Henry James: Một ca vô cùng lạ
“Một ca vô cùng lạ” (A Most Extraordinary Case) được đăng lần đầu vào tháng Tư năm 1868 trên tờ Atlantic Monthly. James sẽ đưa nó vào tập Stories Revived, Macmillan (London), 1885, không sửa chữa gì.
Đây là một trong những truyện thuộc giai đoạn đầu của Henry James: trong thời gian vừa qua, tạp chí Văn Bản đã hết sức tập trung vào giai đoạn này và đã đăng phần lớn những truyện có ý nghĩa hơn cả của thời kỳ ấy.
Đối với một số nhà nghiên cứu, “Một ca vô cùng lạ” được Henry James lấy nhiều cảm hứng từ La Chartreuse de Parme của Stendhal.
Một ca vô cùng lạ
Henry James
Cuối mùa xuân năm 1865, khi cuộc chiến vừa kết thúc1, có một sĩ quan trẻ nằm liệt giường tại một trong những căn phòng thuộc tầng cao nhất của một khách sạn lớn ở New York. Dòng suy tư của anh bị gián đoạn bởi sự xuất hiện của nhân viên phục vụ, hắn đưa cho anh tấm danh thiếp ghi tên Mrs. Samuel Mason, mặt sau viết mấy chữ bằng bút chì: “Thưa Đại tá Mason, tôi vừa nghe tin ngài đang ở đây, ốm đau và chỉ có một mình. Khủng khiếp quá. Ngài có nhớ tôi không? Liệu ngài sẽ gặp tôi chứ? Nếu ngài nhận lời, tôi nghĩ ngài sẽ nhận ra tôi thôi. Tôi nhất định sẽ xuất hiện. M.M.”
Mason đã lột đồ, chưa cạo râu, yếu ớt, và ngây ngấy. Căn phòng khách sạn bé tẹo, xấu xí của anh đang trong tình trạng lộn xộn đến nỗi chẳng có chút gì gọi là thơ mộng. Tấm thiệp của bà Mason vừa là câu đố vừa là điềm lành an ủi từ cõi thiên đàng. Song toàn bộ những gì nó biểu trưng đều quá mờ mịt đối với nhận thức suy yếu của chàng trai trẻ khiến anh mất một hồi lâu tập trung suy nghĩ.
“Đó là một quý bà, thưa ngài,” người phục vụ nói, nhằm giúp anh hiểu.
“Bà ấy trẻ hay già?” Mason hỏi.
“Dạ, thưa ngài, bà ấy tầm giữa.”
“Tôi không thể yêu cầu một quý bà lên tận đây được,” người bệnh rên rỉ.
“Thực lòng mà nói, thưa ngài, ngài trông rất ổn,” người phục vụ đáp. “Họ thích những người ốm yếu. Và tôi thấy bà ấy cùng họ với ngài,” Michael tiếp tục, với giọng nói của một người đã có kinh nghiệm phục vụ lâu năm; “thật xấu hổ cho bà ấy vì đã không đến sớm hơn.”
Đại tá Mason kết luận rằng, vì bà Mason chủ động chuyến thăm này, anh sẽ tiếp đón bà mà không chần chừ. “Nếu bà ấy không phiền, tôi cũng chẳng cần câu nệ quá,” con người khốn khổ nói, chẳng còn đủ sức cầu kỳ. Vì vậy chỉ sau vài phút vị khách đã được đưa đến bên giường anh. Anh nhìn thấy trước mắt mình một phụ nữ trung niên đẹp đẽ, với mái tóc vàng, vóc dáng đầy đặn và ăn vận rất thời thượng, bà không biểu lộ bất kỳ sự bối rối nào ngoài nhịp thở dốc sau khi leo bảy tầng cầu thang.
“Anh còn nhớ tôi không?” bà hỏi, nắm lấy tay chàng thanh niên.
Anh ngả người ra gối và nhìn bà. “Bà từng là thím của tôi - thím Maria của tôi,” chàng trai đáp.
“Thím vẫn luôn là thím Maria của cháu,” bà bảo.
“Thím thật tốt vì đã không quên tôi,” Mason nói, giọng điệu không hơn một lời chào xã giao.
“Ôi trời cháu yêu, cháu đã phải trải qua cuộc chiến cùng hàng trăm chuyện khủng khiếp. Thím sống bên châu Âu, cháu biết đấy. Kể từ khi trở về, thím sống ở nông thôn, trong ngôi nhà của chú cháu nằm bên bờ sông, mà hợp đồng thuê vừa hết hạn khi thím về. Thím đến đây hôm qua vì công việc và tình cờ nghe được tình hình của cháu cùng nơi cháu ở. Thím có biết chuyện cháu đã gia nhập quân đội, và thím tự hỏi hàng chục lần, không biết cháu ra sao, chẳng rõ bây giờ cháu có xuất hiện không khi chiến tranh rốt cuộc cũng kết thúc. Dĩ nhiên, thím chẳng chậm trễ một giây phút nào để đến gặp cháu. Thím rất tiếc cho cháu.” Bà Mason ngó quanh tìm một chỗ ngồi. Những chiếc ghế chất bộn bề đủ thứ linh tinh vốn thuộc về tủ quần áo của người cháu trai cùng các thiết bị quân ngũ của anh, và còn cả tàn tích từ bữa ăn gần nhất. Người phụ nữ tốt bụng khảo sát cảnh tượng bằng sự mỉa mai thầm lặng đẹp đẽ xuất phát từ lòng thương cảm.
Người thanh niên nằm đó ngắm nhìn khuôn mặt duyên dáng của bà, đầy khoan khoái khuất phục trước những lời lẽ hòng diễn tả cảm xúc ấy. “Thím là người phụ nữ đầu tiên tôi gặp - tôi đã không gặp người phụ nữ nào suốt nhiều tháng qua,” anh nói, ước lượng sự tương phản giữa diện mạo của người phụ nữ và căn phòng, đọc suy nghĩ của bà. Người phụ nữ dọn một cái ghế và đặt nó cạnh giường. Sau đó, bà ngồi xuống, lột một bên găng rồi đặt nhẹ tay lên cổ tay người thanh niên. “Cháu đã trở thành một thanh niên trưởng thành tuyệt vời đến nhường nào!” người phụ nữ tiếp tục. “Bây giờ, hãy kể cho thím, có phải cháu ốm rất nặng không?”
“Tôi phải hỏi bác sĩ đã,” Mason đáp. “Tôi cũng không thực sự biết. Tôi cảm thấy cực kỳ khó chịu, nhưng tôi nghĩ một phần cũng do hoàn cảnh của mình.”
“Thím không nghi ngờ việc hoàn cảnh của cháu gây ảnh hưởng rất nhiều. Thím đã gặp bác sĩ. Bà Van Zandt là bạn cũ của thím; và mỗi khi lên thành phố, thím luôn luôn ghé thăm bà ấy. Sáng nay, thím biết được từ bà ấy rằng cháu đang trong tình cảnh này. Bọn thím mở đầu đầy vui mừng với những triển vọng mới của hòa bình; rồi sau đó, dĩ nhiên, bọn thím lại than thở khi nghĩ tới số lượng những chàng trai trẻ sẽ phải đối mặt với đời sống cùng tứ chi què cụt và sức khỏe suy kiệt. Chuyện ấy được khơi ra khi bà Van Zandt đề cập tới một số bệnh nhân của chồng làm ví dụ, và cháu nằm trong số họ. Cháu là một chàng trai xuất sắc, dặt dẹo khổ sở, không người thân hay bạn bè, và không có cả chỗ nương náu tử tế ngoài căn phòng nhỏ ngột ngạt tại một khách sạn ồn ào. Cháu phải tưởng tượng thím đã dựng tai lên, và hỏi cho rõ tên thánh của cháu. Bác sĩ Van Zandt bước vào, nói nó cho thím. May thay tên cháu không thuộc hàng phổ biến: thật ngớ ngẩn khi cho rằng có đến hai người cùng tên Ferdinand Mason. Tóm lại, cháu là con của anh trai chồng thím, và cuối cùng thím cũng có chút cơ hội được chăm sóc một anh hùng. Những gì bác sĩ biết về quá khứ của cháu trùng khớp với vài điều ít ỏi mà thím hay, thím lấy làm tiếc khi nghe rằng cháu chưa từng nhắc tới mối quan hệ của chúng ta. Nhưng tại sao cháu lại làm vậy? Dù sao bây giờ cháu cũng phải thừa nhận thôi. Thím rất tiếc vì cháu chẳng đả động chút nào về điều đó trước đây, bởi bác sĩ có thể đã đưa chúng ta gặp nhau trước cả tháng, và cháu bây giờ có khi đã khỏe rồi.”
“Sẽ mất hơn một tháng để tôi khỏi bệnh,” Mason nói, cảm thấy rằng, nếu bà Mason muốn nỗ lực vì anh, bà nên biết thực trạng của vấn đề. “Tôi chưa bao giờ nhắc đến thím, vì tôi hoàn toàn mất dấu thím. Tôi cứ tưởng thím vẫn còn ở châu Âu; và thật ra,” anh nói thêm, sau một khoảnh khắc do dự, “tôi nghe nói thím đã đi bước nữa.”
“Hẳn là vậy rồi,” bà Mason đáp, bình thản. “Tháng nào thím cũng nghe người ta nói điều đó. Nhưng thím có quyền hình dung cháu mới là người đã kết hôn nhiều hơn đấy. Tạ ơn trên, dẫu sao thì, chúng ta đều không có mối quan hệ nào như thế. Chúng ta có thể làm điều mình muốn. Thím hứa sẽ chữa khỏi cho cháu trong vòng một tháng, dù cháu có chịu hay không.”
“Phương pháp trị liệu của thím là gì?” chàng trai hỏi, với nụ cười rất lịch sự, dù có vẻ hoài nghi.
“Phương pháp đầu tiên của thím là đưa cháu ra khỏi cái hố khủng khiếp này. Thím đã bàn với bác sĩ Van Zandt. Ông ấy nói cháu cần phải chuyển đến vùng quê. Tại sao ư, cháu yêu quý, thế này đủ để giết cháu ngay lập tức, đại lộ Broadway nằm ngay hướng cửa sổ và một đại lộ khác nằm hướng cửa chính! Nghe thím. Nhà của thím nằm bên bờ sông và chỉ mất hai tiếng đi tàu là đến được đó. Cháu cũng biết thím chẳng có con cái mà. Người cùng sống duy nhất của thím là đứa cháu gái, Caroline Hofmann. Cháu sẽ tới và ở với nhà thím cho đến lúc cứng cáp, dù có mất tới chục năm đi nữa. Cháu sẽ được tận hưởng bầu không khí trong lành, thức ăn ngon, sự chăm sóc chu đáo, cùng lòng tận tụy của một người phụ nữ rất biết ý. Thím sẽ không nghe bất cứ lời phản đối nào. Cháu sẽ làm những thứ cháu muốn, thức dậy khi nào cháu muốn, ăn tối khi nào cháu muốn, và bày tỏ những gì cháu muốn. Thím sẽ không đòi hỏi gì ở cháu ngoài việc hãy cho phép thím được chăm cháu chu toàn. Cháu có nhớ hồi cháu còn là một thằng bé ở trường, sau khi cha cháu mất, cháu lên sởi, và chính chú là người đã mang cháu về ngôi nhà của chúng ta hay không? Thím đã tự tay chăm cháu, và thím vẫn nhớ những cử chỉ tử tế của cháu ngay cả trong lúc phải vật lộn với bệnh sởi. Chú của cháu rất quý cháu; và nếu ông ấy có tài sản riêng, thím biết chắc ông ấy sẽ để lại cho cháu trong di chúc. Nhưng dĩ nhiên ông ấy không thể để lại tiền của vợ mình. Điều thím mong mỏi làm cho cháu chỉ là một phần rất nhỏ những gì ông ấy sẽ làm, nếu ông ấy còn sống và được nghe về sự can đảm cùng những khổ đau mà cháu phải trải qua. Vậy quyết thế đi. Thím sẽ về nhà chiều nay. Sáng mai thím sẽ cử người làm đến chỉ dẫn cho cháu. Anh ta là người Anh. Anh ta rất thạo việc, và anh ta sẽ gói ghém đồ đạc của cháu cũng như đảm bảo cho cháu không phải bận tâm bất cứ điều gì. Cháu chỉ cần để người ta mặc đồ và đưa đến ga tàu thôi. Tất nhiên, thím sẽ ra ga ở đầu kia đón cháu. Bây giờ thì đừng viện cớ với thím rằng cháu chưa đủ khỏe nhé.”
“Hiện tại cháu cảm thấy khỏe mạnh hơn so với bất cứ lúc nào trong vòng mười hai tuần qua”, Mason nói. “Thật vô ích nếu cháu cố nói lời cảm ơn với thím.”
“Hoàn toàn vô dụng. Thím sẽ không nghe đâu. Và thím đoán,” bà Mason nói thêm, khi nhìn quanh các bức tường trống cùng số nội thất sơ sài của căn phòng, “cháu phải trả cái giá trên trời cho thiên đường hạnh phúc này phải không. Cháu cần tiền không?”
Chàng trai trẻ lắc đầu.
“Vậy thì tốt rồi,” bà Mason tiếp lời, dứt khoát nói, “kể từ lúc này, cháu đã nằm trong tay ta.”
Chàng trai trẻ nằm đó không thốt nên lời vì sự căng đầy bên trong trái tim, song anh cố siết chặt các ngón tay để bà có thể cảm nhận được lòng biết ơn nơi anh. Người bà con của anh đứng dậy, nấn ná bên anh, vừa đeo găng tay, vừa mỉm cười nhẹ nhàng với vẻ mặt của nhà từ thiện đã rất lâu mới tìm thấy một đối tượng giàu tiềm năng. Vẻ rã rời nơi Ferdinand phản chiếu nụ cười của bà. Cuối cùng, sau ngần ấy năm, anh cũng được chăm sóc. Anh thả đầu mình lún xuống gối, lặng lẽ hít lấy hương thơm từ sự thanh tao và thiện tâm của bà. Anh cảm tưởng muốn nắm lấy vạt áo bà và xin bà đừng đi, vì giờ đây cảnh cô độc sẽ hóa thành nỗi cay đắng. Đôi mắt anh, tôi xin đặt giả định, đã làm lộ ra nỗi lo âu cảm động này, lại càng xót xa hơn khi nó là cảm xúc từ một sĩ quan trẻ đã cuộc chiến bào mòn. Khi chuẩn bị từ biệt, bà Mason cúi xuống và hôn lên trán anh. Anh lắng nghe tiếng loạt xoạt của váy cọ trên thảm, tiếng khép cửa và tiếng bước chân bà xa dần. Và rồi, chẳng thể cưỡng lại cơn yếu đuối của mình, anh đưa tay lên mặt rồi khóc như một cậu học trò nhớ nhà. Anh lại vừa được thoáng nhìn thấy các khoái lạc của cuộc đời.
Mọi chuyện diễn ra theo đúng những gì bà Mason sắp đặt. Sáu giờ chiều ngày hôm sau, Ferdinand thấy mình được đưa đến một trong các trạm dừng của tuyến đường sắt Hudson River, kiệt sức sau hành trình, nhưng hào hứng trước viễn cảnh nó sắp kết thúc. Bà Mason đã chờ sẵn trên một cỗ xe ngựa nhỏ, với đầy đủ gối đệm cùng khăn choàng. Ferdinand chuyển sang ngồi cạnh bà, rồi họ nhanh chóng lên đường về nhà. Nhà của bà Mason là một căn nhà nhỏ nông thôn thoáng đãng, với bãi cỏ hình tròn, dải đường quanh co, cùng khu vườn rậm rạp cây cối. Khi xe dừng lại trước hiên nhà, một người con gái trẻ xuất hiện ở cửa. Mason sẽ được tha thứ nếu anh tự coi mình như một người được giới thiệu chính thức, tôi có thể nói vậy, với cô gái trẻ này. Trước khi anh thực sự nhận ra điều đó, và trong khi người hầu, dưới sự chỉ đạo của bà Mason, đang bận rộn ở phía sau với đống hành lý của anh, anh tranh thủ bíu lấy cánh tay cô gái đang chìa ra, và để cô giúp anh bước qua hiên nhà, băng qua sảnh, vào tới phòng khách, ở đó cô ân cần dìu anh lên chiếc ghế sofa dành riêng cho anh, cô cho người đẩy chiếc ghế tới trước lò sưởi đã được đốt sẵn để đặc biệt mang tới cho anh sự thoải mái. Tuy nhiên, anh không thể tận dụng sự giúp đỡ tận tình của cô. Thói cẩn trọng mách bảo rằng anh phải lập tức đi về phòng.
