favorites
Shopping Cart
Search
Vitanova
Prev
Đông 2024
Next

Hòn đảo của Arturo (Chương 2)

04/03/2025 21:23

trước tiên ở kia
tiếp

Một chiều đông

Đang là mùa đông và, thứ Năm ấy, màn mưa bụi lạnh phủ mờ Procida cùng cái vịnh. Vào những ngày như vậy, vốn rất hiếm ở chỗ chúng tôi, hòn đảo có dáng vẻ của một hạm đội, nó, sau khi đã cuốn lại cả nghìn cái buồm nhiều màu của mình, trôi dạt không tiếng động, theo các dòng lưu, về phía những mảnh đất thuộc cực Bắc. Khói của các tàu hơi nước đang thực hiện chuyến đi hằng ngày cùng những tiếng còi dài băng ngang không trung của chúng dường chỉ các con đường bí hiểm, nằm bên ngoài số phận chung: những lối đi của đám buôn lậu, đám săn cá voi, ngư dân Esquimaux: các kho báu và các cuộc di cư! Những tín hiệu ấy mang lại cho ta niềm vui của kẻ phiêu lưu và, đôi khi, ngược lại, một dạng hoảng sợ, như thể chúng là những tời từ biệt tang tóc.

Tôi vừa được mười bốn tuổi từ ít lâu nay, và mới vài hôm trước đó tôi mới được biết rằng, kể từ hôm nay, với việc con tàu lúc 3 giờ tới nơi, tồn tại của tôi sẽ thay đổi. Và, trong lúc đợi đến 3 giờ, bị giằng xé giữa nỗi sốt ruột và sự kinh tởm, tôi lảng vảng trên bến cảng.

Khi thông báo với tôi là ông sắp lấy người phụ nữ Naples xa lạ kia, bố tôi đã nói, giọng rất đúng mực (nghe thật giả tạo, vì thế thì không hay thấy ở ông):

- Như vậy, con sẽ có một người mẹ mới.

Và tôi, lần đầu tiên kể từ khi sinh, tôi cảm thấy mình sôi lên chống lại ông. Chẳng người phụ nữ nào có thể tự nhận mình là mẹ tôi và tôi không muốn trao danh hiệu đó cho bất kỳ ai, trừ một người duy nhất, đã chết! Lúc này, trong bầu không khí đậm sương ấy, tôi tìm bà, tôi tìm người mẹ duy nhất của tôi, hoàng hậu phương Đông của tôi, nữ thần biển của tôi, nhưng bà không đáp. Chắc hẳn, do nữ nhân đột nhập kia sắp tới, bà đã trốn mất hoặc bỏ chạy.

Tôi không hề tìm cách tưởng tượng ra dáng vẻ cùng tính cách người vợ mới của bố tôi có thể có. Tôi đẩy đi xa toàn bộ lòng hiếu kỳ. Cái người phụ nữ đó được làm ra theo cách này hay cách khác, thì đối với tôi cũng chẳng có gì đáng quan tâm. Với tôi, kẻ đó chỉ đồng nghĩa với: Nghĩa vụ. Bố tôi đã chọn kẻ đó và tôi, tôi không được đánh giá.

Theo những cuốn sách mà tôi đã đọc, một bà mẹ ghẻ chỉ có thể là một tạo vật biến thái, đầy thù địch và xứng đáng bị căm ghét. Nhưng, ở tư cách vợ của bố tôi, kẻ đó, đối với tôi, là một con người thiêng!

Khi con tàu hiện ra, bằng bước chân hờ hững tôi tiến về phía ụ tàu. Tôi tìm cách giải khuây bằng việc quan sát công việc chuẩn bị cập bến, nhưng các hành khách đầu tiên mà tôi nom thấy chính là họ, đứng bất động phía trên cái thang nhỏ, chờ người ta bắc cầu tàu.

Bố tôi xách cái va li quen thuộc của ông còn cô ta thì cầm một va li khác gần như cùng kích cỡ. Trong lúc bố tôi, còn chưa trông thấy tôi, tìm vé đưa cho người soát, tôi, ngay tức thì, đến đứng như trời trồng trước mặt cô ta và, không một lời giải thích, giật lấy cái va li từ tay cô ta: tôi biết nghĩa vụ của mình. Nhưng tôi cảm thấy, trong chốc lát, cô ta kháng cự lại, như thể cô ta nghĩ tôi là một tên ăn trộm va li. Rồi, ngay lập tức, thấy một manh mối nơi cử chỉ của tôi, cô ta nhìn tôi đầy vẻ linh động và, khẽ kéo vạt áo veste của bố tôi nhằm thu hút sự chú ý từ ông, cô ta hỏi ông:

- Đây có phải là Arturo không, hở Vilèlm?

- A, con đây rồi, bố tôi bảo tôi.

Cô ta đỏ mặt trước ý nghĩ đã xem tôi là một tên kẻ trộm và khẽ phác một cử chỉ để chào, đầy tin cậy nhưng cũng rất kín đáo.

May sao, cô ta không nảy ra cái ý muốn ôm hôn tôi, như người ta vẫn quen những khi chào nhau giữa họ hàng. Hẳn tôi sẽ đẩy ngay cô ta ra vì, thực sự, người ta đâu có thể, đùng một cái, chấp nhận được ngay rằng một ai đó là họ hàng của ta.

Khi đã cầm lấy cái va li rồi, tôi mới nhận ra cô ta còn có một cái túi nữa, cũ rích và nhét nhiều thứ đồ đến nỗi không khép chặt lại được. Tôi cũng muốn đỡ hộ cô ta nốt cái gánh nặng kia, nhưng, nom thấy cử chỉ của tôi, cô ta liền siết lấy cái túi của mình chặt hơn, từ chối bỏ rơi nó và dùng cả hai tay túm chặt lấy miệng túi, như thể đang bảo vệ một kho báu.

Cả ba chúng tôi khởi sự bước đi dọc ụ tàu, về phía quảng trường nhỏ của bến cảng. Dẫu bị vướng víu với đống va li, bố tôi và tôi, chúng tôi vẫn đi nhanh hơn cô ta. Cô ta bước rất vụng về, lênh khênh trên đôi giày cao gót dường cô ta chẳng mấy quen đi, cứ chốc chốc cô ta lại bị vấp.

Mình thì, tôi thầm nghĩ, mình thích đi chân đất hơn, thay vì phải cố nhét chân vào cái thể loại giày phụ nữ kia.

Nhưng ngoài đôi giày cao gót đó ra, cô dâu mới không có gì thanh lịch và hiếm có! Tôi đã tưởng tượng ra cái gì nhỉ? Rằng tôi sẽ thấy, trong vòng tay bố tôi, một sinh thể tuyệt diệu chẳng rõ là gì, kẻ xác thực cho tồn tại của giống nữ lừng danh hay được miêu tả trong các cuốn sách ư? Cô gái Naples kia, với bộ quần áo không ra hình thù gì và cũ mòn, chẳng mấy khác so với vợ những người ngư dân và vợ đám tiện dân của Procida. Tôi chỉ cần, ngay lập tức, đưa mắt nhìn một cái là đã thấy cô ta xấu xí, và không kém xấu xí hơn tất tật các phụ nữ khác.

Cũng giống những người khác, cô ta lôi thôi, với khuôn mặt trắng bè ra, cặp mắt đen cùng mái tóc (mà cái khăn san trùm lên đầu chỉ để lộ ra phần chân) đen như lông quạ. Và hẳn thậm chí người ta còn không thể nói ấy là một cô dâu mới: cơ thể cô ta đã là cơ thể của một phụ nữ trưởng thành, nhưng khuôn mặt thì không thế, chỉ cần nhìn nó, dẫu không hề rành rọt trong địa hạt tuổi của phụ nữ, tôi vẫn nhận thấy, nhờ một dạng trực giác tức thì, rằng cô ta hẵng còn gần như là một đứa thiếu niên, chỉ hơn tuổi tôi chút ít. Nói vậy thôi, quả đúng là một phụ nữ, ở tuổi mười lăm mười sáu (đấy là độ tuổi của cô ta vào lúc đó), đã phát triển và cao lớn, trong khi một thằng bé, ở tuổi mười bốn, thì vẫn còn bị xem như là nhãi ranh. Nhưng dẫu có vậy thì điều làm cho tôi càng lúc càng điên tiết nằm ở ý đồ của bố tôi: cái ý đồ, chẳng buồn để tâm gì đến các lý do khác mà tôi có thể có, cho rằng tôi có thể coi là mẹ một cái người chỉ hơn tôi một hay hai tuổi, thậm chí còn chưa tới!

Cô ta khá cao so với một phụ nữ và thậm chí tôi cảm thấy xấu hổ và giận dữ khi nhận ra cô ta cao hơn tôi (điều này, tuy vậy, đã không kéo dài. Tôi chỉ cần vài tháng là đã cao bằng cô ta. Và thêm nữa, rốt cuộc, vào lúc tôi đi khỏi Procida, cô ta chỉ cao đến ngang cằm tôi).

Bằng một cử chỉ, bố tôi gọi xe và nó tiến về phía chúng tôi. Trong lúc ấy, vợ ông tròn mắt nhìn quảng trường bến cảng và những người ở đó, bởi đây là lần đầu tiên cô ta đặt chân tới đảo.

Tôi leo lên ngồi ở ghế trên, cạnh người xà ích, nhưng ngoảnh mặt về phía họ, ngồi sát nhau trên băng ghế nhỏ phủ nhung. Viên xà ích đã kéo mui xe lên để những người khách khỏi bị dính mưa bụi, và cô dâu trẻ, ngay khi ngồi vào chỗ yên ổn, liền vội vã dùng vạt váy chùi đôi giày. Đôi giày nhỏ bé ấy (bằng da màu đen, sáng bóng, với các chỗ cài mạ vàng), cần phải công nhận điều này, là đôi giày thanh lịch nhất mà tôi từng thấy, nhưng cô ta đối xử với chúng cứ như thể, đối với cô ta, chúng quả là mấy thứ đồ thiêng!

Bố tôi, vào khoảnh khắc đó, đang liếc mắt nhìn cô ta, khẽ nở nụ cười, vì thích thú hay do thói trịch thượng, điều này thì không thể biết được. Nhưng cô ta, cúi xuống đôi giày, không trông thấy, bằng không, tôi nghĩ, hẳn cô ta sẽ đỏ lựng mặt lên.

Không cần phải cố lắm thì cũng nhận thấy rằng bố tôi uy hiếp cô ta rõ kinh. Ngay cả những khi nào cô ta thoải mái có với ông các cung cách thân tình vốn dĩ bộc phát ở cô ta (như vừa nãy, khẽ giật áo veste của ông), thì cô ta cũng làm vậy với vẻ do dự và có chút e sợ. Còn bố tôi, về phần ông, dẫu có vẻ sung sướng vì dẫn được người phụ nữ kia về nhà, không cho phép cô ta tỏ ra chút tình thân nào dẫu nhỏ tới đâu. Tôi không thấy họ thì thào với nhau, cũng như ôm hay hôn nhau, như dường những kẻ đính hôn hoặc các cặp vợ chồng trong chuyến đi sau đám cưới vẫn hay làm. Tôi thấy sung sướng vì thế. Ông vẫn giữ biểu hiện thờ ơ cao ngạo quen thuộc của ông: về phần mình, cô ta ngoan ngoãn ngồi đó, với một khoảng nhỏ giữa cô ta và ông, giữ chặt trong lòng cái túi quý giá mà cô ta siết chặt lấy miệng bằng cả mười ngón tay. Hai bàn tay cô ta nhỏ và ráp, bị cước đỏ lên, và tôi để ý thấy bên tay trái cô ta đeo một cái nhẫn vàng nhỏ: nhẫn cưới của bố tôi. Bố tôi, ngược lại, không đeo cái nhẫn nào.

Không ai trong số chúng tôi cất lời. Cô ta hoàn toàn chìm đắm vào việc ngắm cảnh. Hẳn có thể nói, chiểu theo biểu hiện của cô ta, là cô ta đang trông chờ được xâm nhập một đại đô thị lịch sử nào đó, Bagdad hoặc Istanbul, chứ không phải hòn đảo Procida, nó thì nằm cách Naples đâu có xa! Thỉnh thoảng, tôi lén nhìn về phía cô ta và lại thấy cặp mắt ngây ra, to và sáng rực của cô ta, với hàng mi tỏa ra như các tia của một ngôi sao. Trong bóng tối lờ mờ của cỗ xe, khuôn mặt cô ta, với cặp mắt mở thật lớn, như thể được trang trí những món châu báu. Đôi lông mày rậm, không đều đặn và chạm vào nhau trên trán cô ta, khiến tôi nghĩ đến một số bức chân dung vẽ các cô bé gái cùng phụ nữ mọi rợ mà tôi từng thấy trong những quyển sách.

Ở chỗ giao với phố chính, khi chúng tôi đi ngang qua trước một cái hốc bên trong để một bức tranh nhỏ vẽ Đức mẹ Đồng trinh, đằng sau một tấm lưới sắt, cô ta giơ bàn tay phải lên và, với dáng vẻ trang trọng và đầy thành kính, làm dấu thánh, và để kết thúc thì hôn đầu các ngón tay. Thấy vậy, ngay lập tức tôi nhìn bố tôi, hết sức chắc chắn là sẽ bắt gặp ít nhất thì cũng là một nụ cười chế nhạo hay thương hại trên môi ông, nhưng, thoải mái buông mình trên băng ghế trong một tư thế lười nhác, ông chẳng hề chú ý chút nào đến cô ta.

Lúc chúng tôi tới quảng trường nhỏ, từ biển xuất hiện vòng cung lớn của một cầu vồng, nó băng ngang vòm trời, gần như ở ngay chính giữa. Trong ánh sáng đã lại trở nên sáng sủa, ở giữa cả nghìn phản chiếu của màn mưa bụi, những tòa nhà cổ kính của pháo đài hiện ra, thật gần, như thể ở phía bên trên chúng tôi.

Thấy chúng, cô dâu trẻ tuổi có một phản ứng đầy ngưỡng mộ nhuốm kinh ngạc và, thúc cùi chỏ vào bố tôi, cô ta hỏi ông, vẻ biết rõ:

- Đấy phải không... nhà chúng ta?

Tôi cười ầm lên. Bố tôi nhún vai và đáp lại cô ta:

- Không đâu!

Rồi, quay sang tôi, ông giải thích, nói rành rẽ từng từ:

- Bố đã kể cho cô ấy là chúng ta sống ở một lâu đài tuyệt diệu.

Và ông mỉm cười với tôi với một biểu hiện thật ngoạn mục, một biểu hiện của sự đồng lõa gần như con nít và đầy láo lếu, nó làm cho tôi đâm ra hoang mang. Tôi chẳng hề nghĩ tới khả năng bố tôi lại muốn làm cho cô vợ trẻ của ông tin vào những sự quá đà hay thậm chí là những lời vớ vẩn và, mặt khác, cho đến tận hôm nay tôi còn chưa bao giờ đặt giả định Động của đám trai trẻ lại là một tòa lâu đài!

Mẹ ghẻ của tôi đỏ lựng mặt lên. Nhướng mày, vẻ vừa độ lượng lại vừa châm biếm, bố tôi bảo cô ta:

- Em có biết villa rất đẹp phía trên kia là gì không? Nhà tù khổ sai đấy!

- Nhà tù khổ sai?

- Phải! Nhà Tù Procida!

- Chính đó là Nhà Tù! cô ta kêu lên, vẻ đầy suy nghĩ, vừa nói vừa nhìn các bức tường kia với ánh mắt khác hẳn, à đúng, ông đã nhắc đến nó với em! Thậm chí ông đã nói với em rằng ngay cả ở Rome người ta cũng không tìm được nhà tù nào to lớn và quan trọng hơn! Và người ta nhốt ở đó bọn bất lương từ mọi nơi trên thế giới! Đức mẹ Thánh thiêng ơi! người ta không thể nhìn cái đó được! thật ghê gớm khi nghĩ rằng chúng ta đang đi xe ngựa ngay dưới chân pháo đài này và trên kia, cái tuổi trẻ khốn khổ ấy...

Nhưng nói như vậy xong, cô ta nghĩ lại và, lấy dáng điệu nghiêm khắc, như để áp lên những tình cảm riêng của mình một luân lý vượt trội, cô ta kết luận:

- Tuy nhiên, đó là công lý! bọn họ đã phạm nhiều trò đồi bại và, giờ đây, bọn họ phải trả giá!

Nghe nói vậy, tôi phát ra, như lời bình luận, một tiếng huýt sáo nho nhỏ, bởi một ý kiến như thế xứng với toàn bộ nỗi khinh bỉ của tôi: như người ta biết, lúc nào tôi cũng đứng về phía những kẻ ngoài vòng pháp luật. Nhưng cô ta không tỏ vẻ nhận thấy sự bất động lộ rõ của tôi, hay nói đúng hơn, đang tập trung như vậy, có lẽ thậm chí cô ta còn không nghe thấy tôi nói gì. Có khả năng, chuyện này không đáng phải lãng phí một tiếng huýt sáo nhằm thể hiện một ý nào đó có chút người lớn cho một con người tiền sử và điếc đặc như cô ta.

Sau khi chúng tôi rẽ ở góc phố, về phía vịnh, Nhà Tù, phía xa xa, bày ra với chúng tôi toàn bộ độ rộng những bức tường của nó, từ pháo đài cũ cho tới các tòa nhà mới, và trong chốc lát cặp mắt của cô dâu mới lại nhìn về đó, đầy hoảng sợ và thông cảm, tuy vậy kèm một sự kính trọng hiển nhiên đối với Quyền lực Luật định! Rồi, ngừng nhìn cái tòa nhà trừng phạt khổng lồ ấy, cô ta lại nép mình vào cuối cỗ xe.

 

Ba người đến nơi

Trong đoạn cuối chuyến đi, một mối quan tâm yếu ớt khởi sự kích động tôi: quả thật, đây là lần đầu tiên, sau ngần ấy năm, Casa dei Guaglioni sẽ đón nhận một phụ nữ và nỗi nghi hoặc của tôi hòa vào với một trông chờ tò mò nhất định. Lát nữa chuyện gì sẽ xảy ra, vào khoảnh khắc chúng tôi vượt qua ngưỡng cửa cùng cô ta? Gần như tôi trông đợi một dấu hiệu bí hiểm và nhiều dự cảm nào đó, một cú rung chuyển của những bức tường... nhưng đã tuyệt đối không xảy ra điều gì hết. Như thường lệ, tôi tìm thấy bên dưới tảng đá, nơi tôi đã để nó trước khi đi ra ngoài, cái chìa khóa của cánh cửa vào nhỏ bé và nó ngoan ngoãn mở ra; và, có chút đờ ra vì lạnh sau chuyến đi trên cỗ xe thông thống, chúng tôi bước vào lâu đài của nhà Gerace tĩnh lặng. Ngôi nhà hoang vắng (như thường lệ, Costante đã quay về trang trại từ giữa trưa) và bố tôi đi trước chúng tôi vào các căn phòng băng giá và im lìm, mở rộng hết cửa và cửa sổ như mọi lần, những khi ông về đến nơi. Một cánh cửa sập vào, bị gió tramotante lúc đó vừa bắt đầu thổi khép lại, làm lộ ra bầu trời vô tận.

Cô dâu trẻ tiến lên trong các căn phòng như thể đang đi thăm một nhà thờ: tôi tin rằng, suốt đời mình, cô ta chưa từng bao giờ trông thấy một cái nhà bề thế như nhà của chúng tôi. Nhưng điều gây ấn tượng mạnh lên cô ta còn hơn so với toàn bộ những gì còn lại, ấy là căn bếp. Cứ như thể, một căn phòng rộng như thế, có cả đống bếp lò, và chỉ được dùng để nấu bếp, đối với cô ta là một kỳ quan ngoạn mục. Tuy nhiên, cô ta nhất quyết muốn nói cho chúng tôi biết rằng một quý bà mà em gái cô ta quen cũng có, ở nhà bà ta, một căn bếp nơi người ta chỉ vào để nấu nướng và ăn uống: nhưng, rất hiển nhiên, cái bếp đó không lớn bằng bếp của chúng tôi. Nghe thấy vậy, bố tôi phá lên cười vào mũi cô vợ trẻ của ông và, quay sang tôi, ông giải thích rằng, tại ngôi nhà nơi cô ta sống ở Naples hồi còn là thiếu nữ với cả gia đình, bếp chỉ là một cái lò đặt trên kiềng ba chân mà, vào mùa đông, người ta đặt trong phòng ngủ, trên đá lát và, mùa hè thì ở dưới đất, ngoài phố, trước cửa. Thậm chí họ còn làm spaghetti cùng các loại mì khác trong phòng ngủ và phơi chúng trên các thanh chắn bằng sắt của cái giường.

Cô dâu trẻ lắng nghe những giải thích ấy của bố tôi, vừa nghe vừa nhìn chúng tôi bằng cặp mắt to của mình, chẳng nói chẳng rằng.

- Và, ông nói tiếp bằng cùng tông giọng cười nhạo và thương hại, cô ấy không biết làm gì khác ngoài ba thứ sau đây đâu: mì, bắt chấy cho mẹ và đọc kinh Ave Maria cùng Pater Noster.

Nghe thấy thế, cô ta có vẻ bối rối và khẽ huých cùi chỏ vào bố tôi, như để xin ông đừng tiếp tục nữa, bởi cô ta thấy xấu hổ. Bố tôi, cố nén cơn cười, nhìn cô ta như người ta vẫn hay nhìn một món đồ vật chẳng mấy quan trọng.

- Kể từ ngày hôm nay trở đi, tuy thế, ông nói, vẻ khoa trương, cô ấy là một bà lớn: signora Gerace, bà chủ của cả đảo Procida.

Và rồi đột nhiên, gần như xảo trá, ông đặt cho tôi câu hỏi bất ngờ sau đây:

- Nhưng nhân tiện, thế còn con, thằng nhóc Moor, những lúc nói chuyện với cô ấy, tức là vợ của bố, thì con sẽ xưng hô thế nào? Sẽ phải thỏa thuận về chuyện này.

Đầy cảnh giác, tôi im tịt, cau có và kiêu hãnh. Cô ta rụt rè nhìn tôi, và rồi rốt cuộc cô ta mỉm cười và, mặt đỏ bừng, cụp mắt xuống, đáp lời bố tôi thay cho tôi.

- Cậu ấy chưa từng bao giờ biết mẹ của mình, piccerillo khốn khổ. Về phần em, em rất muốn được làm mẹ cậu ấy. Cứ bảo cậu ấy gọi em là , em sẽ rất sung sướng.

