao phi lý chiếm lấy tôi: giá như cô ta là một thằng con trai như tôi, để tôi có thể tẩn cho đến khi nguôi cơn giận. Chính sự yếu ớt đàn bà - thứ ngăn tôi xả thịnh nộ lên cô ta bằng bạo lực - lại khiến tôi phát điên nhất vào lúc ấy.

“Không che mình lại đi, đồ con gái đáng tởm?” Tôi gào lên. “Cô không thấy xấu hổ trước mặt tôi à? Tôi muốn cô phải thấy xấu hổ trước mặt tôi!”

Cô ta nhìn tôi chằm chằm, mắt bối rối ngây thơ, rồi cúi xuống nhìn cổ áo mình, đỏ mặt. Và vì không có gì để che, trong cơn bối rối, cô ta đành khoanh chặt đôi tay bé nhỏ trước ngực mình.

Mắt cô ta quay lại nhìn tôi đầy hoang mang lưỡng lự, như thể không nhận ra tôi nữa. Nhưng điều khiến tôi phát cáu là, bất chấp sự căm ghét và thô lỗ của tôi, cô ta vẫn không hề sợ. Trong đáy mắt cô ta vẫn còn (và đã luôn ở đó suốt những ngày qua) nét gì như một câu hỏi đầy tin tưởng: như thể không gì có thể khiến cô ta quên đi buổi chiều hôm ấy, khi tôi đã tỏ ra thân thiện với cô ta; như thể cô ta vẫn tin vào Arturo ấy! Nhưng cô ta phải hiểu rằng Arturo ấy không còn nữa, và buổi chiều ấy đối với tôi là nỗi nhục. Tôi muốn xóa nó khỏi thời gian.

Một sự tàn nhẫn lạnh lùng, khao khát được thỏa bằng sự phủ nhận và tàn bạo, khiến giọng tôi nghẹn lại: “Tôi không muốn cô ở đây, trong phòng tôi, hiểu chưa?” Tôi nhắc lại, “Cút đi! Cô chỉ mang cho tôi ác mộng… Đồ bẩn thỉu rách rưới, đồ xấu xí rận rệp…”

Cô ta đã lùi đến cửa - vẫn còn mở, gương mặt tối sầm. Tôi tin rằng cuối cùng giữa chúng tôi đã hình thành một mối thù không thể nào hóa giải. Tôi cảm thấy một ham muốn bạo lực sắc lạnh và khoái trá và, túm lấy gối cùng chăn của cô ta, tôi ném tất tật ra hành lang rồi đóng sập cửa lại trước mặt cô ta.

Trong khoảnh khắc, tôi vẫn còn nghe những nhịp thở hổn hển sau cánh cửa. “Cô ta đang khóc vì sợ tối,” tôi thầm nghĩ với một cảm giác thỏa mãn cay đắng. Cuối cùng, mọi âm thanh tắt lịm. Sáng hôm sau, tôi phát hiện ra cô ta đã chuyển vào ngủ trong căn phòng nhỏ sát phòng tôi, nơi Silvestro từng ở trước đây. Trong căn phòng chật hẹp ấy, vốn không quá tách biệt như phòng của bố tôi, cô ta hẳn cảm thấy an toàn hơn trước cô độc và bóng tối. Cô ta mang hết qua đó những bức ảnh Đức Mẹ từ căn phòng đã sắp hôm đầu tiên rồi đặt chúng lên rương, lên ghế, lên bậu cửa sổ, bao quanh giường như những vệ sĩ được giao nhiệm vụ canh chừng giấc ngủ. Và từ đó trở đi, mỗi khi bố tôi vắng nhà, đêm nào cô ta cũng rút vào đó mà ngủ nghê.

 

Những đàn bà ngủ

Vì sợ hãi, cô ta không bao giờ dám đóng chặt cửa phòng, lúc nào cũng hé ra một chút, và tối nào trước khi ngủ, cô ta cũng gấp gáp đọc to tất tật những lời cầu nguyện mà mình biết. Từ phòng mình, tôi nghe thấy giọng cô ta - dường vọng lại từ một khúc ru gắt nhưng nhịp nhàng, chẳng có nghĩa gì. Có những lúc giọng cô ta đột ngột dâng lên, nhấn nhá đầy cảm xúc, và vài câu rõ ràng lọt vào tai tôi: "Nữ vương, nguồn êm dịu của chúng con, niềm hy vọng của chúng con… Xin hãy đến, hỡi Đấng đại diện chúng con…" Sự tĩnh lặng trong căn nhà sâu thẳm đến mức đôi khi tôi còn nghe được cả tiếng chạm môi nóng bỏng của cô ta lên những bức tượng Đức Mẹ sau mỗi bài kinh.

Tôi chẳng buồn để tâm xem những ngày đơn độc của cô ta trong Casa dei Guaglioni trôi qua thế nào. Phần lớn thời gian, tôi chỉ xuất hiện vào buổi tối, khi cô ta gọi tôi xuống ăn cơm. Tôi lúc nào cũng mang một quyển sách vừa ăn vừa đọc, để mặc cô ta hầu hạ mà không thèm nói một lời hay để ý đến cô ta dù một chút. Nếu tình cờ tôi thoáng liếc nhìn thì sắc mặt cô ta lại càng tái xanh, chìm hẳn vào u sầu trầm lặng. Có lẽ nỗi sợ cô độc khiến cô ta đau khổ. Nhưng tôi chẳng quan tâm cô ta có khổ hay không. Chẳng phải tôi cũng luôn sống một mình đấy sao?

Những ngày ấy, tôi bắt đầu làm thơ. Tôi vẫn nhớ một bài mà tôi lấy làm tự hào, coi là một khúc trữ tình siêu phàm, tựa là: “Những đàn bà ngủ”. Trong đó có những câu sau:

Vẻ Đẹp của Đàn Bà chỉ hiện ra trong đêm,
 như loài hoa nở muộn, như cú đêm kiêu hãnh
 trốn chạy mặt trời,
 như tiếng dế và Trăng - nữ hoàng của muôn vì tinh tú.
Nhưng đàn bà không hề hay biết, vì họ ngủ
 như loài Đại Bàng bồng bềnh trên tổ,
 trên vách núi, xếp đôi cánh lặng
 giữa hơi thở êm đềm.
Và có lẽ, chẳng bao giờ
 kẻ nào được thấy
 Hiện hình kỳ vĩ của Vẻ Đẹp ấy!