Buổi sáng đầu tiên anh dậy sớm, và cố gắng có mặt vào bữa sáng; nhưng sức anh không đủ, và anh buộc phải từ từ mặc quần áo, chấp nhận việc chỉ có thể rê mình từ giường sang ghế bành. Căn phòng dành cho anh nằm ở tầng trệt, để anh không phải tốn sức leo cầu thang - một căn phòng duyên dáng, được trải thảm và bọc đệm sáng màu, mang đậm dấu ấn của sự tươi tắn cầu kỳ, phản ánh sự thống trị không thể chối cãi của phụ nữ. Căn phòng có một cửa sổ cao rộng, được phủ bằng vải chintz và muslin thô, nhìn ra phía thảm cỏ xanh mướt. Tại khung cửa này, quấn áo choàng ngủ, và đắm chìm trong sự êm ái của chiếc ghế bành thoải mái nhất, anh thong thả dùng một bữa ăn đơn giản. Không lâu sau nữ chủ nhà xuất hiện trên bãi cỏ ngoài cửa sổ. Bởi phía này của ngôi nhà phủ đầy nắng ấm áp, Mason đánh bạo mở cửa sổ và trò chuyện với bà, trong khi đó bà đứng trên bãi cỏ dưới cái ô to.
“Đã đến lúc cháu nên nghĩ tới việc tìm bác sĩ” bà nói. “Cháu sẽ tự quyết định. Có một bác sĩ rất giỏi ở vùng này, Đốc tờ Gregory, một quý ông theo trường phái cổ điển. Nhà thím mới chỉ đặt khám ông ấy có một lần, vì cả đứa cháu gái lẫn thím đều khỏe khoắn như các cô vắt sữa bò. Lần đó ông ấy... à, ông ấy đã hành động như một kẻ ngốc. Ông ấy thường thăm khám cho các gia tộc, và ông ấy chỉ thạo cách chữa trị một số chứng bệnh đã cũ, lỗi thời. Bất cứ bệnh gì thuộc về di chứng chiến tranh đều nằm ngoài khả năng của ông ấy. Rồi ông ấy do dự, và kể lể về căn bệnh của chính ông ấy. Và, thú thực, bọn thím đã có một cuộc tranh luận nhỏ khiến mối quan hệ hai bên trở nên khá nhập nhằng.”
“Rõ là ông ta làm không nổi,” Mason nói, cười. “Nhưng ông ta không phải bác sĩ duy nhất phải không?”
“Không: còn một người nữa, mới tới đây, bác sĩ Knight, thím không quen, nhưng đã nghe được rất nhiều điều tốt đẹp về anh ta. Thím thú thực rằng thím có sự thiên vị nhất định đối với các chàng trai trẻ. Bác sĩ Knight đang trong quá trình khẳng định vị thế, và thím nghĩ anh ta sẽ đặc biệt chu đáo và cẩn thận. Hơn nữa, thím tin tưởng việc anh ta từng là bác sĩ phẫu thuật phục vụ trong quân đội.”
“Cháu từng biết một người tên giống vậy,” Mason bảo. “Cháu tự hỏi liệu có phải người đó không. Tên anh ta là Horace Knight, anh ta có mái tóc sáng màu, bị cận thị.”
“Thím không biết,” bà Mason đáp; “có lẽ Caroline biết đấy.” Bà lùi vài bước, và gọi với lên cửa sổ tầng trên: “Caroline, tên của bác sĩ Knight là gì?”
Mason lắng nghe lời đáp của cô Hofmann, “Cháu đâu có biết.”
“Có phải tên là Horace không?”
“Cháu không biết.”
“Tóc anh ta sáng hay sẫm màu?”
“Cháu chưa bao giờ gặp anh ta hết.”
“Anh ta bị cận đúng không?”
“Làm sao cháu biết được?”
“Cháu nghĩ anh ta cũng giỏi ngang những người khác,” Ferdinand lên tiếng. “Có thím rồi, thím yêu quý của cháu, chuyện bác sĩ có phải vấn đề gì đâu?”
Bà Mason theo đó đã gửi thư cho bác sĩ Knight, và khi người này đến, hóa ra đó chính là người quen cũ của cháu trai bà. Mặc dù hai thanh niên không có mối quan hệ thân thiết gì hơn thứ tình đồng chí hời hợt nảy sinh chỉ vì sống gần nhau sau một mùa đông ở các doanh trại lân cận, họ vẫn rất vui mừng khi gặp lại nhau. Horace Knight là một chàng trai trẻ có xuất thân tốt, ngoại hình tốt, năng lực tốt, và ý định tốt, người, sau khi hành nghề phẫu thuật ba năm trong quân đội, đã quyết định thử vận may ở khu bà Mason sống. Mẹ anh ta, một góa phụ với mức thu nhập ít ỏi, gần đây đã chuyển đến vùng ngoại ô để giảm thiểu chi phí, và con trai của bà không đành để bà sống một mình. Vùng quê lân cận, hơn nữa, còn là miền đất hứa đối với một người đàn ông năng động như anh ta, nơi có nhiều gia đình khá giả với nguồn thu dễ kiếm và người ở đó còn mang thói cứng nhắc khiến họ rất coi trọng việc được chăm sóc bởi các bác sĩ. Ông thầy thuốc địa phương đã qua thời đỉnh cao, và có lẽ không hoàn toàn vô tội trước lời tố của bà Mason rằng ông không bắt kịp quá trình phát triển của các bệnh lý mới. Thế giới, trên thực tế, trở nên quá mới với ông, cũng như với các bệnh nhân cũ của ông. Ông từng đầu tư tiền vào miền Nam, nguồn thu quý báu ấy đã bị chiến tranh nuốt chửng trong nháy mắt; ông sợ hãi, lo âu và cáu kỉnh; ông mất bình tĩnh và thiếu quyết đoán trong một vài tình thế then chốt; ông nhiều lần và rõ ràng đã phạm sai lầm; một nỗi bất mãn vô hình lan trong lòng các khách hàng của ông; ông lại không có đối thủ cạnh tranh: nói ngắn gọn, vận may đã mỉm cười với bác sĩ Knight. Mason nhớ về vị bác sĩ trẻ tuổi chỉ như một người bạn đồng hành vui tính và thông minh; nhưng anh sớm nhận ra rằng kỹ năng y khoa của đốc tờ không hề tầm thường. Anh nhanh chóng hiểu rõ tình trạng của Ferdinand; anh đặt câu hỏi thông minh, và có các chỉ dẫn đơn giản, rõ ràng. Căn bệnh rất nghiêm trọng và dai dẳng, song không có lý do nào cho thấy việc chăm sóc kiên trì và cẩn thận lại không thể chế ngự được nó.
“Sức khỏe của cậu đã suy yếu nhiều,” anh nói, trong lúc đội mũ và đeo găng tay chuẩn bị đi khỏi; “nhưng tôi phải công nhận cậu có một thể chất tuyệt vời. Dẫu sao, đối với tôi - nói vô phép cậu - một phần thuộc về lỗi của chính cậu khi để mặc bản thân suy sụp đến mức này. Cậu chống lại việc hồi phục; cậu không màng đến chuyện khỏe lại.”
“Tôi thú nhận việc mình chẳng mảy may quan tâm. Nhưng tôi không hiểu làm sao mà cậu biết được.”
“Làm sao ư, điều đó hiển nhiên mà.”
“Chà, thật ra cũng dễ hiểu thôi. Trước khi bà Mason phát hiện ra tôi, tôi chẳng có người bạn nào trên đời. Tôi trở nên mất tinh thần vì cô độc. Tôi gần như quên cả sự khác biệt giữa ốm đau và khỏe mạnh. Tôi không còn gì trước mắt để nhắc nhở mình về những mối quan tâm chung của loài người, thứ nhờ đó người ta có thể tiếp tục sống khỏe và hồi phục sau bệnh tật. Tôi cũng quên cả việc mình từng quan tâm đến sách vở hay các ý, hoặc bất cứ điều gì khác ngoài việc duy trì cái thân xác khốn khổ này. Thân xác của tôi đã quá thảm thương chẳng đáng phải cố sống vì nó nữa. Tôi đang phung phí thời gian và tiền bạc với tốc độ đáng sợ; tình trạng của tôi chỉ tệ đi chứ không khá lên; và bởi thế tôi thôi không kháng cự nữa. Tốt hơn nên chết nhẹ nhàng thay vì chết khổ sở. Tôi để tất tật chúng lại quá khứ, vì trong ba ngày qua tôi đã trở nên một người hoàn toàn khác.”
“Tôi ước có thể nghe được tin về cậu,” Knight nói. “Tôi sẵn sàng mang cậu về nhà tôi, nếu không còn cách nào khác. Chắc chắn sẽ không thể là viễn cảnh màu hồng; nhưng giờ thì sao?” anh nói tiếp, nhìn ra xung quanh. “Tôi đoán vào lúc này màu hồng chính là màu sắc chủ đạo.”
Mason đồng tình với nụ cười đầy biểu cảm.
“Tôi thật tâm mừng cho cậu. Bà Mason - nếu cậu không phiền tôi nhắc đến bà ấy - thực sự rất tốt bụng (và, tôi cho rằng, chẳng bao giờ khác đi được), lại bất ngờ hơn khi biết bà ấy còn cực kỳ khôn ngoan.”
“Đúng thế, và trong những lúc tỉnh táo hơn nữa bà ấy còn rất quyết đoán và sáng suốt,” Ferdinand nói, “nên thật bất ngờ khi biết bà ấy cũng tốt bụng. Bà ấy là một phụ nữ tuyệt vời.”
“Nhưng tôi phải nói rằng phước lành đặc biệt của cậu nằm ở chính tay người hầu của cậu. Anh ta trông như thể bước ra từ một cuốn tiểu thuyết Anh vậy.”
“Phước lành đặc biệt của tôi! Anh chưa gặp cô Hofmann à?”
“Rồi: tôi gặp cô ấy ở hành lang. Cô ấy trông cứ như bước ra từ một cuốn tiểu thuyết Mỹ. Tôi không chắc đấy có phải lời khen không; nhưng dù thế nào đi nữa, tôi cũng sẽ khiến cô ấy bước ra khỏi đó.”
“Vậy thì anh sẽ bị quàng vào một trọng trách danh dự đấy,” Mason nói, cười lớn, “để nhét cô ấy vào một cuốn tiểu thuyết khác.”
Mason tin vào niềm hạnh phúc mới được tạo dựng của mình mà không cần đợi đến khi bác sĩ khẳng định. Anh cảm thấy sẽ là lỗi của anh nếu những ngày này không thuộc vào số những ngày tuyệt vời nhất cuộc đời. Anh quyết dâng cả mình cho những ấn tượng, sống vô tư. Chỉ riêng chuyện ốm đau đã là một cái cớ chính đáng để có một thời gian dài lơi lỏng về mặt trí tuệ; nhưng Mason vẫn còn nhiều lý do thuyết phục khác nữa. Suốt ba năm qua anh bị kéo căng như dây chão trong guồng quay của nghĩa vụ. Mặc dù liên tục phải đối mặt với nhiệm vụ khó khăn, may mắn thay anh chưa từng bị thương nặng; và, cho đến khi thể trạng suy sụp, anh đã xin nghỉ ngắn hạn hơn bất cứ sĩ quan nào tôi từng nghe nói. Bất chấp khả năng bình tĩnh và tự chủ dồi dào, năng lực thích ứng nhanh chóng trước mọi hoàn cảnh, thâm tâm anh vẫn là một người đặc biệt lo lắng và quá mức dè chừng. Trong một vài dịp khi anh vắng mặt tại hiện trường thực hiện nhiệm vụ quân sự của mình, mặc dù đã được cho phép và đảm bảo, anh vẫn quay quắt với nỗi lo lắng tột độ khi cho rằng có chuyện gì đó đang hoặc sắp xảy ra, mà nếu không được chứng kiến hay tham gia sẽ là nỗi hối tiếc suốt đời, đến mức có thể khẳng định anh hầu như chẳng tận hưởng được một chút nào trong thời gian nghỉ phép. Cảm giác về thời gian đánh mất, hơn hết, là nỗi ám ảnh liên miên của anh, cảm giác những giây phút quý báu đang trôi tuột, mà nếu được dùng vào việc phù hợp sẽ có thể xây cả một tượng đài bền hơn đồng thau. Anh cố xoa dịu cảm giác này bằng cách cần cù đọc và nghiên cứu trong khoảng nghỉ giữa các công việc chính. Tôi dẫn ra việc này như một minh chứng cho thấy nếp sống khắc khổ miệt mài của anh suốt quãng thời gian dài trước khi anh ngã bệnh. Tôi có thể nhân ba khoảng thời gian này, thật vậy, khi nhìn về những năm đại học của anh, và những tháng bận bịu xen kẽ giữa giai đoạn anh khép lại tuổi trẻ và thời điểm cuộc chiến bắt đầu. Lúc nào Mason cũng làm việc. Ngay từ đầu anh đã thích làm việc; và, thêm vào đó, sự vắng bóng hoàn toàn của mối ràng buộc gia đình càng cho phép anh theo đuổi sở thích của mình mà không bị cản trở hay phân tâm. Hoàn cảnh này vừa là lợi thế lớn cho anh, vừa là một mất mát nghiêm trọng. Anh bước sang tuổi hai mươi bảy và trở thành một học giả thành danh, theo tiêu chuẩn của giới học giả, song lại là kẻ ngốc trong các vấn đề xã hội. Anh hoàn toàn thiếu kiến thức về những hình thức xã giao thân mật nhẹ nhàng và thoáng chốc, thường gắn với vai trò của một người con trai, anh em trai, hoặc cháu họ một ai đó. Cuối cùng, như anh tự nhủ, anh cần khám phá ra cảm giác khi là cháu trai đằng chồng của ai đó. Bà Mason sẽ dạy anh ý nghĩa của tính từ “gia đình”. Thật khó để học được điều ấy theo cách dễ chịu hơn. Mason cảm giác mình sẽ biết thêm gì đó chính từ sự nhàn rỗi này, và rằng anh sẽ rời khỏi ngôi nhà với tâm thế của một người khôn ngoan cũng như trưởng thành hơn. Việc ấy rất có thể, nhờ vào sự nhanh nhạy của các khả năng, kèm với một khởi đầu của tình cảm chân thành chẳng kém lý trí, sẽ không làm anh thất vọng. Chỉ vài ngày là đủ để anh thấy các phẩm chất tuyệt vời của bà chủ nhà, trái tim rộng mở ấm áp của bà, sự công minh của bà, tâm tính tốt, gu thẩm mỹ tinh tế, vốn kinh nghiệm cùng kho hồi ức phong phú của bà và, thật vậy, trên tất cả, một lòng tận tụy mãnh liệt, mà số mệnh, khi để bà trở thành một quả phụ không con, đã không làm tròn phận sự của nó. Hai người theo đó thiết lập một tình bạn, một tình bạn hứa hẹn mang lại hạnh phúc cho cả hai không kém bất kỳ tình bạn nào từng cố can dự vào hạnh phúc. Nếu kể câu chuyện từ quan điểm của bà Mason, tôi nghĩ tôi có thể làm cho lời phát biểu này trở nên rất thú: người phụ nữ ấy đã chủ ý và trịnh trọng trao đi lòng thương yêu cho người anh hùng của tôi; nhưng tôi buộc phải giữ nguyên nó dưới dạng thức đơn giản này. Một người xuất sắc và duyên dáng như bà, bà hoàn toàn có quyền cảm thấy thỏa mãn trọn vẹn nhờ vào việc đánh giá vị khách của mình một cách rộng lượng, nhưng không quá mức phóng khoáng. Bà thấu hiểu anh - rất lợi cho bà. Song điều đó lại càng có lợi cho anh, đấy là một trong những sự thật hiển nhiên của câu chuyện mà tôi kể; Mason đã nhanh chóng và sâu sắc cảm nhận được sự thật đó, đến mức anh sớm có thể gạt nó khỏi suy nghĩ và đưa vào cuộc sống của mình, ở đúng vị trí.