Đây thực sự là sự khiêu khích táo bạo nhất và nhiều sỉ mạ nhất có thể đến với tôi từ hai kẻ kia! Chắc mặt tôi phải thể hiện một cơn bừng giận hoang dã tới nỗi thậm chí tôi còn trấn áp được cả bố tôi. Ông nói, giọng thơ ơ và gần như với sự chế nhạo thoáng qua nhằm vào cô ta:

- Không được đâu. Nó không muốn gọi em là . Nào, con trai của bố, cứ gọi cô ấy như con muốn, cứ gọi tên cô ấy là được: Nunziata, Nunziatella.

(Nhưng tôi, không chỉ hôm đó, mà cả về sau, tôi tránh gọi cô ta kể cả bằng tên. Để nói chuyện với cô ta hoặc làm cho cô ta chú ý, tôi nói: nghe này; nói thử xem; này, cô, hoặc, thậm chí, tôi huýt sáo. Nhưng cái từ đó: Nunziata hay Nunziatella, tôi không muốn nói nó ra.)

Nghe những gì bố tôi nói, cô vợ trẻ của ông nhướng cặp mi lên. Dần dà màu đỏ biến mất khỏi khuôn mặt cô ta, để lại cô ta, tôi thấy dường như vậy, nhợt nhạt hơn trước và khép nép đến mức tôi có cảm giác nom thấy cô ta đang run. Và thế nhưng cô ta đã cho thấy một sự táo bạo nhất định khi đề nghị tôi gọi cô ta là ! Tôi chằm chằm ngó cô ta, đầy ngạo nghễ và khinh bỉ: quấn mình trong cái khăn san to màu đen của mình, với cặp mắt to, cô ta có dáng vẻ của một con cú mèo không bao giờ nhìn thấy mặt trời; khuôn mặt cô ta ủng ra, giống mặt trăng! Và Chúa mới biết cô ta đang giấu thật kỹ những bí mật nào trong cái túi xách da lổn nhổn và nhem nhuốc kia: kể từ lúc tôi trông thấy cô ta đến ụ tàu, cho tới lúc này, cô ta đã không rời nó dẫu chỉ trong giây lát và cô ta siết chặt lấy nó giữa các ngón tay, như thể cô ta e ngại sẽ bị lũ cướp tấn công!

Trong khi tôi nhìn cô ta như vậy, cô dâu trẻ im lặng và hẳn có thể nói thậm chí cô ta còn không đủ can đảm để thở. Rồi, đột nhiên, thấy tôi đang nhìn, cô ta đáp lại ánh mắt giông tố của tôi bằng một nụ cười bộc phát, nó đưa trở lại trên hai má cô ta một màu thoáng qua. Và như để vinh danh, kể từ giây phút ấy, gia đình chúng tôi, cô ta nói, với một dạng trang trọng, lần lượt chỉ vào mỗi người chúng tôi bằng bàn tay nhỏ bé đỏ và ráp của mình:

- Thế thì, đây là "Vilèlm", đây là Arturo, còn đây là Nunziata.

 

Bố tôi đã dựa người vào đá cẩm thạch của bồn rửa và ông ở đó, nửa như ngồi, một chân nhấc lên, chân kia đặt xuống đất, trong một tư thế lơ đãng và lười biếng. Cặp mí mắt hơi cụp xuống của ông để người ta thoáng thấy được màu xanh hai mắt ông, trông giống màu nước bị mùa đông làm vẩn lên tại một số cái hang lẩn khuất nơi không con thuyền nào xâm nhập được. Hai bàn tay gầy guộc của ông, với những cái móng dài và lởm chởm, lười nhác đan vào nhau. Và cả mái tóc ông, trong giây phút nhiều ánh sáng ấy, trộn lẫn với vàng.

Cô dâu trẻ có vẻ đang tự hỏi không biết, lúc này, ở đây, trong bếp, chúng tôi có thể coi là đã về đến nhà mình, và chuyến đi sau đám cưới của cô ta đã kết thúc hay chưa. Thoạt tiên, cô ta đưa mắt hỏi bố tôi về điều này; nhưng vì, vào lúc đó, ông không để ý đến cô ta, cô ta bèn tự mình quyết định và, hết sức cả quyết, tụt khỏi chân đôi giày cao gót nhỏ bé. Hiển nhiên là, cô ta nôn nóng tháo nó ra! Với rất nhiều kính trọng, cô ta đặt giày lên một cái ghế và, kể từ lúc ấy, tôi không bao giờ thấy cô ta đi giày nữa. Cô ta luôn luôn cất kín nó, như kho báu thiêng, cùng các thứ đồ trang sức khác mà cô ta có, mà chẳng bao giờ cô ta dùng đến.

Tôi sung sướng vì thấy cô ta thấp đi, giờ đây khi cô ta không còn đi giày cao gót nữa: lúc này, khác biệt về chiều cao giữa chúng tôi, thứ khiến tôi thấy rất nhục, dường không còn đáng kể mấy. Cô ta đi bên ngoài đôi tất lụa dài hai cái bít tất ngắn bằng len sẫm màu, đã vá, và hai cẳng chân của cô ta, với mắt cá chân khá thô, có sự thô thiển gần như vẫn còn con nít.

Sau khi cởi giày, cô ta cũng bỏ luôn cái khăn san, nó, được gài một cái kim băng ở dưới cằm, trùm lấy đầu cô ta, và mái tóc của cô ta hiện ra, được chải kéo lên cao và được giữ bằng rất nhiều lược nhỏ, bờm nhỏ cùng kim. Chi tiết này đánh thức sự chú ý của bố tôi và ông phá lên cười.

- Em làm gì thế? ông hỏi cô ta, em đã bới tóc! Ý tưởng của mẹ em có phải không! Không, tôi không thích vậy đâu. Nhất là khi người ta sẽ ngay lập tức thấy em còn chưa lớn. Đến đây, để tôi làm cho em đẹp hơn, đúng như tôi thích.

Cô ta nhìn chúng tôi, quy phục nhưng ngần ngừ và, do sự ngần ngừ ấy, ý chí của bố tôi được đưa lên mức đỉnh điểm. Với một sự hăng hái bất ngờ, đầy hào hứng, ông nhắc lại, bảo cô ta lại gần. Thế là, tôi có thể thấy là cô ta sợ ông kinh khủng đến mức nào: hẳn có thể nói cô ta phải đương đầu với một tên cướp mang vũ khí và cô ta ở yên đó, bị giằng xé giữa sự vâng lời và không nghe lời, không sao mà quyết định được đằng nào thì làm cho mình sợ hơn. Và bố tôi, tiến lên một bước, tới chỗ cô ta và túm lấy cô ta: cô ta run lên, với một biểu hiện hoang dã, như thể ông vừa bắt lấy cô ta để hành hạ.

 

Trong ánh sáng chiều tà

Trong lúc đó, bố tôi vừa cười vừa giật đống bờm cùng lược nhỏ ra, và bằng hai tay ông xõa tóc cô ta, lược với kim rơi xuống lả tả. Một mái tóc dày màu đen, rất nhiều lọn xoăn tự nhiên, chảy xuống, giống một bộ lông hoang dã, lộn xộn quanh mặt cô ta, xuống đến hai vai. Khuôn mặt cô ta sầm lại và gần như cao ngạo, và trong mắt cô ta vừa được thắp lên một lóe sáng của nước mắt; tuy nhiên, cô ta không dám lẻn đi khỏi bố tôi; nhưng, chừng ông đã xõa hết tóc của cô ta ra, thì cô ta lắc đầu thật mạnh, như đôi khi người ta vẫn thấy lũ ngựa, hoặc cả mèo nữa, hay làm.

Tôi tò mò nhìn tất tật các lọn tóc kia, cũng vì trong ký ức tôi vừa quay trở lại một câu nói của bố tôi một lát trước đó; nhưng, đoán được nỗi lo lắng của tôi, ông bảo:

- Kìa, Arturo, con sắp tưởng tượng gì đấy! Không, không: nhân dịp đám cưới, cô ấy đã được bắt hết chấy rồi.

Ông túm váy giữ cô ta lại, nhưng thậm chí cô ta còn không tìm cách bỏ trốn. Bằng một bàn tay, cô ta vẫn ôm khư khư lấy cái túi quý giá của mình, hơi giấu nó sau hông, nhằm bảo vệ nó khỏi sự náo nhiệt của bố tôi, và cô ta ngoan ngoãn ở lại đó, giữa hai chúng tôi, mặt hướng về phía cánh cửa gắn kính. Giờ đây, hai mống mắt của cô ta, trong bóng tối lờ mờ, đen nhánh, như là lông của lũ gà trống choai. Ngược lại, vòng tròn bao lấy hai mống mắt thì lại có màu đen của quả sim theo đúng nghĩa đen và tạo thành như thể một đường viền nhung. Và khắp xung quanh, lòng trắng của con mắt vẫn còn điểm sắc tím-xanh, giống ở lũ trẻ con nhỏ xíu.

Hai má cô ta bầu bĩnh và tròn, như trên các khuôn mặt hẵng còn chưa định hình xong của tuổi trẻ. Và cặp môi cô ta, có chút bệch ra vì lạnh, trông giống một số loại quả nhỏ màu đỏ (luôn luôn được lũ sóc cùng thỏ nhấm nháp) mọc ở Vivara.

Giờ đây khi tôi nhìn thấy cô ta lần đầu tiên trong ánh sáng đầy đủ, khuôn mặt cô ta khiến cô ta còn trẻ hơn so với cái tuổi mà tôi đã gán cho cô ta lúc khởi đầu, trên bờ ke. Nếu không có cơ thể cô ta, cao và đã phát triển, để nói ngược lại điều đó, hẳn người ta sẽ tưởng đâu, khi thấy cô ta, là cô ta vẫn còn ở vào những năm thơ ấu. Nước da của cô ta sáng, trong và mướt, như thể chính cái khăn mùi soa mà cô ta dùng để lau mặt cũng đã ân cần không làm hư hại nó. Là phụ nữ, hiển nhiên cả đời cô ta đã sống trong cảnh bị nhốt: ngay cả trên trán và quanh mắt, nơi chúng ta, vốn dĩ quen với nắng, luôn luôn có nếp nhăn hay vết nào đó, cô ta cũng chẳng hề có dấu nào dẫu nhỏ tới đâu. Hai thái dương cô ta nhạt màu, gần như trong suốt và, trong khoảng hõm của hai hố mắt, bên dưới con mắt, da cô ta trắng, nguyên vẹn và nhẵn lì, giống với những cánh hoa tinh tế, chúng, chừng nào đã mở, thậm chí không tồn tại nổi đến một ngày và, một khi hoa đã bị hái, héo đi.

Cổ của cô ta, dưới cái đầu phủ đầy tóc kia, dường rất mảnh, nhưng từ ngực lên đến cằm có một đường cong thật đầy đặn và mềm mại. Tại đó, làn da cô ta còn sáng hơn da trên mặt và, giờ đây, ngay sát đoạn ấy, một lọn tóc đen buông xuống. Hai mớ tóc khác, dài hơn, uốn cong, chạm vào một bên vai, và đằng sau gáy, gần như ngay dưới tai, cô ta có các lọn nhỏ ngắn, trông giống lông dê. Những lọn tóc lớn và nặng phủ kín trán cô ta tới tận lông mày; và trên thái dương, ngược lại, cô ta có đám tóc xoăn rất nhẹ và thanh, chúng lay động mỗi khi nào cô ta thở.

Mái tóc của cô ta dường đã mọc lên theo lối thất thường, đi theo phăng te di của nó. Đối với tôi, vốn còn chưa từng bao giờ thấy chúng trước đây, thật là một sự giải trí khi quan sát tất tật các đám tóc xoăn cùng những lọn tóc kia; nhưng, đối với cô ta, đã quen với việc có chúng kể từ hồi còn bé, hẳn chúng chẳng có gì ngoạn mục, mà là một điều tự nhiên. Cô ta quấn một trong các lọn đó quanh một ngón tay, để giấu đi nỗi rối trí quá mức mà bố tôi đặt cô ta vào, và không lâu sau đó, thấy xấu hổ vì đã tỏ ra ngẫn như vậy, bằng một động tác quen thuộc của bàn tay, cô ta hất chúng ra khỏi khuôn mặt. Thế là hiện ra lồ lộ hai cái tai nhỏ xíu và rất đẹp của cô ta, mà làn da phớt hồng phân biệt với màu trắng trên khuôn mặt và cái cổ. Theo tập tục thường thấy ở phụ nữ, dái tai cô ta xỏ lỗ, và hai vòng tròn nhỏ bằng vàng được xuyên qua đó, mấy cái khuyên mà bọn con gái nhận được từ mẹ đỡ đầu của chúng làm quà tặng, vào ngày báp-têm.

Trong khi theo bản năng chỉnh trang lại tóc tai, cô ta, tuy vậy, không làm sao mà thoát được khỏi nỗi sợ bí hiểm của mình và cô ta ở đó, cạnh bố tôi, vẻ ngơ ngác và lo lắng. Bằng một cú vung tay mạnh, bố tôi làm vạt váy ông đang giữ tung lên và thả cô ta ra.

- Tôi, ông tuyên bố với cô ta bằng tông giọng nhiều thất thường và đầy thù địch, tôi đã chọn một cô người yêu tóc xoăn tít và tôi muốn có một người vợ tóc xoăn tít.

- Nhưng, cô ta đáp, giọng dịu dàng và run rẩy, em không muốn ông làm tung tóc của em ra. Ông chỉ cần nói ông muốn gì, em sẽ làm theo.

- Em giấu cái gì trong đó thế hả? bố tôi hỏi cô ta. Nào, cho chúng tôi xem đồ trang sức của em đi.

Và, với một tràng cười đầy gây hấn, giật cái túi xách lừng danh kia khỏi tay cô ta, ông đổ xuống bàn toàn bộ những gì mà nó đựng bên trong. Đó thực sự là các món đồ trang sức! một đống vòng tay, ghim cài, vòng cổ, gần như tất tật đều do bố tôi tặng trong khoảng thời gian đính hôn. Tôi, vốn dĩ không biết gì mấy về thể loại những thứ đồ đó, thoạt tiên tôi cứ tưởng chúng đều làm bằng vàng thật, bằng ngọc topaze, ngọc rubi và ngọc trai thứ thiệt. Trên thực tế, đấy là các món đồ giả lẩm cẩm, mua tại hội chợ hoặc trên những cỗ xe nhỏ. Bố tôi đã thực hiện cuộc chinh phục của mình với các mẩu thủy tinh, giống người ta làm với đám người hoang dã.

Nói cho đúng, trong cả đống ấy, chỉ có vài nhành san hô cùng một cái nhẫn bạc nhỏ, khắc hình Đức mẹ Đồng trinh, mà mẹ đỡ đầu của cô ta đã tặng cho lễ kiên tín và giờ đây quá nhỏ đối với cô ta.

(Tất tật những thứ nữ trang kia, cô ta không bao giờ mang: cô ta cất kín chúng trong cái tủ của mình, với một sự ngưỡng vọng đầy tôn giáo. Trên người, cô ta chỉ đeo đôi khuyên tai của bà mẹ đỡ đầu, một cái mề đay Thánh Tâm bằng bạc, treo trên một sợi dây nhỏ, và cái nhẫn cưới của mình: nhưng, đối với cô ta, những món ấy thậm chí còn không phải là đồ trang sức, chúng thuộc vào cơ thể của cô ta, cũng như cặp khuyên.)

Bố tôi đùa nghịch một lúc với những thứ nữ trang hỗn độn đó, và rồi, phát mệt vì trò ấy, ông để vợ mình yên. Bị thời tiết đẹp đã quay trở lại thu hút, ông bảo chúng tôi cứ đợi ông và đi ra rìa cái bãi để ngắm biển. Thế là, vợ của ông, lẻ loi ở đó trong một góc nhà, tiến lại gần cái bàn bày đống trang sức, như một con thú hoang không có chút tự vệ nào, nó, ngay tức khắc sau khi mối nguy đi xa khỏi, chui từ cái hang trong rừng của mình ra.

Cánh cửa gắn kính để mở, và cảnh mặt trời lặn trên biển kỳ vĩ, được làn gió vỗ về, làm bùng cháy cả căn bếp bằng các màu nắng tối hậu của nó: cho đến cả nước biển đang dâng cao bên dưới kia cũng bắn lên bức tường quét vôi trắng phản chiếu chao đảo của nó, rồi dần dà tắt lịm đi. Vẫn còn lo lắng, đứng bất động cạnh cái bàn để đống trang sức, với một biểu hiện ghen tuông, cô ta khiến người ta nghĩ tới lũ chim én và bồ câu những khi chúng ở gần cái tổ đầy các quả trứng nhỏ của mình. Rốt cuộc, đã quyết định được, gần như là trong điên giận, cô ta chất chỗ trang sức thành một đống và cho chúng lại vào trong cái túi, và trút một hơi thở phào nhẹ nhõm. Rồi, quỳ gối xuống đất mà dịch chuyển như một con thú, cô ta khởi sự nhặt những cái lược cùng ghim cài tóc. Lẽ ra nghĩa vụ người đàn ông của tôi phải là giúp cô ta: tôi không phải là một kẻ ngu dốt và biết điều đó. Nhưng nhớ ra rằng, chưa lâu trước đó, trên ụ tàu, cô ta đã không có đủ tin tưởng giao cho tôi cái túi, tôi khinh khỉnh đứng yên tại chỗ.

Lúc đã xong xuôi, cô ta đứng dậy và trút đống lược cùng ghim lên ghế, bên cạnh đôi giày cao gót của mình. Rồi, hất mạnh tóc ra sau, cô ta nở với tôi một nụ cười tỏ tình bạn rụt rè. Tôi cứng rắn nhìn cô ta. Và cô ta ngừng cười, nhưng không tỏ ra bị xúc phạm. Hàng mi cô ta vẫn còn ướt những giọt nước mắt con nít và bí hiểm lúc nãy, nhưng trong mắt cô ta, sự ẩm ướt của các giọt nước mắt dường không phải một điều chua chát, thứ đốt cháy chúng giống ở chúng ta: hẳn có thể nói là có một làn hơi nước treo lơ lửng, nó ánh lên trong lúc chơi nghịch với mống mắt và đồng tử. Và những ánh mắt của cô ta, quy phục nhưng rất thẳng thắn và đầy phẩm giá, lúc nào cũng được thắp lên bởi một sự vui vẻ cùng một dạng lời cầu nguyện, nhắc tôi nhớ đến một ai đó... ai nhỉ? Immacolatella! Cả nó cũng có một ánh mắt giống thế, như thể nó từng luôn luôn nhìn thấy Chúa mầu nhiệm.

Trong lúc đợi bố tôi, tôi ngồi xuống bậc cửa. Góc nhà này khuất khỏi thứ gió tramontane và mặt trời nấn ná ở đó trước khi biến mất, nằm trên đó như một sự ấm dịu nhẹ. Không lâu sau đó, cả cô ta cũng tới ngồi trên bậc cửa, bên cạnh tôi, và cô ta bắt đầu dùng một trong những cái lược nhỏ thiếu răng mà cô ta đã nhặt ra sức gỡ rối mái tóc. Nghe thấy tiếng biển đập vào bờ, bên dưới, trên bãi biển nhỏ của tôi và, thỉnh thoảng, tiếng rít của gió tramontane phía trên hòn đảo. Tôi câm lặng.

- Giờ thì không nữa rồi, cô ta nói, nhưng hồi còn là thiếu nữ, mẹ tôi cũng có nhiều tóc như tôi. Em gái tôi thì, ngược lại, tóc thưa lắm.

Rồi, đã chải đầu xong, cô ta kêu lên:

- Đức mẹ ơi! sao mà tối nay bầu trời đỏ thế!

Và cô ta vừa nói thêm vừa thở dài, giọng trầm và vui sướng, chứ không hề chua chát, như thể, đầy ngoan ngoãn, công nhận các luật của hôn nhân trong số phận của mình:

- Nghĩ mà xem! đây là lần đầu tiên tôi xa nhà đấy!

Bố tôi quay về từ cái bãi và, trước khi trời tối, chúng tôi khuân lên trên tầng mấy cái va li mà chúng tôi đã để lại ở sảnh. Cũng như trên ụ tàu, bố tôi xách va li của ông còn tôi thì xách va li của cô dâu trẻ. Cô ta đi sau chúng tôi, mang theo trong một cái bọc, được tạo ra từ cái khăn san của mình, đống lược, đôi giày cùng cái túi đựng đồ trang sức.

 

Ở tầng trên

Va li của cô dâu trẻ khá nhẹ, nhưng, dẫu chắc không đựng gì nhiều nhặn, nó kích thích sự hiếu kỳ ở tôi. Đây là lần đầu tiên tôi sống cùng nhà với một phụ nữ và dự phần vào cuộc sống của cô ta từ rất gần, và tôi chẳng hề có chút ý tưởng nhỏ nhất nào về cả các thói quen của phụ nữ lẫn đồ đạc của những tạo vật lôi thôi ấy, và tôi chẳng hề biết có phải lúc nào, ngay cả ở giữa bốn bức tường, ngay cả những lúc bọn họ ngủ, bọn họ cũng dị hình và bí hiểm như vậy hay chăng. Cô dâu trẻ vẫn còn chưa cởi cái áo khoác mặc đi xa, một cái áo khoác nhỏ lố bịch và bợt màu đã trở nên quá ngắn cho cô ta, thành thử cái váy rộng trong bộ đồ của cô ta, bên dưới cái áo nhung sáng lóa nhưng rất sờn, dài thõng hẳn xuống bên dưới. Chắc hẳn, nếu tin vào các vẻ bề ngoài, người phụ nữ này là một kẻ cùng quẫn tầm thường, nhưng, kể từ sự bất ngờ của đống nữ trang, ai mà biết! tôi có thể trông chờ việc cô ta giấu trong va li những bộ trang phục của phu nhân sultan phương Đông.

Lúc này, cô ta chỉ rút từ đó ra một đôi giày cũ, đế bằng, mòn và trông như guốc, và ngay tức thì cô ta đi chúng vào chân không rời nữa, với một nỗi khoan khoái thấy rõ dẫu chúng quá rộng đối với cô ta, và điều này khiến cô ta phải lê chân khi bước đi và, thỉnh thoảng, chúng lại tuột mất.