Mỗi khi đi ngang qua căn phòng nhỏ, ngay cả vào những giờ cô ta đã xuống dưới nhà và không gian hoàn toàn trống vắng, tôi đều cố tình khinh miệt quay mặt đi hướng khác. Nhưng một buổi sáng (ba hay bốn hôm sau cái đêm tôi đuổi cô ta khỏi phòng mình), tôi tình cờ dậy rất sớm, khi cô ta vẫn còn đang ngủ. Thấy trời đẹp, tôi lập tức mở cửa sổ và ngay sau đó, khi tôi bước ra hành lang, một cơn gió mạnh ùa tới, đập vào cánh cửa chỉ khép hờ của căn phòng và đẩy nó mở ra gần một nửa. Bị thu hút vô thức, ánh mắt tôi rơi vào cô ta - vẫn đang ngủ yên bình, cuộn tròn trong chăn đến tận cổ. Mặt trời vừa ló, soi khuôn mặt cô ta theo cách những ngọn đèn rọi sân khấu làm các vũ công nổi lên trước khán giả. Và tôi nhận ra rằng trong giấc ngủ, cô ta đang mỉm cười sung sướng, thậm chí gần như bật cười, để lộ hết những cái răng cửa nhỏ.

Tôi ngạc nhiên và tò mò trước cảnh đó, vì vào đêm đầu nhìn cô ta ngủ, tôi đã tưởng tượng, từ vẻ mặt lúc ấy, rằng lúc ngủ cô ta không hề mơ mà chỉ tồn tại qua từng nhịp thở, như một loài thực vật. Nhưng nụ cười ấy hẳn chỉ có thể đến từ một giấc mơ đẹp. Một sinh vật như cô ta có thể mơ thấy điều gì? Đó luôn là một trong những lẩn thẩn điên rồ của tôi: khi nhìn người khác ngủ, tôi thường day dứt đoán xem họ mơ gì. Nghe một người kể lại giấc mơ của họ sau khi thức dậy chẳng bao giờ mang lại nỗi thỏa mãn tương tự (dù họ không nói dối).

Trong một số trường hợp, bí mật của kẻ đang ngủ không quá khó đoán. Chẳng hạn Immacolatella cùng lắm mơ rằng nó là một con chó săn thực thụ, như bọn thỏ ở Vivara vẫn tưởng, hoặc rằng nó đã học được cách trèo cây như mèo, hay có một đĩa xương cừu thơm phức ngay bên cạnh. Nhưng chắc chắn sung sướng nhất với nó là khi mơ về tôi. Cái đó thì chẳng khó hiểu chút nào.

Còn cô ta? Ai mà biết được giấc mơ nào đang khiến cô ta mỉm cười sung sướng thế! Có thể cô ta nghĩ rằng mình đang ở nhà, ở Naples, trên cái giường cũ, cùng cả gia đình và mẹ đỡ đầu? Hoặc cô ta đang ở một hội chợ lớn giữa quảng trường chính của Thiên đường, giữa những cái xe đẩy tí hin và ánh đèn rực rỡ, giữa một đám trẻ con biến thành các thiên thần bé nhỏ? Hay cô ta đang tưởng tượng cha tôi sẽ mang về cho cô ta một giỏ đầy châu báu khi trở về sau chuyến đi dài? Và ai biết được liệu tôi có xuất hiện trong những cảnh ấy không? Tôi bực bội vì chẳng lào sao nhìn được phía sau đôi mắt đang khép kia: như thể cô ta, kẻ tầm thường và thấp kém ấy, lại có một cõi riêng nào đó mà Arturo Gerace không thể bước vào. Tôi đã định chen vào giấc mơ của cô ta bằng một mánh khóe nào đó. Đôi khi, vào những ngày hè, khi tôi ngủ quên trên bãi biển sau một cuộc bơi, bố tôi, vì buồn chán khi phải nhìn tôi ngủ, đã nghịch ngợm lấy một mẩu rong biển khẽ chọc vào người tôi hoặc thổi nhẹ vào tai tôi. Và ngay lập tức, một con cá ugiidatli hiện ra trong giấc mơ của tôi, vẫy vẫy vây cù vào người tôi khi tôi đang bơi dưới đáy Thái Bình Dương, hoặc giả tôi thấy Al Capone nhắm khẩu súng hơi chết người vào tai tôi.

Tôi đã suýt bước vào phòng và lặp lại với mẹ kế trò chơi mà bố từng nghịch với tôi, hòng làm rối tung giấc mơ của cô ta. Nhưng tôi điên sao? Làm sao tôi có thể nghĩ đến chuyện thân mật với cái đồ xâm nhập ngu ngốc ấy?

Ý nghĩ rằng tôi đã hạ mình đến mức nuôi dưỡng những tưởng tượng mềm yếu như vậy về cô ta khiến tôi bực bội suốt cả ngày. Đến nỗi, sau đó, để trút cơn khó chịu, tôi đã xé nát bài thơ về “Những đàn bà ngủ”.

Lần nào cũng thế, chỉ cần tâm trí tôi, vì lơ đãng hay một lý do vô thức nào khác, trượt khỏi thế thù địch đối với cô ta, tôi sẽ rồ lên làm gì đó, như thể để trả thù.

 

Khó ở

Lần vắng mặt đầu tiên của bố tôi ngắn hơn tôi tưởng nhiều. Chưa đầy một tuần ông đã về, trước sự kinh ngạc của chúng tôi. Như mọi khi, ông xuất hiện đột ngột và tôi, tình cờ đứng gần cổng, là người đầu tiên nhìn thấy ông; nhưng ông hầu như chẳng buồn đoái hoài tôi, chỉ buông một câu: “Này, moro!” rồi vội vàng tìm cô ta. Ngay lập tức, với vẻ háo hức dữ dội, ông hỏi tôi cô ta đâu rồi, và khi tôi cộc cằn đáp rằng cô ta đang trong bếp, ông liền vòng nhanh ra sau nhà, đi thẳng về phía cánh cửa kiểu Pháp. Tôi miễn cưỡng đi theo với bao nhiêu là bực bội: niềm vui được gặp lại bố lập tức bị phá hỏng bởi cảm giác bị phớt lờ - tôi đã thành một thứ chẳng còn đáng bận tâm trong mắt ông.