Trong vòng mười ngày, hầu hết các ấn tượng lờ mờ đã được gợi dậy bởi những thay đổi khung cảnh dần thành hình. Các ấn tượng khác, tuy vậy, vẫn tiềm tàng ở dạng mơ hồ, khuếch tán một làn ánh sáng nhè nhẹ trên con đường của Ferdinand. Nổi bật nhất là một quầng sáng êm dịu mà trung tâm chính là cô Hofmann. Ba hôm sau khi đến, Mason bị cấm túc trong phòng do tình trạng sức khỏe trở nên nghiêm trọng hơn bởi chuyến đi. Do đó, phải đến ngày thứ tư, anh mới có thể tiếp tục mối quan hệ đã khởi sự đầy suôn sẻ này. Cuối cùng, vào giờ ăn tối, anh xuất hiện trở lại phòng khách, cô Hofmann chào đón anh như một người bạn cũ. Mason phát hiện ra cô gái thật trẻ và tử tế; và bây giờ anh còn nhanh chóng dẫn tới kết luận rằng cô mang một vẻ đẹp hiếm thấy. Trước lúc bữa tối kết thúc, anh đoan chắc rằng cô là một người đẹp không hơn không kém. Bà Mason đã tìm thời điểm thích hợp để kể cho anh về cuộc đời cô gái. Cô gái mất mẹ từ khi còn nhỏ và được dì cưu mang vào khoảng thời gian lúc bà mới trở thành quả phụ. Cha cô là một tay đàn ông lắm tật - nghiện rượu, cờ bạc, và phóng đãng, bị xã hội đẩy ra ngoài lề. Mối liên kết duy nhất giữa ông và con gái là các bức thư ông viết cho cô cách một hoặc hai tháng để vòi tiền, bởi cô đang nắm giữ tài sản mà người mẹ để lại. Bà Mason đã đưa đứa cháu gái tới châu Âu, và trao cho cô mọi đặc quyền trong khả năng của bà. Cô được hưởng một nền giáo dục đắt đỏ, đi du lịch nhiều nơi; cô bước ra thế giới; cô được giới thiệu, như một người cộng hòa mẫu mực, cho không dưới ba vị quân vương châu Âu; cô được ngưỡng ngộ; cô nhận được hàng chục mối cầu hôn - các mối mà dì cô biết, và hàng chục mối khác mà dì cô không biết, và cô từ chối hết thảy. Bây giờ cô đã hai mươi sáu tuổi, xinh đẹp, tài năng, và rất biết cách đầu tư tiền. Cô là một cô gái tuyệt vời, có ý chí riêng. “Thím rất quý con bé,” bà Mason thẳng thắn tuyên bố; “và thím nghĩ con bé cũng vậy; nhưng thím và nó đã bỏ ý tưởng đóng vai mẹ con lâu rồi. Bọn thím chưa từng bất đồng từ lúc con bé mười lăm tuổi; nhưng cũng chẳng đồng thuận hoàn toàn bao giờ. Caroline không ủy mị. Con bé trung thực, thuần tính, và cực kỳ tinh ý. Con bé đoán trước được rằng thím và nó còn ở bên nhau dài dài, và nó khéo từ chối ngay từ đầu việc giả đò những cảm xúc chắc chắn sẽ không chọi lại sức bào mòn của thời gian. Con bé biết nó sẽ là một đứa con gái tồi, và hài lòng với thân phận của một đứa cháu gái tốt. Con bé thực sự là đứa cháu ưu tú. Thực tế bọn thím giống chị em hơn. Có lúc thím cảm tưởng nó lớn hơn thím tận mười tuổi, và thật vô lý nếu thím cứ cố can thiệp vào cuộc sống của nó. Thím không bao giờ làm vậy. Con bé hoàn toàn tự chủ. Thái độ của thím với nó chỉ đơn giản là kiểu tò mò yêu khi thím tự hỏi không biết nó sẽ làm gì với đời mình. Dĩ nhiên con bé sẽ kết hôn, sớm hay muộn; nhưng thím rất tò mò về người đàn ông mà nó sẽ chọn. Ở châu Âu, cháu biết đấy, những đứa con gái chẳng biết ai ngoài cha mẹ và người giám hộ của chúng; và theo đó, thím biết hầu hết các quý ông đều cố làm vừa mắt đứa cháu gái này. Có một vài chàng trai trẻ xuất chúng trong số đó; nhưng chẳng có ai, hay đúng hơn, chỉ có một người mà Caroline thực sự quan tâm. Người mà con bé yêu, thím tin là vậy, nhưng họ đã lâm vào một trận cãi vã, và con bé đánh mất chàng trai đó. Con bé rất kín đáo và ôn hòa. Thím chắc chắn chưa từng có cô gái nào có thể từ chối nửa chục số đàn ông cầu hôn mà ít khiến họ phật lòng như con bé. A, con bé ấy quả là một cô gái dễ mến, một cô gái tốt bụng!” Bà Mason tiếp tục. “Con bé đã giúp thím tránh được biết bao rắc rối trong suốt thời gian qua, khi thím nghĩ về những gì con bé có thể trở thành, với nhan sắc của nó, cùng các thứ khác nữa! Con bé vẫn duy trì được tình bạn với tất cả những người từng cầu hôn mình. Có hai người vẫn còn viết thư cho con bé. Con bé không hồi âm, song đôi khi gặp lại, con bé vẫn cảm ơn họ vì đã viết, thế là khiến họ hài lòng. Những người khác đã kết hôn, còn Caroline thì vẫn độc thân. Thím đoán không mãi thế này đâu. Con bé không phải người ủy mị, nó sẽ không lấy một người đàn ông mình không quan tâm, chỉ vì sợ quá lứa lỡ thì. Thật ra, theo thím, chỉ có những cô gái ủy mị mới làm như thế. Họ ao ước một người đàn ông vì tiền bạc hay vẻ ngoài, và rồi khéo đặt cho cảm xúc đó một cái tên thật mỹ miều nào đó. Nhưng có một điều, thưa ngài Ferdinand,” bà Mason chêm thêm, vào cuối những lời nhận xét, “ngài sẽ không rơi vào lưới tình với đứa cháu gái này của thím. Thím có thể đảm bảo với ngài rằng nó không thích ngài đâu, và tình cảm vô vọng sẽ chỉ khiến ngài càng lâu lành bệnh. Caroline là một đứa duyên dáng. Ngài có thể sống cùng nó một cách thoải mái mà không cần tới những điều hoa mỹ. Con bé cũng hợp với cuộc sống thường nhật, còn ngài thì chẳng cần đến ánh nến hay những giây phút ngây ngất đâu.”
“Thím yên tâm,” Ferdinand cười nói. “Bây giờ cháu chỉ chú trọng vào bản thân mình nên chẳng nghĩ đến ai khác đâu. Dù cô Hofmann có đang khao khát một ánh nhìn từ cháu đi nữa, cháu cũng không ngần ngại hy sinh cô ấy. Phải toàn vẹn thì mới yêu đương được.”
Sau mười ngày thì mùa hè đã thực sự bắt đầu, và Mason thấy rằng thật dễ dàng, và thực sự rất hữu ích, khi anh dành phần lớn thời gian của mình ở ngoài trời. Anh không thể cưỡi ngựa hoặc dạo bộ; và hình thức thể dục duy nhất mà anh có thể thực hành là thỉnh thoảng đi dạo bằng cỗ xe ngựa hai bánh của bà Mason. Vào những dịp này, bà Mason thường là bạn đồng hành của anh. Các khu lân cận mở ra chuỗi bất tận những cung đường tuyệt đẹp; và chàng Ferdinand tội nghiệp thực sự tìm thấy niềm vui tinh tế khi được thảnh thơi nằm ườn trên đống gối, được mặc ấm, rảnh tay, im lặng, chỉ có đôi mắt di chuyển, đảo nhanh qua những hàng rào thơm ngát, những cánh đồng đang trổ mầm, những vùng rìa khu rừng, và dọc theo các đỉnh đồi nhìn xuống dòng sông. Cuộc chiến đáng ghét đã kết thúc, và toàn bộ tự nhiên đã xác nhận cho nền hòa bình này. Mason thường ngước nhìn bầu trời không một gợn mây cho đến khi mắt anh bắt đầu chảy nước, và bạn sẽ thực sự tưởng rằng anh đang rơi những giọt nước mắt cảm xúc. Ngoài những chuyến đi thoải mái này cùng nữ chủ nhà, Mason còn thực hành một phương pháp khác để tận hưởng ánh nắng. Anh thường dành hàng giờ liền trên hiên nhà bên cạnh ngồi nhà, tránh xa tầm quan sát của khách khứa. Tại đây, với một chiếc ghế bành và một chiếc ghế đẩu, một điếu xì gà và nửa chục quyển tiểu thuyết, chưa kể tới những có một trong hai người phụ nữ bầu bạn, đôi khi là cả hai, anh để buổi sáng trôi qua vô định. Sự kiện nổi bật nhất trong những buổi sáng này là cuộc thăm khám của viên bác sĩ, và dĩ nhiên, trong đó có rất nhiều câu chuyện hấp dẫn - tôi có thể nói là những câu chuyện rất hay, vì bác sĩ thực sự là một người tuyệt vời. Nhưng, về phần còn lại, thời gian trôi qua nhẹ nhàng tựa một giai điệu êm ái. Mason biết rất ít, từ quan sát trực tiếp, về vie intime2 của những người phụ nữ thanh lịch, thông minh này, rằng thói quen, cách cư xử, các chuyển động trong nhà, cùng các nguyên tắc của họ, trong mắt anh tất tật đều mang sức hút như một buổi trình diễn, và anh ngắm nhìn nó với sự thảnh thơi của một người bệnh, với sự đồng cảm của một người đàn ông có gu, cùng một chút vụng về trong giới hạn các phụ nữ cho phép, và thực sự khiêu khích, nơi người lính, bởi niềm vui được tha thứ cho sự vụng về đó. Đối với cô Hofmann, việc cô phải vận lên bộ đồ bằng vải muslin mới tinh, phải giữ cho đôi bàn tay trắng trẻo và hành xử duyên dáng là một chuyện đơn giản; từ lâu cô đã chấp nhận những việc này rồi. Song đối với Mason, người chỉ quen với sách vở và đàn ông, họ là đối tượng của sự chiêm ngưỡng liên tục, nửa mê nửa tỉnh. Anh ngồi lì nửa tiếng liền, với cuốn sách đặt trên đầu gối, các trang không được lật, khéo léo quan sát chăm chú một cách gián tiếp những khối màu và công tua đơn giản tạo nên đặc tính vật lý của cô Hofmann. Không có nghi ngờ nào về vẻ đẹp của cô, hay về việc đó là một vẻ đẹp ấm áp, dễ mến, chứ không tột cùng lạnh lẽo như thơ ca. Cô có chiều cao nhỉnh hơn so với hầu hết phụ nữ, không béo cũng không gầy. Mái tóc cô màu nâu sẫm và óng, gần như đen, và dễ uốn thành các lọn xoăn bồng bềnh đang thịnh hành thời ấy. Vầng trán cô cao, rộng và sáng sủa; đôi mắt cô có màu xanh thẳm và trong vắt của biển cả vào buổi chiều hè, khi ánh mặt trời dần lặn, chiếu các tia sáng xuyên qua sóng biển đang dâng lên. Nước da của cô có màu của một thể trạng hoàn hảo. Tất tật, cùng với cặp môi mọng và mềm, vóc dáng đầy đặn và uyển chuyển, đôi bàn tay kiều diễm, đã đủ sức quyến rũ để thu hút sự chú ý của Mason, và hiếm khi anh rời mắt khỏi cô. Bà Mason thường cuốn vào các công việc nhà, song thời gian của cô Hofmann dường như hoàn toàn thuộc về cô. Tuy nhiên, một ngày kia Ferdinand bắt đầu sinh nghi, rằng cô dành thời gian bầu bạn với anh chỉ vì nghĩa vụ, và theo thói quen của anh, khi các ấn tượng này chín muồi trong tâm trí, anh dám khẳng định với cô rằng, mặc dù anh rất trân trọng sự hiện diện của cô, song anh sẽ lấy làm tiếc nếu biết rằng sự ân cần của cô gây cản trở những việc khác có lợi hơn. “Tôi không phải một người để bầu bạn,” anh nói. “Tôi không giả vờ làm một người như thế. Tôi ngồi đây câm và điếc, và mù và què, nhẫn nại chờ đợi được chữa khỏi - chờ đợi cho đến khi Tự nhiên du đãng của chúng ta lang thang đến chỗ tôi, và chạm gấu áo của cô ấy vào tôi.”
“Tôi thấy anh là một người để bầu bạn rất tốt mà,” cô Hofmann mượn dịp trả lời. “Anh nghĩ tôi coi anh là ai? Một anh hùng của trăm trận đánh, một chàng trai trẻ đã bị biến thành cái bóng trong sự phục tùng tổ quốc, nếu tôi còn đỏi hòi điều gì tốt hơn thì tôi kén cá chọn canh quá.”
“Ồ, nếu đấy chỉ là lý thuyết thì sao!” Mason nói. Và, mặc cho sự phản đối của cô Hofmann, anh vẫn khăng khăng tin rằng dựa trên lý thuyết nào đó nên cô mới thấy anh không tới mức quá quắt. Nhưng cô vẫn giữ nguyên lập trường với một thái độ bình thản kiên định mà chàng trai trẻ cảm thấy như thể nó biểu hiện hoặc là sự thờ ơ đáng kể, hoặc là khả năng tự kiềm chế vô cùng tốt. “Cô ấy nghĩ mình ngu,” anh thầm nhủ. “Tất nhiên cô ấy nghĩ mình ngu rồi. Làm sao có thể nghĩ khác được? Cô ấy và dì cô ấy hẳn đã bàn tán về mình. Thím Mason đã liệt kê hết thảy đức tính của mình, còn cô Hofmann làm công việc tổng kết lại: tựu trung, một kẻ tử tế nhưng nhàm chán. Cô ấy đã chuẩn bị sẵn tâm thế kiên nhẫn. Mình phải thừa nhận tâm thế này rất phù hợp với cô ấy.” Tuy nhiên, không lạ khi Mason phóng đại ảnh hưởng của sự bất lực trong khả năng giao tiếp xã hội ở anh. Những lời nhận xét anh đưa ra thiếu mạch lạc, song không thường xuyên như thế; thường thì vô thưởng vô phạt, nhưng luôn luôn vui vẻ và gần gũi. Các khoảng lặng, thực tế, khiến cuộc trò chuyện giữa anh và cô Hofmann thêm phần phấn chấn, dễ làm người ta tưởng đấy là các quãng nghỉ dạn dĩ trong cuộc đối thoại giữa những người bạn lâu năm.
Đôi lúc cô Hofmann sẽ ngồi xuống và chơi đàn dương cầm cho anh nghe. Hiên nhà nối với phòng khách nhỏ qua một khung cửa sổ dài, một cánh lúc nào cũng mở. Mason sẽ kê ghế gần đó, để vừa có thể nhìn vừa nghe bản đàn. Ngồi bên cây đàn, ở phía cuối căn phòng nhập nhoạng, với nửa thân nghiêng, và các đường nét gương mặt của cô, cử động của cô, màu váy của cô, chỉ hiện lên mờ ảo dưới quầng tối, cô Hofmann tạo ra các giai điệu vô tận. Ánh mắt Mason đậu một lúc trên những nếp gấp trắng nhẹ của chiếc váy, trên những lọn tóc xoăn, và trên những chuyển động nhẹ của đầu cô theo điệu nhạc. Rồi chỉ cần hướng ánh nhìn về phía khác, anh lại thấy cả một bức tranh nữa, bầu trời giữa trưa chói lóa, bãi cỏ được cắt tỉa, nằm sấp bóng, và người làm vườn kiên nhẫn, lưng còng, mặc áo sơ mi trắng xắn tay, đang tỉa hàng rào hoặc di chuyển các viên sỏi. Một sáng nọ, cùng với âm nhạc, ánh sáng, hơi ấm, và hương hoa thơm ngát, khi các giác quan hoàn toàn hòa hợp, Mason yên tâm chìm vào giấc ngủ. Khi tỉnh dậy, anh thấy mình ngủ được một tiếng đồng hồ, và ánh nắng mặt trời đã tràn vào hiên nhà. Tiếng nhạc đã ngừng; song khi nhìn vào phòng khách anh thấy cô Hofmann vẫn ngồi bên cây đàn dương cầm. Một quý ông đang tựa vào cây đàn, lưng hướng về phía cửa sổ, che khuất gương mặt cô. Mason ngồi yên một lúc, đờ đẫn, ban đầu gần như không nhận thức được việc mình đã tỉnh giấc, uể oải đoán xem người đàn ông kia là ai. Chẳng mấy chốc, Mason nhận ra điều bất thường khi khung cảnh trước mặt hoàn toàn im lặng, không có bất cứ tiếng nói chuyện nào. Sự im lặng đó thật thiếu tự nhiên, hoặc, ít nhất, gây khó chịu. Mason dịch cái ghế, và quý ông kia quay đầu lại. Đó là Horace Knight.
