Hồi ký chết rồi mới viết của Brás Cubas
Có thể xem rằng, trong phong cảnh văn chương Bồ Đào Nha-Brazil, Machado de Assis và Eça de Queirós làm thành một cặp đối lập trong thời đại của họ. Chính lời chỉ trích của Machado đối với O primo Basílio của Eça, cho rằng nhân vật không nên là con rối cho sự sắp đặt của tác giả, nhấn mạnh rằng tính kịch phải tồn tại trong, trong dục vọng và trong tình huống đạo đức của nhân vật, đã là một chỉ dẫn cho ta đi vào ba tiểu thuyết thuộc giai đoạn sau của Machado, mà khởi đầu là Memórias póstumas de Brás Cubas (1881).
Tác phẩm này được xem là bước ngoặt trong sự nghiệp viết văn của Machado, đánh dấu sự thay đổi trong thủ pháp tự sự. Trước Brás Cubas, các tiểu thuyết của Machado gắn liền với truyền thống tiểu thuyết tình cảm châu Âu cuối XVIII, XIX với những Richardson. Từ Brás Cubas, ông quay sang tính chơi và sự hài hước của một truyền thống tiểu thuyết châu Âu ít thống trị hơn, với những Cervantes, Laurence Stern và Burton. Tiểu thuyết gồm 160 chương theo kiểu fragments, dưới đây là một mấy trang đầu tiên.
Gửi độc giả
Stendhal từng thú nhận ở lời tựa một tác phẩm chính yếu của mình rằng thứ ông viết chỉ để dành cho một trăm độc giả, điều khiến ta vừa khâm phục mà vừa bất bình. Còn điều không khiến ta khâm phục, và cũng có lẽ chẳng khiến ai bất bình, là cuốn sách nhỏ này có khả năng không có đến một trăm độc giả như của Standhal, thậm chí không đến năm mươi, hai mươi, hay thậm chí mười. Mười ư? Có lẽ năm thôi là hết nút. Thực tế mà nói, đây là một tác phẩm lan man, trong đó, tôi, Brás Cubas, dù có chọn lối viết phóng khoáng của một Stern, một Lamb hay một de Maistre, thì tôi cũng không rõ mình có pha vào đó đôi chút cáu kỉnh bi quan hay không. Có thể lắm chứ. Tác phẩm của một kẻ đã chết. Tôi viết nó bằng ngòi bút của sự giễu nhại và thứ mức của nỗi muộn sầu; và không khó để đoán trước cuộc hôn phối ấy sắp sửa khai sinh ra thứ gì. Hơn nữa, những người nghiêm chỉnh sẽ thấy sách có bản chất của một cuốn tiểu thuyết thuần tuý, trong khi những người phù phiếm lại không tìm thấy trong đó hồn cốt của thứ tiểu thuyết sở trường của họ; và thế là nó bị tước mất sự coi trọng của bên nghiêm chỉnh lẫn sự yêu thích của bên phù phiếm, vốn là hai trụ cột vững chắc nhất của dư luận.
Nhưng tôi vẫn hy vọng dấy lên một chút cảm tình từ dư luận, và phương cách hữu hiệu để làm điều đó là tránh một lời tựa dài dòng phân bua chi li. Lời tựa hay nhất là lời tựa đưa ra ít vấn đề nhất, hoặc trình bày chúng một cách khuyết lược và mơ hồ. Do vậy, tôi tránh kể lại phương pháp phi thường mà tôi đã dùng để viết nên những dòng Hồi ký này, thứ đã được thai nghén từ tận thế kỷ trước. Phương pháp ấy rất thú vị, nhưng quá dông dài, và hơn nữa, không cần thiết cho việc thấu hiểu tác phẩm. Chính tác phẩm mới là tất cả: nếu nó có thể làm bạn hài lòng, hỡi các độc giả tinh tế, tôi đã thấy công lao mình được đền đáp rồi; còn nếu nó chẳng làm bạn hài lòng, tôi sẽ trả bạn một cái búng tay, và xin cáo từ.