Vừa trông thấy ông, mẹ kế tôi đỏ bừng mặt vì vui sướng; và khi nhận ra sắc đỏ ấy, gương mặt ông sáng bừng. Ông cứ thế bước vào, không ôm hay chào cô ta. “Trời ơi, cô để tóc rối tung thế hử!” ông nói, nhìn cô ta với ánh mắt tự tin và chiếm hữu. “Sáng nay cô không sở đầu à?” Ngay lập tức, ông đưa cô ta những món quà mang về: cái vòng gỗ sơn nhiều màu và cái khóa thắt lưng ghép lại từ những mảnh gương nhỏ. Còn tôi, ông chẳng mang gì cả; nhưng thấy tôi cau có đứng ở một góc, ông quăng cho tôi năm mươi lire.

Sau đó, ông hỏi câu quen thuộc của mọi lần về: “Có chuyện gì không?” Nhưng khác với trước đây, khi câu hỏi ấy chỉ dành riêng cho tôi, lần này ông thực sự có vẻ háo hức. Vẫn bối rối trước sự trở về bất ngờ của ông, cô ta bắt đầu: “Chúng em vẫn khỏe… trời đẹp… em nhận được thư của mẹ, chị em cũng ký vào… họ viết rằng ở Naples mọi người đều khỏe, thời tiết cũng tốt…” và giữa chừng, ông thỉnh thoảng chen vào: “Thế bà mẹ đỡ đầu có viết không? Cô có đi lễ không?” cứ như thể, bởi một phấn hứng bất thình lình nào đó, ông cảm thấy một niềm vui vu vơ trong việc can thiệp vào chuyện của cô ta.

Cùng lúc ấy, ông đi qua bếp, nhìn quanh, nhận lại từng món đồ với những cử chỉ thích thú và chiếm hữu, như thể đã mười năm rồi ông mới về nhà! Thỉnh thoảng cô ta khẽ lắc đầu, hai lọn tóc phía trước đung đưa như chuông nhỏ, và với đôi mắt đen linh hoạt ánh cười, cô ta rụt rè nói: “Em không ngờ… thật sự không ngờ hôm nay lại được thấy ông ở đây…”

Với vẻ cao ngạo hờ hững như một bậc quân vương, ông đáp:

“Tôi chỉ làm những gì tôi thích. Muốn đi thì tôi đi. Muốn về thì tôi về, tôi quay lại đây, và cô phải làm như tôi bảo.”

Rồi ông xách va-li lên cầu thang, và chúng tôi lặng lẽ đi theo. Ngay khi lên tới nơi, việc đầu tiên cô ta làm là đi lấy chăn từ phòng Silvestro và đặt lại lên cái giường nhỏ trong phòng bố tôi.

Trong lúc ông mở va-li, tôi vẫn ở lại trong phòng cùng hai người họ. Tôi nằm ngửa trên cái giường lớn, hai tay gối sau đầu, chân vắt chéo, lặng lẽ nhìn lên trần nhà với vẻ âm u xa vắng. Nhưng chẳng bao lâu, cảm giác về sự có mặt hoàn toàn vô nghĩa của mình bắt đầu làm tôi bứt rứt không chịu nổi. Tôi bật khỏi giường, dứt khoát tiến ra cửa với những bước êm như một con hổ. Bố tôi bật cười độc ác, gọi với theo: “Này Arturo, đi đâu đấy? Sao lại điên lên thế hử? Hôm nay khó ở à?” Nhưng ông chẳng buồn giữ tôi hay gọi tôi quay lại. Tôi nghĩ: “Được thôi, mình sẽ ra ngoài. Mình có cả đống tiền, có thể đi cà phê, vào quán rượu, muốn thì sẽ say tới bến!” Nhưng lúc ấy, bất cứ nơi nào khác trên đời với tôi đều có vẻ trống rỗng và vô vọng. Cuối cùng, tôi lờ đờ xuống phòng lớn dành cho đám con trai - nơi chúng tôi hầu như chẳng bao giờ ngồi - và cứ ở lì đó đến tận tối, nằm dài trên một trong những cái ghế sờn rách, chẳng nghĩ đến ai hay bất cứ điều gì.

*

Bố tôi ở lại Procida vài ngày rồi lại đi. Khoảng hai tuần sau, ông lại hiện ra, ở thêm một hai ngày nữa. Cứ thế, trong những tháng đầu của cuộc hôn nhân, ông về đều đặn, dù mỗi lần đều ngắn ngủi. Nhưng tôi vẫn dửng dưng trước những đi về của ông, bởi rõ ràng ông không trở lại Procida vì tôi.

Chắc chắn ngay từ đầu, ông đã thấy sự ghét bỏ lộ liễu và phô trương của tôi đối với mẹ kế và đôi khi còn có vẻ thích thú vì thế. Nhưng giống như một bạo chúa nhàn rỗi, ông cứ để mặc tôi với những giận dỗi và oán hận của mình. Chỉ duy nhất một lần ông nói về cô ta. Lúc ấy tôi tình cờ đang ở một mình với ông trong phòng, khi ông đang chuẩn bị lên đường. Tôi im lặng quan sát ông, không nói gì, trong khi ông lấy chân hất một đôi giày cũ dưới gầm giường - đôi giày ông không cần mang theo. Chợt ông liếc sang tôi và buông một câu, giọng ngạo nghễ hờ hững:

“Này moro, trông mày có vẻ khó ở nhỉ?”

Tôi không trả lời, chỉ nhún vai khinh khỉnh và ông tiếp tục, nheo mắt nhìn tôi với nụ cười nửa miệng:

“Nói tao biết vì sao mày căm ghét cô ta đến thế? Cái cô Nunziata tội nghiệp ấy làm gì mà khiến mày phát điên như vậy?”