Sự im lặng đó thật không tự nhiên, hoặc ít nhất cũng gây khó chịu. Mason dịch ghế của mình, và quý ông kia quay lại nhìn. Quý ông đó chính là Horace Knight. Viên bác sĩ liền lên tiếng, “Buổi sáng tốt lành!” từ chỗ anh đứng, rồi kết thúc cuộc trò chuyện với cô Hofmann trước lúc tới gặp bệnh nhân của anh. Khi bác sĩ rời khỏi chỗ cây đàn dương cầm, Mason mới hiểu lý do vì sao hai người lại im lặng. Cô Hofmann đang cố giải mã một bản nhạc khó, và bác sĩ thì đang cố gắng giúp cô, nhưng cả hai đều bị mắc.
“Anh ấy quả là một người tài giỏi!” Mason nghĩ. “Anh ấy đứng đó, tuôn ra các thuật ngữ âm nhạc như thể chưa từng nghĩ về thứ gì khác. Và dù thế, khi nói về y học, chẳng ai có thể thẳng thắn và đi đúng vào trọng tâm hơn anh ấy.” Mason cảm thấy rất hài lòng với sự thông hiểu của Knight, về tình trạng của anh và cách điều trị nó. Anh ở nông thôn đến bây giờ đã được ba tuần, khó có thể nói rằng bản thân đang tốt lên rõ rệt, song anh có thấy mình thoải mái hơn. Có lúc anh lo lắng khi tìm hiểu về quá trình hồi phục thực tế của mình, vì anh mang một nỗi sợ bệnh tình trở nặng hơn. “Nhưng có thể tôi đã lầm,” anh nói thêm, “và lý do là… trong hai tuần qua, tôi cảm nhận rõ hơn về tình trạng sức khỏe của bản thân so với khi còn ở thành phố. Vào thời điểm ấy, tôi coi mỗi triệu chứng mới xuất hiện là điều bình thường. Càng nhiều triệu chứng càng tốt, tôi đã nghĩ thế. Song giờ đây tôi cần biết cả những nguyên nhân cụ thể. Tôi thực sự muốn hồi phục.”
Bác sĩ Knight tò mò nhìn bệnh nhân của mình trong giây lát. “Cậu nói đúng,” anh bảo, “một chút nôn nóng cũng là điều tốt.”
“Ồ, tôi đâu có nôn nóng. Tôi nhẫn nại đến mức lố bịch ấy chứ. Tôi cho phép mình, ít nhất là sáu tháng.”
“Điều đó chắc chắn không vô lý đâu,” Knight nói. “Và cậu có thể cho phép tôi hỏi một câu được không? Cậu định dành sáu tháng đó ở đây à?”
“Tôi không thể trả lời được. Tôi đoán là mình sẽ ở đây đến khi mùa hè kết thúc, trừ khi mùa hè kết thúc tôi trước. Bà Mason sẽ không nghe thêm bất cứ lời nào khác. Vào tháng Chín, tôi hy vọng mình sẽ đủ khỏe để quay về thành phố, dù chưa thể nghĩ tới công việc. Cậu có lời khuyên nào không?”
“Tôi khuyên cậu nên gác lại chuyện công việc. Bắt buộc đấy. Chẳng phải cả đời cậu đã nai lưng ra làm rồi sao? Cậu không thể dành ra mười hai tháng ngắn ngủi chỉ để nghỉ ngơi, hồi phục sức lực và tận hưởng niềm vui à?”
“À à, niềm vui, niềm vui!” Mason nhại.
“Vâng, niềm vui,” bác sĩ đáp. “Cái đó đã làm gì cậu mà cậu lại nói về nó theo cách ấy?”
“Ồ, nó khiến tôi phiền lòng,” Mason nói.
“Cậu thật khó chiều. Bị phiền lòng bởi niềm vui vẫn tốt hơn bởi nỗi đau.”
“Tôi chẳng phủ nhận. Nhưng có một cách để thờ ơ với nỗi đau. Tôi không có ý bảo rằng tôi đã tìm ra cách, nhưng trong khi bệnh, tôi đã loáng thoáng thấy được. Song với niềm vui thì tôi không đủ sức để thờ ơ. Tóm lại, tôi sợ chết vì sự quan tâm quá mức.”
“Ồ, càn bậy!”
“Đúng, thật là càn bậy; nhưng không hẳn vậy đâu. Sẽ chẳng có phép mầu nào nếu tôi không khỏi bệnh.”
“Đấy là lỗi của cậu nếu cậu không khỏi bệnh. Điều đấy sẽ chứng tỏ rằng cậu thích bệnh hơn là thích khỏe, và thế thì cậu chẳng xứng đáng được làm bạn với những người biết suy nghĩ. Để tôi nói cho cậu nghe nhé?” bác sĩ tiếp tục, sau một lúc ngập ngừng. “Khi tôi biết cậu ở trong quân đội, tôi luôn luôn cảm thấy cậu vượt ngoài tầm hiểu của tôi. Cậu quá bận tâm đến mọi thứ. Cậu nghi ngờ và lưỡng lự trước mọi chuyện. Và trên hết, cậu cứ cố làm ra vẻ không để tâm và hoàn toàn thờ ơ. Cậu làm tròn vai, nhưng cậu phải thừa nhận với tôi rằng đấy cũng chỉ là một vai diễn mà thôi.”
“Tôi không rõ đấy là lời khen hay một câu nói xấc xược. Tôi hy vọng, ít nhất, cậu không có ý buộc tội tôi đang đóng kịch ngay lúc này.”
“Ngược lại. Tôi là bác sĩ của cậu; tôi đang rất thẳng thắn.”
“Không phải vì cậu là bác sĩ của tôi nên tôi mới thẳng thắn,” Mason nói. “Tôi không định trở thành gánh nặng của cậu trong vai trò ấy với thói thất thường cùng những ảo tưởng khốn khổ của tôi,” Ferdinand ngưng một lúc. “Cậu là đàn ông!” anh tiếp tục, đặt tay lên cánh tay người bạn. “Ở đây chỉ toàn phụ nữ, Trời ban phước cho họ! Tôi ngập ngụa trong tiếng thì thầm, hương nước hoa, nụ cười, cùng tiếng loạt xoạt của váy áo. Chỉ có đàn ông mới hiểu được đàn ông.”
“Cần nhiều hơn một người đàn ông mới hiểu được cậu, Mason thân mến.” Knight nói với nụ cười thân thiện. “Nhưng tôi sẽ nghe.”
Mason im lặng, tựa lưng vào ghế, đôi mắt chậm rãi lướt qua khoảng trời khoáng đạt bên ngoài cửa sổ, và hai tay buông lỏng trên đầu gối. Vị bác sĩ quan sát anh với vẻ nửa thích thú, nửa bối rối. Song cuối cùng, nét mặt anh trở nên nghiêm túc, và anh nhíu mày. Anh đặt tay lên cánh tay của Mason rồi lắc nhẹ, trong khi Ferdinand nhìn thẳng vào mắt anh. Bác sĩ cau mày, và khi làm thế, khóe miệng người bạn của anh dần nở một nụ cười bình thản. “Nếu cậu không khỏe lại,” Knight nói, “nếu cậu không khỏe lại...” và anh vội dừng lại.
“Hậu quả sẽ thế nào?” Ferdinand hỏi, vẫn mỉm cười.
“Tôi sẽ căm ghét cậu,” Knight nói, đáp lại bằng nụ cười.
Mason bật cười lớn. “Tôi quan tâm gì đến điều đó?”
“Tôi sẽ rêu rao với mọi người rằng cậu là kẻ đáng thương, thiếu nghị lực, rằng chẳng có gì phải lấy làm tiếc cho cậu.”
“Tôi cho phép cậu,” Ferdinand nói.
Bác sĩ đứng dậy. “Tôi không ưa những bệnh nhân bướng bỉnh,” anh nói.
Ferdinand phá lên cười, nhưng kết thúc bằng cơn ho.
“Tôi đang quá hài hước rồi,” Knight nói; “Tôi phải đi thôi.”
“Thôi nào, cứ cười nhiều lên cho đẫy,” Ferdinand kêu. “Tôi hứa sẽ khỏi bệnh.” Nhưng tối đó, mặc cho khoảnh khắc phấn chấn ngắn ngủi đã có, anh vẫn không khá hơn. Trước lúc đi ngủ, anh tới phòng khách và dành nửa tiếng với các quý bà. Gian phòng trống, song đèn đã được thắp sáng, rồi anh ngồi xuống bàn và đọc một chương trong cuốn tiểu thuyết. Anh thấy hưng phấn, đầu óc lâng lâng, lòng nhẹ nhõm, như vừa uống một ly cà phê đậm. Anh đặt cuốn sách xuống, bước đến lò sửa, phía trên treo một tấm gương, anh nhìn vào hình phản chiếu gương mặt mình. Gần như lần đầu tiên trong đời, anh ngắm kỹ các đường nét trên gương mặt anh, và tự hỏi trông mình có ưa nhìn không. Anh chỉ có thể kết luận rằng trông anh rất gầy, nhợt nhạt và hoàn toàn không thể gánh nổi những lo toan của cuộc sống. Cuối cùng, anh nghe thấy tiếng cửa mở ở tầng trên cùng tiếng loạt xoạt của những chiếc váy rộng thùng thình. Bà Mason bước vào, tươi tắn sau khi được người hầu chỉnh trang, và diện trang phục cho bữa tiệc. Cảm giác mạnh mẽ thoáng qua, ánh đèn dịu, cây đàn dương cầm mở nắp sẵn, và sự vắng mặt của người phụ nữ tuyệt vời.
“Vậy cô Hofmann cũng sẽ đi chứ?” Mason hỏi. Anh cảm thấy tim mình đập nhanh và hy vọng bà Mason sẽ nói không. Cảm giác sức mạnh thoáng qua, ánh đèn êm dịu, cây đàn dương cầm mở nắp, và việc người phụ nữ tuyệt vời trước mặt anh vắng mặt, tất cả đều khiến anh nghĩ rằng cô sẽ ở nhà. Nhưng tiếng bước chân của cô gái trẻ đi xuống cầu thang là câu trả lời rõ ràng cho thắc mắc của anh. Ngay sau đó, cô xuất hiện ở ngưỡng cửa, mặc một chiếc váy vải kếp màu xanh lam rực rỡ, với những cụm hoa hồng trắng rải rác. Trong khoảng mười phút, Mason được thưởng thức cảnh tượng đầy thú vị khi chứng kiến chuỗi các cử chỉ duyên dáng và sự chỉnh trang của phụ nữ trong trang phục dạ hội thường làm để giết thời gian trong khi chờ xe ngựa đến; những cái liếc vào gương, vẻ chậm rãi đeo găng tay, hành động chỉnh sửa và khen ngợi dành cho nhau.
“Bà ấy không phải rất đẹp sao?” cô Hofmann nói với chàng trai trẻ, gật đầu về phía người dì của mình, người đàn bà trông vô cùng quyến rũ.
“Đẹp, đẹp, đẹp!” Ferdinand nói, dứt khoát, đến mức cô Hofmann chuyển ánh nhìn sang anh; trong khi bà Mason vui vẻ quay lại, cô Caroline nhận ra Mason đang đắm đuối nhìn cô.
Cô Hofmann mỉm cười kín đáo. “Tôi rất mong anh có thể đi cùng,” cô nói.
“Tôi sẽ đi ngủ,” Ferdinand trả lời, ngắn gọn.
“Ồ, vậy thì tốt hơn nhiều. Chúng tôi phải hai giờ sáng mới đi ngủ cơ. Trong khi đó, tôi sẽ khiêu vũ khắc các gian phòng theo tiếng dương cầm và vĩ cầm, còn dì Maria sẽ ngồi dựa vào tưởng với đôi chân khép dưới ghế. Đời như thế đấy.”
“Vậy cô sẽ khiêu vũ chứ,” Mason nói.
“Tôi sẽ. Bác sĩ Knight đã mời tôi.”
“Cậu ấy khiêu vũ tốt không, Caroline?” bà Mason hỏi.
“Chuyện đấy còn phải xem xét. Cháu có cảm tưởng mạnh mẽ rằng anh ấy không biết khiêu vũ.”
“Tại sao?” Ferdinand hỏi.
“Anh ấy làm tốt nhiều việc khác.”
“Đấy không phải lý do,” bà Mason nói. “Cháu có khiêu vũ không, Ferdinand?”
Ferdinand lắc đầu.
“Tôi thích một người đàn ông biết khiêu vũ,” Caroline nói, “và tôi cũng thích anh ta không biết khiêu vũ.”
“Đấy là một giọng rất phụ nữ, cô gái thân mến,” Mason đáp.
“Tôi nghĩ đúng là thế. Nó được truyền cảm hứng từ đôi găng tay trăng và chiếc đầm cổ trễ của tôi, và cả những bông hồng nữa. Khi một người phụ nữ mặc những thứ đồ như vậy, thưa Đại tá Mason, chẳng thể mong đợi gì khác ngoài những điều vô lý. Dì Maria,” cô gái trẻ tiếp tục, “dì có thể cài găng tay giúp cháu được không?”
“Để tôi giúp,” Ferdinand nói, “Dì của cô còn đang đeo găng tay của bà ấy.”
“Cám ơn anh.” Và cô Hofmann chìa cánh tay trắng dài, đồng thời tháo chiếc vòng khỏi cổ tay bằng tay còn lại. Găng tay của cô có ba chiếc nút, Mason cài nó một cách cẩn thận và gọn gàng.
“Và bây giờ,” anh nói, nghiêm túc, “tôi nghe thấy tiếng xe ngựa rồi. Cô muốn tôi khoác khoăn choàng cho cô không?”
“Nếu anh không phiền,” cô Hofmann đưa chiếc khăn choàng trắng rộng vào tay anh, rồi quay người để lộ đôi vai trắng ngần. Mason trịnh trọng choàng khăn lên vai cô, trong khi cô hầu gái bước vào, cũng làm điều tương tự đối với người phụ nữ lớn tuổi.
“Tạm biệt,” người phụ nữ lớn tuổi nói, đưa tay ra phía anh. “Cháu không được ra ngoài trời đâu đấy.” Và bà Mason, cùng cô hầu gái, bước lên cỗ xe ngựa. Cô Hofmann thu lại vẻ duyên dáng, và chuẩn bị theo sau. Ferdinand đứng tựa vào cửa phòng khách, quan sát cô; và khi đi ngang qua anh, cô gật đầu chào tạm biệt anh với một nụ cười mỉm. Một nụ cười đặc trưng, Mason nghĩ thầm, một nụ cười không có sự mong đợi về chiến thắng và không có vẻ giả vờ miễn cưỡng, mà chỉ là gợi ý nhẹ nhàng về sự chấp nhận một cách hoàn toàn vui vẻ. Mason đi đến cửa sổ và thấy cỗ xe ngựa lăn bánh với những ngọn đèn sáng, sau đó vẫn đứng nhìn về phía bóng tối. Bầu trời nhiều mây. Khi anh quay đi, người hầu gái bước vào, lấy từ trên bàn một đôi găng tay bị bỏ lại. “Tôi hy vọng ngài đã cảm thấy khá hơn, thưa ngài,” cô nói một cách lịch sự.
“Cám ơn, tôi nghĩ là tôi đã khỏe hơn.”
“Thật tiếc khi ngài không thể đi cùng các quý bà.”