Bố tôi, đặt va li của mình vào phòng ông, bảo tôi xách va li của vợ ông vào một căn phòng khác nằm đối diện phòng ông, nơi có một cái tủ cùng một giường sắt; và chính ông, vài phút sau, mang vào đó một cái đệm cùng chăn. Nhưng người vợ trẻ của ông, thoạt tiên dường hết sức sung sướng vì có riêng một phòng để đồ, lúc hiểu ra rằng phòng này cũng được dành cho cô ta để ngủ ban đêm, đâm sợ và, mặc cho nỗi e dè mà cô ta cảm thấy đối với bố tôi, cô ta bắt đầu bướng bỉnh nhắc đi nhắc lại là không thể thế được và cô ta muốn ngủ cùng những người khác. Bố tôi nghe cô ta nói, khá là bực dọc vì điều mới mẻ này, bởi ông đã quen với việc không ở cùng phòng với ai, nhưng, thấy rằng cô ta thực sự xám mặt vì hoảng, ông quay sang tôi, thậm chí còn chẳng buồn đáp lời cô ta, và bảo tôi, đầy vẻ sốt ruột:

- Được rồi, được rồi! Bố sẽ đưa cô ấy vào phòng bố. Nào, thằng nhóc Moor, giúp bố khiêng cái giường này.

Và chúng tôi chuyển vào phòng ông cái giường nhỏ của vợ ông

Cô ta đi theo chúng tôi, vẻ sung sướng. Vì cái giường nhỏ phụ thêm kia không kê vừa vào bên cạnh giường lớn của bố tôi, nó chiếm gần như toàn bộ bức tường trong góc, chúng tôi kê ngang ra, đầu dựa vào bức tường dài nhất, thành thử nó gần như nằm dưới chân cái giường của bố tôi. Vừa thấy mọi sự được sắp xếp như vậy, cô dâu trẻ, muốn làm ra vẻ giúp chúng tôi, bắt tay vào, từ cái giường lớn trở đi, việc hăng hái đập và lộn ngược lũ đệm cùng gối phủ đầy bụi. Và vừa lao mình vào hoạt động đó, cô ta vừa hỏi bố tôi, vẻ tự nhiên nhất mực:

- Thế là từ giờ trở đi, em sẽ ngủ với ông trên giường lớn, thay chỗ Arturo? Còn cậu ấy sẽ ngủ ở đây, trên cái giường nhỏ?

Hiển nhiên là cô ta tin chắc rằng tôi không có riêng một phòng, để ngủ vào ban đêm, tôi đã quen ngủ cùng bố tôi, cùng giường với ông!

Trước nhận xét vô tri mới này của cô ta, tôi chỉ cười, nhưng bố tôi, đã khá chán cái việc phải khiêng giường, đầy khinh bỉ nhún một vai và bảo cô ta, cắn môi vẻ nhạo báng và có chút nhại:

- Không, thưa Bà. Em thì, chừng nào tôi muốn ngủ, em sẽ xuống cái giường nhỏ. Tôi sẽ nằm trên giường của tôi, cái to ấy, lúc nào tôi cũng ngủ ở đó. Và Arturo sẽ ngủ ở giường của nó, trong phòng nó, lúc nào nó cũng ngủ ở đấy.

Rồi, làm bộ đang tức tối, ông hét lên với cô ta:

- Em phải nhớ, nhãi con, rằng ở đây em không ở giữa một băng ăn mày hay một bộ lạc, rằng em đang ở lâu đài của nhà Gerace! Và nếu em còn nói một lời ngớ ngẩn nữa, tôi sẽ bắt em lên kia mà ngủ, tại tòa lâu đài kia, giữa đám cai ngục và tù khổ sai!

Thấy rõ rằng cô ta không hiểu tại sao mình lại phải hứng chịu một trận quát mắng như thế, tuy thế mặt cô ta đỏ lựng lên, xấu hổ vì đã có thể nói một lời ngớ ngẩn. Và cô ta nhìn tôi, như thể đang hỏi tôi, với dáng vẻ tự hỏi có gì là xấu khi một phụ nữ đã lấy chồng ngủ cùng phòng với tôi, vốn dĩ là một thằng bé con.

Rốt cuộc, cô ta làm tôi nổi tức và tôi bảo cô ta, âm sắc đầy khinh miệt:

- Tôi ngủ một mình, trong phòng của tôi! Tôi không cần những người khác ở cạnh tôi. Nếu cô nghĩ rằng tất cả mọi người đều sợ giống cô, thì cô nhầm rồi. Tôi hoàn toàn có thể ngủ một mình giữa Rocky Mountains hoặc trên thảo nguyên Trung Á!

Cô dâu trẻ, nghe thấy vậy, nhìn tôi với vẻ ngưỡng mộ thành thực, nhưng cô ta đi quanh phòng, đồng tử mắt giãn ra, như thể cái ý phải ngủ ở đó một mình với bố tôi khiến cô ta thấy sợ. Tuy nhiên, giữa hai nỗi sợ: ngủ một mình trong một căn phòng hay ngủ một mình với bố tôi, thì cô ta thà chọn điều thứ hai còn hơn là điều thứ nhất.

Chắc hẳn để tự làm cho mình can đảm hơn, cô ta lại khởi sự đập tấm đệm giường lớn với còn nhiều hăng say hơn, đến mức làm bắn bụi từ đó tới tận bố tôi, lúc đó đã hờ hững gieo mình xuống cái giường nhỏ. Ông nhảy dựng lên, khạc nhổ sang một bên, rồi, lần này thì với một sự giận dữ thật, ông ta túm lấy hai tay cô ta, kêu to, mặt sầm xuống:

- Thôi nào! Cô có thôi ngay với mấy cái đệm không hả! cô bị làm sao đấy! từ lúc nào cô lên cơn sốt lau dọn, để mà hành hạ mấy cái đệm bất hạnh kia như vậy?

- Ở nhà em..., cô ta thì thầm, ngây ra, ở nhà em... bọn em hay...

- À, phải! ở nhà em! tôi tự hỏi là lúc nào, ở nhà em! bọn em đập đệm!

- Rất đều đặn, mỗi năm, dịp Phục sinh... và đôi khi thậm chí còn thường hơn... thậm chí còn thường hơn, trong năm...

Đột nhiên ông thả rơi hai cổ tay của người vợ trẻ, buông chúng ra với một sự mạnh bạo lớn đến mức hẳn có thể nói ông muốn giật chúng khỏi cô ta, và nỗi tức tối trong giọng ông nhuốm sắc nhạo báng:

- Thế thì, ông đáp, giờ em không còn ở nhà em nữa, tại đây, chúng ta đang ở trong Lâu đài của Procida, đây là giường cưới của tôi và đã không ai ra lệnh cho em thực hiện cuộc lau dọn dịp Phục sinh vào hôm nay.

Nói đoạn, ông lại khạc nhổ và, đi tìm cái va li của mình trong một góc, ông mang nó ra giữa phòng và bắt đầu cởi sợi dây chằng xung quanh. Tôi chưa từng bao giờ thấy ông thô bạo với ai gay gắt đến vậy, nhiều hằn thù đến vậy: với tôi, những lần trách mắng, ông làm việc đó bằng vài lời chẳng mấy quan trọng, kèm một sự đột ngột đầy cau có và như thể lơ đãng. Giờ đây, cái xen kia với vợ ông khiến tôi khám phá một khía cạnh mới nơi các tâm trạng của ông, bí hiểm đối với tôi như cũng thật bí hiểm và không thể bàn cãi, công lý của ông, và khi chứng kiến, tôi đã cảm thấy các dây thần kinh của mình co lại, như thể, lần này, tôi đã chia sẻ, cả tôi nữa, nỗi sợ của cô dâu trẻ. Rốt cuột, lúc ông thả hai cổ tay cô ta và đứng tách ra xa, tôi cảm thấy một sự giải thoát khó hiểu.

Sau khi mở va li của mình, ông khởi sự, nửa như quỳ gối xuống đất, lấy đồ từ trong đó ra theo lối hết sức lộn xộn, đúng như ông vẫn luôn luôn quen làm. Trong lúc ấy, cô vợ trẻ của ông, đứng bất động ở cạnh giường, nhìn căn phòng xung quanh mình. Một hồi lâu cả ba chúng tôi không ai nói gì, rồi cô ta cắt đứt quãng im lặng, để tò mò hỏi tại sao căn phòng này lại có nhiều cửa chạy thành một hàng như vậy.

Thậm chí còn không ngẩng đầu lên khỏi cái va li, bố tôi, vốn dĩ không muốn lao vào những giải thích dài dòng, ngay tức khắc đáp lại như sau:

- Đấy là vì, như tập tục tại tất tật các lâu đài là như vậy, ban đêm, phòng nào của ngôi nhà này cũng được những người lính canh cầm vũ khí đứng gác, mỗi người trước một cánh cửa. Để chứng tỏ là mình không ngủ mất, cứ một tiếng một lần, suốt cả đêm, họ phải thổi kèn trumpet cùng một lúc.

Cô ta không thử tìm cách phản bác bố tôi, nhưng, vì không biết có nên tin vào lời giải thích bông phèng của ông không, cô ta nhìn tôi, như nhằm đọc được một lời xác nhận trên mặt tôi. Tôi không thể nào tự ngăn mình phá lên cười và thế là cả cô ta cũng vậy, khuôn mặt hơi ửng lên, cười ầm ĩ. Đúng lúc đó, bố tôi, đã dỡ xong đồ từ cái va li, nhanh nhẹn đứng dậy trở lại. Chẳng buồn để tâm tới chúng tôi, ông đặt lên cái tủ com mốt đống đồ đạc không hình thù của ông và, bằng một cú đá, đẩy cái va li vào một góc, rồi, dỏng tai lên nghe tiếng chuông phát ra từ campanile, mà người ta nghe được từ xa, ông so giờ trên cái đồng hồ đeo tay Amicus. Câu chuyện về các cánh cửa và những người lính canh, vẫn còn làm cô vợ trẻ của ông và tôi cười, đã bị xóa mất khỏi trí nhớ ông.

Quay lại chỗ cái giường nhỏ, trên đó vừa xong ông mới nằm, ông ngồi lên gờ cái gối, lưng tựa vào mấy thanh chắn. Lơ đãng, có chút ngủ gật, tóc chảy xuống mắt, ông duỗi một chân ra, dùng đế giày di sạch chỗ nước bọt ông nhổ ra lúc nãy. Đúng lúc đó, cô vợ trẻ của ông, đã khởi sự ngắm bức chân dung Amalfitano, hỏi:

- Ai đây?

Và ông vừa ngáp vừa trả lời:

- Đấy là một hình thánh, người bảo vệ lâu đài.

Và, nằm dài ra trên giường, ông nói thêm, giọng láu lỉnh:

- Ở đây, cũng như tại mọi lâu đài, có một vị tổ tiên đã chết vẫn tiếp tục dạo chơi. Đấy là chân dung ông ấy. Cẩn thận kẻo người chết đó đến đâm dao xuyên qua tim em trong khi em ngủ nhé.

Trước lời đáp ấy, cũng như khi trước, cô ta nhìn mặt tôi, nhưng, lần này, cô ta không đọc được ở đó cả lời xác nhận lẫn sự phủ nhận. Vừa mỉm cười vừa nhún vai, cô thì thào:

- Khi người ta có lương tâm thanh thản, thì tại sao lại phải sợ bị trừng phạt?

- Vì, bố tôi nói với cô ta, ông ấy từng căm ghét tất tật phụ nữ.

- Thế nào cơ? ông ta từng căm ghét tất tật phụ nữ?

- Phải. Và nếu là chủ tể của vũ trụ, hẳn ông ấy đã tiêu diệt hết bọn họ rồi.

- Nhưng nếu không có phụ nữ thì làm gì còn thế giới nữa.

Bố tôi đặt đầu lên cánh tay gập lại của mình và, cười lớn, ông liếc nhìn cô vợ trẻ, với biểu hiện thù địch và xảo trá:

- Đối với ông ấy thì có quan trọng gì, ông hỏi, việc làm cho thế giới tiếp tục? Dẫu sao thì ông ấy cũng chết rồi. Chuyện thế giới vẫn tiếp tục thì được gì cho ông ấy?

- Ông ta từng là người Ki-tô mà lại có những ý nghĩ như vậy! cô ta vừa nói vừa chắp hai tay lại trên ngực, như để tự vũ trang, trong cuộc tranh đấu giữa sự rụt rè và các tình cảm khác

Khuôn mặt cô ta phập phồng dữ tới nỗi tôi, đang nhìn cô ta, tôi tưởng tượng ra trái tim cô ta đập, như một con chim nhỏ vừa bị người ta lôi ra khỏi tổ và nhốt vào lòng bàn tay. Cô ta hơi nghiêng đầu, lắc lư hết trên chân này đến chân kia và, rốt cuộc, cô ta hạ giọng hỏi:

- Tại sao ông ta căm ghét họ?

- Vì, bố tôi đáp, thả đầu rơi xuống gối, vì ông ấy bảo tất tật phụ nữ đều xấu xí.

- Tất tật đều xấu xí? cô ta nhắc lại. Thế nào cơ? Tất tật, không ngoại lệ, đều xấu xí? Thế thì... sao cơ?... tất tật, không ngoại lệ, đều xấu xí? Thế thì, ngay cả các nữ diễn viên cũng xấu à?

- Em thì biết gì về phim ảnh? bố tôi hỏi, duỗi người, nói bằng giọng lười biếng và uể oải, em mới chỉ đi xem phim đúng một lần, chính tôi là người dẫn em đến đó, xem phim da đỏ!

Nghe nói vậy, tôi nghĩ, có chút hẫng lòng, rằng thế thì ở điểm này mình kém cô ta, bởi ở Procida không có rạp chiếu phim và cả đời tôi chưa từng xem bộ phim nào.

Cô dâu trẻ đáp, vẻ thiếu chắc chắn:

- Em gái em từng đi xem... một người họ hàng nhà em đã dẫn nó đi, một người họ hàng sống ở Nola... một người tốt lắm! Nó đã đi xem bộ phim khác kia... em không nhớ tên, nhưng trong phim đó, những người làm việc ở đấy không phải da đỏ. Và rồi các nghệ sĩ, người ta cũng thấy họ được vẽ trên những tấm áp phích... nhìn được mà, ở Naples ấy...

- Phải rồi, tiếp tục đi, cứ tiếp tục nói đến đám phụ nữ xấu xa đó đi! bố tôi kêu lên đầy chế nhạo, vậy thì sắp thôi bọn tôi sẽ thích lắm vì được thấy cái lưỡi của em bị rụng! Vậy là em không biết quỷ làm rụng lưỡi những ai nói đến những điều bẩn thỉu và phụ nữ xấu xa? Mẹ em không bảo?

Mặt cô dâu trẻ đỏ lựng lên. Bố tôi ngáp.

- Thêm nữa, em im đi, em muốn hiểu gì nào? ông nói tiếp. Im đi, nhãi ranh! Tôi không muốn tranh cãi về cái đẹp với em.

Phật ý, cô ta tuy vậy vẫn tìm cách trương ra một ví dụ khác cao cấp hơn ngõ hầu làm người ta quên đi ví dụ nhơ nhớp mà cô ta vừa viện tới:

- Thế còn Hoàng hậu? cô ta hỏi. Chẳng nhẽ Hoàng hậu cũng xấu xí à?

Bố tôi phá lên cười, áp miệng vào gối vẻ háu đói đến mức hẳn có thể nói ông định cắn nó và, cả tôi, tôi cũng cười. Cô ta nhìn chúng tôi, ngây ra, chắc hẳn tìm trong tâm trí ngoan ngoãn của mình một lập luận tự vệ cuối cùng. Rồi, cặp mắt cô ta, đang nhìn chúng tôi, sầm xuống và bằng giọng hung dữ, run rẩy, cô ta nói với chúng tôi lập luận tối cao:

- Thế còn Đức Mẹ, cô ta nói. Cả bà ấy cũng xấu xí chắc? Mẹ của Chúa!

Bố tôi nhắm mắt lại:

- Đủ rồi đấy. Tôi buồn ngủ lắm. Tôi muốn nghỉ ngơi một, hai tiếng. Đi đi, để tôi lại đây một mình. Chúng ta sẽ gặp lại nhau sau.

Chúng tôi im lặng đi ra khỏi phòng ông, khép cửa lại. Ngoài hành lang, hạ thấp giọng để không làm phiền bố tôi, cô vợ trẻ của ông bảo tôi ở cùng cô ta trong khi cô ta lấy đồ từ va li của mình ra, vì cô ta còn chưa quen với ngôi nhà và cảm thấy sợ vì phải ở một mình trong một căn phòng, giờ đây lúc trời đã tối.

 

Cái va li

Chúng tôi quay trở lại căn phòng đầu tiên, căn phòng nơi chúng tôi đã lấy cái giường đi. Ở vào chỗ của nó, có thể thấy rõ một hình chữ nhật trên mặt sàn gạch sạch hơn, và chính tại đó tôi đến để ngồi. Căn phòng này có nhiều đèn, nhưng ngọn duy nhất có bóng chưa cháy là một dạng đèn nhỏ bằng kim loại thò từ tường ra, phía trên cao. Bóng đèn đó gần như không chiếu sáng nữa, vì nó phủ quá nhiều bụi, và thế là, trèo lên và quỳ gối trên tủ com mốt, cô ta tháo nó ra. Sau đó, để lau chùi nó, cô ta nhổ nước bọt nhiều lần lên nó và dùng váy để cọ.

Việc mở cái va li của cô ta đối với tôi là một nỗi thất vọng. Từ đó chỉ chui ra dăm thứ giẻ rách vô hình dạng, một đôi guốc nhỏ thô kệch và một cái váy mùa hè, in hoa, đã cũ và bợt màu đi do mồ hôi. Cũng có một cái khăn phu la to trùm đầu, nhưng không đẹp như những cái, trang trí hoa hồng, mà bố tôi vẫn có thói quen dùng để quấn; và chẳng có gì khác; cái va li đã gần như rỗng. Chỉ còn lại, dưới đáy, một lớp báo và giấy rách, nó, người ta nhận ra ngay lập tức, được dùng để bảo vệ vài bức tranh nhỏ lộng khung. Tất tật đều là các hình ảnh Đức mẹ, và cô ta lấy chúng ra khỏi va li với sự kính trọng lớn nhất, trước khi đặt chúng lên tủ com mốt, cô ta hôn từng bức một.

Cô ta không chỉ tin vào một Đức mẹ, mà nhiều: Đức mẹ ở Pompei, Đức mẹ Mân côi, Đức mẹ ở Mont-Carmel và tôi cũng chẳng biết các Đức mẹ nào nữa; và cô ta nhận ra họ nhờ trang phục của họ, vương miện cũng như tư thế của họ, như thể đấy là những hoàng hậu khác nhau. Một trong số họ, tôi còn nhớ, được bọc bằng các dải băng nhỏ cứng, mạ vàng, giống những xác ướp thiêng ở Ai Cập và, cũng như con trai của bà, khảm đầy vàng, bà mang trên đầu một vòng vương miện rất to có nhiều mũi sắc. Một bà khác, đầy người đồ trang sức, đen như một thần tượng châu Phi và bày ra một đứa con giống một búp bê bằng gỗ gụ, cũng phủ đầy đá quý rực rỡ. Một bà khác, ngược lại, không đội vương miện: bà chỉ được bao quanh bởi một hào quang phi vật chất và, nếu loại trừ dấu hiệu duy nhất ấy cho danh hiệu của bà, bà khiến người ta nghĩ tới một nữ mục đồng đẹp và bừng nở: cùng đứa con của mình, trần truồng, bà chơi nghịch với một con cừu, và bàn chân nhỏ của bà, trắng và đẫy, chui ra bên dưới cái váy khiêm nhường.

Một bà khác ngồi, trong tư thế quý bà, trên một cái ghế chạm trổ đẹp; và bà đung đưa một cái nôi lộng lẫy tới nỗi, ngay cả ở nhà một ông công tước, người ta cũng sẽ chẳng bao giờ thấy có gì tương tự! Thêm một bà khác nữa, như một nữ chiến binh, mang một dạng giáp trụ bằng các kim loại quý và giơ một thanh kiếm lên...

(Theo như những gì tôi suy luận được, tôi cho rằng mình hiểu rằng những Đức mẹ ấy mỗi bà lại có một tính cách riêng. Một người khá là phi nhân tính, vô cảm như các nữ thần phương Đông xưa: cần phải kính ngưỡng bà nhưng tốt hơn hết là không nói gì với bà nhằm có được các ân sủng. Một bà khác là nữ phù thủy và có khả năng làm bất kỳ điều phi thường nào. Thêm một người nữa, Mẹ của Các Nỗi Đau, là người canh gác đầy thánh thiện và bi thảm, được người ta tâm sự những dục vọng cùng nỗi đau của mình. Tất tật họ đều thích các bữa tiệc, nghi lễ, sự quỳ gối cầu xin và những nụ hôn; nhưng, dường như ngoạn mục hơn cả, mầu nhiệm hơn cả, khả ái hơn cả, là Đức Mẹ ở Piedigrotta.

Sau đó, vượt quá tất tật các Đức mẹ cùng Jesus Hài đồng ấy, và tất tật các Thánh cùng Nữ Thánh và chính Jesus, là Chúa. Căn cứ vào tông giọng mẹ ghẻ tôi dùng để nêu tên Người, người ta hiểu rằng Chúa, đối với cô ta, không phải là một ông vua và lại càng ít Thủ Lĩnh toàn bộ Dân Phòng Thánh, lại càng ít là ông chủ của Thiên Đường. Mà hơn thế rất nhiều: đấy là một Cái Tên, duy nhất, đơn độc và bất khả xâm nhập; người ta không xin Người các ân sủng, người ta cũng không kính ngưỡng Người; và, xét cho cùng, nhiệm vụ của toàn bộ đám đông rộng lớn các Đức mẹ và các Thánh, những kẻ tiếp nhận các lời cậu nguyện, lời ước và nụ hôn, là như sau: giữ lấy sự cô độc bất khả xâm nhập của một Cái Tên. Cái tên này là nhất thể duy nhất đối lập lại sự vô số ở dưới mặt đất và trên trời. Chẳng quan trọng gì mấy đối với cái tên đó, những lễ tiệc, những phép mầu, những mong muốn, những đau đớn và thậm chí cả cái chết: đối với cái tên ấy chỉ quan trọng mỗi cái tốt và cái xấu.

Đấy là tôn giáo của mẹ ghẻ tôi, hoặc ít nhất tôi nghĩ mình có thể tái dựng nó như vậy chiểu theo hành xử cùng lời lẽ của cô ta, ngày hôm ấy và sau đó, trong cuộc sống chung của chúng tôi. Nhưng nó nhất thiết là một sự tái xây dựng thiếu hoàn hảo, cũng vì mẹ ghẻ của tôi, những lúc nào nói những điều thánh thiêng với người khác, luôn luôn bị phanh lại bởi một dạng thẹn thùng. Và cho dù, vào các dịp lớn, đầy hùng biện trải lòng về những chủ đề lòng tin của mình, cô ta luôn luôn để lại một số điểm trong im lặng và bí hiểm. Chính vì thế, chẳng hạn, tận đến hôm nay tôi vẫn thấy thật khó nói được là cô ta đặc biệt có ý tưởng nào về Quỷ hay thậm chí, hết sức đơn giản, cô ta có tin vào tồn tại của hắn hay không.