Tôi cau mày, thu mình không đáp. Ông bật cười rồi nhăn mặt mỉa mai, mắt đột nhiên tối sầm bí ẩn:

“Thôi nào, moro,” ông kêu lên, “hãy yên tâm rằng kẻ tình địch nguy hiểm nhất, kẻ đã cướp mất trái tim tao khỏi tay mày chắc chắn không phải là Nunziatina tội nghiệp đâu!” Khi thốt ra câu ấy, giọng nói và nét mặt ông bỗng có một vẻ tàn nhẫn kỳ lạ. Nhưng rồi ông cười - gần như chỉ với chính mình - một nụ cười khép miệng, khóe môi hơi nhếch. Tôi nhận ra nụ cười ấy - nụ cười ma quái, nham hiểm như một con dê, mà tôi từng bắt gặp trên gương mặt ông.

Tôi nhìn ông lưỡng lự, vẫn chưa rõ ông muốn ám chỉ điều gì. “Con chẳng quan tâm!” tôi ngúng ngoẳng. Ông bật cười lần nữa. “Ồ, mày chẳng quan tâm à…” ông cau mày nhìn xuống tôi từ trên cao, “thế mà tao lại thấy khác đấy, tiếc thật, ôi chàng quý tộc Tây Ban Nha của bố… Mày có muốn nghe không, hả? Đừng lo, tao chỉ nói riêng với mày thôi, không để ai khác biết đâu. Tao nghĩ rằng MÀY ĐANG GHEN… mày ghen với cô ta, với Nunziatella, vì trước đây, trên hòn đảo này, mày có thể giữ tao cho riêng mình, còn giờ cô ta đã thay thế mày! Thế nào, moro, mày nghĩ sao về chuyện đó?”

Mặt tôi nóng bừng như thể ông vừa bóc trần một bí mật kinh khủng. “Không đúng!” tôi hét lên. Đúng lúc ấy cô ta bước vào phòng, và tôi định bỏ đi. Nhưng ông đã chộp lấy cổ tay tôi bằng một động tác nhanh và hung bạo như thể chúng tôi đang chơi đánh vật, nghiến răng ra lệnh: “Mày đi đâu? Đi đâu hả? Ở lại!” Vẫn giữ chặt cổ tay tôi, ông vòng cánh tay còn lại ôm lấy cô dâu, rồi cố tình nghịch những lọn tóc xoăn của cô ta một cách khoa trương. “Mấy lọn này xinh quá thể,” ông nói, trong khi cô ta nhìn chúng tôi trân trối, không hiểu đang diễn ra chuyện gì. “Tiếc là Arturo không có được những lọn tóc xinh như thế!” Vừa nói, ông vừa liếc sang tôi cười khoái trá, tận hưởng cơn ghen của tôi. Nhưng cuối cùng, thấy tôi giãy giụa điên cuồng để thoát khỏi tay ông, ông bỗng trở nên chán nản, buông một câu: “Thôi được, đi đi.” Tôi lao ra khỏi phòng mà không thèm nhìn ông lấy một lần, lòng chỉ thấy đầy cuồng nộ.

Từ ghen mà ông thốt ra đã xúc phạm tôi sâu sắc. Tôi không muốn dính dáng gì đến cái thứ ấy và tôi cũng chẳng tự hỏi xem nhận định ấy có đúng hay không - liệu cái cảm giác đã khiến tôi sống như một con thú bị săn đuổi kể từ khi bố tôi kết hôn có thể gọi là ghen hay không! Quãng ấy, dù thích suy tư về lịch sử cổ đại, về số phận và những Xác Tín Tuyệt Đối, tôi lại không quen đào sâu vào chính mình. Có những vấn đề hoàn toàn xa lạ với tưởng tượng của tôi. Tôi chỉ biết rằng mình cảm thấy bị xúc phạm, và thế là đủ. Sự xúc phạm ấy khiến tôi oán đến mức đã nghĩ hay là nhảy quách lên một con tàu, rời hòn đảo này mãi mãi, không bao giờ gặp lại bố hay mẹ kế nữa. Nhưng vừa nghĩ đến kế hoạch ấy thì, trong cơn rét buốt và phẫn nộ của cuộc nổi loạn đang trào, tôi nhận ra rằng mình chẳng thể nào thực hiện. Thật vậy, ý nghĩ rằng hai người họ sẽ ở lại trên đảo, một mình, bên nhau, không có tôi - ý nghĩ ấy tôi không thể nào chịu nổi!

Không tìm được lối thoát, cơn điên trở nên đau đớn đến mức khiến tôi bật ra những tiếng rên như con thú bị thương. Và dĩ nhiên tôi tin rằng nỗi phẫn nộ cay đắng này chỉ là do bị xúc phạm chứ không phải điều gì khác. Nhưng có lẽ, chính lúc đó, với toàn bộ ngây thơ, tôi đã bắt đầu than khóc cho những đòi hỏi bất khả của trái tim - cho những ghen tuông chồng chéo, những dục vọng giằng xé sẽ còn ám số phận tôi mãi về sau.

 

Pasta

Tôi đoán bố đã giữ lời: ông đã không lộ cho ai biết nhận định của ông (rằng tôi ghen). Thêm nữa, ông nhiều khả năng sẽ chẳng bao giờ hạ mình tâm sự với một người như mẹ kế tôi về một chuyện hệ trọng như thế - về một người Gerace! Thế nên với tôi, cuộc chuyện cay độc ngày hôm đó chẳng để lại hậu quả gì; bố tôi đã lập tức quay lại với sự hững hờ thường lệ, chẳng còn bận tâm gì tôi nữa. Và ký ức về sự xúc phạm cũng nhanh chóng bị chôn vùi.

Tuy nhiên, sự ghét bỏ của tôi đối với mẹ kế không giảm đi mà ngày càng dữ dội. Cuộc sống của cô ta trong những ngày bố tôi vắng mặt trên đảo phải nói là chẳng dễ chịu gì. Tôi không bao giờ nói chuyện với cô ta, trừ khi cần ra lệnh. Nếu đang ở bên ngoài và muốn gọi cô ta ra cửa sổ để sai bảo gì đó hoặc báo rằng tôi sắp về, tôi chỉ huýt sáo. Ngay cả khi ở trong nhà, nếu cần gọi cô ta, tôi cũng huýt sáo hoặc cùng lắm là cộc lốc: “Này, nghe đây!” nếu chúng tôi đang ở cùng phòng. Khi nói chuyện, tôi cố tình quay đi hướng khác, như thể cô ta là một thứ đáng khinh, không xứng để tôi ghé mắt nhòm. Và khi đi ngang căn phòng nhỏ ấy, tôi luôn ngoảnh mặt đi, như thể đằng sau cánh cửa khép hờ kia là một bóng ma, hoặc một con quái vật.