“Tôi chưa đủ khỏe để nghĩ đến những chuyện ấy,” Mason nói, gượng cười. Nhưng khi đi ngang qua phòng, anh cảm thấy mình bị tấn công đột ngột, không thể nào mô tả tốt hơn cảm giác ấy ngoài việc diễn tả rằng anh thấy kiệt sức. Anh choáng váng, chóng mặt, và buồn nôn. Đầu óc anh quay cuồng và đầu gối thì run rẩy. “Tôi trở bệnh rồi,” anh nói, ngồi thụp xuống ghế sofa; “cô gọi William đi.”
William nhanh chóng có mặt và dẫn chàng trai trẻ về phòng. “Thưa ngài, ngài đã làm gì vậy?” người hầu đúng mực hỏi anh trong khi giúp anh thay đồ.
Ferdinand im lặng một lúc. “Tôi chỉ khoác khăn choàng cho cô Hofmann thôi,” anh nói.
“Chỉ vậy thôi sao, thưa ngài?”
“Và tôi còn cài nút găng tay cho cô ấy nữa.”
“Vậy thì, thưa ngài, ngài nên cẩn thận hơn.”
“Rõ ràng là vậy,” Ferdinand nói.
Tuy thế, anh đã ngủ rất say, và sáng hôm sau cảm thấy khỏe hơn.
“Chắc chắn mình đã khá hơn rồi,” anh tự nhủ, trong khi chậm rãi chuẩn bị việc vệ sinh cá nhân. “Tháng trước, một cuộc tấn công như tối qua hẳn đã khiến mình không thể ngủ nổi. Can đảm lên nào, Con Quỷ chưa chết, nhưng nó đang chết dần.”
Chiều hôm đó, anh nhận được cuộc ghé thăm của Horace Knight. “Vậy là tối qua cậu đã khiêu vũ ở nhà bà Bradshaw,” anh nói với bạn mình.
“Đúng thế, tôi đã khiêu vũ. Đấy là một việc rất phù phiếm đối với một người ở vị trí như tôi; nhưng tôi nghĩ chẳng có gì sai khi thử làm một lần, để họ thấy tôi cũng biết khiêu vũ. Sự tiết chế của tôi trong tương lai sẽ càng có ý nghĩa hơn. Các quý bà của anh đều có mặt ở đó. Tôi đã khiêu vũ với cô Hofmann. Cô ấy mặc váy màu xanh lam, và cô ấy là người phụ nữ đẹp nhất buổi tiệc. Mọi người đều bàn tán về chuyện đó.
“Tôi đã thấy cô ấy,” Mason nói, “trước khi cô ấy đi.”
“Cậu phải thấy cô ấy ở đấy cơ,” Knight đáp. “Âm nhạc, sự huyên náo, những người xem, và tất tật, đôn lên vẻ đẹp của người phụ nữ ấy.”
“Tôi cũng cho rằng như thế,” Ferdinand nói.
“Điều khiến tôi ấn tượng,” bác sĩ tiếp tục, “là sự... nói thế nào nhỉ? - nguồn sinh lực của cô ấy, sự tươi vui điềm đạm của cô ấy. Dĩ nhiên, cậu không thấy cô ấy khi cô ấy trở về nhà, đúng chứ? Giả như có, hẳn cậu cũng nhận thấy, trừ khi tôi lầm, rằng cô ây vẫn tươi tắn và tràn đầy sức sống vào lúc hai giờ như lúc mười giờ. Trong khi mọi phụ nữ khác đều trông mệt mỏi, uể oải và mệt lử, chỉ có cô ấy là không hề có dấu hiệu kiệt sức. Cô ấy không nhợt nhạt cũng không đỏ lừ, mà vẫn nhẹ nhàng, hồng hào và đứng thẳng. Cô ấy rất vững vàng. Cậu thấy đấy tôi không thể không nhìn nhận những điều này dưới con mắt của một bác sĩ. Cô ấy có một thể trạng tuyệt vời. Giữa những cô gái khác, cô ấy dường như mang một sức mạnh bất khả xâm phạm của một nữ thần,” và Knight cười thật thà trước khi nói hùng hồn. “Cô ấy đeo những bông hồng giả và những giọt sương như thể cô đã tự tay hái chúng trên đỉnh núi, chứ không phải mua chúng ở Broadway. Cô ấy đi những bước dài, váy loạt xoạt, và với một người lãng mạn, đó là âm thanh của Diana bước trên lá rừng.”
Ferdinand gật đầu đồng tình. “Vậy anh là một tay đàn ông lắm tưởng tượng,” anh nói.
“Dĩ nhiên rồi,” viên bác sĩ nói.
Ferdinand không có ý định nghi ngờ lời đánh giá của bạn mình về cô Hofmann, cũng như những lời nói của bạn. Những lời đó chỉ càng củng cố thêm các ấn tượng mà anh đã có từ trước. Ngày qua ngày, anh cảm nhận được sự lớn lên của ấn tượng này. “Anh hẳn phải là một người đàn ông rất mạnh mẽ mới dám tiếp cận cô,” anh tự nhủ. “Anh phải mãnh liệt và dẻo dai như cô; nếu không, trong lúc tán tỉnh, cô sẽ dễ dàng bỏ xa anh. Anh ấy phải có khả năng quên đi mọi vấn đề về phổi, gan hay hệ tiêu hóa của mình. Sự suy kiệt trong khi bảo vệ tổ quốc, thậm chí, cũng chẳng giúp ích được gì cho anh. Chuyện đó thì có nghĩa lý gì với cô? Cô ấy cần một người đàn ông đã bảo vệ tổ quốc nhưng không bị suy kiệt - một người hoàn chỉnh, toàn vẹn, đã được tôi luyện và không dễ bị tổn thương. Rồi... rồi thì,” Ferdinand nghĩ, “có thể cô sẽ cân nhắc anh. Có lẽ điều đó sẽ dẫn tới việc cô từ chối anh. Có thể, giống nữ thần Diana mà Knight đã so sánh, cô ấy được định sẽ sống một mình. Hoặc ít nhất, có thể khẳng định rằng cô ấy có khả năng chờ đợi. Cô ấy vẫn sẽ trẻ trung ở tuổi bốn mươi lăm. Những người phụ nữ vẫn trẻ trung ở độ tuổi bốn mươi lăm có khi chưa hẳn đã là những người thú vị nhất. Họ như thể chưa từng thực sự cảm nhận được sâu sắc bất cứ thứ gì hoặc bất cứ ai. Tuy nhiên, đấy không hoàn toàn là lỗi do họ, mà nhiều khi nằm ở những người đàn ông và phụ nữ xung quanh họ. Ít nhất người phụ nữ này có khả năng cảm nhận; vấn đề là làm thế nào để khơi được cô ấy. Tâm hồn cô ấy như một nhạc cụ với hàng trăm dây, chỉ có bàn tay mạnh mẽ mới có khả năng làm rung lên các âm thanh. Một khi thực sự được chạm vào, các dây ấy sẽ ngân vang mãi.”
Tóm lại, Mason đang yêu. Có thể thấy rằng lòng si mê của anh không ngạo mạn cũng không thỏa hiệp; ngược lại, kiên nhẫn, thận trọng và khiêm nhường, gần như rụt rè. Suốt mười ngày dài dặc, những ngày đáng nhớ nhất trong cuộc đời anh, những ngày ấy nếu anh ghi lại trong nhật ký, sẽ chỉ toàn các trang trắng, bởi anh đã giữ im lặng. Anh sẵn sàng chịu đựng bất cứ điều gì chứ không muốn tiết lộ cảm xúc của mình, hoăc để cho cô Hofmann tình cờ biết được chúng. Anh sẽ ấp ủ những cảm xúc ấy trong im lặng đến khi cảm thấy nơi từng thớ thịt rằng mình đã trở lại là chính mình, rồi anh mới mở lòng. Trong lúc ấy, anh cần kiên nhẫn; anh sẽ trở thành một bệnh nhân lý tưởng, nghiêm túc, và không mắc sai lầm, người mà những người khác không cần bận tâm lo lắng.
Tuy nhiên đến một ngày, bất chấp sự quyết tâm cao độ của mình, Ferdinand suýt thì mất thăng bằng. Bà Mason đã sắp xếp cùng anh đi xe ngựa sau bữa tối. Nhưng không may, một tiếng trước giờ hẹn, bà nhận được tin từ một người hàng xóm đang bị ốm nên phải đi ngay.
“Nhưng anh không thể bỏ lỡ cuộc dạo chơi được,” cô Hofmann nói, mang theo lời xin lỗi của các bà dì tới cho anh. “Nếu anh vẫn muốn đi, tôi rất vui lòng thay dì cầm cương. Tôi có thể không phải một người đồng hành thú vị như dì Maria, nhưng có lẽ cũng khá vui như khi anh đi với Thomas.” Vậy là họ quyết định cô Hofmann sẽ thay vai trò của bà dì mình, và vào lúc năm giờ cỗ xe ngựa rời khỏi nhà. Nửa đầu chuyến đi trôi qua trong im lặng, và hầu như những lời đầu tiên họ nói với nhau là khi họ tiến gần đến một khu đất có rào chắn, nơi qua những hàng cây phía xa, họ thoáng thấy một khúc quanh của con sông. Cô Hofmann vô thức kéo cương dừng lại.
Mặt trời lặn xuống thấp, và bầu trời phía Tây không một gợn mây rực lên sắc vàng hồng. Những hàng cây che khuất tầm nhìn đổ xuống thảm cỏ tấm màn bóng lớn, trải ra tận con đường. Giữa những thân cây thưa lấp lánh dòng nước trắng xóa của sông Hudson. Hai người bạn của chúng ta đều biết rõ nơi này. Mason từng nhìn thấy nó từ trên thuyền, vào một buổi sáng nọ, khi một quý ông trong vùng, ngỏ ý muốn làm cho anh một điều tốt, đã mời anh đi thuyền một đoạn ngắn; và với cô Hofmann, từ lâu nơi này đã trở thành chốn thường xuyên lui tới.
“Tuyệt đẹp làm sao!” cô nói, khi cô xe dừng lại.
“Đúng thế, nếu không có những hàng cây đó,” Ferdiand đáp. “Chúng che mất phần đẹp nhất của khung cảnh.”
“Tôi thì nghĩ chính chúng mới biểu lộ vẻ đẹp chứ,” người bạn đồng hành của anh nói. “Nhìn từ đây đúng là chúng đã che khuất mất; nhưng chúng lại gợi ý cho anh rằng hãy bước vào, và hãy để mình lạc giữa những hàng cây và tận hưởng khung cảnh trong sự riêng tư.”
“Nhưng cô không thể đi xe ngựa vào trong được.”
“Không thể: chỉ có một lối mòn cho người đi bộ, dù tôi từng cưỡi ngựa vào ấy. Một ngày nào đó, khi anh khỏe hơn, anh nên lái cỗ xe tới đây, xuống xe, và đi bộ tới bờ sông”.
Mason im lặng một lúc, trong khoảnh khắc, anh cảm nhận được sự rung động của một quyết tâm mạnh mẽ. “Tôi từng chú ý nơi đó vào hôm tôi đi thuyền với ông McCarthy. Ngay lập tức tôi đã chấm nó là của riêng tôi. Bờ sông cao, và những hàng cây quây thành một nhà hát ngoài trời nhỏ ở đỉnh. Tôi nghĩ có một cái ghế ở đó.”
“Đúng thế, có hai cái ghế,” Caroline nói.
“Vậy thì, chúng ta thử đến đó xem sao,” Mason nói, với một sự nỗ lực.
“Nhưng anh đâu thể đi bộ qua bãi cỏ đó. Anh thấy đấy mặt đất rất gập ghềnh. Và, dù sao đi nữa, tôi không thể đồng ý để anh đi một mình được.”
“Chuyện đó, thưa cô,” Ferdinand nói, đứng dậy trong xe, “đấy là điều điên rồ mà tôi sẽ không bao giờ nghĩ tới việc đề nghị. Đằng kia có một ngôn nhà, và bên trong có người. Chúng ta không thể lái cỗ xe đến đó và gửi ngựa cho họ trông hộ sao?”
“Không có gì dễ hơn thế, nếu anh đã quyết như vậy. Ngôi nhà đó có một gia đình người Đức sống cùng hai đứa trẻ, họ là những người bạn cũ của tôi. Mỗi khi tôi tới đây bằng ngựa, họ luôn nài tôi ít tiền lẻ. Từ khu vườn nhỏ của họ, đường đi sẽ ngắn hơn một chút.”
Vậy là cô Hofmann đánh ngựa về phía ngôi nhà, nằm ở đầu con đường nhỏ, cách đường chính vài bước chân. Một cậu bé và một cô bé, cả hai đều không đội mũ và đi chân đất - cậu bé có làn da rất trắng còn cô bé có làn da rất đen - chạy ào ra chào đón cô. Caroline chào bọn trẻ thân mật bằng tiếng Đức. Cô bé, lớn tuổi hơn, đồng ý trông ngựa, trong khi cậu bé tình nguyện dẫn các vị khách tới con đường ngắn nhất ra sông. Mason đến được điểm cần đến mà không cảm thấy quá mệt, và trước mắt anh hiện ra một khung cảnh còn xứng đáng với những nỗ lực lớn hơn gấp bội phần. Bên phải và bên trái, cách họ một trăm bước chân, là dòng nước rộng lớn đổ ra biển. Ở phía xa, các ngọn núi của dãy Catskills nhấp nhô, với những khoảng giữa mờ ảo và trung tính dưới ánh sáng ban chiều. Một hơi mát nhẹ từ dòng suối bên dưới thoảng qua mặt họ.
“Anh có thể ngồi xuống đây,” cậu bé nói, tỏ vẻ chu đáo.
“Vâng, Đại tá, anh ngồi xuống đi,” Caroline nói. “Anh đã đứng quá lâu rồi.”
Ferdinand ngoan ngoãn ngồi xuống, không thể phủ nhận rằng anh rất vui khi làm việc này. Cô Hofmann buông phần váy mà cô đã kéo lên khi ra khỏi cỗ xe, và đi dạo đến mép vách đá, nơi cô đứng trò chuyện một lúc với cậu bé dẫn đường. Mason chỉ nghe thấy cô nói tiếng Đức. Sau một lúc, cô Hofmann quay lại, vẫn tiếp tục nói - hay đúng hơn là lắng nghe - cậu bé.
“Cậu bé thật xinh trai,” cô nói bằng tiếng Pháp, khi dừng lại trước mặt Ferdinand.
Mason bật cười. “Thật buồn cười,” anh nói, “làm sao cậu nhóc này lại cấm chúng ta sử dụng hai ngôn ngữ cơ chứ! Em nói được tiếng Pháp không, cậu bé?”
“Không,” cậu bé cứng rắn đáp, “em chỉ nói được tiếng Đức.”
“À, vậy thì anh không theo được em rồi!”
Cậu bé nhìn anh một lúc, rồi trả lời, với một sự thiếu liên quan có thể hiểu, “Em sẽ chỉ cho anh đường xuống nước.”
“Anh cũng không theo được đến đó. Tôi hy vọng cô sẽ không đi, cô Hofmann” chàng trai trẻ nói thêm, khi thấy Caroline có ý di chuyển.
“Đường đi có khó không?” cô hỏi cậu bé.
“Không, dễ lắm.”
“Liệu chị có rách váy không?”
Cậu bé lắc đầu; và Caroline theo sự hướng dẫn của cậu bé đi xuống bờ sông.
Một lúc trôi qua mà cô vẫn chưa xuất hiện trở lại, Ferdinand liều mình tiến đến mép vách đá và nhìn xuống. Cô gái đang ngồi trên một tảng đá nằm ờ rìa bãi cát hẹp, cái mũ đặt trên đùi, tay xoắn chiếc lông vũ. Lúc sau, Ferdinand có cảm giác như anh đã nghe thấy giọng của cô, vang lên nhẹ nhàng như thể cô đang hát. Anh lắng nghe kỹ hơn, và cuối cùng cũng nhận ra được vài từ; đó là tiếng Đức. “Chết tiệt, lại là tiếng Đức!” chàng trai trẻ nghĩ. Bỗng nhiên, cô Hofmann đứng dậy rời khỏi chỗ ngồi, và chỉ sau một khoảng thời gian ngắn, cô xuất hiện trở lại trên nền đất cao. “Cô đã tìm được gì dưới đó thế?” Ferdinand hỏi, gần như tức giận.