 

Trong số những Đức mẹ mang từ Naples tới đó, một số (ít nhất là ba hay bốn) được đặt nối hàng dựa vào tấm gương của tủ com mốt, nhưng vẫn còn ngần ấy nữa ở trong va li, tấm gương không đủ chỗ cho cả chúng. Những Đức mẹ này, sau khi mỗi Mẹ nhận được một nụ hôn, được xếp lên bàn đầu giường và bệ cửa sổ.

Sau đống nữ trang của cô ta, những bức tranh vẽ Đức mẹ nhỏ bé đó chắc hẳn là tài sản quý giá hơn cả mà cô dâu trẻ có được. In màu, giặm thêm vàng hoặc bạc, được lộng khung kính, chúng cũng được trang trí theo nhiều cách khác nhau. Bức vẽ Đức mẹ Piedigrotta vây quanh là một tập hợp vỏ sò lớn, các dải ruy băng lụa, lông gà và mảnh thủy tinh màu, thành thử trông nó giống một biểu hiệu khải hoàn man rợ.

Nhìn chung, tôi nghĩ, cái va li kia, xét cho cùng, cũng khá là đáng kinh ngạc. Nhưng, dẫu bị choáng ngợp đến mức nào, tôi cũng e dè nói ra đủ mọi loại lời bình luận.

 

Cuộc sống vĩnh hằng

Sau khi sắp đặt cho những Đức mẹ của mình, cô dâu trẻ nhìn chúng một lượt và rồi hỏi tôi có nghĩ bố tôi sẽ cho phép cô ta để một tấm hình ở đó, trong phòng ông, ở đầu cái giường nơi cô ta sẽ ngủ hay không. Có chút hoài nghi, tôi nhún vai đáp:

- Tôi nghĩ là không.

Sau đó, tôi nghiêm khắc tuyên bố với cô ta:

- Chúng tôi đây không tin vào Đức mẹ nào hết.

Và còn nói thêm:

- Và thậm chí chúng tôi còn không tin Chúa.

- Bố cậu, tuy nhiên, giờ đây là người Ki-tô rồi, cô ta trang trọng đáp. (Và câu nói ấy, mà lúc đó tôi chỉ lơ đãng thả cho trôi đi, chẳng hề xem trọng, về sau sẽ quay lại trong ký ức tôi, dưới hình thức một khám phá đáng ngạc nhiên... Nhưng chuyện ấy tôi sẽ kể sau.)

Cuộc tranh luận ngắn của chúng tôi về các hình ảnh thân thuộc của cô ta có vẻ hướng lối suy nghĩ của cô dâu trẻ về chủ đề Tổ Tiên mà bố tôi nhắc đến một lúc trước. Và, đầy hoang mang, cô ta quyết định hỏi tôi xem có đúng là bóng ma đó, kẻ căm ghét phụ nữ, đi lại trong lâu đài không. Trước câu hỏi ấy tôi nhún vai, nhăn mặt lại. Sự cả tin của cô ta khiến tôi phát mệt!

- Nhưng sao mà cô lại không hiểu chứ hả? tôi kêu to. Đúng là ở đây xưa kia cái ông Amalfitano ấy từng sống, nhưng ông ấy chết rồi. Cô có biết chết nghĩa là gì không? Nói ngắn gọn, cô cần phải biết là bố tôi không tin hồn ma và tôi cũng không. Các hồn ma chẳng tồn tại ở đâu hết. Đấy là những truyền thuyết lãng mạn!

Cô ta tiến lại gần tôi và, đầy cẩn trọng, trong một tiếng thì thào trang trọng, cô ta khẳng định với tôi rằng, ngược lại, các hồn ma có tồn tại: cô ta chưa từng bao giờ gặp ma nhưng, chẳng hạn, một bà kia, người quen của mẹ đỡ đầu cô ta, làm y tá ban đêm tại Bệnh viện dành cho các căn bệnh không thể chữa khỏi, từng nhìn thấy hàng trăm hồn ma.

- Nhưng, tôi, rốt cuộc cô ta nói, ngay cả nếu tôi gặp ma thật, thì cũng có sao? Đâu phải sợ họ.

Và cô ta giải thích với tôi rằng chỉ những người bất hạnh lắm, những kẻ phạm tội bị đày đọa, bọn họ, giống đám ăn mày vô hại và thảm thương, đi nài xin các lời cầu nguyện cho sự yên nghỉ vĩnh hằng của mình. Xét về dáng vẻ, bọn họ không còn khuôn mặt của các Ki-tô hữu nữa, mà nhiều nhất thì cũng chỉ như những mảnh vải bay phấp phời. Và chỉ cần đọc requiem cho bọn họ là ngay tức khắc bọn họ sẽ biến mất.

Tôi thấy cám dỗ hé lộ cho cô ta rằng người chết, gần như chắc chắn, không còn linh hồn, rằng mọi sự đều tắt lịm đi với cái chết và điều duy nhất còn lại là vinh quang, nhưng ngay sau đó, nghĩ lại, tôi tự nhủ chắc dạy cô ta một số điều cũng chẳng được ích lợi gì. Quả thật, cô ta chẳng thể nào biết đến vinh quang và, do vậy, tốt hơn hết là để mặc cô ta lại với những ảo tưởng lừa dối của mình.

Thế nên tôi chỉ châm biếm nêu nhận xét:

- Nhưng nếu chỉ cần một lời cầu nguyện là đuổi được bọn họ, thì tại sao cô lại sợ phải ngủ một mình ban đêm?

- Nhưng tôi có sợ bọn họ đâu! cô ta phản đối, đầy kiên quyết và như thể phẫn nộ. Đi sợ họ thì thật đáng xấu hổ! Bọn họ cũng như bất kỳ cái gì khác! Tôi đâu có giống em gái tôi, ban đêm nó sợ cả mắt bọn mèo! Còn tôi thì dẫu sét đánh trúng hay có lũ bất lương đến, tôi cũng sẽ không sợ! Cứ hỏi mẹ tôi xem có đúng vậy không: tôi chẳng bao giờ sợ, bất kỳ điều gì!

("Dẫu có thế, tôi nghĩ nhưng không nói với cô ta, cô sợ bố tôi!")

- Điều khủng khiếp duy nhất đối với tôi, cô ta nói tiếp, như đang cố công giải thích cho tôi một điều gì đó rất khó mà chính cô ta cũng không sao tự giải thích được, là đây: phải ở một mình. Nhưng không phải vì một lý do ất ơ nào đó! thực sự là chuyện phải ở một mình, không có ai bên cạnh! thực sự là nỗi sợ phải một mình, chứ không gì khác, chính nó làm tôi sợ! Và rồi! thêm nữa, tại sao có nhiều người Ki-tô như vậy trên đời, nếu chẳng phải là để ở cùng nhau? và cũng không chỉ người Ki-tô! lũ thú vật cũng thế: ban ngày thì chúng cũng có thể đi riêng lẻ được, nhưng ban đêm, chúng cùng nhau trú vào một nơi!

- Không đúng! tôi cả quyết đáp trả. Có những con thú có khả năng sống cô độc, và chúng cũng tuyệt diệu và hùng mạnh như các anh hùng! Cú mèo bay và đậu gần như lúc nào cũng một mình, lợn biển đi một mình ban đêm; và voi một mình lên đường đi xa khi sắp chết! Nhưng con người thì còn có nhiều can đảm hơn so với tất tật thú vật cộng lại! anh ta giống một ông vua, anh ta giống một ngôi sao!

- Đủ rồi đấy!

- Về phần mình, tôi kiêu ngạo kết luận, tôi từng lúc nào cũng một mình, cả đời.

- Đấy là số phận của những ai không còn mẹ, cô ta bình luận với sự xót thương ngây thơ đến mức cái giọng the thé nhạt nhẽo nhỏ bé của cô ta bỗng trở nên du dương. Mà đúng, cô ta nói thêm, như đang thốt ra một suy nghĩ triết học hiếm có, mẹ là bầu bạn đầu tiên mà người ta có trên cõi đời này và người ta sẽ không bao giờ quên...

- Số phận của tôi, cả tôi nữa, đột nhiên cô ta tuyên bố, đầy oai vệ, là phải trở thành một đứa trẻ mồ côi! bởi bố tôi mất sớm. Và cũng không anh em: mẹ tôi, em gái tôi và tôi, chỉ có ba phụ nữ, gia đình chúng tôi neo người như thế đấy. Trước em gái tôi, từng có một người em trai nhỏ hơn tôi: em tôi chết tám năm rồi. Cậu ấy lên năm tuổi vào dịp Giáng sinh cái năm cậu ấy chết. Cậu ấy chết cùng lúc với bố tôi, trong thảm họa lừng danh đó!

- Thảm họa nào? tôi hỏi, đột nhiên thấy quan tâm.

Quả thật, căn cứ vào tông giọng đại quý tộc của cô ta, tôi trông chờ thảm họa kia ít nhất cũng bị gây ra bởi một cuộc không kích lớn hay bởi sự kiện tương đồng nào đó có tầm quan trọng quốc tế.

- Nhưng kìa, thảm họa vụ bốc dỡ puzolan lừng danh ấy, về nó ở cả Rome người ta cũng nói đến. Bốn người Ki-tô đã ở lại đó và họ đã có đám tang mới đẹp làm sao! Thậm chí đã có cả âm nhạc và chính quyền, và toàn bộ những cái đó do Thành Phố chi tiền: lũ ngựa, vòng hoa cùng tất tật những thứ khác... Bố tôi đã đến công trường... và khi nghĩ đến!... Thường thì, ông ấy luôn luôn đình công, vì ông ấy rất lười: về nghề nghiệp, ông ấy như vậy, ông ấy thích nghề của "ông lớn" hơn... Nhưng, tuần đó, ông ấy cảm thấy đủ can đảm và đã đi bốc dỡ puzolan. Và em trai tôi đã mang đồ ăn tới cho ông ấy. Chúng tôi đã làm mì tẩm bơ và em tôi thích món ấy nhất. Bởi em tôi có các ý rất riêng: xốt? cậu ấy không thích đâu! Và mẹ tôi bảo cậu ấy: "Trước hết mang mì cho bố con rồi quay về đây ăn với mẹ và các em." Và cậu ấy vừa càu nhàu vừa mang cái đĩa của bố tôi bọc vào một cái khăn lau đi. Và thế đấy, đó là điều cuối cùng chúng tôi thấy ở cậu ấy. Đấy là định mệnh của số phận!

Câu chuyện đó, dẫu bi thảm và gây xúc động, đã khiến tôi, nếu muốn nói sự thật, thấy khá thất vọng. Tuy nhiên để không xúc phạm cô ta, tôi không để lộ nỗi thất vọng của mình, nhưng, ngược lại, nhằm vờ vịt một thái độ hợp cảnh, tôi thốt ra một tiếng thở dài. Và cô ta, đắm chìm trong sự uy nghi những cái tang của mình, ném về phía tôi một ánh mắt đầy tin cậy và biết ơn, rồi, cũng thở dài, cô ta nêu nhận xét bằng tông giọng trầm tư đầy suy nghĩ:

- Đúng, đối với cái chết, một người lớn và một thằng bé con thì cũng như nhau. Đối với nó, đó đều là trẻ con hết!

Trong khi nói điều này, cô gái nhỏ khốn khổ dường khoác lên mình tuổi tác, một tuổi già đầy sự thông thái và gần như có tính cách hoàng gia, bằng cách nào tôi cũng chẳng rõ. Nhưng, một dạng niềm vui con nít đã le lói bên dưới nỗi buồn khổ tang tóc sầu muộn kia:

- Nhưng, rốt cuộc, cô ta khẳng định với tôi, đầy đinh ninh, rồi sẽ đến cái ngày nơi tất tật các gia đình sẽ lại được đoàn tụ, cho bữa tiệc vĩnh hằng đúng nghĩa!

Nói đoạn, cô ta im, như thể e ngại che mờ, do một sự tọc mạch của phụ nữ, bữa tiệc không thuộc trần thế kia: và cô ta chỉ mạo hiểm nói thêm, đầy sự kính trọng huyền bí, giống một người đang đọc các sách huyền vi của một Bà Đồng thiêng hay của Nhà Tiên Tri Daniel:

- Đúng, những ai sợ cái chết thực sự đã nhầm, bởi nó chỉ là một sự giả trang chứ chẳng là gì khác nữa: nơi thế giới này thì nó dường như rất xấu xí, như thể nó là một con chó sói, nhưng ngược lại, trên kia, ở Thiên Đường, nó sẽ hiện ra đúng như nó vốn dĩ, và nó đẹp như một Đức mẹ và, quả thật, trên kia, thậm chí nó còn đổi tên, nó không còn tên là Cái Chết nữa, mà Cuộc Sống Vĩnh Hằng. Và trên kia, ở Thiên Đường, nói cho đúng, những khi người ta nói cái từ ấy: chết, chẳng ai hiểu đâu.

Cô ta ngừng nói, lúc lắc đầu vẻ bí hiểm và mừng vui, như thể trí tưởng tượng của cô ta đã làm cho cô ta nhìn thấy, dẫu chỉ chút ít, những rực rỡ của tương lai kia, mà, tuy thế (do một sự kính ngưỡng đúng đắn) người ta không được nhắc tới quá nhiều... Rồi, rốt cuộc, cô ta nói tiếp, không ngần ngại kết luận:

- Và thế là, vào cái ngày cuối cùng ấy, Cuộc Sống Vĩnh Hằng rất đẹp kia sẽ được bày ra trước chúng ta trên kia, ở ngưỡng cửa, mỉm cười, bên cạnh Đức mẹ Đồng trinh Sung sướng mang Vương miện, như bà mẹ thứ hai cho tất tật các Ki-tô hữu, người đã chuẩn bị cho họ một bữa tiệc lớn không bao giờ kết thúc. Và trên kia, chúng ta sẽ lại được ở với bố của chúng ta và em trai của chúng ta, và cả với những anh chị em khác đã chết nữa, một số ngay vào lúc mới sinh ra, những người khác thì khi còn nhỏ...

Cứ nhìn nụ cười đầy cả tin và bị bỏ bùa của cô ta, đẫm một niềm vui tươi mát có chút hoang dã, giờ đây đã hiển nhiên rằng, đối với cô ta, sự thờ ơ hờ hững của vĩnh hằng đã biến hẳn thành một niềm vui lớn tuyệt vời, đầy những ngọn đèn nhỏ, các bài hát, vũ hội vui tươi, bọn trẻ con bé tí cùng lũ con trai! Cô ta cho tôi biết (lại có dáng vẻ có chút hào nhoáng quý tộc mà cô ta hay có những lúc nào nhắc tới gia đình mình) rằng, ngoài cô ta, Nunziata, chị cả trong nhà, mẹ cô ta còn có chín người con khác, cả trai lẫn gái. Gần như năm nào trong vòng mười hai năm lấy chồng bà cũng sinh, thành thử người quen hay bảo bà: Viulante, Nuziantina của chị khỏi cần phải kiếm búp bê, chính chị làm việc đó cho nó, lúc nào cũng tạo ra một con búp bê mới... Nhưng, hỡi ôi, ý chí của Chúa là phần lớn trong rất nhiều bọn trẻ sơ sinh kia bay về trời mất, trước cả khi kịp học cách bước đi trên mặt đất...

Thật may mắn, không ai trong số đó đi khỏi mà còn chưa nhận được báp-têm thánh và thậm chí cô ta còn khởi sự liệt kê lần lượt từng người một trong số bọn họ, với tên được đặt. Có một Gennaro, hai Peppino, một Salvatore, một Aurora, một Ciccillo và một Cristinella... Sau rốt, mặt cô ta trở nên mơ hồ hoang mang:

- Những khi tôi nghĩ lại đến những đứa em trai em gái đó, cô ta nói, tôi sợ sắp tới đây thôi mình thậm chí sẽ không nhận ra chúng nữa: tôi nhớ đến chúng như thể tất tật họ giống hệt nhau, như thể được nặn ra từ cùng một khuôn!... Nhưng, tất nhiên, trên kia, ở Thiên Đường, người ta nhận ra nhau mà thậm chí chẳng cần phải nói tên và người ta sẽ đọc được các mối quan hệ họ hàng viết sẵn trên trán mỗi người! Cả cậu nữa, trên kia, cậu sẽ tìm lại được mẹ và tất cả chúng ta sẽ ở cùng nhau, tạo thành một gia đình duy nhất.

Viễn tượng về người mẹ của Arturo băng ngang tâm trí tôi, vốn dĩ cô độc và khinh thường mọi sự gần gũi; về người mẹ của Arturo, người đã, trong túp lều phương Đông đẹp đẽ của mình, rời xa khỏi đảo Procida, không hề chào vĩnh biệt nó.

Tôi đáp, đầy rắn rỏi:

- Đối với những người chết, không có gia đình nữa đâu. Trong cái chết, người ta chẳng nhận ra được ai hết.

Cô ta nhìn tôi như một nhà bác học nhìn một tên ngu dốt, nhưng, với một sự kính trọng sâu sắc, và cô ta không tự cho phép mình đáp lại. Phải sau một giây thì, quấn một lọn tóc quanh những đầu ngón tay, cô ta mới nêu nhận xét bằng cái giọng thỏ thẻ đầy mơ mộng của mình:

- Cả cậu ấy nữa, em trai tôi, mà tôi vừa nhắc, cũng có những ý riêng, nên cậu ấy hay được gọi là Nhà Lý Luận, vì lúc nào cậu ấy cũng lý luận, và những khi cậu ấy nói, tất cả mọi người đều im. Cậu ấy thì có tên Vito.

Sau đó, chúng tôi im một hồi. Rồi, nhìn tôi với vẻ cảm thông rụt rè, cô ta lại nói:

- Tức là, toàn bộ thời gian, cậu từng lúc nào cũng chỉ có một mình!

- Đúng thế!

- Nhưng... bố cậu... ông ấy không ở cùng cậu à?

- Tất nhiên là có chứ! tôi trả lời, những khi ở Procida, lúc nào ông ấy cũng ở với tôi! từ sáng đến tối!... Nhưng ông ấy buộc phải đi xa! và tôi, cho tới giờ, tôi còn chưa đủ tuổi để đi, nhưng, sớm thôi, tôi sẽ đủ tuổi và lên đường cùng ông ấy!

- Để làm gì, đi xa cùng nhau như thế?

- Gì kia, để làm gì ấy hả? Nhưng, trước hết, để thăm thú các kỳ quan thế giới! Logic, phải không?

- Những kỳ quan nào? cô ta hỏi.

 

Lời thệ kép

Chủ đề, được cô ta đặt ra bằng cách nêu câu hỏi kia, quá mức quyến rũ và được ủ từ quá lâu mà không được chui ra trong cái chỗ bí mật của trí tưởng tượng nơi tôi, thành thử tôi chẳng thể nào không ngay tức khắc bị cuốn đi bởi một sự hùng biện không thể kìm nén! Và thế là, tôi bắt đầu liệt kê cho cô ta, đầy trịnh trọng, những kỳ quan cấp bách nhất trong số vô số kỳ quan rực rỡ, chúng, nằm rải rác trên bề mặt trái đất, đang đợi sự thăm thú của Wilhelm và Arturo Gerace... Nhưng cô ta, vốn dĩ cho đến lúc ấy đã đón nhận mọi lời của tôi hết sức khiêm nhường, lại tỏ ra, ở chủ đề mới này, một uy quyền nhiều gây hấn.

Dường như, đối với cô ta, ngoài Naples cùng vùng phụ cận của nó, không có gì đáng được khám phá, cho nên khi nghe tôi vinh danh những thứ xa xôi kia, lòng ghen tuông cho danh dự của Naples khiến cô ta gây chuyện. Và thỉnh thoảng, cô ta ngắt lời tôi để nói, giọng đầy khải hoàn và, cùng lúc, cay đắng, rằng cả ở Naples cũng có cái này cái kia... Như thể tất tật những điều tuyệt vời tồn tại trên phần còn lại của trái đất xét cho cùng chỉ là những thứ không đáng gì, chỉ xứng hợp với bọn tỉnh lẻ, và như thể một công dân của đại đô thị hàng đầu đó có thể khỏi cần phải đi đâu: hắn ta chỉ cần sinh ra thôi, bởi, chỉ cần mỗi thế, hắn có thể tìm được ngay dưới nhà mình tiêu bản tối cao của mỗi thứ.

Tôi khởi sự tán dương với cô ta Lâu đài của Thập tự chinh tại Syria, nơi, xưa kia, từng có lúc mười nghìn hiệp sĩ ở! Và cô ta, vội vã, thông báo với tôi rằng ở Naples có một tòa lâu đài (lớn gấp năm mươi lần lâu đài của bố tôi), mà người ta gọi là quả trứng vì nó hoàn toàn kín bưng, gần như không có lỗ hở, như một quả trứng; và rằng, trong lâu đài ấy, các ông vua của Hai-Sicilia, các Barbon sống... Tôi nói cho tôi ta về Nhân Sư Ai Cập khổng lồ, mà hàng nghìn đoàn người từ mọi châu lục kéo đến xem. Và cô ta, để đáp lại, nêu với tôi một nhà thờ ở Naples, nơi có một Đức mẹ bằng đá cẩm thạch, to như một nữ nhân khổng lồ, với cặp mắt, đôi khi, những lúc người ta bày ra một thánh giá ở trước (ngay cả là một cái nhỏ xíu, mà người ta hay đeo ở cổ lấy khước), nhỏ những giọt nước mắt thật. Cô ta đảm bảo với tôi là nhiều người chứng thực cho sự phi thường đó: không chỉ những người Naples, mà cả người Mỹ, người Pháp và thậm chí một ông công tước; và hàng nghìn khách hành hương đã tới thăm bức tượng ấy, nó, nhờ các món dâng tặng thập tự, trái tim và dây chuyền quý giá, đã biến nhà thờ thành một mỏ vàng đích thực...

Tôi nói với cô ta về các fakir Hindu và cô ta, ngay lập tức, khởi sự tán dương một bộ sưu tập những hiện tượng không kém phần tuyệt diệu, có ở Naples! Tại Naples, trong kho đựng đồ thánh của một tu viện, có một xơ kia, mảnh dẻ và thân hình nhỏ xíu, đã chết từ hơn bảy trăm năm, nhưng vẫn đẹp và tươi mơn mởn như một bông hồng, thành thử, trong cái quách pha lê của mình, bà có dáng vẻ của một con búp bê trong tủ kính... Và ở Naples, tại quảng trưởng San-Ferdinando, có một ông già nọ, lưỡi và cặp môi đen kịt, có khả năng ăn lửa, và trong quãng thời gian ấy, những đứa con nhỏ của ông đi vòng quanh cử tọa, cầm một cái đĩa tròn và, bằng cách ấy, ông già lạ thường nuôi sống gia đình mình.