Tôi căm ghét người đàn bà đó đến mức ngay cả khi rời khỏi nhà, chỉ cần nghĩ đến việc cô ta vẫn còn ở đó - trong những căn phòng từng thuộc về chúng tôi nhưng giờ đã trở thành chỗ ở của cô ta, tôi cũng phát điên lên. Tôi cố gắng xóa cô ta khỏi tâm trí, vờ với mình rằng cô ta không tồn tại, rằng cô ta thậm chí còn chẳng bằng cái bóng. Quãng thời gian trước khi cô ta đặt chân lên hòn đảo này hiện ra như một phong cảnh phúc lành, một miền lơ lửng bình yên. A, tại sao cô ta lại đến? Tại sao bố tôi lại mang cô ta đến đây mới được?

Ngày dần dài ra và trời ấm dần. Những đêm đầy sao tuyệt đẹp chẳng còn lạnh căm, và tôi thường kệ giờ ăn tối ở Casa dei Guaglioni, lang thang giữa những con phố và quán cà phê xập xệ của bà góa. Nhưng dù tôi có về muộn thế nào đi nữa, từ con đường dưới nhà, tôi vẫn luôn thấy ánh đèn hắt ra từ cửa sổ bếp và biết cô ta vẫn còn ở đó, chưa ăn, đợi tôi về rồi mới nấu mì. Dù đã rất muộn và rất đói, đôi khi thấy ô cửa sáng ấy, tôi lại bất chợt nảy ra ý muốn độc ác là kéo dài thêm sự chờ đợi của cô ta. Sự tàn nhẫn ấy hoàn toàn xa lạ với bản tính tôi trước đây. Tôi lặng lẽ tiến lại như một thằng trộm, đến tận cửa kính bếp rồi cứ thế đứng bên ngoài, nơi cô ta không thể thấy. Nấp trong một góc tối, tôi có thể thấy cô ta qua ô kính, đang thiếp đi vì mệt. Chỉ cần một tiếng động khẽ bên ngoài, cô ta lập tức ngẩng đầu, ném một ánh mắt hy vọng về phía cửa rồi lại cúi xuống, thỉnh thoảng ngáp như một con mèo (miệng ngoác tận quai hàm, trông như thứ hổ khiến người ta cười rũ). Hoặc cô ta khẽ thở dài, ngực phập phồng. Cuối cùng, tôi bất thình lình xông vào, như một con thú lao về hang, làm cô ta giật hoảng. Tôi rút phăng cuốn sách từ tủ chạn, mặt lạnh tanh chờ cô ta dọn bữa cho tôi.

Có lần, khi về, tôi nhìn qua cửa sổ và thấy cô ta đang viết gì đó trên một tờ giấy, gương mặt trầm tư, thậm chí xuất thần như một nhà văn. Sau bữa tối, cô ta lên lầu trước tôi, để lại tờ giấy trên tủ chạn. Ánh mắt tôi vô tình lướt qua đó. Đó là thư gửi mẹ cô ta, đại khái như sau:

Mẹ yêu quý

Con viết thư này. Hy Vọng mẹ vẫn khỏe. Cả chị Rosa yêu dấu còn phần con con có thể báo rằng ở đây đều khỏe và nhờ mẹ gửi lời hỏi thăm đến mẹ đỡ đầu yêu quý hỏi xem bà ấy còn nhớ đến con không và cả các bận thân yêu của con Irma Carulina cùng Angiulina xem họ còn nghĩ đến con không và cả lời chào của con đến cha Severino và mẹ Conzilia và xem San Giuvani kính yêu có còn bị sốt không chắc là do tuổi già thôi và xin mẹ cũng gửi lời chào đến bạn con là Maria và Filumena cùng với Aurora yêu dấu mẹ nhớ bảo cô ấy rằng váy đẹp lắm và cả những người khác nữa họ còn nhớ đến con không hay đã quên Nunziata mất rồi nhưng con thì không bao giờ quên họ dù ngày hay đêm nhớ hỏi cả Sufia nữa và Nunziata kia con gái của Ferdinando xem còn nhớ đến con không nhé. Con có thể nói với mẹ rằng ở đây trên đảo Procida chúng con ăn mà không cần trả tiền vì đất đai cung cấp mọi thứ cả dầu khoai tây rau và cửa hàng thì chỉ cuối năm mới phải trả tiền một thể. Mẹ yêu dấu xin nhận từ con ngàn nụ hôn thân thương cả Rosa nữa xin gửi đến chị ấy ngàn nụ hôn từ em gái của chị Nunziatella và xin mẹ cũng gửi đến mẹ đỡ đầu yêu quý của con ngàn nụ hôn cùng với thật nhiều nụ hôn cho những người bạn mà con đã nhắc đến họ luôn ở trong tim con con kết thư đây.

Nunziatella

Một tối khác, về nhà tầm mười giờ, tôi thấy cô ta đã ngủ gục trên bàn bếp. Một cánh tay gấp lại đặt trên bàn, má tựa lên bàn tay như lên một cái gối nhỏ; bóng đổ của những lọn tóc trên trán khiến ánh đèn không chiếu trực tiếp vào mặt cô ta, và lần này, trong giấc ngủ, gương mặt ấy có một vẻ trầm tư và bí ẩn. Tôi bắt đầu đập mạnh vào tấm kính rồi cất giọng gọi to, thô bạo đánh thức cô ta.

Hai, ba lần về trễ, tôi bắt gặp cô ta đứng chờ ngoài cổng. “Cô làm gì ngoài này hả?” tôi gằn giọng hỏi. Cô ta đáp là chỉ ra hóng gió.

