favorites
Shopping Cart
Search
Vitanova
Prev
Hạ 2025
Next

Hermann Broch: Cái chết của Virgil (tiếp)

02/06/2025 17:41

trước tiên, ở kia


Cái chết của Virgil

- Hermann Broch
 

Thế nhưng, bài hát sớm ngừng hướng lối cho họ; hành trình giữa hai bờ con lạch đã sớm kết thúc, và bài hát tắt lịm đi trong sự mất trật tự chung dậy lên trên tàu, khi đoạn trong cùng của cái vịnh mở ra, mà tấm gương chì đã lóe sáng lên một cách u tối và khi thành phố trở nên hiển hiện, Brundisium xòe ra hình cái quạt quanh cảng và sáng rực bằng hằng hà sa số ánh sáng như một bầu trời điểm sao trong sương của hoàng hôn. Đột nhiên không khí bị đốt nóng lên. Đội tàu dừng lại để con tàu của Caesar chuyển lên dẫn đầu, và lúc đó, dưới sự bất suy suyển êm dịu của bầu trời mùa thu - cả khoảnh khắc này nữa, chẳng phải là người ta cần giữ nó lại như là độc nhất và vô tận? - lúc đó bắt đầu một ma nớp thận trọng nhằm tiến lên không chút nguy hiểm nào giữa những con tàu thả neo ở mọi phía, các thuyền buồm, thuyền nhỏ chỉ có một cột, tàu tatan cùng các con tàu chuyên chở; càng tiến lên thêm, con lạch dùng để đi vào càng thu hẹp lại, đám đông tàu thuyền khắp xung quanh càng ken dày hơn, thì lại càng dày thêm mớ lùng nhùng những cột buồm, dây dợ và buồm đã cuốn bớt lại, lặng tờ trong sự cứng đơ của chúng, sống động trong sự nghỉ ngơi của chúng, trông thật giống một hệ thống rễ cây, sẫm tối lạ thường, đan xen vào nhau và rối tinh lên, vươn cao từ bề mặt lấp lánh, ánh dầu và sẫm của các đợt sóng, về phía sự sáng sủa bất động của bầu trời buổi tối; cứ như một cái mạng nhện màu đen, được làm từ gỗ và gai dầu, mà nước, phía dưới, phản chiếu một hình ảnh ma quái, lại càng ma quái hơn vì ở phía trên, nó không chỉ bị xẻ răng cưa bởi những lóe chớp phát đi từ sự sáng chói hoang dã của các cây đuốc giương cao từ mọi phía trên các boong tàu với những tiếng hú hét sung sướng, mà còn bị băng ngang bởi các luồng sáng ma quái của sự bày rộng những ánh sáng trên cảng: trên hàng dài các ngôi nhà của bến cảng, hết cửa sổ này đến cửa sổ khác, cho tới những gian áp mái, đều được rọi sáng, cũng như bên dưới các hàng cột - những quán rượu, hết những quán này đến những quán khác, và cũng dọc theo các ụ tàu, nhà kho cùng văn phòng hành chính được những ngọn đuốc soi sáng, trong khi băng ngang quảng trường trải rộng hai hàng lính cầm đuốc, những cái mũ sắt lấp lánh, xếp hàng sát kề nhau, thấy rõ là phải giữ thông con đường dẫn từ bến vào thành phố; ấy là một đấu trường khổng lồ lấp lánh lên lèn chặt các cơ thể người, một khu chứa khổng lồ một sự chờ đợi mạnh mẽ ngang mức với dữ dội, chứa đầy tiếng lao xao tạo ra từ hàng trăm nghìn bàn chân, chúng lê, cọ, bước, gãi xuống lòng được, một cái nồi súp de khổng lồ đang sôi sùng sục, đầy một tiếng ong ong u tối rộ lên rồi hạ xuống, một tiếng ồn ĩ của sự sốt ruột. Nhưng đột nhiên tiếng ồn câm bặt và đông cứng lại thành nỗi trông chờ, khi con tàu hoàng đế, chỉ còn đi bằng chừng một chục mái chèo, nhẹ nhàng rẽ ngoặt, đã vào đến ke, và nó chằng dây gần như không gây tiếng ồn nào tại chỗ dành cho nó - nơi các chức sắc của thành phố đợi nó ở giữa những ngọn đuốc nhà binh tạo thành hình vuông; đấy chính là giây phút mà khối người thú vật, âm thầm chuẩn bị, chờ sẵn để phát ra tiếng hú hét đầy sung sướng của nó, và chính vào lúc đó nó xổ lồng, không điểm dừng và không kết thúc, đầy khải hoàn, làm mọi thứ run lên, bung ra, gây kinh hãi, kỳ vĩ, bò trườn, tự ngắm nhìn chính nó ở một con người duy nhất.