Tôi để mặc cho cô ta nói với một sự cao thượng chẳng phải là không kèm cảm thông, bởi, đối với tôi, thành phố Naples chỉ đóng vai trò một điểm xuất phát về phía các chuyến đi của tôi, một nguyên tử chẳng đáng gì! trong khi cô ta, do số phận không vinh quang của mình, bị kết án mãi mãi chỉ biết về thế giới nhờ Naples và Procida! Chính vì vậy tôi nán lại đó lắng nghe cô ta, với dáng điệu gần như ăn năn, tất tật những thứ ngớ ngẩn Naples kia, mà hẳn những người khác đã nhét vào đầu cô ta và cô ta đang kể cho tôi với một sự cả tin hoàn toàn, vừa kể vừa vung vẩy hai bàn tay nhỏ xíu... Và rồi đột nhiên một cơn buồn cười to lớn bắt đầu cù vào cổ họng tôi, và tôi phá lên cười lớn tới nỗi, rốt cuộc, tôi phải nhào mình xuống đất, nằm dài thẳng cẳng, áp bụng xuống sàn.

Tôi có cảm giác mình chưa từng bao giờ có một niềm vui ngoạn mục đến thế: một sự vui tươi lớn tới nỗi tôi thấy dường nó không chỉ là của tôi, mà cũng của cả cô ta nữa và của toàn vũ trụ! Nhưng cô ta, điều này rất logic, bực mình vì thế. Những xưng tụng Naples của cô ta đột nhiên bị ngắt ngang, và tôi nghe thấy giọng cô ta phản đối, đầy tức tối và đau đớn.

- Cứ thử hỏi mẹ tôi xem tôi có nói dối không. Cậu có thể hỏi toàn bộ Naples xem những điều mà tôi vừa kể cho cậu có phải do tôi bịa ra hay chúng chính là sự thật.

Nghe thấy vậy, tôi hơi ngẩng đầu lên, sẵn sàng đầy trung tín trấn an cô ta, bởi, trên thực tế, tôi không hề nghi ngờ sự thành thực của cô ta và, hết sức kỳ quái, tôi không thích vô cớ mà làm cô ta buồn khổ... Nhưng chỉ vừa nhìn thấy lại cô ta trước mặt tôi, đang nhìn tôi, đầy hờn dỗi, lắc lư người, là, như một khúc nhạc lặp, nỗi buồn cười lại chiếm lấy tôi và thay vì nói, tôi lại cười, còn hơn cả lúc trước.

Trong vòng một phút, cái xen ấy lặp lại dăm ba lần. Thỉnh thoảng, ngừng cười, tôi lại liếc nhìn cô ta và lại khởi sự cười không ngừng nổi. Thành thử, dẫu chẳng hề có ý định nào, theo lối định mệnh, cô ta có vẻ càng lúc càng bị xúc phạm thêm. Miệng cô ta dẩu ra trong một biểu hiện của nỗi tức tối đúng nghĩa, và giờ đây dường cô ta sắp sửa nổi đóa lên đến nơi, và tôi bắt đầu nghĩ: Cô ta sẽ làm gì đây? cảm thấy khoái thú mà một trò chơi kịch tính mang lại, giống những khi nào tôi kích thích Immacolatella.

Rốt cuộc, tôi nghe thấy cô ta khởi sự làu bàu; và đột nhiên, cô ta bước một bước về phía giữa phòng, và tại đó, cô ta đứng bất động và kêu lên với những âm sắc chua chát và chung quyết của nữ tiên tri:

- Tôi xin thề! tôi xin thề trên tất tật các linh hồn sung sướng của Nhân Gian! tôi xin thề là tôi đã không bịa ra lời nói dối nào! và tất tật sẽ làm chứng cho lời thệ này!

Trước sự trang trọng của xen ấy, trong chốc lát tôi nghiêm túc trở lại. Nhưng, vào lúc đó, thậm chí cô ta còn không nhìn tôi. Và cô ta kết thúc như sau:

- Bố tôi đang đợi tôi, cả ông ấy nữa, và các em trai của tôi! Cầu sao tôi lăn ra chết ngay bây giờ nếu đã bịa ra điều nào đó trong những gì mà tôi đã nói về Naples! đúng, tôi lăn ra chết luôn.

Sau khi nói ra lời thệ đó, cô ta nuốt nước bọt và tôi thấy rằng cảm xúc về việc tưởng mình bị tôi vu khống đã làm cằm và miệng cô ta run lên. Chẳng hề nhìn tôi, có lẽ vì ngại vẫn thấy tôi cười, cô ta nói, giọng thoảng qua:

- Giờ thì, như thế, cậu sẽ có thể tin là tôi đã không kể cho cậu những điều sai.

Ý thức của tôi liền thức dậy và trách tôi vì sự thiếu lịch thiệp lúc trước. Và, điên giận trước chính mình, tôi đứng dậy bằng một hành động cả quyết và đứng trước mặt cô ta. Sau đó, tôi kêu lên, với các âm sắc còn hơn là trang nghiêm, với những âm sắc thực sự lịch sự và định mệnh:

- Thề có danh dự của tôi, tôi sẽ ngã vật ra đây vì bị sét đánh nếu nói dối: tôi xin thề là ngay từ đầu tôi đã tin vào sự thành thực trong từng lời của cô và tôi không coi cô là một kẻ dối trá.

Trong chừng mực tôi còn nhớ được, cho đến lúc đó, trong đời tôi, một nghi lễ quan trọng nhường ấy chưa từng diễn ra. Và, về điều này, tôi cảm thấy hết sức sung sướng. Về phần mình, đã hoàn toàn yên tâm, cô ta nở với tôi một nụ cười dường như để cảm ơn tôi và, cùng lúc, để hỏi tôi: vậy thì, tại sao lại có cơn cười kia? nhưng, với toàn bộ ý thức, tôi không tìm được câu trả lời nào hay hơn ngoài câu sau đây, mà tôi nói hết sức nghiêm ngắn:

- Tôi đã cười như thế vì tôi muốn cười.

Và, thỏa mãn với lời giải thích đó, cô ta không đòi tôi gì thêm. Cô ta thở phào đầy biết ơn, qua đó toàn bộ nỗi cay đắng mà cô ta vừa nuốt dường tan biến đi, trút khỏi tim cô ta mọi sức nặng; và vừa lắc đầu nhằm than thở cho các mối nghi của mình, cô ta vừa nói, đầy sung sướng:

- Và tôi... tôi cứ nghĩ cậu buộc tội tôi nói dối...

Tôi nhún vai:

- Ồ, gì cơ! tôi hoàn toàn biết là cô không nói lăng nhăng! tôi kêu lên.

Và tôi nói thêm, bằng tông giọng của sự khiêu khích cao ngạo:

- Tôi biết cô mà!

Cái câu ấy: tôi biết cô mà, đến với tôi hết sức tự nhiên. Và, nói nó ra, tôi nhận thấy, và điều này làm tôi ngạc nhiên, rằng, dẫu chuyện có kỳ quặc tới đâu, thì vẫn đúng vậy: tất tật những người khác (cả bố tôi, còn hơn tất cả mọi người) đối với tôi vẫn thật bí hiểm, còn người phụ nữ này, ngược lại, người mà tôi vừa gặp lần đầu tiên hôm nay, tôi thấy dường mình thuộc lòng cô ta. Và phát hiện đáng kinh ngạc đó chẳng phải xét cho cùng chính là lý do thật cho vụ cười của tôi? Dẫu sao thì, do không biết nói gì, tôi quay lại ngồi xuống đất, vẫn chỗ lúc trước; và tôi kết luận, chán nản:

- Ồ, gì cơ! Tôi đã thề danh dự! Chúa ơi, cô còn muốn gì hơn nào?

Miệng cô có một cử động lo âu thoáng qua, như thể cô ta muốn nói với tôi: "Nhưng tôi đã tha thứ cho cậu rồi! xin cậu đấy! tôi đã tha thứ rồi!" nhưng, rốt cuộc, thay vì nói, cô ta lại mỉm cười với tôi, tỏ vẻ chính cô ta mới xin tôi thứ lỗi. Sau đó, cô ta tiến nhanh lại gần tôi, đầy sốt sắng, như một con gà nhỏ xòe cánh; và, vẫn với nụ cười ấy trên môi, cô ta khiêm nhường dừng lại cách tôi hai bước. Thế là, tôi cũng mỉm cười với cô ta, dẫu vẫn có chút trịch thượng, chỉ nhếch mép lên.

Một cảm giác rối bời, hẵng còn do dự giữa cơn buồn cười, nhìn cô ta và không nhìn cô ta, khiến tôi bị đảo lộn. Tôi cảm thấy cặp mắt đầy tin tưởng và bao bọc của cô ta đặt lên tôi và điều đó làm nảy sinh bên trong tôi một niềm sung sướng vừa hài vừa tuyệt đỉnh. Sau một hồi, cô ta lại nói, vẻ ngần ngừ, vừa nói vừa vuốt tóc:

- Tức là, thế đó, cậu thì, ngay khi nào lớn, cậu sẽ đi...

- Đúng! tôi đáp.

Và mãi lúc ấy, khi tôi tái khẳng định dự đồ của mình với ngần ấy nhấn mạnh, ý nghĩ về số phận của cô ta mới hiện ra trong tâm trí tôi: cô ta sẽ có chỗ nào đây trong các chuyến đi xa tương lai của hai bố con Gerace? Tôi đáp lại trong thâm tâm, đầy kiên quyết:

- Cô ta sẽ một mình ở lại Procida đợi chúng ta!

Nhưng chính cô ta thì lại không có vẻ suy nghĩ về số phận của mình

Cô ta ở đó, nhìn tôi bằng cặp mắt tràn đầy tin tưởng cùng sự già nua con nít, thứ nhắc tôi nhớ tới cả các đêm nhiều sao trên đảo lẫn Immacolatella. Và sau một quãng im lặng mới dành cho suy nghĩ, cô ta lại nêu nhận xét, như thể không tài nào mà cam chịu trước một ý nghĩ như vậy cho được:

- Tức là, thế thì, cả đời, cậu đã không có mẹ!

 

Chiếc nhẫn của Minerve

- Tôi, tôi kiêu hãnh vừa đáp lại vừa ngẩng đầu lên, mới một tháng tuổi tôi đã có thể ở một mình! Một lần, Silvestro đi Naples, để xem một trận bóng đá thuộc Giải Vô địch Quốc gia, tôi đã ở một mình suốt một ngày. Anh ấy đã buộc vào cổ tôi bình sữa không thể vỡ với cái núm và, để tôi khỏi bị ngã, anh ấy đã đặt tôi dưới đất, trên đống giẻ.

- Silvestro? ai vậy? cô ta hỏi.

- Đấy là một người Naples đã ở đây cho đến khi bị gọi đi lính. Một người bạn của tôi! Và chính anh ấy đã cho tôi uống sữa.

- Thế nào cơ? anh ta đã cho cậu bú sữa?

- Anh ấy đã nuôi tôi bằng sữa dê.

- Ồ! cô ta nhận xét với sự phẫn nộ sâu sắc, bằng sữa dê! một thứ sữa thậm chí còn không có vị Ki-tô! Thế cậu, làm thế nào mà cậu trở nên đẹp đến thế? Ở Naples, người ta bảo sữa dê hoặc cừu thì chỉ đám mục đồng mới uống. Em trai tôi, nếu có pho mát cừu dính vào mì, sẽ từ chối ăn. Và cái người lính đó, anh ta có thể là thể loại người Naples gì mà lại cho cậu uống sữa dê! Cứ nghĩ đến điều đó! Nếu chúng tôi mà biết! Mẹ tôi, một số năm, sao mà bà ấy nhiều sữa thế! thậm chí vì vậy mà bà ấy còn bị đau ngực! nếu chúng tôi mà biết được là ở đây, tại Procida, cậu từng bị nuôi bằng sữa dê, thì chúng tôi đã đưa cậu về nhà và cậu đã lớn lên cùng chúng tôi rồi! A, phải, ở nhà chúng tôi, hẳn cậu sẽ được chăm sóc tử tế! Ở nhà, chúng tôi có rất nhiều phụ nữ! Và cần phải có phụ nữ để chăm lo cho một đứa bé! Nhưng cái ông Silvestro kia! lẽ dĩ nhiên, đó là một người đàn ông; nhưng có là đàn ông thì lẽ ra cũng không được vô tri vậy chứ! Cho cậu uống sữa dê!!!

Để nói người lính đó, cái ông Silvestro đó, giọng cô ta có một âm thanh thù địch không chút khoan nhượng, như thể (thêm vào sự thể anh ta xứng với niềm khinh bỉ của cô ta vì đã cho tôi uống sữa dê), ngay từ giây phút đầu tiên, chỉ cần nghe nhắc tới anh ta, như thể, tôi xin nói, người cha nuôi không quen biết của tôi kia đã khơi dậy ở cô ta sự ác cảm hoàn toàn. Tông giọng đó khiến tôi bực; quả thật, tôi không thể cho phép người bạn đầu tiên và duy nhất của tôi bị xúc phạm khơi khơi như thế.

- Silvestro, tôi tuyên bố, bừng bừng và đầy cả quyết, là một trong những người Naples khá nhất! và dẫu thế nào thì cô cũng phải biết rằng anh ấy không phải là lính: trong quân đội, anh ấy có tước hiệu cai, và nếu kỳ quân dịch của anh ấy kéo dài hơn, thì hẳn người ta đã phong anh ấy làm trung sĩ. Anh ấy là một trong những người hàng đầu của cả quân đội và cũng từng là một cầu thủ bóng đã nữa, anh ấy chơi ở vị trí tiền vệ của một trong những đội tuyển đúng nghĩa ở Naples! Và anh ấy trung thành với tôi! Anh ấy đi đã hơn tám năm rồi, và chúng tôi chưa bao giờ gặp lại, nhưng anh ấy không bao giờ quên tôi! Trong suốt quãng thời gian đó, anh ấy đã gửi cho tôi nhiều tấm bưu thiếp: năm ngoái, anh ấy đã gửi cho tôi một cái từ Caserta, cũng kèm luôn chữ ký của vợ chưa cưới của anh ấy, của một viên trung sĩ phi công và của em gái viên phi công đó. Và ngày 5 tháng Chạp, cho sinh nhật tôi, anh ấy đã gửi một cái có màu, vẽ hình một bông hoa hồng và một cái móng ngựa. Năm nào, cho sinh nhật tôi, anh ấy cũng chẳng bao giờ quên gửi lời chúc mừng. Tôi thì, những bưu thiếp của anh ấy, tôi còn giữ tất.

Cô ta lắng nghe tôi vẻ rất chăm chú nhưng hơi buồn, như thể, mặc cho niềm ngưỡng mộ hiển nhiên của cô ta đối với từng lời tôi nói, cô ta vẫn không thể nào vùi đi sự căm ghét bất chợt kia, mà cô ta đã có về phía Silvestro.

- Và anh ấy cũng đã tặng tôi một món quà, tôi lại tiếp, cách đây đã nhiều năm, hồi tôi lên mười. Anh ấy đã gửi nó qua một hậu vệ người Naples đến đây chơi: đấy là một cái bật lửa hiệu Đức, thuộc vào số đúng là hàng buôn lậu, không có lỗ đột của Nhà nước. Thật không may, đá lửa đã cũ và ở đây, tại Procida, không thể tìm được cái để thay. Còn tôi, cũng thông qua cùng hậu vệ đó, tôi đã gửi quà cho anh ấy, một miếng cameo mà tôi tìm được trên bãi biển (chắc hẳn do một người nước ngoài đánh mất), một viên đá tuyệt vời, trên đó khắc đầu của nữ thần Minerve. Anh ấy, sau đó, đã viết thư cho tôi, trên một tấm bưu thiếp, nói anh ấy đã thuê lắp nó vào nhẫn và, cái nhẫn đó, anh ấy luôn luôn đeo ở ngón tay: và như thế, đó là một lý do khác khiến anh ấy sẽ không bao giờ có thể quên tôi. Thêm nữa, chính cầu thủ hậu vệ kia đã bảo tôi: "Cậu có thể chắc chắn là Silvestro từng lúc nào cũng có cậu trong ký ức. Thường thì, những lúc nói tới chuyện này chuyện kia, người ta nghe thấy anh ấy bảo: Arturo, Arturo, như thể tất cả mọi người đều phải biết Arturo là ai! Và thỉnh thoảng anh ấy nói: Ai biết giờ cậu ấy ra sao rồi! Thực sự một ngày kia tôi sẽ phải đi đến Procida để gặp cậu ấy mới được." Nhưng, tôi nói tiếp, đầy tiếc nuối, do công việc của mình, thật khó để anh ấy rời khỏi Naples. Ở Naples, anh ấy giữ một chỗ tâm phúc, anh ấy làm bảo vệ cho một hãng xây dựng: một nghề rất bảnh, theo tôi! Anh ấy sống trong một cái lán có thể tháo lắp được, nó dịch chuyển theo các công trình của hãng, lúc chỗ này khi chỗ khác. Một lần, anh ấy đã ở lại Pozzuoli hơn một năm, nơi có các cánh đồng lửa ấy; và một lần khác, anh ấy ở trong vòng khoảng sáu tháng ngay đối diện bến cảng Naples, nơi các tàu chiến, tàu ngư lôi và tàu xuyên đại dương cập bến. Giờ thì ai biết anh ấy đang ở đâu? trên tấm bưu thiếp gần đây nhất của anh ấy, anh ấy đã chỉ gửi cho tôi những lời chúc của mình, mà không cho tôi bất kỳ thông tin nào.

Nghe những lời cuối cùng trong bài nói của tôi, cô ta dường, ít nhất là trong một chốc lát, dàn hòa được với Silvestro, và cô ta đề nghị, bừng lên một niềm vui trẻ con:

- Cậu có biết ta sẽ làm gì không? Một ngày nào đó, chúng ta sẽ đi tàu tới Naples cùng bố cậu và chúng ta sẽ đi tìm anh ta. Như thế, cậu cũng sẽ thấy cảng Naples và những con tàu xuyên đại dương; và cậu cũng sẽ thấy Pallonetto: nhà tôi ở đấy! Tại đó, ở Pallonetto, cô ta nói thêm, vẻ rất đường bệ, ngay cả các guaglioni nhỏ xíu cũng đá bóng! Ở đó, người ta đá bóng trên tất tật các phố! Một thủy thủ quen biết với nhà tôi, tên là Andonio, từng đi tất tật các nơi trên thế giới: ông ấy bảo rằng chẳng ở đâu người ta thấy lũ nhóc được vui chơi như tại khu phố của tôi!

Cặp mắt cô ta chĩa vào tôi, và ánh mắt thì đầy nuối tiếc:

- A, cô ta nói, lẽ ra đã rất hay nếu, lúc cậu vẫn còn nhỏ xíu, chúng ta đã là họ hàng như bây giờ! Nếu thế, dĩ nhiên ngay lập tức trong gia đình chúng tôi đã biết số phận rơi xuống cậu: số phận mới sinh ra đã không có mẹ! Và thế thì, hẳn chúng tôi đã đến, tôi, cùng mẹ tôi và mẹ đỡ đầu tôi, mang theo một cái giỏ thật đẹp gắn lông chim và lụa, và đưa cậu về nhà!

Và cô giải thích cho tôi rằng, ở nhà cô ta, tôi sẽ không phải một mình, vì nhà cô ta, tại Naples, tổng cộng chỉ có một căn phòng, với cửa dẫn thẳng ra phố; do đó, ngay cả khi đôi lúc ta phải ở nhà một mình, chỉ cần có người qua lại là ta được bầu bạn.

Nghe cô ta trình bày những dự định bị hụt mất ấy, tôi rất muốn cười, bởi tôi nhớ đến câu chuyện mà Silvestro từng kể cho tôi: về cái lần khi họ hàng của mẹ tôi đến Casa dei guaglioni và khi anh, vì sợ họ mang tôi đi mất, đã giấu tôi vào hòm đựng mì rỗng. Đúng thế nhưng, tôi tự nhủ, họ đã không xuất hiện với một cái giỏ đầy lông và lụa; nếu anh thấy những nữ họ hàng kia tới, với một cái giỏ xịn nhường ấy, có lẽ ông bố vú nuôi của tôi đã cho phép để tôi đi cùng!

 

Trong phản chiếu của trăng

Trong khi tôi nghĩ điều đó (nhưng không hề để lộ các ý nghĩ của mình), cô ta đến ngồi trên cái va li, đối diện với tôi, vốn dĩ đang ngồi dưới đất. Và theo cách đó, cao hơn tôi một chút, thân người trên thẳng và bất động, đầu nghiêng xuống vai và hai tay chắp lại để trong lòng, cô ta theo đuổi lập luận của mình, như thể đã kể một truyền thuyết, nhưng là một truyền thuyết thực sự quyến rũ cô ta bởi chính sự kỳ quái của nó. Giọng cô ta (giờ đây đã quen thuộc với tôi), giọng một thiếu niên còn chưa lớn hẳn, giờ có các âm sắc tư lự truyền thuyết, đầy tình anh em và gần như buồn bã:

- Nếu ở đó với chúng tôi, cô ta nói, thì hẳn cậu đã có một cuộc đời hoàn toàn khác! Tôi sẽ chăm sóc cậu và bế cậu. Cậu nghĩ gì nào? tôi, hồi còn nhỏ tí, tôi đã biết bế trẻ con rồi. Phải vậy thôi! bởi ở nhà chúng tôi nhiều trẻ con lắm! và tôi từng bế tất tật chúng. Thậm chí tôi còn biết vừa bế một đứa bé vừa nhảy dây!

- Nói thử xem, tôi bèn thăm dò, cô bao nhiêu tuổi?

- Tháng Mười tôi tròn mười sáu. Còn cậu?

- Tháng Chạp vừa rồi tôi đã bước vào tuổi mười lăm, tôi đáp.

Và tôi nhẩm tính: như vậy, cô ta mười sáu tuổi ba tháng. Lúc tôi sinh ra thì cô ta mới hai tuổi. Và ở tuổi ấy, cô ta lại định bế tôi! Tuy nhiên, tôi không nêu với cô ta sự khó tin kia và để mặc cho cô ta tiếp tục, không nói gì

- Thực sự lẽ ra cậu đã có thể thuộc gia đình chúng tôi, như một người em trai khác! Chúng tôi có một cái giường lớn có thể nằm tận sáu, tám người Ki-tô! cậu đã có thể ngủ ở đó, cùng chúng tôi. Và nếu bố cậu, sau khi đi xa lo việc, đến gặp cậu và trời đã muộn, tức là buổi tối, thì ông ấy cũng có thể, nếu muốn, ngủ ở nhà chúng tôi! Bởi trên giường của chúng tôi có hai cái đệm: có thể đặt một trong hai cái xuống đất và chúng ta có thể nằm đó ngủ cùng nhau. Và, như vậy, cái giường, ta có thể để nó cho một mình ông ấy.