Dù gì thì cô ta cũng không trách được tôi. Tôi đâu có bảo cô ta phải đợi. Nhưng rõ ràng, so với ngày tháng đơn điệu và cô độc của cô ta, bữa tối cùng một kẻ câm lặng như tôi dường như cũng là cả một sự kiện, một kiểu lễ hội buổi tối đối với cô ta - giống như đi khiêu vũ hay xem phim đối với những phụ nữ khác. Mỗi sáng, cô ta đều dồn hết sức lực vào việc chuẩn bị pasta tươi, mà ngày nào cô ta cũng tự tay làm, rồi ngay sau khi cán xong, cô ta đem phơi trên những thanh gỗ trước cửa như một lá cờ phấp phới. Một sáng nọ, khi bực bội bước xuống bếp và thấy cô ta đang tỉ mẩn với việc thường ngày, tôi lạnh lùng tuyên bố rằng nếu cô ta làm pasta hằng ngày chỉ vì tôi thì đó là sai lầm - tôi không thích pasta, và chưa bao giờ thích.

Tôi nói vậy chỉ để làm cô ta bẽ chứ thật không phải vậy. Thực ra tôi thích pasta không kém bất cứ món nào. Có thể nói rằng tôi ngon miệng với mọi thứ mà con người có thể ăn - điều duy nhất tôi quan tâm là số lượng, vì lúc nào tôi cũng đói cồn cào.

"Gì cơ!" Cô ta thốt lên, giọng yếu ớt như không tin vào tai mình. "Cậu không thích pasta à!"

"Không."

"Thế cậu thích gì?"

Tôi lục lọi trong đầu để tìm câu trả lời gây hấn nhất. Và nhớ lại vẻ ghê tởm cô ta từng lộ ra với sữa dê, tôi liền bịa:

"Thịt dê!"

"THỊT DÊ!" Cô ta kêu lên kinh ngạc. Nhưng chỉ một chốc sau, từ sự ngây dại ban đầu, một kiểu nhiệt tình sốt sắng và nhún nhường bất ngờ hiện lên trên mặt cô ta - cứ như thể, chỉ để chiều theo sở thích của tôi, cô ta đã bắt đầu suy tính cách kiếm thịt dê và sửa soạn những món ăn từ đó...

Trước cảnh ấy, tôi bất chợt bị một cơn buồn cười không cưỡng nổi và vội vàng giấu mặt vào tay. Nhưng ngay lập tức, một ý nghĩ vụt qua: "Nếu giờ mình lộ ra rằng mình đang cười, cô ta sẽ tưởng thế là làm lành... giống như... buổi chiều hôm ấy..." Ý nghĩ đó làm tôi rùng mình, và tôi gạt phắt nó đi. Nhưng dù cố kìm nén, tôi vẫn cảm thấy cơn cười chực vỡ ra trong lồng ngực. Không còn cách nào giấu vẻ khoái chí, tôi quỵ xuống đất, vùi mặt vào cánh tay và giả vờ nức nở.

Lúc đó, tôi nhận ra rằng nếu muốn, tôi có thể trở thành một diễn viên đại tài! Cô ta tiến lại, do dự, lo lắng; từ dưới cánh tay đang che trán, tôi thấy bàn chân nhỏ bé, ngắn ngủn của cô ta lệt xệt đôi dép đi trong nhà… Vở kịch đang diễn làm cơn buồn cười càng bùng mạnh, khiến những tiếng nức nở giả tạo càng xé ruột xé gan. Một bắt chước không thể nét hơn. Cô ta lúng túng thì thầm: “Artú…?” Một lát sau, cô ta lại: “Artú…?” Tôi cảm nhận được hơi thở của cô ta trên người mình - rất nhẹ, đầy quan tâm, gần như bản năng. Rồi, không kiềm chế được nữa, giọng cô ta run rẩy, đầy xúc động:

“Artú! … Có chuyện gì làm cậu buồn phải không? … Nói với Nunziata đi!”

Trong giọng cô ta, ngoài sự thương cảm còn có một sự tự tin chín chắn - gần như là sự lên mặt của một người chị cả đã từng ôm trong tay tất cả bầy em nhỏ… Nghe cô ta nói thế, tôi lập tức thấy dâng lên một cơn phẫn nộ và khinh miệt. Cô ta dám? Tôi bật dậy:

“Tôi không khóc, tôi đang cười!” tôi hét lên. Cô ta nhìn tôi chằm chằm - khuôn mặt lạnh lùng, đôi mắt khô rực cháy vì điên giận - trông cô ta kinh hoàng như vừa thấy một con rồng trồi lên từ lòng đất. “Tôi không phải loại người khóc lóc!” tôi tiếp tục, giọng ngạo nghễ và gần như đe dọa. “Còn cô, cô không được phép nói với tôi như thế. Cô không phải ruột thịt của tôi, cô chẳng là gì với tôi cả, chẳng là gì hết! Tôi không có quan hệ gì với cô, cũng không phải bạn bè cô, hiểu không?”

Cô ta hạ mắt xuống đống pasta trước mặt, vẻ kiêu hãnh và phẫn nộ, môi hơi bĩu ra như thể đang chuẩn bị buông một lời đáp trả cay độc. Nhưng cuối cùng cô ta vẫn im lặng, tiếp tục gom bột lại và nhào nặn với những động tác mạnh, như thể muốn trút giận lên thứ vô tri ấy. Sau đó, dù miễn cưỡng, cô ta cũng bắt đầu cán bột ra. Đến lúc tôi vừa nhai nốt bữa sáng vừa tiến ra cửa, cô ta bất ngờ liếc tôi một cái - một ánh mắt bơ vơ, mờ mịt:

“Thế…?” cô ta hỏi. “Nếu cậu không thích pasta… thì tối nay muốn ăn gì?”

Tôi quay nửa người lại, môi nhếch lên hờ hững, cố lấy giọng cộc cằn hết sức:

“Tôi á? Thôi đi, cô nghĩ tôi quan tâm đến bữa tối thật à? Cô thực sự tin mấy lời tôi nói về pasta sao? Cô phải hiểu rằng với tôi ăn gì cũng thế thôi, tôi hoàn toàn có thể chỉ nhá bánh quy cùng thịt muối! Và kể cả nếu cô nấu, giả sử nhé, cánh đà điểu, vi cá mập hay lưỡi hà mã thì với tôi cũng vậy. Đồ ăn cô nấu lúc nào cũng cái mùi ấy thôi! Cô cứ việc cán pasta hằng ngày hay nấu gì tùy cô, tôi chẳng quan tâm! Với cả, sở thích của tôi cũng không phải chuyện của cô!”