– Brás Cubas
1. CÁI CHẾT CỦA TÁC GIẢ
Tôi đã do dự một lúc không biết nên mở đầu những hồi ức này từ khởi thuỷ hay từ hồi kết; nghĩa là, nên đặt sự ra đời của tôi lên trước hay cái chết của tôi lên trước. Cứ cho rằng thông lệ thường là bắt đầu bằng lúc chào đời, thì vẫn có hai cân nhắc khiến tôi chọn một phương pháp khác: thứ hất là tôi không đúng nghĩa là một tác giả đã chết, mà là một kẻ đã chết bắt đầu làm tác giả, đối với hắn, nấm mồ là cỗ nôi thứ hai; thứ hai là cuốn sách nhờ thế mà trở nên phong nhã và mới mẻ hơn. Moses, người cũng kể về cái chết của mình, đã không đặt nó ở phần đầu, mà ở phần kết: đó là điểm khác biết căn bản giữa cuốn sách này và Ngũ Thư.
Như thế, tôi tắt thở vào hai giờ chiều một ngày thứ Sáu tháng Tám năm 1869, tại trang viên Catumby xinh đẹp của tôi. Tôi hưởng dương sáu tư tuổi, cứng cáp và sung mãn, độc thân, gia sản được chừng ba trăm conto và được mười một người bằng hữu đưa tiễn về nơi an nghỉ cuối cùng. Mười một người bạn! Thật, thực tế là đã chẳng có thiếp mời hay cáo phó đăng báo gì sất. Hơn nữa hôm ấy trời lại mưa – mưa phùn – một cơn mưa lớt phớt từng hạt, buồn và dai, dai và buồn đến nỗi đến nỗi đã khiến một trong những bằng hữu trung thành đến tận phút cuối ấy cài vào bài điếu văn đọc bên huyệt đạo tôi ý tưởng tài tình này: – “Các vị, chỗ thân biết với người quá cố, kính thưa các ông, các ông có thể đồng ý với tôi rằng thiên nhiên dường như đang khóc thương cho sự mất mát không gì bù đắp được của một trong những nhân cách đẹp đẽ nhất đã từng rạng danh nhân loại. Bầu không khí u ám này, những giọt nước từ trên trời rơi xuống kia, những đám mây đen phủ lấn màu xanh hệt như một tấm voan tang, tất cả đó là nỗi đau vạn tiễn xuyên tâm đang gắm nhấm những chỗ sâu kín nhất của thiên nhiên; tất cả đó cũng chính là khúc tán tụng cao vời nhất dành cho người bạn quá cố lỗi lạc của chúng ta.”
Người bạn tốt và trung thành ơi! Không, tôi sẽ không bao giờ hối tiếc hai mươi tờ trái phiếu mà tôi đã để lại cho anh ta. Và đó là cách tôi đi đến đoạn kết những tháng ngày tại thế của mình; đó là cách tôi lên đường tới vùng đất chưa ai biết của Hamlet, không với những nỗi quặn thắt hay nghi hoặc của chàng hoàng tử trẻ, mà chậm rãi và lóng ngóng, như khán giả một buổi trình diễn mà người ta đã ra về hết cả mới lục tục rời đi. Muộn màng và chán ngán. Chừng chín mười người đã nhìn tôi đi, trong số đó có ba nữ nhân – em gái tôi Sabina, chồng là Cotrim; con gái cô, một bông huệ trong thung đúng nghĩa và… Kiên nhẫn nào! Một lát nữa tôi sẽ kể cho các bạn biết người phụ nữ thứ ba là ai. Xin chuẩn bị tinh thần mà bằng lòng khi tôi tiết lộ rằng người phụ nữ ẩn danh ấy, dù không thân thích, lại đau khổ với sự ra đi của tôi còn hơn cả người ruột thịt. Đúng vậy, nàng đau khổ hơn họ nhiều lắm. Ý tôi không nói rằng bà đã khóc một dòng sông, cũng không nói rằng bà đã lăn lộn dưới đất, như lên cơn động kinh. Vả, cái chết của tôi không đậm tính bi kịch gì cho cam… Một kẻ độc thân tắt thở ở tuổi sáu tư thì dù gì cũng dường như không đủ để hội tụ các yếu tố của một bi kịch lâm li. Và cho dù có đi chăng nữa, thì việc thể hiện ra ngoài đối với người phụ nữ ấy là cực kỳ thiếu phù hợp. Đứng ở đầu giường, với đôi mắt đờ đẫn, cái miệng hé mở, người phụ nữ đáng thương ấy khó lòng tin rằng tôi đã qua đời.