Vậy đấy, đó là các đám đông vì chúng Caesar sống, vì chúng Đế chế đã được lập ra, vì chúng lẽ ra người ta đã phải chinh phục xứ Gaul, vì chúng vương quốc của người Parthian bị đánh bại còn xứ Giéc-manh thì bị hạ gục, những đám đông vì đó hòa bình lớn của Augustus đã được tạo ra, và thế nhưng để thành công được trong công trình ấy chúng phải được đưa về với kỷ luật và trật tự dân sự, về với lòng tin đặt vào các vị thần, và về với luân lý thần thánh và con người. Và đó là các đám đông, mà nếu không có thì người ta chẳng thể tiến hành thứ chính trị nào, và trên đó đích thân Augustus cũng phải dựa vào, nếu ông muốn ở lại với quyền lực, và lẽ dĩ nhiên Augustus không có ham muốn nào khác. Phải, đó là dân chúng, dân chúng La Mã, mà ông, Publius Virgilius Maro, một đứa con nông dân đúng nghĩa tại vùng Andes gần Mantua, có lẽ đã phải miêu tả tinh thần và danh dự, nhưng ông đã chỉ tìm cách vinh danh nó! Ông đã vinh danh nó, chứ không phải miêu tả, đấy là lỗi của ông, ôi! và chính họ đại diện cho Italia trong Aeneid! Cái Ác, một sự tuôn chảy rộng lớn của một lời nguyền không thể nói thành lời, không thể diễn tả, không thể hình dung, đang âm ỉ trong bể chứa trên quảng trường kia, và năm mươi, một trăm nghìn cái miệng gầm nó lên từ các độ sâu của chính chúng; chúng gầm lên cho nhau nghe Lời Nguyền nhưng không nghe thấy nó, không biết nó, và thế nhưng nhất quyết bóp ngạt nó đi và khiến nó trở nên sượng đục trong tiếng gầm rú địa ngục, trong tiếng ồn và những tiếng hét. Lời chào sinh nhật mới ghê gớm làm sao! Có phải ông là người duy nhất nhận ra điều này không? Đất nặng như một viên đá, những đợt sóng thì nặng như chì, và trước mặt mình ông đang có miệng núi lửa quỷ của Cái Ác, do chính Vulcan mở ra, một miệng núi lửa của tiếng ồn ở bên bờ vương quốc của Poseidon. Augustus không biết rằng đây không phải là các hoan hô, mà một cái gì đó hoàn toàn khác, chăng? Đột nhiên khác biệt giữa Octavian Augustus và những đám đông con người được tập hợp tại đây biến mất, bởi một cảm giác xót thương đối với cả người trị vì lẫn những người bị trị dâng lên trong ông, một xót thương đầy hành hạ đi cùng với một cảm giác về trách nhiệm cũng đầy hành hạ và thậm chí không sao chịu nổi, mà gần như ông không thể tự tạo một lý do, chỉ biết là nó cho thấy ít sự giống với cái gánh nặng mà vị Caesar đã nhận lấy, và nói đúng hơn nó là một trách nhiệm thuộc một trật tự hoàn toàn khác, bởi vì nằm ngoài tầm với của mọi thể động thuộc Nhà nước, ngoài tầm với của mọi quyền năng trần thế, dẫu quyền năng đó có lớn tới đâu, có lẽ thậm chí còn ở bên ngoài tầm với của các vị thần, lời nguyền rủa đang sôi sùng sục trong hoàng hôn, được bọc bên trong một bí ẩn xa lạ, và chẳng tiếng hét nào của các đám đông có thể dập đi, không - nhiều nhất thì cũng chỉ giọng nói yếu ớt của tâm hồn có thể làm điều đó, cái giọng mà người ta gọi là tiếng hát, và nó, cùng Lời Nguyền mà nó dự cảm được cũng thông báo sự thức dậy của cứu rỗi: mọi bài hát đúng nghĩa đều dự cảm hiểu biết, chất chứa hiểu biết, được hướng về phía hiểu biết, và chính đó là nơi có trách nhiệm của người hát, trách nhiệm của anh ta đối với hiểu biết, gánh nặng mà anh ta phải vác và thế nhưng nó vĩnh viễn quá nặng cho anh ta. Ôi! tại sao ông đã không được phép vượt qua dự cảm và đến được với khoa học đích thực, thứ duy nhất có thể mang tới