“Chẳng có gì, chỉ là một dải cát nhỏ và vài tảng đá.”
“Cô đã làm rách chiếc váy mất rồi,” Mason nói.
Cô Hofmann nhìn xuống chiếc váy của mình. “Ở đâu cơ, anh chỉ cho tôi xem với?”
“Chỗ kia kìa, ngay phía trước.” Mason giơ cây gậy đi bộ và chỉ vào nếp gấp bị rách của chiếc váy muslin. Cử chỉ vụng về và có phần brusquerie3 đã thu hút sự chú ý của cô Hofmann. Cô nhìn người bạn đồng hành, và, thấy nét mặt anh có vẻ bực bội, liền đoán rằng anh đang khó chịu vì phải chờ đợi.
“Cám ơn anh,” cô nói. “Chỗ này dễ sửa thôi. Còn bây giờ chúng ta quay lại nhé.”
“Không, chưa đâu,” Ferdinand nói. “Chúng ta còn nhiều thời gian mà.”
“Còn nhiều thời gian để bị cảm lạnh,” cô Hofmann nói, một cách thân mật.
Mason đã chống cây gậy xuống nơi anh để nó rơi sau khi thu lại từ hướng chiếc váy của cô gái, rồi đứng dựa vào gậy, ánh mắt dõi theo khuôn mặt của cô gái trẻ.
“Nếu tôi bị cảm lạnh thì sao?” anh hỏi đột ngột.
“Thôi nào, đừng nói những điều ngớ ngẩn như thế,” cô Hofmann đáp.
“Tôi chưa bao giờ nghiêm túc hơn thế.” Và, dừng lại một lúc, anh tiến thêm vài bước tới gần cô. Cô quàng chặt chiếc khăn quanh mình, hai cánh tay lẩn trong đó, giữ lấy khuỷu tay. “Tôi không hoàn toàn có ý như vậy,” Mason nói tiếp. “Tôi muốn khỏe lại, nhìn chung là vậy. Nhưng có những lúc việc tự chăm sóc bản thân quá mức dường như lại hạ thấp phẩm giá con người, và tôi cảm thấy bị cám dỗ để đánh đổi một giờ phút vui vẻ, hạnh phúc, với một cái giá, thậm chí là chính mạng sống của mình nếu cần.”
Đây là một lời phát biểu thẳng thắn hơn bất cứ điều gì Ferdinand từng nói, và người đọc có thể đánh giá được sự kiềm chế của anh. Cô Hofmann hẳn đã hơi ngạc nhiên và thậm chí hơi bối rối. Nhưng rõ ràng anh đang chờ đợi một lời phản hồi từ cô.
“Tôi không biết anh đã phải đối mặt với cám dỗ nào,” cô trả lời, mỉm cười; “nhưng tôi phải thừa nhận rằng tôi không nghĩ có cám dỗ nào trong hoàn cảnh hiện tại của anh lại cần tới sự hy sinh lớn lao mà anh nhắc đến. Những gì anh nói, thưa Đại tá Mason, mới chỉ là một nửa thôi...”
“Một nửa gì cơ?”
“Một nửa vô ơn. Dì Maria hãnh diện tin rằng dì ấy đã giúp cho cuộc sống của anh trở nên dễ dàng và yên bình hơn - thậm chí nếu anh muốn, có thể nói rằng khá tẻ nhạt, đối với một người trí tuệ. Và giờ đây, sau tất cả, anh lại buộc tội bà ấy đem tới những cám dỗ.
“Dì Maria là người phụ nữ tuyệt vời nhất, thưa cô Hofmann,” Mason nói. “Nhưng tôi không phải người trí tuệ. Tôi thực sự yếu đuối về mặt tinh thần. Những điều nhỏ nhặt rất dễ làm tôi kích động. Những niềm vui nhỏ bé lại dễ trở thành những cám dỗ khổng lồ. Tôi sẽ rất sẵn lòng, chẳng hạn, được ở lại đây với cô thêm nửa tiếng.”
Đây là một câu hỏi tế nhị rằng liệu cô Hofmann có còn bối rối hay không; liệu cô có nhận ra trong giọng điệu của chàng trai trẻ - đó là âm điệu, thái độ và ánh mắt của anh, chứ không chỉ là lời nói - một gợi ý về sự thật tuyệt diệu và đơn giản, mà đứng trước nó, một người phụ nữ thông minh sẽ gạt đi thói điệu đà hay giả tạo, và thể hiện một lòng khoan dung chân thành. Song lòng khoan dung cũng trở nên vô nghĩa nếu không thận trọng; và cô Hofmann hoàn toàn có thể đã thực hiện những điều tôi vừa đề cập, song vẫn giữ được vẻ thanh thoát trong chiếc khăn choàng, với nụ cười nghiêm túc trên khuôn mặt. Quả tim của Ferdinand đập thình thịch dưới lớp áo gi-lê; những lời mà anh có thể nói với cô rằng anh yêu cô đang rung rinh ở đó như những con chim sợ hãi trong chiếc lồng rung chuyển bởi bão tố. Việc môi anh có thể thốt ra những lời đó hay không phụ thuộc vào các từ tiếp theo mà cô nói. Chỉ cần xuất hiện một dấu hiệu nhỏ nhất của sự thách thức hoặc mất kiên nhẫn, anh thực sự sẽ buông cho cô một lý do để thể hiện sự cồ quẹt. Tôi nhắc lại rằng tôi không dám suy đoán cảm xúc của cô Hofmann; tôi chỉ biết rằng những lời của cô là lời của một phụ nữ có trực giác tuyệt vời. “Đại tá Mason thân mến,” cô nói, “tôi ước rằng chúng ta có thể ở lại đây suốt cả buổi tối. Những khoảng khắc như thế này thật quá dễ chịu để mà lãng phí một cách bừa bãi. Tôi chỉ muốn nhắc nhở anh về lương tâm của anh. Nếu anh tin rằng anh có thể giữ an toàn khi làm như thế, rằng anh sau đó sẽ không lạnh cóng, thì chúng ta sẽ ở lại đây thêm một lúc. Còn nếu anh không chắc chắn về điều đó, thì hãy cùng quay trở về xe ngựa. Tôi không thấy có bất cứ lý do nào để giải thích cho việc chúng ta cứ hành xử như những đứa trẻ.”
Nếu cô Hofmann lo sợ một màn kịch sắp xảy ra, tôi không khẳng định việc cô nghĩ như thế, thì cô đã được cứu. Mason nhận ra từ trong lời nói của cô một sự đảm bảo tế nhị rằng anh có đủ khả năng đề chờ đợi. “Cô là một thiên thần, cô Hofmann ạ,” anh nói, ra dấu rằng anh đã đón được sự đảm bảo đầy thiện ý của cô. “Tôi nghĩ chúng ta nên quay về thôi.”
Cô Hofmann liền dẫn đường men theo lối mòn, Ferdinand chậm rãi theo sau. Một người đàn ông khi đã chấp nhận sự khôn ngoan của một người phụ nữ thường cảm thấy cần phải tự thuyết phục rằng mình đã đầu hàng một cách tự nguyện. Tôi đoán chính vì thế mà Mason thầm nghĩ khi bước đi, “Thôi thì, mình đã đạt được điều mình muốn rồi.”
Sáng hôm sau anh trở lại làm người ốm yếu. Anh tỉnh dậy với các triệu chứng mà trước đó anh gần như không cảm thấy được; và anh buộc phải thừa nhận sự thật cay đắng rằng, dù chỉ là một cuộc phiêu lưu nhỏ,nó cũng vượt quá sức chịu đựng của anh. Việc đi bộ, không khí buổi tối, cùng với sự ẩm ướt của nơi đó đã kết hợp lại để tạo thành một cơn sốt dữ dội. Ngay khi mọi chuyện trở nên rõ ràng hơn, nói thẳng ra rằng, khi anh biết mình đã lâm vào cơn ốm nặng nề, anh quyết định chấp nhận số phận. Tình trạng của anh ngày càng tồi tệ hơn, may mắn thay, anh đã được giải thoát khỏi gánh nặng của trái tim, cùng với tất tật hy vọng bị trì hoãn và những dự định không thành, nhờ vào khoảng thời gian rơi vào cơn bất tỉnh triền miên đó.
Suốt ba tuần anh trở bệnh rất nặng. Vài ngày đầu, mọi người đã nghi ngờ về khả năng hồi phục của anh. Bà Mason chăm sóc anh với sự kiên nhẫn vô hạn cùng lòng quan tâm chân thành. Bà quyết tâm không để Thần Chết tham lam có thể cướp đi cuộc đời của anh, bởi bất cứ sai sót nào của bà, với một sự nghiệp đầy triển vọng xán lạn cùng lòng biết ơn chân thành mà một người phụ nữ lớn tuổi tốt bụng sẽ rất trân trọng, như bà cảm nhận được ở protégé4 của mình. Những đêm thức trắng săn sóc của bà cuối cùng cũng được đền đáp. Vào một buổi sáng đẹp người, Ferdinand khốn khổ chẳng nói chẳng rằng suốt nhiều ngày, bỗng tìm được vài từ để báo với bà rằng anh đã ổn hơn. Tuy nhiên, quá trình phục hồi của anh diễn ra rất chậm, và chỉ đạt tới mức thấp hơn so với mức mà anh đã từng đạt được trước đó. Vì vậy, anh trở thành một bệnh nhân phục hồi tới hai lần - một kẻ khốn khổ khốn nạn.
Anh thú nhận rằng anh rất ngạc nhiên vì bản thân còn sống. Anh vẫn giữ một thái độ im lặng và nghiêm nghị, với nếp nhăn mới trên trán, như một người thật sự bối rối trước các ngẫu nhĩ của số phận. “Chắc chắn,” anh nói với bà Mason, “cháu được sinh ra cho những điều lớn lao.”
Để đảm bảo sự yên tĩnh tuyệt đối trong nhà, Ferdinand được biết cô Hofmann đã chuyển đến ở nhờ nhà một người bạn cách đó khoảng năm dặm. Vào ngày đầu tiên chàng trai trẻ có đủ sức để ngồi trên chiếc ghế bành, bà Mason đã đề cập việc cháu gái bà sẽ trở về, lịch ấn định là vào ngày mai. “Con bé hẳn rất muốn gặp cháu đấy,” bà nói. “Khi nó về, thím dẫn nó tới phòng cháu được không?”
“Ôi trời, không!” Ferdinand đáp, vì ý tưởng đó khiến anh rất khó chịu. Vì thế anh gặp cô trong bữa tối, ba ngày sau đó. Anh rời khỏi phòng vào giờ ăn tối, cùng với bác sĩ Knight, đang chuẩn bị ra về. Ở hành lang, họ gặp bà Mason, bà đã mời viên bác sĩ nán lại để chúc mừng cho sự tái hòa nhập xã hội của người bệnh nhân. Viên bác sĩ do dự một lúc, và trong khoảnh khắc ấy, Ferdinand nghe thấy tiếng bước chân của cô Hofmann bước xuống cầu thang. Anh quay lại nhìn cô đúng lúc bắt gặp được trên gương mặt cô một ánh nhìn ẩn ý vừa lướt qua rồi nhanh chóng biến mất. Vì lưng của bà Mason dựa vào cầu thang, nên ánh nhìn của cô rõ ràng là dành cho bác sĩ Knight. Viên bác sĩ xin cáo từ với lý do có việc bận, khiến Mason cảm thấy tiếc, trong khi anh chào hỏi cô gái trẻ. Bà Mason đề xuất một cuộc hẹn vào hôm khác, Chủ nhật tới; bác sĩ đồng ý, và mãi cho đến sau này, Ferdinand mới bắt đầu tự hỏi tại sao cô Hofmann lại cấm anh ở lại. Anh nhanh chóng nhận ra rằng trong thời gian họ xa, cô gái trẻ này không hề mất đi một chút vẻ quyến rũ nào; ngược lại, sức hấp dẫn của cô còn khó cưỡng lại hơn bao giờ hết. Hơn nữa, đối với Mason, anh cảm thấy họ dường như được gắn kết bởi một vẻ dịu dàng trầm tư nào đó, với ánh nhìn ấm áp và nhẫn nhịn mà trước đây anh chưa từng để ý. Những lời nói của bà Mason cũng giúp anh an tâm rằng anh không phải nạn nhân của một ảo tưởng.
“Thím tự hỏi có chuyện gì với Caroline thế,” bà nói. “Nếu không phải vì con bé bảo với thím rằng nó chưa bao giờ cảm thấy khá hơn như thế, thì thím đã nghi ngờ rằng con bé đang rất không khỏe. Thím chưa từng thấy con bé giản dị và dịu dàng đến thế. Con bé trông như một người vừa trải qua cú sốc lớn, nhưng cú sốc ấy không hẳn khó chịu hoàn toàn.”
“Cô ấy đã sống trong một ngôi nhà đông người,” Mason lên tiếng. “Cô ấy đã có những trải nghiệm thú vị, vui vẻ và tất bật ở đó; giờ cô ấy trở lại đây với chúng ta (thứ lỗi cho cháu về lối so sánh này, nhưng đấy là sự thật), hẳn nhiên một sự phản ứng nào đó sẽ cuất hiện.” Lời lý giải của Ferdinand khéo léo hơn là thuyết phục.
Bà Mason có một lý giải hợp lý hơn. “Thím có cảm giác,” bà nói, “George Stapleton, đứa con trai thứ hai của nhà đó, từng mến mộ Caroline. Thật khó mà tin rằng cậu ta có thể ở trong nhà cùng con bé suốt hai tuần mà không tìm cách theo đuổi lại con bé, bằng cách này hay cách khác.”
Ferdinand không hề lo lắng, vì anh từng gặp và trò chuyện với George Stapleton, một chàng trai rất điển trai, rất tốt bụng, rất thông minh và rất giàu có, nhưng theo anh, không xứng với cô Hofmann. “Thím không định nói rằng cháu gái của thím đã để ý cậu ta chứ?” anh đáp lại, một cách bình tĩnh.
“Nghe này, đúng thế đấy. Cậu ta đã tỏ ra được một vẻ dễ mến và thành công tạo ấn tượng, một ấn tượng tạm thời,” bà Mason nói thêm với vẻ rất thạo.
“Cháu thấy thật khó tin,” Ferdinand nói.
“Tại sao không? Cậu ta là một chàng trai tốt mà.”
“Đúng, đúng,” Mason nói, “thực sự rất tốt. Cậu ta còn rất giàu có.” Và ngay lúc đó cuộc trò chuyện bị ngắt quãng bởi sự xuất hiện của Caroline.
Chủ nhật, hai người phụ nữ tới nhà thờ. Mãi đến khi họ rời đi, Ferdinand mới bước ra khỏi phòng. Anh bước vào phòng khách nhỏ, cầm một cuốn sách lên và cảm thấy chút hồi sinh của cuộc sống trí thức trước đây. Liệu anh có còn biết được cảm giác làm việc là như thế nào nữa không?
Một tiếng sau, hai người phụ nữ trở về, rạng rỡ trong những chiếc mũ trang trọng. Bà Mason nhanh chóng đi khỏi lần nữa, để hai người ở lại với nhau. Cô Hofmann hỏi Ferdinand anh đã đọc những gì, và từ đó, anh được khơi gợi để tuyên bố rằng anh thực sự tin, sau tất cả, mình sẽ lấy lại được khả năng tư duy. Cô lắng nghe với sự tôn trọng mà một người phụ nữ trí tuệ, sống một cuộc đời nhàn rỗi, thường dành cho một người đàn ông tài giỏi khi anh ta mở lòng chia sẻ với cô về các dự định học vấn của mình.