– Chết rồi! Chết rồi! nàng tự nhủ.
Và trí tưởng tượng của nàng, như những con cò mà một nhà du hành lỗi lạc đã bắt gặp sải cánh từ bờ sông Ilissus đến những bãi bờ Phi châu, bất chấp tàn tích và thời gian, trí tưởng tượng của người đàn bà ấy cũng bay vượt lên trên những đổ nát hiện tại đến tận những bãi bờ của một Phi châu trong tuổi trẻ… Hãy để nàng đi đi; chúng ta sẽ đến đó sau; chúng ta sẽ đến đó sau khi tôi trở về những năm tháng đầu đời. Giờ đây, tôi chỉ muốn chết một cách yên bình, có phương pháp, lắng nghe tiếng nức nở của các quý bà, những lời nói xì xầm của đàn ông, cơn mưa đánh trống trên những lá cây môn đốm trong trang viên, và âm thanh đinh tai phát ra từ con dao cạo anh thợ đang lóc cóc mài bên kia đường, trước cửa một tiệm rèn yên. Tôi thề với các bạn rằng dàn nhạc đám ma ấy ít thê thiết hơn nhiều so với vẻ ngoài của nó; và từ một thời điểm nào đó trở tới, nó thậm chí còn thú vị ra trò ấy chứ. Sự sống đang giãy giụa trong lồng ngực tôi, với những cơn sóng biển cứ đổ dồn tới, ý thức tôi đang tàn lụi, tôi chìm dần vào trạng thái bất động cả về thể xác lẫn tinh thần, và thân xác tôi trở thành cây cỏ, thành đá, thành bùn và thành hư vô.
Tôi chết vì viêm phổi; nhưng nếu tôi nói với độc giả rằng tôi chết do viêm phổi thì ít mà do một ý tưởng lớn lao và hữu ích, thì chắc độc giả sẽ lấy làm hồ nghi, thế nhưng đó lại là sự thật. Tôi sẽ trình bày vắn tắt tình cảnh ấy cho các bạn. Việc phán xét thế nào xin dành các bạn tự quyết định.
2. CAO DÁN
Chuyện là, một buổi sáng nọ, đang đi dạo trong trang viên, ý tưởng đu mình lên cái xà ngang nảy ra trong não tôi. Một khi cơ thể đã nhấc bổng lên, nó bắt đầu đánh đu, quẫy đạp, thực hiện những cú nhào lộn trên không trung liều lĩnh nhất mà người ta có thể tưởng ra được. Tôi đứng đó ngắm nhìn nó. Đột nhiên, nó thực hiện một cú bật nhảy lớn, tay và chân dãn ra thật là căng, cho tới khi tạo thành một hình chữ X: hãy giải mã ta, bằng không ta sẽ ăn thịt ngươi đấy.
Ý tưởng này hữu ích chẳng kém gì tìm ra một phương thuốc diệu kỳ, một miếng cao dán chống u uất, nhằm làm vơi đi nỗi sầu muộn của toàn cõi nhân loại chúng ta. Trong đơn xin cấp bằng độc quyền mà tôi soạn ra lúc ấy, tôi cố thu hút sự chú ý của giới quan chức vào thành quả thực sự đậm tính nhân văn cao cả này. Tuy nhiên, tôi cũng không phủ nhận với các bạn bè mình về những lợi ích tài chính chắn chắn sẽ có được từ việc phân phối một sản phẩm có hiệu quả to lớn và sâu sắc như thế. Giờ đây, khi đã ở bên kia thế giới, tôi có thể thú nhận tất cả: động lực thúc đẩy tôi trong việc đó chủ yếu là niềm vui được thấy in trên mặt báo, tờ rơi, ở các góc phố và cuối cùng là trên những hộp dược phẩm nhỏ bốn từ: cao dán Brás Cubas. Chối để làm gì đâu chứ? Tôi vốn mê thích sự ồn ào, rồi áp phích quảng cáo rộn ràng, những tràng pháo hoa tung toé. Những người khiêm cung có lẽ sẽ chỉ trích tôi hư thói như; nhưng tôi tin những người khôn ngoan sẽ thừa nhận tài năng này của tôi; bởi quả thực tôi đã khôn ngoan. Vậy nên, ý tưởng tôi có hai khía cạnh, hệt như tấm mề đay nào cũng có hai mặt, một mặt hướng về công chúng, mặt kia nhìn vào tôi. Một bên là lòng nhân ái và lợi nhuận; một bên là khát khao danh tiếng. Hãy gọi đó là: – niềm mê thích quang vinh.