Sự thật là tôi không muốn nhận bất kỳ sự quan tâm hay chăm sóc nào từ cô ta. Tôi ra lệnh cho cô ta chỉ để thỏa mãn cái thú làm nhục, đối xử với cô ta như một cái máy vô tri, một đồ vật để quăng quật. Nhưng sự quan tâm dịu dàng của cô ta - như thể cô ta thực sự dám tự coi mình là ruột thịt của tôi, là mẹ tôi! - thì tôi không thể nào chịu nổi. Không chỉ một lần, tôi nhắc lại với cô ta: “Giữa chúng ta không có bất cứ quan hệ gì. Cô chẳng là gì với tôi.” Cho đến một lúc, cô ta hơi tái mặt, hất mái tóc ra sau, nói:

“Không đúng! Tôi không phải không là gì đối với cậu. Tôi là mẹ kế của cậu, và cậu là con trai tôi!” Cô ta nói điều đó với một vẻ kiêu hãnh xúc động, như thể đang tuyên bố quyền sở hữu!

Tôi cười ngay vào mặt cô ta, cay độc và khinh bỉ. “Mẹ kế à?” tôi chế nhạo. “Mẹ kế còn tệ hơn cả không gì hết! Nói đến từ mẹ kế tức là thốt ra thứ đáng tởm nhất trên đời.” Và ngay tối đó, tôi lạnh lùng tuyên bố với cô ta rằng tôi không muốn cô ta đợi tôi ăn nữa. Nếu tôi về muộn, cô ta cứ ăn đúng giờ, một mình rồi biến khỏi bếp, để phần đó cho tôi. Tôi bảo cô ta rằng những bữa tối ngồi cùng cô ta khiến tôi chán ngấy; nhìn thấy cô ta mỗi tối làm tôi bực, và tóm lại, tôi hoàn toàn làm chủ chuyện ăn uống một mình!

 

Bài ca đơn độc

Cô ta bị tổn thương bởi những lời của tôi, có vẻ còn đau đớn và chán nản hơn tôi mong đợi. Nhưng cô ta không đáp trả, cũng không phản đối ý muốn của tôi. Từ đó, tôi quen về nhà rất muộn, tìm cách để không bao giờ phải ở cùng cô ta. Nếu đến nơi rồi mà thấy đèn vẫn sáng, tôi sẽ tiếp tục loanh quanh ngoài cổng (không còn rình nhìn qua cửa kính kiểu Pháp - thực tế, tôi còn giữ khoảng cách nữa), chờ đến khi đèn tắt: dấu hiệu rằng mẹ kế tôi đã lên lầu. Chỉ lúc đó tôi mới chịu bước vào bếp. Và bữa tối mà cô ta để phần cho tôi, giữ ấm trên bếp than, tôi lặng lẽ ăn một mình.

Cô ta không phản đối hay than phiền gì với tôi dù vào thời điểm đó, tôi là toàn bộ gia đình và xã hội mà cô ta có. Vẫn là một kẻ xa lạ giữa những người trên đảo vốn đầy ngờ vực, cô ta chẳng có ai quen biết, cũng chẳng có bạn bè. Cô ta dành hầu hết thời gian khép mình trong bếp hoặc trong phòng, không có ai trò chuyện. Nhiều lần khi ở ngoài khơi, nhìn lên bức tường tòa nhà chúng tôi, một pháo đài trông như chẳng có ai sinh sống, tôi bắt đầu ngờ rằng cô ta chỉ là một giấc mơ của riêng tôi, rằng thực ra không có ai khác sống sau những bức tường ấy ngoài tôi. Nhưng rồi, bất kể khi nào về nhà, chẳng bao lâu sau, trên cầu thang hay trong hành lang, tôi lại nghe thấy âm thanh quen thuộc của đôi dép lê bất biến.

Đối với tôi, cô ta giữ một thái độ lầm lì, bối rối nhưng dữ dội. Rất tự trọng, cô ta không cầu xin tình bạn của tôi - thứ tôi đã tàn nhẫn từ chối. Nhưng dẫu vậy, mỗi khi ánh mắt chạm nhau, sâu thẳm trong đôi mắt giông bão của cô ta vẫn luôn le lói - như một ngôi sao - câu hỏi vĩnh viễn không có câu trả lời: Artú, tôi đã làm gì cậu? Tôi đã làm gì?

Đôi khi từ một khung cửa sổ, tôi thấy cô ta, trong sự cô độc và khao khát tình bạn, ôm chặt lấy cây cam đắng trong vườn hoặc tựa vào một cột trụ cổng, như thể những vật vô tri ấy đã trở thành chị em, thành bạn thiết. Có lúc cô ta nâng niu một con mèo hoang bẩn thỉu xác xơ - một trong những con mèo bơ vơ đến tìm thức ăn thừa - rồi ghì chặt nó vào lòng, phủ lên nó vô vàn hôn hít. Thỉnh thoảng tôi còn nghe cô ta nói chuyện với chính mình, những câu sung sướng hoặc ngỡ ngàng, giọng êm dịu hơi ngân nga, những suy nghĩ chẳng nhắm đến ai cả. Ví dụ một đêm trăng sáng, cô ta đứng nhìn ra sân và lẩm bẩm: “Trăng đang tròn dần: thuyền trên biển đi câu mực…” Hoặc khi đứng một mình trên bậc cửa, nhấm thử một con nhím biển từ cái giỏ, cô ta cứ nhắc đi nhắc lại: “Ôi, nhím biển ngon ghê: như là lựu ấy…” Hay lúc chải đầu, bực vì những lọn tóc rối, cô ta vừa giật mạnh lược vừa lầm bầm nguyền rủa: “Ôi đồ khốn, ôi lũ tồi!