Được khơi gợi bởi lòng đồng cảm tuyệt vời, sự chú tâm cùng những câu hỏi thông minh của cô, anh được khuyến khích bộc lộ một số niềm tin và dự định thiết thân nhất. Từ thời điểm này, thật dễ dàng để cuộc trò chuyện có thể chuyển hướng sang các vấn đề về niềm tin và hy vọng nói chung. Trước khi anh kịp nhận ra, thì nó đã diễn biến như vậy; và do đó, anh có được niềm vui lớn khi thảo luận với người phụ nữ, mà hạnh phúc ích kỷ và cá nhân của anh phụ thuộc nhiều nhất, về những chủ đề vĩ đại mà trong sự bao la của nó, con người, niềm khoái thú và cảm xúc đều bị cuốn phăng rồi tan biến, và trong ánh hào quang nghiêm nghị của chúng, những vị thánh thần rực rỡ nhất trên trần gian cũng phải nhường lại ánh sáng của họ. Những si mê mãnh liệt là sự chuẩn bị tốt cho các suy tưởng sâu sắc nhất. Mặc dù Ferdinand không hề tán tỉnh hay theo đuổi cô, và có ý thức, ít nhất, rằng anh không lợi dụng chút nào cảm xúc mà sự hiện diện của cô đem tới, chắc chắn rằng, các suy nghĩ trở nên sáng rõ hơn bởi anh đang yêu. Còn, đối với cô Hofmann, sự chú ý của cô, biểu hiện ra ngoài, dường như không thể sống động hơn, và tri giác của cô chẳng thể tinh tế hơn, ngay cả khi tâm trí cô đã được thanh lọc bởi ngọn lửa thiêng của một lòng mê hồi ứng.
Knight xuất hiện đúng giờ vào bữa tối, và một lần nữa cho thấy mình là một quý ông vui tính, quý ông mà những người bạn của chúng ta từ lâu đã biết cách quý trọng. Song Mason, vừa bước ra từ cuộc tranh luận về luân lý và siêu hình học, nhận ra một cách rõ ràng rằng Knight thuộc về số những người ăn xin cứng cỏi thường nhận phải những cú đá thay vì các đồng xu. Tuy nhiên, Mason vẫn phải thừa nhận rằng, nếu Knight không phải là một người có nguyên tắc, thì chắc chắn anh ta là một người có danh dự. Sau bữa tối, mọi người di chuyển ra hiên nhà, ở đó trong vòng nửa tiếng; viên bác sĩ ngỏ ý mời cô Hofmann đi dạo quanh khu vườn. Bãi cỏ có một lối đi hẹp, đôi chỗ bị khuất tầm nhìn bởi các bụi cây. Ferdinand và bà chủ nhà ngồi nhìn bóng dáng họ dần khuất xa trong khi họ chậm rãi bước đi trên con đường sỏi uốn lượn; chiếc váy sáng màu của cô Hofmann và áo gi-lê trắng của viên bác sĩ thỉnh thoảng trồi lên giữa mảng xanh thẫm của tán cây. Sau hai mươi phút họ trở về nhà. Viên bác sĩ chỉ quay lại để cúi chào và đi khỏi; khi anh đã đi, cô Hofmann lui về phòng riêng của mình. Sáng hôm sau, cô cưỡi ngựa đến thăm người bạn mà cô đã ở cùng trong thời gian Mason trở bệnh. Ferdinand nhìn thấy cô ngang qua cửa sổ, ngồi thẳng trên yên ngựa, con ngựa làm văng các viên sỏi bằng những cú phi đầy lo lắng của nó. Một lát sau bà Mason bước vào phòng, ngồi xuống bên cạnh chàng trai trẻ và hỏi han về tình trạng của anh như thường lệ, rồi bỗng ngừng lại khiến anh lập tức biết chắc rằng bà có điều gì muốn nói. “Thím có chuyện gì muốn nói với cháu à,” anh nói; “chuyện gì thế ạ?”
Bà Mason hơi đỏ mặt và cười. “Ban đầu, thím đã hứa phải giữ bí mật,” bà nói. “Nếu bây giờ thím được phép mà đã lộ liễu như thế này, thì lúc chưa được phép, thím còn thế nào nữa? Cháu đoán thử xem.”
Ferdinand kiên quyết lắc đầu. “Cháu chịu không đoán nổi”.
“Caroline đính hôn rồi.”
“Với ai cơ?”
“Không phải với cậu Stapleton, mà là với bác sĩ Knight.”
Ferdinand nín lặng một lúc; nhưng anh không biến sắc hay cụp mắt xuống. Và rồi, cuối cùng thì:
“Cô ấy có muốn thím nói cho cháu không?” anh hỏi.
“Con bé không muốn thím nói với bất cứ ai cả. Nhưng thím đã thuyết phục con bé cho phép thím nói với cháu.”
“Cám ơn thím,” Ferdinand nói với một cái cúi đầu nhẹ đầy mỉa mai.
“Thật quá bất ngờ,” bà Mason tiếp tục. “Thím chưa bao giờ nghĩ đến chuyện này. Vậy mà thím cứ huyên thuyên mãi về cậu Stapleton! Thím không hiểu chúng đã làm như thế nào. Thôi, chắc đó là phương án tốt nhất rồi. Nhưng thật lạ khi Caroline từ chối biết bao mối tốt hơn, chỉ để cuối cùng chấp nhận bác sĩ Knight.”
Trong khoảnh khắc Ferdinand cảm thấy như thể khả năng nói đang rời bỏ anh; song ý chí đã đóng đinh nó xuống bằng một nhát búa mạnh.
“Cô ấy có thể đã chọn một người tệ hơn ấy chứ,” anh nói một cách máy móc.
Bà Mason liếc nhìn anh như thể bị âm thanh giọng nói của anh làm cho kinh ngạc. “Vậy là cháu không ngạc nhiên à?”
“Cháu cũng không chắc. Cháu chưa từng nghĩ rằng giữa họ có điều gì, nhưng giờ ngẫm lại, cũng chẳng có gì ngăn cản chuyện ấy. Họ nói về nhau vừa đủ không quá nhiều cũng không quá ít. Thật lòng mà nói, họ đúng là một cặp hoàn hảo!” Nhớ lại sự kín đáo và điềm tĩnh thường trực của hai người ấy, Ferdinand - dù có vẻ kỳ lạ - không thể ngăn mình có chút ngưỡng mộ. Anh không phải đối đầu với một kẻ tầm thường. “Đúng thế,” anh nghiêm túc lặp lại, “cô ấy có thể đã chọn một người tệ hơn ấy chứ.”
“Thím cho là con bé có thể. Cậu ấy tuy nghèo, nhưng rất thông minh; và thím cầu mong Chúa hãy cho thím biết rằng cậu ấy yêu con bé!”
Ferdinand không nói gì.
“Cho cháu hỏi,” anh cất giọng sau một lúc, “có phải họ đã đính hôn vào hôm qua, khi đi dạo quanh bãi cỏ không?”
“Không; sẽ thật tuyệt nếu chúng làm thế ngay trước mắt chúng ta! Mọi việc đã được lên kế hoạch trong thời gian Caroline ở nhà Stapleton. Chúng đã thỏa thuận với nhau hôm qua rằng con bé sẽ báo ngay tin cho thím.”
“Vậy khi nào họ cưới?”
“Vào tháng Chín, nếu ổn thỏa. Caroline bảo thím nói với cháu rằng con bé rất mong cháu sẽ ở lại dự đám cưới.”
“Ở lại đâu cơ?” Mason hỏi, với một nụ cười gượng gạo.
“Ở lại đây, tất nhiên là trong ngôi nhà này rồi.”
Ferdinand nhìn thẳng vào mắt bà chủ nhà, trong khi nắm lấy tay bà. “Những món thịt từ đám tang lạnh lẽo lại được dùng để chiêu đãi trên bàn tiệc cưới.”
“A, ăn nói cho cẩn thận!” bà Mason kêu lên, nắm chặt tay anh. “Sao anh có thể nói ra những lời như vậy? Khi Caroline rời xa thím, Ferdinand, thím sẽ rất cô đơn. Sợi dây gắn kết giữa bọn ta sẽ lỏng lẻo hơn rất nhiều lúc con bé kết hôn. Thím không thể không nghĩ rằng mối quan hệ của bọn thím chưa bao giờ thực sự gần gũi, khi mà thím chẳng dự phần nào trong bước ngoặt quan trọng nhất của cuộc đời con bé. Thím không phàn nàn. Thím cho rằng điều đó cũng tự nhiên thôi. Có lẽ đó là xu hướng hiện nay, bắt nguồn từ những chiếc váy sọc và áo khoác hải quân. Chỉ là chuyện này khiến thím thấy mình như một bà lão. Nó khiến thím hồi cố về hai mươi năm trước vào dịp đính hôn của thím, và nhớ lại ngày thím òa khóc trên vai mẹ vì chú của anh đã nói với một cô gái trẻ mà thím quen rằng ông ấy nghĩ thím có đôi mắt đẹp. Ngày nay, thím nghĩ họ sẽ nói thẳng với các cô gái trẻ và để họ tự khóc trên vai mình. Việc ấy tiết kiệm được khối thời gian. Nhưng thím vẫn sẽ rất nhớ Caroline; và sau này, Ferdinand, thím cần có cháu.”
“Càng đông càng tốt,” Ferdinand nói, với điệu cười tương tự; và ngay lúc đó, bà Mason bị gọi đi.
Ferdinand không phải một người lính vô tích sự. Anh đã chịu một cú sốc nặng nề, và anh quyết tâm đối mặt với nó như một người đàn ông. Anh từ chối việc cho phép mình có bất kỳ khoảnh khắc tự thương hại nào. Ngược lại, anh không tiếc lời chỉ trích bản thân bằng các từ ngữ gay gắt lấy trong kho từ vựng đầy nhiệt huyết của mình. Việc anh không đoán ra bí mật của Caroline có lẽ là điều có thể thông cảm được. Phụ nữ luôn luôn khó hiểu, và cô thì lại càng khó nắm bắt hơn. Nhưng Knight là một người đàn ông giống như anh, là người mà anh rất quý trọng, song anh không muốn thừa nhận rằng Knight có những cảm xúc sâu lắng và tĩnh lặng hơn anh, bởi dòng cảm xúc của anh ấy không phải một dòng suối róc rách, dễ làm lộ dòng chảy của nó qua những chiếc lá xanh. Knight đã yêu một cách khiêm nhường và đứng đắn, nhưng cũng rất thẳng thắn và chân thành, như một người không thẹn về những gì mình đang làm, và nếu anh không nhận ra điều đó thì đấy là lỗi do anh. Anh còn có thể làm gì khác? Anh đã trở thành một kẻ mộng mơ mê muội, trong khi người bạn của anh chỉ đơn giản là một người tình thành thực. Anh xứng đáng phải chịu nỗi đau này, và anh sẽ chấp nhận nó trong im lặng. Anh không thể hồi phục từ ảo tưởng; song giờ đây anh sẽ cố gắng hồi phục từ sự thật. Đây là một phương pháp điều trị nghiêm khắc, điều mà độc giả hẳn đồng ý, có khả năng giết chết nếu không thể chữa khỏi.
Cô Hofmann vắng mặt trong vòng vài tiếng. Đến giờ ăn tối, cô vẫn chưa về, nên bà Mason và chàng trai đành dùng bữa mà không có cô. Sau bữa tối, Ferdinand vào phòng khách nhỏ, hoàn toàn thơ ơ với việc khi nào anh sẽ gặp cô. Dù thấy cô hay không thấy cô, thời gian đều trôi qua nặng nề như thế. Chẳng bao lâu sau khi những người cùng sống của cô rời bàn ăn, cô cưỡi ngựa đến cửa, xuống ngựa, mệt và đói, đi thẳng vào phòng ăn và ngồi ăn theo thói quen. Sau nửa tiếng, cô bước ra và băng qua hành lang để lên cầu thang rồi nhìn thấy Mason trong phòng khách. Cô quay lại, một tay nhấc chiếc váy dài, tay kia đưa miếng bánh ngọt nhỏ lên môi, dừng trước cửa để chúc anh một ngày tốt lành. Anh rời ghế, và tiến về phía cô. Khuôn mặt cô nở một nụ cười có phần rã rời.
“Vậy là cô sắp kết hôn,” anh đột ngột lên tiếng.
Cô Hofmann khẽ gật đầu cho thấy là đúng vậy.
“Tôi chúc mừng cô. Thứ lỗi cho tôi nếu tôi xuềnh xoàng quá. Tôi chỉ làm theo những cảm nhận mà tôi cho phép.”
“Đừng lo,” Caroline nói, mỉm cười, và cắn một miếng bánh.
“Tôi không chắc liệu chuyện này có đáng bất ngờ đến thế không. Nhưng anh không còn nghi ngờ gì nữa chứ?”
“Hoàn toàn không.”
“Ừ thì, Knight là một người rất tốt. Tôi vẫn chưa gặp anh ấy,” anh tiếp tục, khi thấy Caroline im lặng. “Tôi cũng không vội gặp anh ấy. Nhưng tôi nhất định sẽ nói chuyện với anh ấy. Tôi sẽ nói rằng nếu anh ấy không làm tròn bổn phận với cô, thì tôi sẽ...”
“Sẽ?”
“Tôi sẽ nhắc nhở anh ta về điều đó.”
“Ôi, tôi sẽ làm việc ấy,” cô Hofmann nói.
Ferdinand nhìn cô đầy nghiêm túc. “Trời ạ, cô biết không,” anh nói lớn, “mọi chuyện phải rõ ràng không thể lẫn lộn được.”
“Tôi không hiểu ý anh.”
“Ôi, tôi hiểu tôi đang nói gì. Cô không phải kiểu phụ nữ có thể bị vứt bỏ, cô Hofmann ạ.”
Caroline tỏ vẻ bực bội. “Tôi không hiểu ý anh,” cô lặp lại. “Thứ lỗi cho tôi. Tôi mệt quá.” Rồi cô nhanh chóng đi lên lầu.
Ngày hôm sau, Ferdinand có cơ hội gửi lời chúc mừng tới viên bác sĩ. “Tôi không chúc mừng cậu vì làm được điều đó,” anh nói, “mà là vì cách cậu thực hiện.”
“Cậu biết những gì rồi?” Knight hỏi.
“Chẳng biết gì hết. Thế nên tôi mới chúc mừng. Cậu đã rất thận trọng. Và cậu sẽ cử hành hôn lễ vào mùa thu à?”
“Tôi mong là thế. Có lẽ tổ chức đơn giản thôi. Cha xứ sẽ thực hiện nghi lễ, còn bà Mason, mẹ tôi và cậu có thể giúp đảm bảo mọi thứ diễn ra suôn sẻ.” Rồi viên bác sĩ đặt tay lên vai Ferdinand.