Một người chú của tôi, một linh mục có đầy đủ bổng lộc, thường nói rằng niềm mê thích quang vinh nhất thời là sự huỷ diệt nơi linh hồn, khi linh hồn chỉ nên khát khao những vinh quang vĩnh hằng. Ý trên đã bị một chú khác của tôi, một sỹ quan từng phụ vụ trong các trung đoàn bộ binh thời trước, phản bác rằng niềm mê thích quang vinh là điều chân thật nhất của con người tồn tại trong con người, và do đó, là đặc điểm đích thức nhất của hắn.
Xin mời độc giả bình bàn ý kiến của vị linh mục và quân nhân; còn tôi, tôi trở lại với miếng cao dán của mình vậy.
3. GIA PHẢ
Nhưng, vì đã nhắc đến hai người chú của tôi, hãy để tôi phác ra đây một bản phả hệ ngắn gọn.
Cha thuỷ tổ của gia tộc tôi là một Damião Cubas nào đó, người đã sống có của ăn của để vào nửa đầu thế kỷ XVIII. Ông hành nghề đóng thùng gỗ, là người Rio de Janeiro gốc, và hẳn đã chết trong nghèo khó và vô danh nếu ngày ấy chỉ chuyên tâm voà mỗi nghề đóng thùng. Nhưng không; ông chuyển sang làm nông tang, trồng trọt, thu hoạch, đổi hoa màu lấy những đồng bạc thiện lương và đàng hoàng, cho đến khi qua đời, để lại một khối tài sản kếch xù cho người con trai, tức tiến sỹ Luís Cubas. Chính ở chàng trai trẻ này dòng dõi những bậc cha chú tôi mới thực sự bắt đầu – bởi Damião Cubas xét cho cùng cũng chỉ là một tay thợ đóng thùng, và có lẽ còn chẳng phải hạng tốt, trong khi Luís Cubas đã học ở Coimbra, xuất sắc ở chốn quan trường, và là một trong những người bạn thân của Phó vương Bá tước xứ Cunha.
Vì cái họ Cubas vẫn bốc mùi thùng gỗ nồng nặc [ND: cubas trong tiếng Tây Ban Nha có nghĩa là ‘thùng gỗ’], nên cha tôi, tức chắt của Damião, đã bịa ra một truyền thuyết rằng tên họ ấy đã được cho một hiệp sỹ, một anh hùng trong những cuộc viễn chinh ở châu Phi, như phần thưởng cho công trạng đã đoạt được ba trăm chiếc thùng từ tay người Moor, và hết sức bảo vệ cho câu chuyện hư ảo đó. Cha tôi là một người giàu trí tưởng tượng; ông đã thoát khỏi cái gốc gác thợ đóng thùng bằng một phép chơi chữ. Ông là một người tốt, xứng đáng một đấng nam nhi đáng kính nể và trung thực hiếm gặp. Ông quả thực có đôi chút hão huyền của tuổi trẻ; nhưng trên đời có ai mà không hão huyền đâu chứ? Đáng lưu ý là, ông chỉ dùng óc sáng tạo sau khi đã nguỵ tạo không thành; đầu tiên, ông tự gán ghép mình vào gia tộc của người chung họ nhưng không liên quan, chính là đại uý Brás Cubas, người đã sáng lập thị trấn São Vicente, người đã qua đời năm 1592, và đó là lý do tại sao tôi có tên là Braz. Tuy nhiên, gia đình đại uý đã phản đối điều này; và chính lúc đó cha tôi mới nảy ra ý tưởng về việc xây dựng câu chuyện về ba trăm chiếc thùng của người Moor.