cứu rỗi? Tại sao Số Phận đã buộc ông phải quay lại đây? Ở đây, chẳng có gì ngoài cái chết, và lại cái chết! Mắt mở, đầy nỗi hoảng hốt, ông đã nhỏm dậy lưng chừng; thế rồi, ông ngã trở lại xuống chỗ nằm của ông, bị quật ngã bởi nỗi kinh hoàng, bởi lòng thương, bởi niềm sầu khổ, bởi ham muốn trách nhiệm, bởi sự bất lực, bởi nỗi yếu đuối; điều ông cảm thấy về phía đám đông không phải lòng căm ghét, thậm chí không phải nỗi ác cảm, không, ông cũng ít muốn hệt như xưa kia, cái việc tách mình khỏi dân chúng, hay thậm chí vươn lên trên dân chúng, nhưng một điều mới vừa xuất hiện, một điều mà mặc cho tất tật những tiếp xúc của mình với dân chúng ông từng lúc nào cũng từ chối nhìn thấy - dẫu cho ở mọi nơi ông từng ở, dẫu đó là Naples, Rome hay Athens, ông đều chỉ có quá nhiều cơ hội cho điều này - một điều, nó, giờ đây tại Brundisium, buộc ông thấy ngạc nhiên: đấy là các vực sâu của cái ác nơi dân chúng có thể đi xuống, sự tuột dốc của con người cho tới đám dân ồn ào của thành phố lớn và như thế là sự băng hoại của con người thành cái đối lập với anh ta, sự băng hoại sản sinh từ cuộc đào ruỗng con người, từ việc biến con người thành chỉ độc nỗi thèm khát bề mặt, bị tước mất đi và cắt đứt khỏi lý do đầu tiên của anh ta, thành thử không còn lại gì khác ngoài chính cuộc đời, vốn dĩ bị cô lập một cách nguy hiểm, bị lột trần trụi thành sự phóng ra bên ngoài thuần túy, và đẫm đầy lời nguyền, đẫm đầy cái chết, ôi! chứa nặng một kết cục bí hiểm và địa ngục! Có phải đấy là thứ mà Số Phận đã muốn dạy cho ông, khi nó nhấn ông vào sự đông đúc trở lại, nhấn ông vào cái nồi nấu bị đảo lộn đầy dữ dằn của cuộc sống trần thế trở lại? Có phải thông qua đó nó trả thù sự mù quáng trước kia của ông? Chưa bao giờ ông từng tri nhận được theo lối tức thì tới vậy lời nguyền được các khối đông mang và nhân lên nhiều lần; giờ đây, ông bị buộc phải nhìn thấy nó, nghe thấy nó, tri nhận nó cho tận đến trong những thớ thiết thân nhất trong con người của chính ông, bởi sự mù quáng biến chính ông thành một phần của cái ác. Và vẫn vang dậy, chẳng chút vui tươi nào, tiếng hú hét sung sướng của cơn say thuộc ý chí; người ta giương các ngọn đuốc lên, những mệnh lệnh vang lên băng ngang con tàu, với tiếng ồn âm âm, một sợi dây được ném từ trên bờ rơi xuống sàn boong, và cái ác gầm gào, và sự hành hạ gầm gào, và cái chết gầm gào, và bí ẩn chất chứa lời nguyền gầm gào, kỳ bí, và thế nhưng được phơi bày và hiện diện ở mọi nơi. Giữa những bước đi vội vã của một đoàn lũ bàn chân, ông vẫn nằm bất động, tay nắm chặt lấy một quai cái hòm da bên trong đựng bản thảo của ông, để nó không thể bị giật đi mất khỏi ông, nhưng mệt mỏi vì tiếng ồn, mệt mỏi vì cơn sốt, mệt mỏi vì ho, mệt mỏi vì chuyến đi, mệt mỏi vì tương lai, ông tưởng tượng rằng cái giờ khắc đến nơi này hẳn có thể dễ dàng trở thành giờ chết của ông, và đó gần như là điều mà ông ham muốn, dẫu ông cảm thấy hoặc vì ông cảm thấy rất đầy đủ rằng hẵng còn chưa tới lúc - phải, đó gần như là điều ông muốn, dẫu cái chết ấy hẳn sẽ, hoặc vì nó hẳn sẽ là một cái chết tàn bạo và gây rầm rĩ theo lối lạ thường; đối với ông nó có vẻ không thể chấp nhận được và chính vì thế, đó gần như là điều ông muốn, bởi, bị buộc phải nhìn địa ngục, sáng chói, bị buộc phải nghe thấy nó, trái tim ông phải biết đến sự sôi sục ngầm của cái thứ không hẳn là con người.