Tôi để mặc cho mình cười thoải mái và cô ta cũng cười. Nhưng tiếng cười của cô ta kết thúc bằng một tiếng thở dài đầy vẻ con nít, mà cô ta khó nhọc kìm nén: như thể, càng kể câu chuyện cổ tích của mình, đâm ra yêu quý nó, cô ta lại càng chưa muốn chối bỏ nó. Cô ta mỉm cười với tôi, sau đó, với một dạng nỗi buồn đầy che chở. Và, trong khoảng thời gian đó, cặp mắt trang trọng, trìu mến và đầy ý thức của cô ta có vẻ xin tôi tha lỗi bằng cách nói: tôi ngu xuẩn lắm, tôi biết, và tôi đang nói những điều điên rồ, nhưng, trong ý thức, tôi không bao giờ quên thực tại.

- Và rồi, buổi tối, cô ta kết luận, để cậu ngủ ngon, tôi, mẹ tôi và mẹ đỡ đầu tôi, chúng tôi sẽ hát cho cậu một bài thật hay... Ngày nào cậu cũng sẽ ăn cùng chúng tôi. Và những ngày lễ, rồi sinh nhật, lúc nào chúng ta cũng ở cùng nhau!...

Hai chúng tôi đều im lặng. Và thế là, sự yên tĩnh đã trùm xuống đảo cùng buổi chiều tối (tiếng ầm ì của gió tramontane gần như lắng hẳn xuống) lớn lên quanh căn phòng: thành thử người ta có cảm giác mình đang nghe thấy các phút thực sự trôi đi, xuyên qua các khoảng cách kỳ ảo của thời gian, như một hơi thở to lớn và yên bình xuống rồi lại lên trên một nhịp ngang bằng. Cô ta ở đó, ngồi trên cái va li của mình, trong dáng điệu bình thản, đầy yên bình và uy nghi ngây thơ; còn tôi, trước mặt cô ta, gần như nằm trên sàn nhà, tôi lắng nghe, không nghĩ đến gì hết, những âm thanh đẹp thoáng qua của đêm. Tới một lúc, tôi nghe thấy giọng cô ta cất lên:

- Ánh sáng đèn vừa giảm đấy.

Và tôi đáp:

- Đấy là dấu hiệu cho thấy nó sắp tắt. Tối nào nó cũng tắt trong vòng một phút, lúc ở trạm điện thay ca thợ.

Cô ta lại trầm mặc và, trong một quãng thời gian, không đi ra khỏi sự tĩnh tâm đầy cảm hứng của mình. Nhưng, một giây trước khi đèn tắt phụt, cô ta nhìn tôi và lại phá vỡ sự im lặng bằng một câu, trên thực tế nó là một nhận xét con nít, thậm chí còn không có tí logic nào, nhưng cũng chính vì thế mà lại có âm thanh của một lời sấm bí hiểm:

- Và cứ nghĩ, cô ta nói, và cứ nghĩ hồi đó bố cậu thỉnh thoảng lại nói: Arturo, Arturo... Và cứ nghĩ rằng Arturo ấy chính là cậu!

Khi ngọn đèn tắt, một phản chiếu yếu ớt của trăng chui vào phòng, xuyên qua những ô kính cửa sổ phủ bụi. Tôi lười biếng nằm ngửa dưới đất. Tôi thoáng thấy, không xa người tôi, cái bóng đang ngồi của người vợ bố tôi, trông thật giống một bức tượng, và tôi nhìn, đầu ngật về sau, cửa sổ mờ tối nằm sau lưng tôi, tưởng tượng ra bóng hình mảnh dẻ của trăng, nó, ở kia, sau ô kính, đi xuống như dọc theo một sợi chỉ treo nơi bầu trời thanh thản. Bóng tối trong phòng chỉ kéo dài vài giây, nhưng, trong vài giây đó, đột nhiên tôi sống lại một kỷ niệm. Nó thuộc vào một tồn tại mà hẳn tôi đã sống qua vào một khoảng thời gian rất xa xôi: hàng thế kỷ, hàng thiên niên kỷ về trước, và mãi giờ đây nó mới trồi lên trở lại trong ký ức tôi. Tuy không hoàn toàn rõ rệt, ấy là một kỷ niệm thật đến nỗi, trong chốc lát, nó giật tôi ra khỏi hiện tại!

Tôi đang ở một nơi rất xa; tôi không biết là tại đất nước nào. Trời rất sáng, nhưng, trên trời, không thấy trăng: còn tôi, tôi là một người anh hùng và tôi bước đi dọc theo bờ biển. Tôi vừa lĩnh một sự xúc phạm hoặc đang để tang: có lẽ tôi vừa mất người bạn thân nhất và có lẽ người ta đã giết mất anh (điều này thì giờ đây tôi không sao nhớ rõ được nữa). Tôi gọi ai đó và khóc, nằm trên cát; và thế là hiện ra một phụ nữ rất cao lớn, và nàng ngồi trên một tảng đá, cách tôi một bước chân. Đó là một đứa trẻ, thế nhưng nàng có, ở toàn bộ con người mình, một sự chín chắn đường bệ; và tuổi thơ bí hiểm của nàng dường không phải một tuổi của con người mà đúng hơn một dấu hiệu cho vĩnh cửu. Và chính nàng là người mà tôi đã gọi, điều này thì rất chắc; nhưng nàng có thể là ai, giờ đây, tôi không sao nhớ nổi nữa: nàng là một nữ thần đại dương hay mặt đất, một hoàng hậu có họ hàng với tôi hay một thầy bói?...

Tôi không có ý thức về khoảnh khắc nơi ngọn đèn sáng lên trở lại, tôi đã gần như thỉu đi. Vợ của bố tôi gọi:

- Artù! cô ta bảo tôi, có Chúa mới biết giờ là mấy giờ rồi?

Và đó là lần đầu tiên cô ta gọi tên tôi.

Lắc người, tôi ngồi dậy và, ngay tức khắc, tôi lại ở trong hiện tại, đã quay trở về căn phòng sáng đèn này, nơi cô vợ trẻ đang ngồi trên cái va li của mình.

- Chắc là khoảng sáu giờ rưỡi, tôi trả lời, bởi vào quãng giờ này, hôm nào cũng thế, người ta cắt điện.

Cô ta nhảy bật lên khỏi cái va li:

- Sáu rưỡi! cô ta kêu lên, nhưng thế thì tôi phải khẩn trương nhóm lò để nấu bữa tối.

Tôi nói cho cô ta rằng, sự thật là ở nhà chúng tôi, buổi tối, không bao giờ chúng tôi nhóm lò: sáng nào Costante cũng phụ trách luôn cả việc nấu bữa tối, và chắc chắn hôm nay ông cũng đã làm như thường lệ, để lại bữa tối sẵn sàng cho chúng tôi trong tủ buýp phê. Nhưng, với các âm sắc đầy vẻ quan trọng và nồng nhiệt, cô ta khăng khăng muốn nhóm lò, để hâm lại các món và thậm chí để luộc mì. Thế là, chúng tôi đi xuống bếp.

 

Những Thủ Lĩnh Vĩ Đại cừ khôi nhất

Costante đã chuẩn bị sẵn cho chúng tôi, buổi tối, thỏ rô ti và khoai tây đun dầu; nhưng khi tìm trong tủ, chúng tôi thấy một gói mì mua ở tiệm thực phẩm, một hũ xốt cà chua cùng một mẩu pho mát, và cô ta tuyên bố rằng với những thứ này chúng tôi sẽ có thể có mì cho bữa tối. Sau đó, lục lọi trong bếp, cô ta cũng tìm được vài mẩu củi khô, một xô than và diêm; và, hết sức sung sướng, cô ta quyết định là mình sẽ ngay lập tức nhóm lò và đặt lên đó một nồi nước, đợi bố tôi để cho mì vào đó. Rồi cô ta nhắc lại cùng lời cầu xin mà cô ta đã nói lúc trước ở tầng trên: đừng bao giờ để cô ta một mình trong ngôi nhà vẫn còn xa lạ đối với cô ta này. Thế nên tôi nằm ra đó, trên băng ghế, sau khi đã lấy từ ngăn kéo ra một quyển sách mà vào quãng ấy tôi luôn luôn đọc dưới bếp, trong lúc ăn. Nhưng, vào cái buổi tối hết sức kỳ quái ấy, tôi không thấy muốn đọc cho lắm, và tôi lười biếng nằm đó, chống hai khuỷu tay nhỏm người lên, thậm chí còn chẳng mở quyển sách đang ở trước mặt ra.

Vợ của bố tôi, vừa chuẩn bị nhóm lò, vừa khởi sự hát và tôi lắc lư khi nghe thấy giọng của cô ta, nó, lúc cô ta hát, trở nên khàn và hoang dã hơn. Cô ta đi đi lại lại từ cái thùng nhỏ đựng củi ra chỗ lò, với những cử động nhanh và mạnh bạo; cô ta nhướng mày và có biểu hiện cau có. Hẳn có thể nói, đối với cô ta, việc nhóm lò là một dạng chiến tranh hoặc tiệc tùng.

Vì không tìm được cái thổi lửa trong bếp, cô ta bèn tự thổi vào đống than, hết sức mạnh mẽ; còn tôi, tôi nhớ tới một bức tranh minh họa những người Thập tự chinh, ở đó người ta thấy gió Aquilon, được trình hiện dưới các đường nét của một tổng thiên thần tóc uốn xoăn, đang thổi vào một hạm đội. Thổi một hồi lâu thì rốt cuộc than cũng bùng lửa lên, và khi đó, cô ta, nhằm khơi lửa to, dùng hai tay nhấc vạt trước cái váy lên và hăng hái vẫy nó, như một cái quạt, trước miệng bếp. Có một vụ nổ lớn của các tia, nhưng cô ta tiếp tục vẫy cái váy của mình với sự mạnh mẽ bạo liệt của một nữ vũ công Di gan và, vừa làm vậy, cô ta vừa hát toáng lên, quên đi mọi sự rụt rè, như thể chỉ có một mình cô ta và cô ta đang ở ngôi nhà Naples của mình.

Cô ta không hát với một sự buông thả nhiều tình cảm, mà với một sự bạo liệt trẻ con và đầy cao ngạo; với những nốt cao gợi nhớ khúc ca buồn của một số loài thú: có lẽ là khúc hát của một con cò hoặc các loài chim du mục phía trên sa mạc. Giờ đây than đã cháy đỏ và cô ta, sau khi hạ vạt váy xuống, đi tới chỗ bồn rửa và rót nước vào cái nồi, vẫn không ngừng hát. Tôi còn nhớ một câu trong những bài hát của cô ta (đó là những bài hát bằng tiếng Ý chứ không phải thổ ngữ Naples, và đối với tôi hoàn toàn mới mẻ) và cô ta phát âm nó theo cách thức sau đây:

Chắc apacha nào cũng đã có con dao găm của mình.

Lòng hiếu kỳ bị đánh thức, tôi hỏi cô ta apacha nghĩa là gì (tôi còn chưa từng bao giờ nghe nhắc tới các tay côn đồ cùng gái điếm mà sau đó tôi tìm lại được trong hàng trăm bài hát khác) và cô ta đáp là thật ra chính cô ta cũng chẳng biết. Sau đó cô ta giải thích cho tôi rằng gần như tất tật các bài hát mà cô ta biết, cô ta đều đã học được chúng bằng cách nghe đài radio của một bà hàng xóm. Đó là một phụ nữ đã kiếm được không ít tiền nhờ buôn bán và có thể tự cho phép mình một số món chi tiêu. Nhưng đó là một người Ki-tô tốt! mỗi lần nào bật radio, bà ta lại mở hết âm lượng: như thế, tất cả mọi người, ở cái ngõ, vẫn cứ bình yên ngồi trước ngưỡng cửa nhà mình, có thể nghe được các bài hát

Vừa nói, vợ của bố tôi, đã sửa soạn xong xuôi, đến ngồi bệt dưới đất gần băng ghế của tôi. Cô ta nhìn quyển sách, nó, vẫn đóng chặt, nằm đó trước mặt tôi, và hết sức nặng nhọc, theo lối của những người gần như mù chữ, cô ta đánh vần nhan đề:

CUỘC ĐỜI CỦA NHỮNG THỦ LĨNH VĨ ĐẠI CỪ KHÔI NHẤT

- Cuộc đời của những Thủ Lĩnh Vĩ đại cừ khôi nhất! cô ta nhắc lại.

Và cô ta nhìn tôi đầy ngưỡng mộ, như thể, chỉ riêng cái việc tôi đọc một cuốn sách như thế thôi đã làm cho tôi xứng với hạng Thủ lĩnh Vĩ đại cừ khôi nhất. Sau đó, cô ta hỏi tôi có thích đọc sách không.

- Dĩ nhiên rồi! tôi đáp, tất nhiên là tôi thích chứ!

Thế là, rầu rĩ, nhưng với một dạng nhẫn nhục định mệnh luận (giống một người công nhận một sự thể về đó không có cả hy vọng lẫn phương thuốc), cô ta thú nhận với tôi rằng cô ta thì, ngược lại, không thích đọc sách: đến mức mà, hồi cô ta còn nhỏ xíu và còn đi học, sáng nào cô ta cũng khóc chỉ vì lại trông thấy quyển sách của mình ở trước mặt. Ở trường, cô ta chỉ ì ạch học hết được lớp bốn rồi bỏ không đến trường nữa.

Ở nhà cô ta, tại Naples, có những quyển sách: có một quyển tiểu thuyết to mà mẹ đỡ đầu đã cho cô ta và, hơn nữa, những quyển sách học của em gái cô, lớp ba. Nhưng cô ta thì, ngay từ hồi còn nhỏ xíu, cô ta đã quyết định rằng việc đọc sách chỉ là một mối hành hạ, chẳng được ích lợi gì. Cô ta thấy dường như, trong những cuốn sách, chỉ có toàn các từ trong cảnh mất trật tự. Được gì đây tất tật những từ xếp thành hàng kia, chết và rối bời, trên một tờ giấy? Ngoài các từ, trong một cuốn sách, cô ta chẳng hiểu gì khác. Phải, đó là toàn bộ những gì cô ta hiểu được trong một cuốn sách: các từ!

- Cô, tôi bảo cô ta, cô nói y như Hamlet.

Tôi đã đọc, trong bản dịch tiếng Ý, bi kịch về Hamlet (cũng như bi kịch về Othello, bi kịch về Julius Caesar và về King Lear), và tôi tuyệt đối không tán thành hành xử của nhân vật ấy.

- Hamlet là ai? cô ta hỏi.

- Một thằng hề, tôi đáp, bĩu môi khinh miệt và, nghe thấy thế, cô ta phá lên cười căng thẳng.

Tôi không hiểu được ngay lập tức tại sao cô ta lại cười như vậy, nhưng rất sớm tôi nhận ra rằng cái từ thằng hề kia, mà tôi quy cho Hamlet, cô ta cũng coi nó thuộc về mình, như hệ quả tự nhiên của lời tôi nói. Nghĩ thế, tôi cũng cười. Rồi, đã nghiêm túc trở lại, tôi giải thích:

- Hamlet là một thằng hề và tôi biết tại sao. Nhưng còn cô, cô không có gì chung với ông ta đâu: cô hiểu chứ? Ông ta là Hoàng tử Đan Mạch!

Tôi thấy rằng trước hé lộ này khuôn mặt cô ta biểu hiện một sự kính trọng đáng kể, thế là tôi kêu lên, hết sức kiên quyết:

- Đừng có lấy điệu bộ của kẻ nô lệ như thế chứ! Phần lớn vua và hoàng tử là hề hết.

Đấy là một trong những kết luận mà tôi có được gần đây, và tôi nhận thấy mình không thể truyền nó cho nữ thính giả vô tri mà không thêm vào đó vài giải thích thích hợp:

- Sở hữu một ngai vàng thôi thì chưa đủ, tôi nói với cô ta, để xứng với danh hiệu ông vua! Một vị vua phải là người can đảm nhất trong số toàn bộ dân chúng của ông ta. Chẳng hạn: Alexander xứ Macedon! Ông ấy thì đúng là một vị vua! Ông ấy, tôi nói thêm, kèm chút ghen tị, là người giỏi nhất trong toàn bộ dân chúng của ông ấy, không chỉ nhờ giá trị mà nhờ cả vẻ đẹp nữa! Ông ấy đẹp như thần! Tóc ông ấy vàng, xoăn tít, khiến như thể ông ấy có một cái mũ bằng vàng!

Như thường lệ, cô ta lắng nghe tôi vẻ chú tâm sâu sắc cùng sự tôn trọng sâu sắc. Cô ta nêu nhận xét, đầy ngưỡng mộ:

- Cậu guaglione hơn tôi, thế nhưng cậu biết rõ là lắm thứ!

Tôi nói tiếp, sốt ruột trước cái từ guaglione kia, mà cô ta vừa dùng:

- Nhưng các ông vua như ông ấy không có nhiều đâu! Và những người nào nhận tước hiệu vua mà không có cùng lòng can đảm như ông ấy, cô có biết bọn họ là gì không? đấy là lũ khốn không có danh dự, bọn soán ngôi vị!

- Hiển nhiên là những ai nắm quyền hành phải hành động tốt đẹp hơn người khác rồi, cô ta nhất trí đầy khiêm cung, giọng rụt rè, bởi nếu những người ở vị trí cao không làm gương, thì bằng cách nào thế giới có thể vận hành tốt đẹp được?

Thế rồi, sau khi suy tư một hồi, cô ta nói thêm:

- Nhưng chuyện là thế đấy! ngay cả những người có vị trí cao cũng không phải lúc nào cũng nhớ là mình có một món nợ phải trả cho Đức Chúa! Đâu chỉ những người bất hạnh mới nhầm lẫn, những kẻ hùng mạnh cũng nhầm. A, những người Ki-tô có lương tâm thanh thản thì không nhiều đâu. Chính vì vậy mà trên trời, Con của Chúa vẫn phải đội vòng gai, và Chúa mới biết chừng nào thì khổ hình của Người mới kết thúc!

Vừa nói cô ta vừa thở dài, như một con sẻ ngô nhiều trí tưởng tượng, cho các đau đớn nghìn năm của vị Chúa thiếu may mắn đó (và những lọn tóc nhỏ của cô ta, chao đảo, đi kèm các than van). Và không còn nhớ là mình đang nói chuyện với một kẻ vô thần, cô ta nhìn tôi với cặp mắt đầy tin tưởng và tình anh em, như thể những Điều Chắc Chắn Tuyệt Đối của cô ta cũng trùng hợp với những cái đó ở tôi!

Tuy nhiên, tôi tự giới hạn mình để chỉ đáp lại bằng cách liếc nhìn cô ta, tỏ vẻ độ lượng. Và tôi nói tiếp, theo đuổi bài nói bị ngắt ngang của tôi:

- Lỗi của điều đó cũng thuộc về chính các dân chúng nữa! Người ta thấy rất rõ khi đọc Lịch Sử Thế Giới và cả khi nhìn nhận một số đất nước! rằng có cả đống người không biết niềm hy vọng duy nhất của cuộc đời và không hiểu tình cảm của những ông vua chân chính. Do đó thậm chí người ta còn có thể thể rằng những anh hùng đẹp nhất bị cô lập, như thể họ là đám cướp biển hung dữ. Chẳng ai đi cùng họ, ngoài đoàn tùy tùng trung thành hoặc thậm chí ngoài chỉ một người bạn luôn luôn đi theo họ và bảo vệ họ bằng chính thân thể mình: người duy nhất biết được trái tim họ! Những kẻ còn lại rời xa khỏi họ, giống một đàn toàn bọn tù nhân xấu xa bị ném xuống dưới hầm con thuyền vĩ đại! Con thuyền vĩ đại, tôi nói cho cô ta biết, đấy là một cách nói mà tôi đã dùng theo lối biểu tượng, như ở trong thơ. Những gì tôi đang nói với cô đây không trần trụi đâu. Và con thuyền ấy, cách nào đó chính là danh dự của cuộc đời!

Trong lúc nói với cô ta những lời giải thích ấy, tôi nhỏm dậy và đến ngồi vắt chân hai bên trên băng ghế. Đấy là lần đầu tiên tôi hé lộ cho một con người các kết quả từ những suy tư đơn độc của tôi. Biểu hiện của cô ta rất trang nghiêm, gần như thành kính. Tôi im lặng một lúc, thỉnh thoảng liếc sang cô ta, trước khi quyết định nói nữa và, rốt cuộc, tôi nói:

- Lý tưởng đối với toàn bộ lịch sử thế giới hẳn là điều sau đây: các ông vua chân chính gặp được một dân chúng có cùng tình cảm với họ. Khi đó, họ sẽ có thể làm được bất cứ hành động lớn lao nào, thậm chí họ còn có thể đi chinh phục tương lai! Một người có được niềm thỏa mãn vì là một người anh hùng thì còn chưa đủ, nếu tất tật những người khác không giống anh ta và nếu anh ta không thể kết bạn. Ngày nào tất tật con người có được một trái tim can trường và đầy can đảm, giống những vị vua chân chính, thì tất tật các thù ghét sẽ bị ném xuống biển. Và, khi đó, con người sẽ chẳng biết phải làm gì với các ông vua của mình. Bởi người nào cũng sẽ trở thành vua của chính mình!

Cái ý vừa xong - vang lừng và kỳ vĩ - đưa lại một âm thanh mới cho tai của chính tôi, bởi nó vừa sinh ra trong tôi vào chính lúc ấy, đùng một cái, trong lúc nói, chứ trước đó tôi chưa hề nghĩ đến: và tôi thấy sung sướng trong lòng như về một khám phá triết học đích thực, xứng với nhà tư tưởng lớn nhất! Chỉ cần một cú liếc mắt cũng đủ để tôi biết khuôn mặt nữ thính giả của tôi vừa cũng bừng sáng lên, giống một tấm gương trìu mến, với niềm ngưỡng mộ rạng ngời! Và thế là, một cơn cuồng mới đốt cháy tôi, đầy dạn dĩ và chắc chắn tôi tuyên bố:

- Tôi thì tôi muốn đọc tất tật các cuốn sách khoa học và có vẻ đẹp thực: tôi cũng sẽ nhiều hiểu biết như một nhà thơ lớn! Và về phần còn lại, ở những gì liên quan đến sức mạnh, thì tôi có đầy: tôi có thể thực hiện mọi tập luyện, tôi đã bắt đầu tập từ lúc bảy hay tám tháng tuổi. Chỉ cần một hay hai mùa hè nữa tôi, lúc đó tôi sẽ rất muốn biết ai đủ sức đọ với tôi: ngay cả nếu một nhà vô địch thế giới xuất hiện! Sau đó, ở dịp đầu tiên, tôi sẽ phải học cách sử dụng các thứ vũ khí và quen với việc chiến đấu. Ngay khi nào đủ tuổi, tôi sẽ xung phong đi mọi nơi nào đang đánh nhau, để tìm thử thách! Tôi muốn làm được những hành động vinh quang, để cả thế giới đều phải biết tên tôi! mấy từ Arturo Gerace cần phải được biết tới tại mọi đất nước!