Một số thành viên trong gia đình tôi vẫn còn sông, cháu gái tôi Venancia chẳng hạn, bông huệ trong thung, đoá hoa tươi thắm nhất trong phái nữ đương thời; cha con bé, Cotrim, cũng còn sống, người mà… Mà đừng vội nói trước sự tình; hãy kết thúc một lần cho xong câu chuyện về miếng cao dán của chúng ta cái đã.
4. Ý TƯỞNG CHỐT ĐỊNH
Ý tưởng của tôi, sau bao nhiêu cú nhào lộn, đã trở thành một ý tưởng chốt định. Cầu Chúa che chở bạn, hỡi các độc giả, khỏi một ý tưởng cố định; thà có dằm trong mắt, thậm chí thà một cái xà nhà trong mắt còn hơn. Hãy nhìn Cavour mà xem; chính ý tưởng chốt định về việc thống nhất nước Ý đã giết chết ông ta. Vâng, Bismarck thì không chết; nhưng phải thừa nhận rằng Tạo Hoá là một kẻ đỏng đảnh vĩ đại và Lịch Sử là một con điếm vĩnh cửu. Chẳng hạn, Suetonius đã cho chúng ta một Claudius củ chuối – hay “đầu bí ngô” như Seneca gọi, và một Titus, người xứng danh là niềm an vui của Rome. Về sau, một giáo sư đã tìm ra cách chứng minh rằng cả hai nhận định trên đều sai lầm và khó hiểu, và rằng trong hai vị hoàng đế kia, người đáng yêu, người thực sự đáng yêu, chính là người Seneca gọi là “đầu bí ngô”. Và bà nữa, quý bà Lucrezia, đoá hoa của dòng họ Borgia, nếu một nhà thơ đã phác hoạ bà bằng hình ảnh một Messalina theo đạo Công giáo, thì một kẻ hoài nghi tên là Gregorovious đã xuất hiện và xoá nhoà phần lớn đặc tính ấy của bà, và nếu bà không trở thành bông huệ, thì bà cũng chẳng hoá thành vũng lầy được. Còn tôi, tôi đứng giữa nhà thơ và nhà bác học.
Vậy thì lịch sử hoằng viễn, cái lịch sử thất thường ấy, đáp ứng dường như mọi thứ; và, trở lại với ý tưởng chốt định, tôi sẽ nói rằng chính nó tạo nên những đấng nam nhi đích thực và cả những thằng điên nữa; còn ý tưởng dao động, không bền và vay mượn thì tạo nên những Claudius, Claudius của Suetonio.
Ý tưởng của tôi là chốt định, chốt định như là… Tôi chẳng nghĩ ra thứ gì đủ chốt định trên thế gian này: có lẽ là mặt trăng, có lẽ là kim tự tháp Ai Cập, có lẽ là cái chết độ ăn kiêng kiểu Đức đã lỗi thời. Độc giả cứ việc chọn cách so sánh nào thấy thích hợp với mình nhất, hãy chọn đi và đừng có mà nhăn mặt với tôi bởi chúng ta hẵng còn chưa đến với phần tường thuật hồi ức. Chúng ta sẽ đến đó thôi. Tôi tin rằng bạn thích giai thoại hơn là suy niệm, cũng như những độc giả khác thôi, những bằng hữu của bạn, và tôi thấy như vậy cũng hợp lý mà thôi. Rồi chúng ta sẽ đến đó. Tuy nhiên, cần phải nói rằng cuốn sách này được viết một cách nhẫn nại, sự nhẫn nại của một kẻ đã thoát khỏi sự phiền nhiễu của dòng thời gian, một tác phẩm triết học trác việt, chuyển tải một triết thuyết không nhất quán, lúc nghiêm trang, lúc đùa cợt, một triết thuyết không xây dựng gì cũng không phá huỷ gì, không nóng không lạnh, giải trí đơn thuần thì hơn nhưng kiểu như một sứ đồ thì chưa tới.