Bản tính cô ta vốn thích không gian kín của các căn phòng hơn là những nơi rộng mở hay đường phố - giống như một con chim hoàng yến yêu cái lồng của nó hơn bầu trời tự do. Dù Casa dei Guaglioni là một chốn lạnh lẽo xa lạ, cô ta vẫn hiếm khi rời khỏi đó. Đôi khi, vào sáng sớm, tôi thấy cô ta vội vã đi lễ, mình quấn chặt trong khăn choàng đen như thể đang lén lút trốn đi. Có những lần tôi tình cờ gặp cô ta trong hẻm, cái giỏ đi chợ vắt trên tay, những lọn tóc ép gọn dưới khăn trùm đầu, tay cắp chặt cái ví đã sờn. Khi thấy cô ta tất bật trong các cửa hàng, dáng vụng về mặc cả với đám tiểu thương khó tính như ma, cô ta trông giống như một cô gái Di-gan nghèo khổ giúp việc cho một bà trưởng tu bí ẩn hoặc một quý bà bị nguyền rủa nào đó. Thực sự, trên gương mặt cô ta lúc ấy có một vẻ buồn rầu u ám nhưng cũng ngoan cường kỳ lạ - như thể cô ta đang mang trong mình những bí mật của một chủ nhân đầy sức mê hoặc nhưng bị mọi người ghét bỏ. (Chắc hẳn bằng cách nào đó, cô ta cũng đã nghe được những lời đồn đại và câu chuyện độc ác xoay quanh nhà Gerace.)

Trong sự cô lập ấy, tôi cảm giác cô ta càng lúc càng chìm đi, mờ đi. Đôi khi tôi nghe tiếng cô ta hát vọng từ các căn phòng: lúc nào cũng là những bài học lỏm được từ cái radio nhà hàng xóm ở Naples - bài hát về gã Apache, hoặc một bài có điệp khúc "Tango, mi như sợi dây thòng lọng siết tim ta," và cô ta cũng thường xuyên lặp đi lặp lại bài thánh ca: "Hỡi thiêng liêng, chúng con tôn thờ Người, hỡi yêu thương, chúng con tôn thờ Người." Những nốt khàn the thé của cô ta kéo lê thê sầu muộn, như thể bất cứ bài hát nào cô ta cất lên cũng khởi từ nỗi buồn sâu thẳm. Nhưng tôi không nghĩ cô ta thực sự suy tư hay nhận thức được rằng mình không hạnh phúc. Một bông cúc hay một khóm hồng, dù số phận bắt nó phải sống trong một chậu hoa nơi bậu cửa thay vì một khu vườn thì cũng chẳng đời nào biết tự nhủ rằng: Ta có thể có một số phận khác. Và cô ta cũng vậy, giản đơn ngang mức ấy thôi.

Mỗi lần nghe cô ta hát, tôi lại nhớ đến những câu thơ Napoli học từ bé, những câu thỉnh thoảng vẫn vang lên từ một tay nhạc công nào dưới cảng: "Mi là chim hoàng yến… mi ốm đau mà vẫn hát… mi cô độc và sẽ chết trong cô độc…" Quả thật, nhìn vẻ tiều tụy của cô ta, đôi mắt đen mở to như thiêu đốt cả khuôn mặt, người ta có thể nghĩ rằng cô ta bệnh đến nơi rồi. Tôi còn bắt đầu nghi ngờ rằng lời nguyền chết chóc của nhà Amalfitano là có thật - và cô ta sẽ chết.

Nhưng trái tim tôi - đã được vũ trang - từ chối dành cho cô ta dù chỉ một chút thương cảm; trái lại, càng thế nó lại càng tàn nhẫn. Có một sự làm tôi bực hơn cả, ấy là cô ta, kẻ sợ bố tôi phát khiếp, lại chẳng bao giờ tỏ ra sợ hãi tôi! Khi tôi xúc phạm và lăng mạ cô ta, cô ta không bao giờ đáp trả nhưng vẫn đứng trước mặt tôi, bình thản như một con sư tử cái. Cái sự nhơn nhơn đó càng củng cố một sự hiển nhiên - rằng cô ta chỉ coi tôi là trẻ con, một thằng nhóc không thể khiến một người đàn bà như cô ta run sợ. Nhưng kể từ ngày cô ta đặt chân đến đây, rõ ràng chênh lệch chiều cao giữa tôi và cô ta đã dần thu hẹp; sự trơ tráo của cô ta chẳng khác gì một cái tát giáng thẳng vào mặt tôi. Để thỏa mãn lòng kiêu ngạo, tôi muốn làm cho cô ta khiếp sợ tôi - giống như cách cô ta run rẩy trước bố tôi, chỉ một cái bóng thoáng lướt qua gương mặt ông cũng đủ khiến cô ta hoảng hốt. Nhiều lần, quên đi mọi tham vọng khác, tôi chìm vào kế hoạch trở thành một tên cướp khi lớn lên - một thủ lĩnh băng đảng gieo rắc hãi hùng, sao cho chỉ cần nhìn thấy tôi từ xa, cô ta sẽ ngất lịm vì khiếp đảm. Thậm chí có những đêm, tôi bật tỉnh với ý nghĩ: Mình phải làm cho cô ta sợ. Tôi hình dung ra đủ kiểu tàn nhẫn chưa từng có, đủ thứ hành động man rợ - tất cả chỉ để cô ta có thể căm ghét tôi như tôi căm ghét cô ta.

Mỗi khi ra lệnh cho cô ta và được cô ta phục vụ, tôi hành xử như một hoàng đế nghiệt ngã đang chỉ thị một lính quèn. Và cô ta vẫn luôn ngoan ngoãn, sẵn sàng làm theo nhưng không bao giờ có dấu hiệu gì của vâng phục vì sợ hãi. Trái lại, mỗi khi làm gì đó cho tôi, cô ta dường như trở nên sinh động hơn, thậm chí còn mang một vẻ trang trọng lạ lùng. Và khuôn mặt nhợt nhạt, xấu xí của cô ta lúc đó bỗng tươi như một đóa hoa. Chừng như cô ta hy vọng rằng việc tôi ra lệnh và cô ta phục vụ tôi sẽ là khởi đầu cho một sự hòa giải nào đó? Chẳng có cách nào khiến cô ta hiểu rằng trái tim tôi không hề biết đến xót thương.

Anh Hoa dịch

 

sự lớn lên của các cậu bé/
vết thương vĩnh viễn không bao giờ lên sẹo

Joseph Roth, Hành khúc Radetzky
Robert MusilNhững nỗi hoảng hốt của cậu học sinh Torless
Romain Gary, Giáo dục châu Âu
Elsa Monrante, Hòn đảo của Arturo
Umberto SabaErnesto
Bruno Schulz, Dưỡng đường đồng hồ cát 

favorites
Thêm vào giỏ hàng thành công