Cô ta cười, tiếng cười sung sướng và trẻ con, nhìn tôi với một niềm tin tuyệt đối: cứ như thể tôi là một người em trai của cô ta, đi xuống để kể cho cô ta những chiến công mà Tổng Lãnh Thiên Thần Michael thực hiện trên Thiên Đường.

Thế là, tôi không còn do dự nữa trong việc cho cô ta biết cả các dự đồ bí mật nhất và tham vọng nhất của tôi: và không chỉ những gì tôi nghĩ là vẫn còn, trong ý thức, giống những điều có thể hiện thực hóa, mà cả các dự đồ huyễn tưởng, sản phẩm của suy tư con nít của tôi, chúng sẽ chẳng bao giờ có thể hiện thực hóa. Giờ đây, ở cái tuổi tôi đang có, tôi không còn không biết rằng một số trong những dự đồ xưa kia của tôi là truyện cổ tích nữa, nhưng dẫu sao thì tôi cũng kể chúng cho cô ta, thêm nữa vì biết cô ta tin tôi.

- Và rồi, sau đó, tôi bắt đầu, chừng nào trở thành anh hùng giỏi nhất, hoàn toàn giống một ông vua chân chính, cô biết tôi sẽ làm gì không? Tôi sẽ cùng những người trung thành với tôi đi chinh phục các dân chúng và sẽ dạy cho tất tật con người lòng can đảm đích thực! và danh dự nữa! Tất tật những kẻ bất hạnh kia, tất tật lũ hỗn láo kia, tôi sẽ làm cho chúng hiểu là chúng vô tri đến mức nào! Có cả đống người ngay khi sinh ra đã sợ hãi rồi và lúc nào cũng sợ mọi thứ! Tôi muốn giải thích cho tất tật bọn họ vẻ đẹp của lòng can đảm, thứ thắng được sự hèn nhát thảm hại! Và một trong các công trình của tôi sẽ là như sau. Tới đây, như tôi đã nói với cô rồi đấy, bố tôi và tôi, chúng tôi sẽ cùng nhau đi xa, thật lâu, cho đến ngày người ta thấy chúng tôi đổ bộ ở đây, tại Procida, dẫn đầu một hạm đội tuyệt vời. Tất tật mọi người đều sẽ hoan hô chúng tôi và những người Procida, theo gương chúng tôi, sẽ trở thành những anh hùng gan dạ nhất trong số các quốc gia, giống người Macedon; và họ cũng sẽ trở nên rất trượng nghĩa và cao quý, như thể họ là anh em của bố tôi. Họ sẽ là những người trung thành với chúng tôi và đi theo chúng tôi trong các hành động. Đầu tiên, chúng tôi sẽ đến tấn công Nhà Tù, để giải phóng tất tật các tù nhân, và trên đỉnh pháo đài, chúng tôi sẽ kéo lên một lá cờ trên đó vẽ một ngôi sao, mà người ta có thể nhìn thấy từ mọi chỗ trên biển! Cả đảo Procida sẽ được cắm cờ, giống một con thuyền đẹp: nó sẽ trở nên còn đẹp hơn Rome!

Đến đó, tôi nhìn cô ta chăm chăm, vẻ thách thức. Quả thật, sau ý kiến mà cô ta thốt ra trên cỗ xe, vài tiếng trước, về tù khổ sai cùng nhà tù, vẫn còn lại ở giữa chúng tôi một vấn đề treo lơ lửng đó! Nhưng, giờ đây, ánh mắt tôi chỉ bắt gặp trên khuôn mặt cô ta một tình đoàn kết gây nhiều phấn hứng, như thể cô ta nóng lòng nhìn thấy lá cờ của tôi bập bềnh phía trên ngôi thành của hòn đảo và đã tận hưởng từ trước bữa tiệc lớn tiếp theo sau, với những bài ca cùng điệu nhảy! Thế là, để kết luận cho bài nói của mình, tôi nói tiếp, dùng cạnh bàn tay đập lên bìa của Những Thủ Lĩnh Vĩ Đại cừ khôi nhất:

- Quyển sách này không phải là một quyển sách gồm các câu chuyện bịa ra đâu, mà đúng là chuyện thật, như khoa học! Những Thủ Lĩnh Vĩ Đại của lịch sử, ngay cả những người lừng danh nhất như Alexander xứ Macedon, không phải là các nhân vật ma thuật (các nhân vật ma thuật thì là chuyện bịa đặt); đấy là những người hoàn toàn giống những người khác, trừ suy nghĩ! Để bắt đầu giống được như họ và thậm chí giỏi hơn họ, trước tiên người ta phải có ở trong tâm trí một số ý đích thực và lớn lao... Và những ý đó thì tôi biết!

- Những ý nào?... cô ta hỏi, đầy chăm chú.

- Ừ thì, tôi tâm sự với cô ta sau một quãng do dự, mày nhướng lại. Ừ thì, ý đầu tiên, quan trọng nhất trong số đó, là như sau: Không được coi trọng cái chết!

Vậy đấy, giờ đây thậm chí tôi còn vừa hé lộ cho cô ta cái điều lừng danh hơn cả trong Bộ Luật lừng danh của tôi: điều ngạo nghễ nhất, tôi muốn nói, và khó nhất trong số những Điều Chắc Chắn Tuyệt Đối của tôi (và cũng là sự thiếu chắc chắn tối cao và bí mật nhất!). Cô ta tán thành, giọng trang trọng:

- Cái đó đúng là sự thật đầu tiên đấy.

Và nói thêm:

- Chính Chúa dạy cho chúng ta điều đó.

Nhưng, vào lúc ấy, tôi gần như không còn lắng nghe cô ta nữa. Trong tôi ngập đầy niềm thỏa mãn tới nỗi không còn đủ kiên nhẫn để dông dài nữa.

Tôi thổi ra. Đột nhiên, căn bếp dường là một nhà tù. Tôi những muốn ở giữa mùa hè, vào buổi sáng, trên bãi biển, leo lên các tảng đá, lặn, lăn mình trong nước; tôi thấy muốn làm sao, được chơi đùa và làm các trò. Đột nhiên, tôi mạnh bạo quay sang cô ta:

- Nhìn này! tôi hét lên.

Và cởi giày ra, tôi lấy đà rồi, bắt đầu từ bức tường đối diện, tôi lao mình về phía chấn song cửa sổ, nó nằm cách mặt đất khoảng hai mét. Chỉ cần một bước nhảy, tôi đã bám tay được vào một thanh sắt và, gần như cùng lúc, bằng một cú vọt thật mạnh của hai chân và cả người, tôi đặt hai bàn chân lên hai thanh sắt cao hơn. Từ tư thế đó, đầu ngửa về sau, tôi có thể nhìn thấy cô ta, còn cô ta thì vỗ tay, đầy phấn khích, vây quanh là tất tật các lọn tóc của mình.

Tôi cảm thấy sung sướng cực điểm. Nhào một cái, giờ đây tôi giữ tay treo lơ lửng ở chấn song và, để tỏ vẻ, tôi làm vài cú xoay và đung đưa; rồi tôi kêu lên:

- Nhìn đây! lá cờ!

Và chỉ còn bám một tay, tôi gồng các bắp ở cánh tay lên tới mức bắn người sang một bên, như một lá cờ. Tôi giữ tư thế ấy nhiều giây, theo cùng cách thức với một virtuoso giữ chặt nốt; rốt cuộc, tôi thả mình rơi xuống đất và, lao đi từ đó, hết tốc lực, như đang vượt qua một cây cầu trên không, tôi nhảy thật cao và đậu lên bàn, hai chân chụm, cách đó ba hay bốn mét.

Cô ta chiêm ngưỡng tôi như thể tôi vừa nhảy vọt không phải lên một cái bàn bếp mà boong cao của một con thuyền vừa bị chinh phục; còn tôi, bị đà nhảy kéo theo, giờ đây tôi thấy mình như thể một thủy thủ tập sự huyền thoại, bay lượn đầy dẻo dai từ boong sau lên các tháp nhỏ! Tôi cứ thể thực hiện nhiều trò tương tự và cô ta ngưỡng mộ tất tật rất ghê.

Cuối cùng, quay trở lại bên cạnh cô ta, tôi ngồi xuống đất. Tôi đi chân không, bởi bít tất thuộc vào số những trang phục mà chúng tôi, bố tôi và tôi, thường bỏ qua. Đôi giày của tôi nằm trên sàn nhà, cách tôi một chút; thò chân ra, tôi khều lấy một cái, kẹp giữa ngón chân cái và ngón giữa, và nói đầy kiêu hãnh:

- Nhìn này! chân tôi dẻo không.

Cô ta ngưỡng mộ năng lực này không kém gì những tài khéo khác của tôi; và tôi giải thích với cô ta rằng phải gần đây, nhờ tập luyện nhiều, tôi mới làm được như vậy. Ở đây, tại Procida, tôi nói thêm, từ khi sinh ra tôi sống như một thủy thủ đúng nghĩa. Và, theo một châm ngôn mà tôi đã đọc được trong một cuốn sách phiêu lưu, thủy thủ thì phải khéo léo như khỉ, tinh như đại bàng và có trái tim sư tử!

Sau đó tôi kể cho cô ta câu chuyện, đọc hồi tôi còn bé, về một tên cướp biển đã mất hai tay trong chiến đấu và, kể từ đó, luôn luôn mang, ở chỗ cụt, hai khẩu súng nạp đạn gắn chắc vào mấu tay. Ông ta đã tập bắn súng bằng cách dùng chân bóp cò và bắn giỏi đến mức, trong các cuốn tiểu thuyết, những khi nhắc tới ông thì luôn luôn là Tên Cụt địa ngục hay Thảm Họa Thái Bình Dương.

- Cậu hiểu biết quá! cô ta nói, vẻ khiêm nhường đầy trìu mến và kính trọng.

Rồi, ngẩng đầu lên như đang hát, cô ta kêu lên trong một nụ cười sung sướng, bộc phát:

- Chừng nào cậu đã giống một ông vua, tất tật chúng tôi sẽ đến chào cậu. Tôi cũng sẽ dẫn theo mẹ và em gái tôi! Tôi muốn dẫn theo toàn bộ Pallonetto! và toàn bộ Chiaia! và toàn bộ Naples!

Cô ta im lặng một hồi, đầy mơ mộng, và rồi cô ta nói thêm, như một điều gì bí hiểm:

- Cậu biết không, Artù? khi cậu nói với tôi cái ý của cậu và khi cậu bảo cậu muốn trở nên giống một ông vua, tôi nghĩ là tôi nhìn thấy cậu, như thể vậy thì hết sức thật và tự nhiên: ăn vận thật đẹp, với một cái áo sơ mi lụa đẹp, một cái sơ mi với những cái khuy nhỏ bằng vàng, và với áo choàng cùng vương miện vàng, và cả đống nhẫn quý thật đẹp...

- Ơ! tôi ngắt lời cô ta với vẻ thờ ơ cao ngạo, cô nghĩ gì thế? Vương miện và áo choàng, v.v...!!! Chỉ cần nói từ vua là cô đã nghĩ ngay đến những kẻ mang tước hiệu vua! Các ông vua mà tôi nhắc tới là các ông vua đặc biệt, họ không ăn mặc như thằng hề giống những kẻ cô nói đâu.

- Thế họ ăn mặc như thế nào? cô ta hỏi, ngây ra nhưng đầy tò mò.

- Họ ăn mặc rất thoải mái, thích thế nào mặc thế ấy! tôi mạnh mẽ tuyên bố.

Và rồi, ngay lập tức, chẳng mấy suy nghĩ, tôi nói rõ thêm:

- Mùa hè, họ mặc quần dài cùng áo sơ mi bình thường... thậm chí áo sơ mi có thể rách rưới và mất cúc... và... tôi không biết... một cái khăn mùi soa hình hoa quanh cổ... Còn mùa đông thì một cái áo veste bình thường, chẳng hạn kẻ ca rô... một cái áo veste thể thao ấy!

Cô ta có vẻ hơi thất vọng; nhưng, sau một lúc, cặp mắt cô ta nhìn chằm chằm vào tôi với vẻ buông thả đầy ngây thơ và, vừa gật đầu vừa nói đầy tin chắc:

- Ồ, vả lại, cậu thì, có mặc như ăn xin cậu vẫn sẽ có dáng vẻ của một ông hoàng nhỏ...

Tôi không trả lời, thậm chí còn mím môi nhằm cho thấy sự thờ ơ của mình, và đột nhiên tôi phá lên cười, vì thấy thích lời khen kia quá.

Một lúc sau, nghe thấy tiếng bước chân bố tôi đi xuống cầu thang, và con người bí hiểm nhất đời xuất hiện giữa chúng tôi.

Lúc đó mới thấy nước trong nồi, sôi được một lúc lâu, đã bay hơi mất một nửa mà hai chúng tôi đều không để ý, và than đã gần tàn. Điều này khiến bữa tối bị muộn lại và, để có việc mà làm trong khi đợi, bố tôi uống rượu vang Ischia, loại rượu mà ông thích hơn cả. Ông đã dậy từ giấc ngủ trưa, khỏe khoắn và có tâm trạng vui vẻ, và ông tỏ ra rất vui thích, thấy đó như là một trò chơi, chuyện cả ba chúng tôi ăn tối tại Lâu đài nhà Gerace. Sự vui tươi của ông làm tất tật chúng tôi phấn khích và buổi tối có dáng vẻ của một bữa tiệc lớn.

 

Bữa tối

Vợ của bố tôi rốt cuộc cũng cởi cái áo khoác mặc đi đường nhỏ bé của mình ra: bên trên cái váy nhung, cô ta mặc một cái săng đay len đỏ nhỏ, nó, cũng như áo khác, quá ngắn và chật đối với cô ta, và trang phục này cho phép thấy rõ hơn hình dáng cơ thể cô ta. Cơ thể ấy, ngay cả đối với sự thiếu kinh nghiệm của tôi, đã rất phát triển ở tuổi của cô ta, nhưng trong những đường nét phụ nữ ấy có một dạng bụ bẫm và ngây thơ trẻ con, như thể chính cô ta còn chưa nhận ra là mình đã lớn. Ngực cô ta dường quá nặng đối với nửa thân người phía trên non trẻ kia, hai vai gầy và eo nhỏ xíu, cô ta tạo một cảm giác lạ thường và cũng tế nhị về cảm thông; và sự nặng cặp hông của cô ta, rộng và khá xấu, mang lại cho dáng hình cô ta không phải một tính cách của sức mạnh mà đúng hơn của sự ngây thơ bối rối và không tự vệ. Hai ống tay cái săng đay để cánh tay cô ta trần gần như tới khuỷu, và người ta thấy sự phân tách giữa làn da trắng của cánh tay và da của hai bàn tay nhỏ, phồng to và đỏ ửng vì mùa đông. Cả điều này cũng khiến nảy sinh một niềm cảm thông với cô ta. Và khi nhìn hai cổ tay của cô ta, không hề mảnh, người ta nhận thấy rằng, chính vì dày hự lên như thế, chúng lại có biểu hiện của sự trong trắng dịu dàng.

Hết sức kiêu hãnh được làm món mì, thậm chí cô ta còn có vẻ quên mất nỗi sợ mà bố tôi truyền tới, mới một lúc trước, trong buổi chiều, ông đã làm cô ta run rẩy tới vậy. Nhưng tâm trạng lúc này của bố tôi dường không đe dọa; giờ đây, ông không ra cho cô ta những mệnh lệnh gây lo lắng, ông cũng không xõa tóc cô ta ra và thậm chí không ở gần và đoái hoài đến cô ta.

Ở bàn, ông ăn nhiều và vẫn uống rượu vang Ischia; và rượu, như thường lệ, tuy không làm ông say hoàn toàn, khiến ông có các cách thức không thể đoán trước, chúng làm ông càng trở nên bí hiểm hơn đối với tôi. Rượu có thể tạo lên ông các hiệu ứng khác nhau và thậm chí đối lập; đôi khi nó làm ông nói nhiều, và đôi khi ngái ngủ, u tối. Một số dịp, nó đổ đầy nuối tiếc cùng náo động vào ông; hoặc giả là bạo lực kỳ quái, thứ khiến ông đi tìm những thứ để trút thịnh nộ xuống (ông không bao giờ đẩy nó sang tôi, nếu chẳng phải là bởi một sự đột ngột còn lớn hơn; lẽ dĩ nhiên, ông thấy tôi là một nhân vật quá nhỏ bé: chẳng đáng gì).

Tối hôm đó, rượu hòa điệu với tâm trạng vô tư lự của ông và làm cho ông trở nên lắm lời và huyền ảo hơn. Sự cứng rắn trong ánh mắt của ông chốc chốc lại nhường chỗ cho một dạng sung sướng duyên dáng, nó dường bám chặt lấy mọi thứ gì mà chúng gặp, kể cả một mẩu bánh mì hay một cái cốc. Đầy sung sướng, ông kể rằng, trên tầng, ông đã ngủ rất ngon suốt hai tiếng; rồi ông ta liếc mắt sang vợ ông, với một biểu hiện của đánh lừa, như thể ông đang mưu toan, mà cô ta không biết, một tội lỗi con nít nào đó; và ông nói thêm:

- Em có biết tôi đã mơ thấy ai không? Tổ tiên của tôi, người trong bức tranh: con ma lâu đài!

- A, vậy à, cô ta thì thào.

- Đúng, mơ thấy ông ấy! Ông ấy mặc một cái áo choàng trong nhà thêu các ngôi sao và trăng lưỡi liềm, giống một phù thủy. Và ông ấy bảo tôi: Cậu sẽ thấy chuyện gì sẽ xảy ra vì đã đưa một phụ nữ vào nhà tôi. Đêm nay, tôi sẽ cùng các hiệp sĩ của tôi đến và ném cô ta ra ngoài.

Cô vợ trẻ của ông phá lên cười, vẻ không tin nhưng, dẫu vậy, vẫn hoang mang:

- Em cười? Thế thì, sắp thôi, em sẽ không cười nữa đâu. Đã đến lúc, tôi nghĩ, cần phải nói cho em một điều cho tới giờ tôi còn chưa nói. Arturo, con đồng ý chứ? sẽ rất đúng đắn nếu giờ đây cho cô ta biết cô ta là signora Gerace chứ? Hãy biết, bé con, rằng trong gia đình chúng tôi có một điều bí ẩn! Cả vùng này đều biết: lâu đài này nhiều ma lắm. Quả thật, tổ tiên của tôi là một đại lãnh chúa và tiếp tục tổ chức ở đây các buổi biểu diễn cùng vũ hội cho nam thanh nữ tú, như hồi ông ấy còn sống: khác biệt duy nhất, tất nhiên, ấy là, giờ thì khách khứa của ông ấy toàn là những hồn ma và, thậm chí, một thứ còn tệ hại hơn. Lẽ dĩ nhiên, ông ấy không mời các hồn ma nữ vì, như em biết rồi đấy, ông ấy ghét phụ nữ. Khách khứa của ông ấy đều là đàn ông hết, những thanh niên và những thiếu niên chết trẻ; và tất tật, nếu em muốn biết, đều là các linh hồn bị đọa đày! Đó là những kẻ được chọn từ đám chợ búa tệ nhất, bọn họ, lúc chết, bị biến thành quỷ! Và đêm nào băng đảng đó cũng tới đây từ tất tật các ngóc ngách địa ngục, và bọn họ đi vào qua cửa sổ, đi ra bằng đường ngầm dưới đất, hàng trăm, hàng trăm. Con có thể chứng nhận điều đó, phải không nào, Arturo?

Tôi chỉ mỉm cười với ông chẳng nói chẳng rằng, ra dấu nhất trí và, cũng (bởi đó là nghĩa vụ của tôi) đồng lõa ngấm ngầm; nhưng nụ cười của tôi đối với cô ta dường là một sự khích lệ. Đến lượt mình, cô ta cũng nở nụ cười của con người khôn khéo nhiều kinh nghiệm và, vừa lắc đầu cô ta vừa nói với bố tôi:

- Ồ, giờ thì ông muốn chế nhạo em và thực sự đối xử với em như thể em là một con bé ngu dốt. Nhưng, về một số điều, thì em biết nhiều hơn ông đấy!

- Gì? Chú ý điều mà em nói nhé: hơn tôi!

- Không... không phải hơn ông! em đã buột miệng nói thế thôi, chứ nó không có nghĩa đặc biệt gì đâu. Em muốn nói rằng, giờ đây, ông thực sự đối xử với em như thể em là một đứa ngu dốt, nếu ông nghĩ có thể chế nhạo em và nếu ông nghĩ là em không biết cái gì là đúng ở một số chuyện! Kìa! như thể chẳng phải ai cũng biết, là không bao giờ có thể có lũ quỷ guaglioni! Bởi nếu một người chết khi vẫn còn là guaglione, thì đó không thể là một kẻ phạm nhiều tội được. Ngay cả nếu, trong cuộc đời ngắn ngủi của mình, người đó phạm phải lỗi nào đó như, chẳng hạn, ăn cắp! hoặc, thậm chí, giết những người Ki-tô! vậy thì cũng chẳng sao! không có gì xấu xa ở đó! tất tật tội lỗi đều được tính là tội lỗi nhẹ cho người đó thôi. Tối đa thì các guaglioni cũng chỉ phải lĩnh hai mươi, hai mươi lăm năm ở chỗ Nhân Gian; và nữa, các guaglioncelli trẻ nhất đều trở thành những thiên thần cherubin và những ai lớn hơn, thì thành các seraphin. Chính vì vậy mà người ta, khi an ủi mẹ của họ, nói: Hãy sung sướng, signora: chính nó mới gặp nhiều may mắn hơn! Chúa đã chọn nó, để biến nó thành một thiên thần nữa. Với một guaglione, người ta không bao giờ có thể tạo ra một con quỷ. Để tạo ra quỷ, nhất thiết phải cần những người lớn.

Lập luận này, tự thân nó có thể trông rất hài, được trình bày với chúng tôi trong một sự trang trọng lớn tới nỗi nếu cười thì hẳn sẽ quá tàn nhẫn. Thế nên chúng tôi giữ vẻ nghiêm túc; chính bố tôi cũng chỉ cười một tí chút.