Phải, dẫu việc tự buông mình có thể quyến rũ tới nỗi nào, ý thức đã rã rượi chẳng thể trốn thoát khỏi tiếng ồn, tự khép kín mình lại trước các hú hét của đám đông, những hú hét như núi lửa và địa ngục, chúng, thành các luồng sóng nặng, ào lên quảng trường chẳng chút ngắt quãng như thể sẽ không bao giờ kết thúc nữa, cuộc chạy trốn kia bị cấm ngặt, chính là vì nếu nó sẽ đưa ông đến với cái chết, bởi còn hống hách hơn, cái mệnh lệnh phải giữ lấy mỗi mẩu thời gian nhỏ nhất, mỗi mẩu nhỏ nhất của các sự kiện, và nhập chúng vào kỷ niệm, như thể thông qua ông, chúng có thể, băng ngang tất tật những cái chết, được lưu giữ cho tất tật các thời; ông bíu chặt vào ý thức, ông bíu lấy nó với sức mạnh của kẻ đang thấy tiến lại gần sự kiện quan trọng hơn cả trong tồn tại trần thế của mình và hết sức hoảng hốt trước cái ý có thể hụt mất nó, và ý thức, được giữ cho thức nhờ sự tỉnh nỗi hoảng hốt của ông vâng lời ý chí của ông: chẳng gì vuột thoát mất khỏi ông, cả các cử chỉ đầy cẩn trọng của viên bác sĩ giúp việc, mày râu nhẵn nhụi, vô cùng thanh lịch, giờ đây đang túc trực bên ông theo lệnh của Augustus, lẫn những khuôn mặt kinh ngạc đầy ngu xuẩn của đám khiêng đồ, bọn họ đã đưa lên boong tàu một cái cáng để tìm ông, ông kẻ đau ốm, ông kẻ yếu ớt, như thể ông là một món hàng hóa quý giá và mong manh; ông ghi nhận mọi điều, ông cần giữ lại mọi thứ, ông để ý thấy ánh mắt đóng chặt của bọn họ, ông ghi nhận những tiếng gầm gừ ủ dột với đó bốn người hè nhau nâng gánh nặng lên vai, ông ghi nhận mùi mồ hôi đầy thù địch và gây hấn trên người bọn họ, và cũng đã không vuột mất khỏi ông chuyện người ta quên mất áo khoác của ông, mà một chàng thanh niên với những lọn tóc xoăn màu nâu có dáng vẻ trẻ con nhặt lấy mang lại cho ông.

Lê Công Tăng dịch


viết tiếng Đức

Johann Wolfgang von Goethe (1749–1832)
E. T. A. Hoffmann (1776–1822)
Friedrich de la Motte Fouqué (1777–1843)
Heinrich von Kleist (1777–1811)

Karl Kraus (1874–1936)
Thomas Mann (1875–1955)
Rainer Maria Rilke (1875–1926)
Robert Walser (1878–1956)
Robert Musil (1880–1942)
Georg Lukács (1885–1971)
Walter Benjamin (1892–1940)
Hermann Broch (1893-1982)
Joseph Roth (1894–1939)

Paul Celan (1920–1970)
Ingeborg Bachmann (1926–1973)
Thomas Bernhard (1931–1989)

favorites
Thêm vào giỏ hàng thành công