Thôi nào, thôi bĩu môi đi, chúng ta hãy trở lại với miếng cao dán. Hãy bỏ lịch sử cùng với cơn đỏng đảnh như một quý bà thanh lịch của nó lại phía sau. Không ai trong chúng ta từng tham chiến trong trận Salamis, không ai từng viết tuyên tín Augsburg; về phần tôi, nếu có lúc nào tôi nhớ đến Cromwell, thì chỉ vì ý nghĩ rằng Điện hạ, với chính bàn tay đã đóng cửa nghị viện, hẳn đã bắt người Anh phải sử dụng miếng cao dán Brás Cubas. Ai mà chẳng biết bên cạnh mỗi lá cờ lớn, công khai, phô trương, thường có những lá cờ khác khiêm tốn riêng tư đã được kéo lên và phấp phới dưới bóng của lá cờ kia, rồi cùng sụp đổ chung với nó, và cũng không ít lần còn vượt trên nó? So sánh thì khập khiễng, nhưng nó giống như đám thảo dân vậy, những kẻ tìm sự che chở dưới bóng lâu đài phong kiến; lâu đài sụp đổ và đám thảo dân vẫn còn. Đúng là họ đã trở nên to lớn hơn và thành lãnh chúa… Không, phép so sánh này thật là tào lao.
5. CHƯƠNG NÀY CHIẾC TAI CỦA MỘT QUÝ BÀ LÓ RA
Thế rồi, trong lúc tôi đang bận rộn chuẩn bị và tinh chế phát minh của mình, tôi bất ngờ hứng trọn một trận trúng giờ; tôi quỵ ngay, và đã không chạy chữa. Tôi đã có miếng cao dán trong đầu rồi; tôi mang theo mình ý tưởng chốt định của những kẻ điên rồ và những người mạnh mẽ. Từ đằng xa, tôi thấy mình vươn lên từ đám đông tầm thường và bay vút lên trời, hệt như một con đại bàng bất tử; và trước cảnh tượng tuyệt lộng như thế, làm sao người ta còn cảm thấy nỗi đau đớn đang quặn thắt trong cơ thế nữa chứ. Sang đến ngày hôm sau, tình trạng tôi tồi tệ hơn; cuối cùng tôi cũng phải tìm đường chữa tị, nhưng không tới nơi tới chốn, không có phương pháp, không cẩn thận, cũng chẳng kiên tâm; chính đó là ngọn nguồn của căn bệnh đã đưa tôi về cõi vĩnh hằng. Mọi người biết tôi đã chết vào một thứ Sáu, cái ngày xúi quẩy ấy, và tôi tin rằng mình đã chứng minh được rằng chính phát minh của tôi đã giết chết tôi. Ta có thể tìm được những minh chứng kém sáng rõ hơn nhưng chẳng kém phần hùng hồn.
Tuy nhiên, không phải là không có khả năng tôi đã leo lên tới đỉnh cao của thời đại, và hiện diện trên khắp báo chí, giữa những ông lớn khác. Tôi đã có sức khoẻ và sự cường tráng. Giả sử rằng, thay vì đang đặt nền móng cho một phát minh dược học, tôi đang tập hợp các yếu tố cho một thể chế chính trị, hay một cuộc cải cách tôn giáo. Cơn gió độc ập đến, thứ đã gây ra tác động vượt xa tính toán của con người, và thế là mọi thứ tiêu tán. Luồng gió đó vì vậy chẳng khác nào thổi cát vào bánh xe cuộc đời tôi, làm nó mắc kẹt. Vận mệnh của con người xoay vần như thế đấy.
Với suy tư này, tôi giã từ người phụ nữ, tôi sẽ không nói là thông tuệ nhất, nhưng chắc chắn là xinh đẹp nhất trong số những người đương thời, người phụ nữ ẩn danh ở chương đầu, người có trí tưởng tượng của những con cò ở Ilissus… Năm đó tôi 54 tuổi, và là một phế tích, một phế tích đáng nể. Độc giả hãy hình dung rằng chúng tôi, nàng và tôi, đã yêu nhau từ nhiều năm trước, và một ngày nọ, khi nằm với bệnh tật đầy mình, tôi thấy nàng thấp thoáng ngoài cửa buồng…
Bùi Gia Bin dịch