- Và vậy thì, ông nói với cô ta, giờ đây đã có ý kiến thật đẹp đó rồi, em cảm thấy được an toàn! tin chắc rằng đám hiệp sĩ kia là các thiên thần từ trên trời! Và thậm chí em không tin vào điều mà tổ tiên của tôi đã nói với tôi trong giấc mơ: rằng đêm nay ông ấy sẽ đến cùng họ làm hại em!

- Ồi gì cơ! ai mà có thể tin vào những gì cái kẻ kia kể! một người từng bảo tất tật phụ nữ đều xấu xí!

- A! bố tôi kêu lên, đầy kiêu ngạo đứng dậy, đây là điều cuối cùng và là điều đẹp nhất, và tôi thấy vinh dự quá! và tôi lại còn phải nghe bằng chính tai mình! chính xác giống như người ta dám khẳng định ở đây rằng một tổ tiên của tôi có thể nói khoác!

- Khôôông... em không muốn nói vậy... về họ hàng của ông... không... em đã nhầm... Nhưng ông ấy... có phải thực sự ông ấy từng nói mọi phụ nữ đều xấu xí không? Có đúng thế không?

Bố tôi nằm ườn ra trên cái ghế của ông, và cười thật to:

- Đúng, ông tuyên bố, ông ta đã nói chính xác như thế đấy: tất tật bọn họ đều xấu xí.

Cô ta nhìn tôi, như để hỏi tôi sự xác nhận cho một điều kỳ quặc đến vậy.

- Cô thực sự muốn biết ông ấy từng nói gì chứ? bố tôi lại nói tiếp.

Và, ngay lập tức, ông khởi sự ngâm nga, giả giọng Amalfitano:

- A, Wilhelm yêu quý của tôi, sao mà bọn họ xấu xí, tốt hơn hết là đừng nghĩ tới làm gì! Phải, tốt hơn hết là đừng nghĩ tới! Và bọn họ mọc lên ở khắp nơi, tại mọi ngóc ngách của mặt đất; bọn họ tự nhân lên hàng nghìn, hàng triệu, những lời sỉ nhục tự nhiên đó. Ai biết được bọn họ có cũng tồn tại trên các hành tinh khác không, trên mặt trăng? Và càng đẹp đẽ, càng hoàn hảo (có thể nói vậy) thì bọn họ lại càng xấu xí hơn! Sự ti tiện, đấy thực sự là dấu hiệu cho dòng giống bọn họ, và thật chua cay! Nhưng tại sao? làm thế nào giải thích điều đó đây? Tất tật mọi thứ của sáng thế đều đẹp đến thế; ngay cả những gì chẳng hề quan trọng: một cọng tảo! một dòng suối nhỏ xíu! một con cá nhỏ! một con rệp hoa hồng! một bông hoa đậu, một cái lá diếp nhỏ! tất tật mọi thứ điều có một cái gì gây cảm động, thân ái, nó làm ta nói: a! kỳ quan của vũ trụ! sao mà đẹp vậy, được sống thì thích biết bao! Thậm chí, những khi ta gặp phải một gã què, một kẻ phục binh khốn khổ, một kẻ tàn tật, một tên lùn, và người ta tự nhủ lúc mới thoạt nhìn: tên kia xấu quá; thế thì, ngay cả như vậy, nếu, sau đó nhìn kỹ hơn, người ta luôn luôn thấy một điều gì đó cho phép ta nói: thế nhưng, xét cho cùng, kẻ đó không thực sự hoàn toàn gây khó chịu. Phải, phải, nếu quan sát kỹ họ, người ta có thể nhận ra, ở bất kỳ con cá gai nào, ở bất kỳ con nhện nào, dấu ấn của bàn tay nghệ sĩ và pháp sư nhỏ bé kia, thứ đã nhào nặn tất tật mọi thứ của vũ trụ. Chỉ với một dòng giống độc nhất: phụ nữ, thì không có xót thương nào. Bọn họ, sự xấu xí rơi xuống bọn họ, chẳng gì khác. Chắc bọn họ được làm ra từ một chỗ khác: đó là lời giải thích duy nhất khả dĩ.

Nghe bài nói đó, được thực hiện bằng tông giọng của hài kịch, hai chúng tôi phá lên cười. Thế là, bố tôi uể oải ném vào tôi một miếng vỏ cam và cảnh cáo tôi:

- Con, thằng nhóc Moor, ông nói, thay vì cười như vậy, tốt hơn hết là con cho biết ý của con về vẻ đẹp phụ nữ đi. Chẳng hạn, con nghĩ gì về cô vợ trẻ của bố? con thấy cô ấy đẹp hay xấu?

Tôi cảm thấy mặt mình như bị cháy, bởi tôi đã không được chuẩn bị cho một câu hỏi như thế và, sự thật là, thậm chí chính tôi cũng không biết chính xác thì mình nghĩ gì về cô gái trẻ kia. Trước khi nói ý kiến của mình, tôi liếc nhìn cô ta, như để đánh giá ngay tắp lự. Nhưng đúng vào lúc ấy tôi nhận ra là mình chẳng cần phải nhìn: dẫu không hề biết, tôi đã có sẵn trong đầu ý của mình về cô ta. Và sau đây là cái ý đó.

Ở những gì liên quan tới sự xấu xí của phụ nữ nói chung, đối với những gì tôi biết và thấy trong đó, tôi thấy dường Amalfitano nói đúng chứ không sai: và đặc biệt người phụ nữ này, người ta không thể nói cô ta kém xấu xí hơn những người khác. Tuy nhiên, ở những gì liên quan tới người phụ nữ này, mặc cho các xấu xí không thể chối bỏ, tôi thấy cô ta hợp gu, rất đẹp!

Ý kiến vốn dĩ là ý kiến của tôi ấy đối với tôi, tuy vậy, dường quá cá nhân và thiếu động cơ, và tôi xấu hổ vì phải nói nó ra; mặt khác, tôi không muốn nói dối. Và thế là, chẳng thèm nhìn họ, cả cô ta lẫn bố tôi, tôi cụp mắt xuống với vẻ cau có và gần như dữ tợn, và đáp:

- Con không thấy cô ấy xấu.

- Nào, nào! bố tôi kêu lên, nhún vai, giờ thì con muốn chơi trò hiệp sĩ và nịnh thần đấy. Con không thấy cô ta xấu? Nào, nào! Chúa mới biết con thấy cô ta đẹp ở đâu!

Cô ta cười, có chút bối rối, không hề bực tức vì bị coi là xấu xí. Tôi dạn dĩ nhìn bố tôi và cả quyết tuyên bố:

- Cô ấy có cặp mắt đẹp!

- Ồ gì cơ! mắt đẹp! Mắt cô ta to! quá to! Nào, nào! con đang bịa đặt gì thì, thằng nhóc Moor?

Đúng lúc đó, cô ta nhìn tôi và cặp mắt của cô ta, đầy rụt rè, niềm vui cùng lòng biết ơn đối với lời ca ngợi mà chúng vừa nhận, tuyệt vời tới nỗi vầng trán cô ta có vẻ được trang trí một vành vương miện.

Tôi phá lên cười và, ngồi xuống trở lại, tôi im lặng.

Và bố tôi, hất cằm về phía cô ta vẻ ngạo nghễ, nói với cô ta:

- Em, signora Gerace, em vênh váo thì cũng chẳng được tích sự gì đâu: dẫu thế nào thì chúng tôi cũng biết rồi, rằng em xấu lắm, chẳng được ích gì... Tối nay, thằng nhóc Moor muốn khen ngợi em; nó muốn chơi trò ông chủ lâu đài, chơi trò người đàn ông ga lăng đấy! Nhưng em, thưa Bà, thay vì dùng cặp mắt to của em để làm đẹp, hãy nói cho chúng tôi, cả em nữa, em biết gì về cái đẹp. Chẳng hạn, em thấy thằng nhóc Moor này sao? hử, em nghĩ gì về nó?

Cô ta xấu hổ phải nói to câu trả lời của mình lên; xáp lại sát tai bố tôi, với một biểu hiện đầy ý thức và nghiêm trang, cô ta hạ giọng nói với ông (nhưng dẫu vậy thì tôi vẫn nghe thấy):

- Em thấy cậu ấy đẹp.

Tôi ngoái đầu sang bên kia, vẻ thờ ơ. Bố tôi cười, nói:

- Được rồi, lần này thì cả tôi cũng đồng ý. Đúng thế, đó là một thằng bé đẹp: ồ, đâu phải ngẫu nhiên khi nó là con trai tôi.

Tôi không tỏ ra gì hết, như thể đã không biết là họ nói đến tôi. Ông, nhằm khiêu khích tôi, đá tôi một cú nhẹ, dưới gầm bàn, và tiếp tục cười gần như dịu dàng, vừa cười vừa nhìn tôi; và thế là, tôi cũng bắt đầu cười, cùng ông.

Ông rót thêm rượu và, trong lúc ông uống, có lẽ khoảng hai phút, tất tật chúng tôi giữ im lặng. Lại nghe thấy tiếng sóng vỗ, bên dưới, vào những vịnh nhỏ: và tôi, nghe thấy tiếng đó, trong suy nghĩ tôi trông thấy bóng hình của hòn đảo trải rộng trên biển, với các ánh sáng nhỏ bé của nó; và Casa dei guaglioni, gần như dựng đứng phía bên trên mũi đất, với những cửa và cửa sổ đóng lại của nó trong đêm mùa đông to lớn. Như một khu rừng bị yểm bùa, hòn đảo che giấu, chôn vùi trong nỗi tê liệt, các tạo vật huyền hoặc của mùa hè. Trong những cái hang ngầm dưới đất không thể tìm ra hoặc trong các kẽ tường và kẽ đá, lũ rắn, lũ rùa, các gia đình chuột chũi cùng thằn lằn xanh đang nằm. Thân hình nhỏ bé của lũ dế và lũ ve tan ra thành bụi, để rồi sau đó sinh ra trở lại, hàng nghìn, vừa kêu vừa nhảy. Và lũ chim di cư, tản mát tại những vùng nhiệt đới, nuối tiếc các khu vườn đẹp kia.

Chúng tôi đây, chúng tôi là các lãnh chúa của khu rừng này: và căn bếp này, được rọi sáng trong đêm, là hang ổ tuyệt diệu của chúng tôi. Mùa đông, cho tới khi ấy, đối với tôi từng lúc nào cũng giống một doi đất của nỗi buồn chán, tối nay đột nhiên trở thành một lãnh địa tuyệt diệu.

 

Đêm

Một cái bóng của cơn cười êm dịu vừa xong vẫn vơ vẩn trên miệng bố tôi, và tôi nghĩ mình nghe thấy tiếng thở của ông, đều đặn và nhiều sức trấn an giống tiếng thở của biển. Hiện tại đối với tôi dường là một thời kỳ vĩnh cửu, giống một bữa tiệc của các nàng tiên.

Giờ đây, bữa tối đã xong từ một lúc lâu, và thế nhưng chúng tôi vẫn nán lại bên bàn. Bố tôi vẫn còn rượu trong cốc, và ông tiếp tục nói đùa với chúng tôi một chút nhưng, rất sớm, ông thấy mệt. Thỉnh thoảng, ông duỗi người hoặc phát ra những tiếng thở dài, chúng, ở ông, không phải một dấu hiệu cho nỗi buồn mà, ngược lại, dấu hiệu cho một khoái lạc của tồn tại sâu sắc và gần như đau đớn. Đến một lúc, ông làm điệu bộ chìa một cánh tay về phía cô vợ trẻ của ông, để kéo cô ta vào mình. Cô ta vội đứng dậy và bước lui về sau, nói mình phải dọn bàn, và tôi thấy hiện ra trở lại trên mặt cô ta nỗi sợ kia, nó dường đã rời khỏi cô ta trong một chốc lát.

Với một biểu hiện sợ hãi và đầy gấp gáp, cô ta chồng hai cái đĩa lên nhau và làm ra vẻ bê chúng về phía bồn rửa, nhưng bố tôi, không đứng dậy khỏi ghế, vung tay tóm lấy eo lưng cô ta và, dùng cánh tay mình cầm tù cô ta, ông giữ cô ta ở cạnh mình.

- Em đi đâu đấy? Dọn bàn! ông nói với cô ta. Người hầu của chúng ta sẽ làm việc đó vào sáng mai, dọn bàn. Em, em là signora Gerace, hãy nhớ điều đó! và giờ thì đêm tân hôn của chúng ta sắp bắt đầu rồi.

Không dám vùng vẫy, cô ta nhìn bố tôi với đôi mắt ngây ra. Thấy rõ là cô ta run rẩy và thực sự có dáng vẻ, với mái tóc dày, của một con thú hoang nhỏ với bộ lông màu đen, bị lừa mà mắc bẫy.

- Em sợ, hử? em sợ đêm tân hôn của em! bố tôi kêu lên, phát ra một tiếng cười tươi tắn, tự do và không chút xót thương. Ở yên đó. Đừng nhúc nhích.

Và ông ôm chặt cô ta hơn, áp vào hông cô ta, vui thú trước nỗi hoảng của cô ta.

- Em sợ là đúng đấy: em biết, hử, chuyện gì xảy tới với các cô gái vào đêm tân hôn của họ! Nhưng điều khủng khiếp nhất, em thấy không, Nunzià, ấy là rất hiếm khi người ta gặp một loại chồng độc ác như tôi. Những người chồng thông thường chỉ là một nửa đàn ông thôi... Không, giờ thì vô ích thôi, việc tìm cách thoát ra: em không còn trốn đi được nữa, hết rồi!

Theo bản năng, cô ta vừa khởi sự yếu ớt vùng vẫy, như thực sự tưởng mình có thể trốn thoát được. Và một toan tính tuyệt vọng như vậy càng làm bố tôi cười tợn hơn.

- Hết rồi! Không còn hy vọng nữa đâu! ông nhắc lại, với sự thô nhám trẻ con, chẳng khó nhọc gì giữ chặt lấy cô chỉ bằng một tay, như trong một cái ê-tô. Không còn là cái hồi em vùng đi và trốn mất để khỏi gặp tôi nữa đâu: kìa, đừng có nghĩ tôi đã quên mất hồi đó nhé, guaglió! đêm nay, tôi sẽ bắt em trả giá cho chuyện ấy!

Và bằng một cách thức vừa đe dọa vừa hờ hững, ông khởi sự nghịch các lọn tóc của người phụ nữ trẻ tuổi. Khuôn mặt ông sáng lên, tuy vậy nó để lộ một sự ma mãnh thân thiết và vui tươi.

- Đúng, ông tuyên bố, cô ấy từng đẩy bố ra đấy! Cô ấy từng từ chối lấy một người như bố, cái đồ đầy chấy rận này! Thậm chí mẹ cô ấy đã phải đi bắt cô ấy, vì cô ấy từ chối một mối như thế này, một ông chủ, ngoài nhiều thứ khác, của một tòa lâu đài!

Nhắc lại những điều đó, ông lấy hẳn dáng vẻ của nhà diễn thuyết của dân chúng, như thể ở kia, quanh bàn, có, để lắng nghe ông, toàn bộ dân chúng được triệu tới để xem sự trừng phạt định mệnh nhằm vào cô dâu trẻ.

Cô ta kêu lên, ngây ra, giọng yếu ớt đầy than thở:

- Em... em đã muốn trở thành xơ!

- Đồ nói dối! Nói đúng các việc đi chứ! Em đã muốn trở thành xơ vì không muốn lấy tôi! Em đã chỉ quyết định lấy tôi đề nghe theo lời mẹ bé nhỏ của em! Em đã nói là em sợ tôi! Và nếu tôi không nhầm, thậm chí có người từng nghe thấy em bảo tôi xấu xí! Đúng hay sai, hử? em có thấy tôi xấu không?

Ông cười với một vẻ duyên dáng cao ngạo, không thể tả xiết; và cô ta nhìn ông chăm chăm bằng cặp mắt lớn của mình, mà nỗi hoảng sợ dường càng làm đen hơn - như thể cô ta thực sự thấy ông xấu xí.

- Và giờ đây, signora Gerace, chuẩn bị trả cho tôi toàn bộ những cái đó đi.

Nghe thấy tiếng chuông điểm giờ từ campanile, và ông nhìn đồng hồ đeo tay của mình.

- A, 10 giờ rồi! đã đến lúc đi ngủ... muộn rồi. Tôi buồn ngủ, Nunziatè, tôi buồn ngủ... Nunziatè!

Và ông ôm chặt cô ta vào sát người, tuy vậy không vuốt ve hay hôn cô ta mà, ngược lại, gần như hung dữ với cô ta và làm tóc cô ta xổ ra. Thế là, nỗi sợ, đã rình rập suốt cả ngày, dường lao xuống cô ta, như một đám mây lớn.

- Em..., cô ta nói, trước khi lên... em phải đóng các chớp cửa sổ to kia đã.

- Được, đóng đi, bố tôi nói và, đầy bất ngờ, ông thả cô ta ra.

Và, như thể muốn cho cô ta một quãng nghỉ, ông châm một điếu thuốc lá và hít vào hơi đầu tiên. Nhưng, dường như đó là một đòn nghi binh, mà ông làm do thích chơi đùa, giống một con mèo. Cô ta vừa chuẩn bị nâng cái then nặng của cánh cửa bằng hai bàn tay náo động của mình, thì ông đặt điếu thuốc xuống cái đĩa và, đứng dậy khỏi ghế, đột nhiên bảo cô ta:

- Đủ rồi đấy. Đừng để ý đến cái cửa nữa! Cứ để các chớp yên ở đấy!

Đúng lúc đó, dường như tôi nghe thấy một tiếng rì rầm có nhịp điệu, như thể một đoàn người ngựa tiến lại gần từ đâu đó; và hết sức ngạc nhiên, tôi nhận ra rằng chính tim tôi đang đập như thế. Bố tôi, với một dạng sung sướng điên giận, tiến về phía vợ ông và tóm lấy cổ tay cô ta, trong một động tác của vũ công, làm xoay cô ta nửa vòng. Mắt ông tìm kiếm mắt cô ta với một ánh nhìn còn cứng rắn hơn thường lệ; nhưng cùng lúc, ở chúng cũng có một dạng khẳng định cuồng nộ, vui sướng và trong trắng. Có lẽ ăn năn hoặc nhằm tỏ ra thương cô ta, ông bảo cô ta, dịu giọng xuống:

- Tức là em không thấy tôi mệt đến thế nào à? Muộn rồi: ta đi ngủ thôi!

Cô ta ngẩng lên ông đôi mắt không tự vệ của mình.

- Nào! Xùy! ông ra lệnh cho cô ta, vẻ cứng rắn.

Và cô ta, hết sức ngoan ngoãn, đi theo ông. Trước khi đi qua ngưỡng cửa, cô ta ngoái đầu về đằng sau, để nhìn về phía tôi; nhưng, rơi vào một cảm giác căm ghét và điên giận lạ thường, ngay tức khắc tôi quay đi.

Tôi cứ đứng bất động như vậy trước cái bàn. Lúc tôi nhìn ra ngưỡng cửa, họ đã biến mất vào hành lang và nghe thấy tiếng chân họ cùng nhau đi lên cầu thang. Tôi bèn cúi đầu xuống và, nhìn thấy bát đĩa cùng đống cốc của bữa tối, đồ ăn thừa và rượu, đột nhiên tôi thấy kinh tởm.

Tôi vẫn ở đó, gần cái bàn, không nhúc nhích, không nghĩ tới điều gì, và tôi thấy như thể cứ thế một quãng thời gian rất dài trôi qua; nhưng, trên thực tế, khi tôi nhúc nhích để lên tầng đi ngủ, điếu thuốc để cháy đó của bố tôi vẫn tiếp tục ngún trên đĩa, giữa đống vỏ cam. Vậy thì, mới chỉ trôi qua một chốc lát! và đối với tôi, ngày và tối hôm đó, chỉ vừa kết thúc, dường, ngược lại, Chúa mới biết tại sao, giờ đây xa xôi như nhiều năm đã qua. Chỉ mình tôi, Arturo, tôi còn ở đó như trước, một thằng bé mười bốn tuổi; và tôi còn phải chờ nhiều mùa nữa thì mới trở thành một người đàn ông.

Đi qua trước cửa phòng ngủ của bố tôi, tôi nghe thấy ở phía bên kia mấy cánh cửa đóng kín tiếng thì thào sôi nổi. Tôi gần như chạy về phòng mình: đột nhiên tôi có cảm giác không thể hiểu và sắc bén là vừa nhận từ ai đó (mà tuy thế tôi không thể nào xác định được danh tính) một sự xúc phạm không thể trả thù, phi nhân tính. Tôi mau chóng cởi quần áo, và lúc tôi nằm xuống đầy cuồng loạn, bọc mình trong chăn kéo cao quá đầu, xuyên qua các bức tường, một tiếng hét của cô ta vang tới tôi: một tiếng hét mềm mại, hung dữ và trẻ con lạ thường.

 

Nhân tiên, ở đây tôi đang nhận thấy một điều: không chỉ tôi không có khả năng gọi cô ta bằng tên những khi nói chuyện với cô ta, mà, cả lúc này nữa, khi nhắc đến cô ta (lý do thì tôi không biết), tôi cũng không có khả năng gọi tên cô ta. Có một khó khăn bí hiểm cấm ngặt khỏi tôi mấy âm tiết đơn giản nhường đó: Nunziata, Nunziatella. Thế cho nên, ở đây tôi sẽ phải tiếp tục gọi cô ta là hoặc vợ của bố tôi, hoặc mẹ ghẻ của tôi. Và nếu, để phục vụ cho sự đẹp đẽ của phong cách, đôi khi cần phải gọi tên cô ta, có lẽ tôi sẽ có thể viết, thay vì tên đầy đủ của cô ta, N. hay có lẽ Nunz. (Cái tên cuối cùng kia, tôi khá thích nó; nó khiến người ta nghĩ tới một con thú nửa hoang dã nữa đã thuần: chẳng hạn một con mèo hoặc một con dê.)

Huỳnh Bất Thức dịch

Elsa Morante

Elsa Morante và Alberto Moravia
Hòn đảo của Arturo (tiếp)
Elsa Morante: Hòn đảo của Arturo

một Ý

Casanova (1725 – 1798)
Leopardii (1798 – 1837)
Carlo Emilio Gadda (1893 – 1973)
Pavese (1908 – 1950)
Elsa Morante (1912 – 1985)
Natalia Ginzburg (1916 – 1991)
Angelo Maria Ripellino (1923 – 1978)
Italo Calvino (1923 – 1985)
Pietro Citati (1930 – 2022)
Claudio Magris (1939 – )
Giorgio Agamben (1942 – )
Emanuele Trevi (1964 – )

favorites
Thêm vào giỏ hàng thành công