“Ôi, tôi là người cuối cùng có quyền quyết định,” Mason nói. “Nếu anh ta bỏ sót điều gì, tôi sẽ đảm bảo không kêu ca.” Người ta thường nói rằng, bên cạnh niềm sung sướng tột độ, không trạng thái nào lại rộn ràng hơn nỗi thống khổ lớn lao. Có lẽ chính vì thế mà Ferdinand hài hước được. Anh giữ một tinh thần thoải mái. Anh trò chuyện, cười nói và thư thái với thái độ tôn trọng nhưng lười biếng như xưa. Trong khoảng thời gian trước khi đám cưới diễn ra, hai bên đã thống nhất rằng cô Hofmann nên tới thăm và ở lại vài ngày với mẹ chồng tương lai, để cô có thời gian riêng tư và tự do hơn bên cạnh người yêu, so với khi ở nhà. Cô vắng mặt một tuần; một tuần ấy Ferdinand phải hoàn toàn dựa vào bà chủ nhà để tìm niềm vui và sự chăm sóc, thứ mà anh thấy rõ là mình rất cần. Đôi lúc, anh cảm tưởng mình chỉ đang sống nhờ vào sức mạnh của ý chí, và nếu lơ là, anh sẽ ngã quỵ xuống giường và không thể dậy nổi nữa. Anh cấm bản thân nghĩ về Caroline và tự nhủ phải suy ngẫm về mối tình khác, mối tình đầu của anh, người mà anh đã trao lời hẹn ước từ lâu, cô ta mang trăm cái tên: công việc, thư từ, triết học, danh vọng. Nhưng, sau khi Caroline ra đi, việc không nghĩ đến cô trở nên vô cùng khó khăn. Ngay cả khi không có mặt, cô vẫn vô cùng nổi bật. Điều duy nhất mà Ferdinand có thể làm là tìm đến sách để trốn tránh, anh đọc một số lượng sách khổng lồ, với sự quyết liệt, say mê và ngấu nghiến, đồng thời trò chuyện với bà Mason và tham gia các mối quan hệ xã hội. Bà Mason là người hay buôn chuyện, buôn chuyện ở một mức độ lớn đến mức biến thói quen ấy thành một phẩm tính. Hơn nữa, bà còn là người buôn chuyện giàu trí tưởng tượng, không chỉ bàn chuyện hiện tại hay quá khứ mà còn cả tương lai - với vô số khả thể thú vị thiếu chắc chắc, cùng các chuyện cũ rích bị đề cao thái quá. Với bà, Ferdinand thường bàn về chuyện tương lai của mình, và bà luôn luôn lắng nghe với sự cảm thông thành thực và hiểu biết nhất. Một người đàn ông, anh tuyên bố, không thể làm được gì tốt hơn; và anh ta chắc chắn có thể lựa chọn những thứ còn tệ hơn nữa. Bà Mason đã sắp xếp một chuyến du lịch tới châu Âu và nơi ở cho người cháu trai, theo lối của một người rất am hiểu. Khi Caroline kết hôn, bà sẽ chuyển ra nước ngoài, và chọn lấy một thủ đô nơi mà góa phụ người Mỹ với thu nhập thoải mái như bà có thể dễ dàng sinh sống. Bà sẽ biến nơi ở của mình thành một căn cứ tiếp tế, một pied à terre5 cho Ferdinand, người có thời gian thoải mái để khám phá và thăm thú mọi địa điểm ở châu Âu và phương Đông. Bà sẽ để anh tự do ra vào theo ý muốn và sống theo cách mà anh thích; và tôi phải nói rằng, nhờ có những quan sát về lối ứng xử của người Lục địa của bà Mason, sự cho phép rộng lượng này trong mắt bà bao hàm nhiều điều như trong suy nghĩ của Ferdinand, người chưa từng rời khỏi đất nước của mình. Tất cả những gì bà yêu cầu ở anh chỉ là thỉnh thoảng hãy xuất hiện hai lần mỗi năm trong phòng khách của bà và kể cho bà nghe các câu chuyện về những gì anh đã trông thấy; căn phòng khách mà bà đã hình dung trong tâm trí - một entresol6 nhỏ xinh với các tấm màn thêu trang trí ở cửa ra vào và một nhà để xe ở sân bên cạnh. Bà Mason không phải một nhà đạo đức khắc nghiệt; nhưng bà là một phụ nữ rất sáng suốt và không muốn làm hư đứa cháu trai, hay xúi anh đùa bỡn với tương lai của chính mình, cái tương lai mà cuộc chiến đã khiến nó trở nên nhẹ bẫng theo cách nghiệt ngã. Không; bà yêu mến anh; bà cho rằng anh là chàng trai trí tuệ nhất, nhiều triển vọng nhất. Bà mong chờ ngày mà tên tuổi của anh sẽ được mọi người biết đến, và đấy sẽ là điều may mắn lớn khi bà tình cờ kết hôn với chú của anh. Bản thân bà là một người rất am tường chuyện con người và lề lối, bà muốn tạo cho anh các lợi thế mà bà đã không có được trong đời mình.
Trong các hoạt động xã giao, Ferdinand cùng bà chủ nhà đi thăm hỏi, ra ngoài ăn tối hai lần, và thậm chí khiến bà Mason phải tự mình tổ chức một buổi tiệc mời khách. Anh chủ trì những dịp này với sự lịch lãm và phong thái hết sức ấn tượng. Hơn nữa, lời mời dự tiệc ở nhà Stapleton, bạn của cô Hofmann, đã được gửi đi vài ngày trước. Vì bữa tiệc không có phần khiêu vũ, Ferdinand đã mạnh dạn tuyên bố rằng anh sẽ đến tham dự. “Ai mà biết được?” anh nói; “nhỡ điều này mang nhiều lợi ích cho cháu hơn là gây hại thì sao. Chúng ta có thể đến muộn, và về sớm.” Bà Mason nghi ngờ hành động này liệu có thực sự khôn ngoan, song cuối cùng bà cũng đồng ý và sửa soạn. Khi họ rời nhà thì đã muộn, lúc tới nơi, các phòng - những căn phòng rất rộng - đã chật kín người. Mason, lần đầu lộ diện trước xã hội, nhận được sự chào đón nồng nhiệt và chỉ trong vài phút, anh đã có cơ hội nói chuyện riêng với cô Edith Stapleton, bạn thân của Caroline. Cô gái trẻ này chưa từng xuất hiện trong câu chuyện của chúng ta, bởi câu chuyện này buộc phải ngắn gọn và chỉ gạn lọc những yếu tố cần thiết. Nếu có thể mở rộng phạm vi câu chuyện thêm một chút, có lẽ từ lâu chúng ta đã thì thầm với nhau về cô Stapleton, một cô gái duyên dáng, đã dành tình cảm đặc biệt cho Ferdinand của chúng ta hơn bất cứ người đàn ông nào khác. Việc Ferdinand hoàn toàn không hay biết chính là lý do chúng ta không đề cập tới cô, và vì vậy, chúng ta chỉ nấn ná một chút để gợi chuyện rằng cô gái trẻ chắc hẳn đã rất hạnh phúc vào khoảnh khắc ấy.
“Cô Hofmann có ở đây không?” Mason hỏi cô khi họ cùng bước vào căn phòng bên cạnh.
“Anh gọi như thế là có mặt hay không?” cô Stapleton nói, mắt nhìn về phía bên kia căn phòng. Mason cũng nhìn theo.
Ở đó, anh thấy cô Hofmann, trong bộ váy trắng lộng lẫy, đang đứng trước một vòng bán nguyệt gồm không dưới năm quý ông - tất tật đều điển trai và sang trọng. Đầu và vai cô thanh thoát nổi bật nhờ các chỗ phồng lên của chiếc váy tuyệt đẹp, cô nhìn và lắng nghe với vẻ nửa như mơ màng, điều hoàn toàn dễ hiểu khi một người phụ nữ được vây quanh bởi những người ái mộ. Khi Caroline nhìn thấy bạn mình, cô ngạc nhiên, nhìn chằm chằm trong giây lát, rồi cúi chào anh với dáng vẻ duyên dáng nhất có thể - một cái cúi chào duyên dáng đến mức nhóm người vây quanh cô gần như tự động tản ra để nhường chỗ, và họ quay lại nhìn xem cái cúi chào đó dành cho ai. Nhân cơ hội ấy, cô Hofmann tiến lên vài bước. Ferdinand đi tới phía cô, và ngay tại đó, trước mặt hàng trăm quý ông và quý bà, cô đưa tay cho anh, mỉm cười với anh bằng một nụ cười ngọt ngào lạ thường. Họ cùng nhau quay lại chỗ cô Stapleton, và Caroline mời anh ngồi, trong khi cô và bạn mình ngồi hai bên. Trong suốt nửa tiếng Ferdinand có vinh dự nhận được toàn bộ sự chú ý của hai cô gái quyến rũ nhất buổi tiệc và, nhờ sự ưu ái ấy, anh cũng thu hút được sự quan tâm của tất cả mọi người trong hội trường. Sau đó hai cô gái lần lượt giới thiệu anh với mọi quý cô và quý bà nổi danh nhất về sắc đẹp hoặc trí tuệ trong buổi tiệc. Ferdinand đã nhanh chóng thích ứng và thể hiện một phong thái lịch thiệp chưa từng có. Tất nhiên, anh để lại ấn tượng tuyệt vời với mọi người xung quanh, nhưng chính anh cũng cảm thấy choáng ngợp trước sự tự tin của mình. Tuy nhiên, tôi buộc phải thêm rằng, anh đã phải tự tiếp sức liên tục bằng những ly rượu; và ngay cả với sự trợ giúp của chất kích thích nhân tạo này, anh vẫn không thể che giấu bà Mason và bác sĩ của mình rằng anh trông quá giống một người bệnh để có thể thực sự có mặt ở đó.
“Liệu có thứ gì giống như sự thèm khát của những người phụ nữ đáng sợ này không?” bà Mason nói với bác sĩ. “Họ thà để một người đàn ông ngất xỉu dưới chân mình còn hơn phải rút ngắn một cuộc tête-à-tête7 giúp họ tiêu khiển. Rồi họ lại chuyển sang người khác. Nhìn cô McCarthy, đằng kia kìa, Ferdinand và George Stapleton đang đứng trước cô gái. Cô gái khiến họ tranh cãi, và trông cô bé như một kỹ nữ La Mã nơi trường đấu. Còn cô gái đâu có bận tâm miễn là được tận hưởng buổi tối của mình? Họ cũng thích một người đàn ông trông như thể sắp ngất, điều ấy thật thú vị.”
Knight đi đến chỗ bạn mình và nghiêm khắc nói rằng đã đến lúc anh nên về nhà và đi ngủ. “Cậu trông thật tồi tệ,” anh nói một cách sắc sảo, khi thấy Ferdinand phản đối.
“Anh trông không tồi chút nào, Đại tá Mason,” cô McCarthy, một cô gái táo bạo, đã nghe thấy và lên tiếng.
“Đó không phải chuyện sở thích, thưa cô,” bác sĩ tức giận đáp lại, “đó là sự thật.” Sau đó, anh dẫn bệnh nhân của mình rời đi.
Ferdinand khăng khăng rằng anh đã không tự gây hại, ngược lại, anh cảm thấy rất khỏe; nhưng khuôn mặt anh phản lại chính anh. Anh tiếp tục vờ như khỏe mạnh thêm hai hay ba ngày tiếp theo, với sự can đảm đáng lẽ phải dành cho lý do chính đáng hơn. Cuối cùng, anh để cho bệnh tật lấn át. Anh tựa mình vào gối, mân mê chiếc đồng hồ và bắt đầu tự hỏi mình sẽ còn chứng kiến thêm được bao nhiêu lần kim đồng hồ quay. Viên bác sĩ đến, và chỉ trích anh về cái mà anh gọi là sự thiếu thận trọng. Ferdinand kiên nhẫn lắng nghe viên bác sĩ, anh khẳng định thận trọng hay thiếu thận trọng chẳng liên quan mấy đến tình hình của anh; cái chết đã nắm chặt lấy anh, và giờ đây mối bận tâm duy nhất của anh là làm sao để giảng hòa với kẻ bắt giữ mình. Cùng ngày hôm ấy, anh đã gọi luật sư đến và sửa đổi di chúc của mình. Anh không có người thân nào, và lượng tài sản khiêm tốn của anh được để lại cho một quý ông mà anh quen biết, người không thực sự cần đến nó. Bây giờ anh quyết định chia tài sản thành hai phần không đều, phần nhỏ hơn anh để cho William Bowles, người hầu của bà Mason và cũng là người phục vụ riêng của anh; phần lớn hơn - tương đương với một khoản tiền đáng kể - dành cho Horace Knight. Anh đã thông báo cho bà Mason về việc thu xếp này và rất vui mừng khi nhận được sự đồng thuận từ bà. Kể từ lúc ấy, sức lực của anh bắt đầu suy giảm nhanh chóng, và ý chí kiên cường bấy lâu cũng dần tan rã, như những mảnh vỡ trôi trên dòng nước cạn. Việc cố gắng trò chuyện, giết thời gian, theo dõi các dấu hiệu hay đếm từng giờ, đều trở nên vô nghĩa. Một người phục vụ thường xuyên túc trực bên cạnh anh, còn bà Mason chỉ thỉnh thoảng mới xuất hiện. Người phụ nữ tội nghiệp ấy cảm thấy như tim mình vỡ ra và bà dành hầu hết thời gian để khóc. Cô Hofmann vẫn ở nhà bà Knight, chuyện hết sức tự nhiên. “Theo như anh phán đoán,” Horace nói, “tình trạng này chỉ kéo dài khoảng một tuần. Nhưng đây là ca kỳ lạ nhất mà anh từng biết. Cậu ấy đang dần hồi phục.” Vào ngày thứ năm, Horace đưa cô Hofmann về nhà, theo đề nghị của cô rằng cô cần bày tỏ chút lòng thương cảm với chàng trai trẻ. Horace tiến đến gần giường của Ferdinand và thấy anh chàng tội nghiệp đang trong trạng thái tơ mơ nửa mê nửa tỉnh, trạng thái mà anh đã trải qua trong suốt bốn mươi tám giờ. “Ngài Đại tá,” Horace nhẹ nhàng hỏi, “cậu nghĩ cậu có thể gặp Caroline không?”
Để đáp lại, Ferdinand từ từ mở mắt. Horace đi ra, và dẫn bạn gái của mình trở lại căn phòng tối. Cô dịu dàng bước đến bên giường, đứng nhìn người đàn ông ốm yếu một lúc, rồi cúi xuống gần anh.
“Tôi nghĩ tôi cần đến thăm anh một chút,” cô nói. “Điều này có làm phiền anh không?”
“Không đâu,” Mason trả lời, nhìn thẳng vào mắt cô. “Không phiền bằng một nửa so với một tuần trước. Mời cô ngồi.”
“Cám ơn anh. Nhưng Horace sẽ không cho phép tôi. Tôi sẽ quay lại sau.”
“Sẽ không có lần sau đâu,” Ferdinand nói. “Tôi không thể gắng gượng quá hai ngày nữa. Hãy bảo họ ra ngoài. Tôi muốn được nói chuyện riêng với cô. Tôi không định gọi cô đến, nhưng giờ cô đã ở đây rồi, tôi muốn tận dụng cơ hội này.”
“Cậu có điều gì đặc biệt muốn nói không?” Knight hỏi một cách thiện chí.
“Ôi, thôi nào,” Mason đáp, cố nặn một nụ cười niềm nở, nhưng trông lại rất hãi; “chắc anh không định hơn thua với tôi vào lúc này đấy chứ.”
Knight nhìn cô Hofmann xin phép, rồi rời khỏi phòng cùng y tá. Song chưa đầy một phút sau, cô Hofmann vội vàng chạy sang phòng bên, mặt mày tái nhợt và hoảng hốt.
“Sang với anh ấy ngay!” cô kêu lên. “Anh ấy sắp chết rồi!”
Khi họ tới nơi thì anh đã chết.
Vài ngày sau di chúc của anh được công bố, và Knight mới biết về số tài sản mà mình nhận được. “Cậu ấy là một chàng trai tốt bụng và hào phóng,” anh nói với bà Mason và cô Hofmann, “và cháu sẽ luôn luôn cảm thấy không yên lòng vì biết đâu cậu ấy có thể đã hồi phục. Đó thực sự là một ca vô cùng lạ.” Anh đủ ý tứ để không nói thẳng với người nghe rằng anh rất muốn có cơ hội thực hiện một cuộc khám nghiệm tử thi. Đám cưới của cô Hofmann, tất nhiên, không bị hoãn lại. Cô kết hôn vào tháng Chín, một cách kín đáo. Trong thời gian này, người yêu của cô cảm thấy cô rất trầm lặng và suy tư. Song điều này rõ ràng là bình thường trong hoàn cảnh ấy.
Thanh Nghi dịch
1 Cuộc Nội chiến Mỹ.
2 Tiếng Pháp: Đời sống riêng tư.
3 Tiếng Pháp: Thô lỗ, cộc cằn.
4 Tiếng Pháp: Người được bảo trợ.
5 Tiếng Pháp: Chốn dừng chân.
6 Tiếng Pháp: Căn gác lửng.
7 Tiếng Pháp: Trò chuyện thân mật.
Project Henry James
James viết
Những người châu Âu, Phan Lương dịch
Vẽ một phụ nữ, Anh Hoa dịch
Con quái vật trong rừng & Ban thờ người chết, Anh Hoa dịch
Daisy Miller & Di sản Aspern, Phan Lương & Anh Hoa dịch
Bi kịch từ lỗi, Chi Quân dịch
Một vấn đề, Công Hiện dịch
Bốn cuộc gặp, Công Hiện dịch
Hình tượng trên tấm thảm, Anh Hoa dịch
Richard khốn khổ, Nguyễn Hoài dịch
De Grey: Một chuyện tình, Hoàng Trang dịch
Đám cưới của Longstaff, Bùi Gia Bin dịch
Một ca vô cùng lạ, Thanh Nghi dịch
James đọc
đọc Balzac
đọc James
Gertrude Stein
về James
Daisy (AH)
James và Stevenson (CVD)
James và Turgenev (CVD)
Sống tiếp (AH)
Tại sao Isabel khóc? (AH)
Những người châu Âu (CVD)
Henry James và sự vui lớn (PL)