Emerson về Walter Savage Landor
Walter Savage Landor
- Emerson
Đôi khi chúng ta bắt gặp trên một cỗ xe ngựa ở New England một người đàn ông gân guốc thẳng tắp, có nước da tươi và đội một cái mũ nhẵn nhụi, giọng nói ngập ngừng của người ấy ngay lập tức tiết lộ đó là du khách Anh; – một người đàn ông không hề cẩn thận giấu tên hay quê hương của anh ta, cũng như một lòng mến chuộng rất nhỏ dành cho những con người và đất nước xung quanh anh ta. Khi Mr. Bull ấy đi trên một cỗ xe ngựa Mỹ, anh ta nói nhanh và mạnh, anh ta rất sẵn lòng thú nhận rằng không biết gì về mọi thứ xung quanh, những con người, cung cách, phong tục, chính trị, địa lý. Anh ta tự hỏi tại sao người Mỹ xây nhà bằng gỗ, trong khi lát những viên đá kia trên vệ đường, và ngạc nhiên khi biết rằng một ngôi nhà gỗ lại có thể tồn tại được một tram năm; anh ta cũng chẳng còn nhớ sự thật ấy chỉ vài phút sau khi được nói cho biết; anh ta thắc mắc sao người ta không làm rượu cơm cháy hay rượu anh đào, bởi ở đây có nhiều anh đào, và mỗi dặm đường đều rợp đầy những bụi cây cơm cháy. Anh ta chưa từng nhìn thấy một con ngựa tốt ở Mỹ, cũng chưa từng thấy một cỗ xe tốt, hay một nhà trọ tốt. Đất và nước ở đây rất tốt, và có rất nhiều, – đến mức anh ta tự tiện cho phép, – so với tất tật những quà tặng của tự nhiên hay con người, đôi mắt anh ta bị bịt kín bởi nhu cầu không thể cưỡng lại đối với các loại tiện nghi tỉ mỉ anh ta vốn quen thuộc ở Anh. Bổ sung cho sự kiêu ngạo mù quáng này là phẩm chất dồi dào hơn của sự thẳng thắn tuyệt diệu khi nói sự thật, và tình yêu dành cho việc đối xử công bằng, trong mọi trường hợp, và, hơn thế nữa, đặc điểm được cho là đặc trưng của người Anh, các đức tính của anh ta chẳng bộc lộ cho đến khi anh ta cãi vã. Hãy đặt những đặc điểm này vào một trí tuệ rất thanh nhã và hoàn thiện, chúng ta sẽ có một hình dung không tồi về Walter Savage Landor, có thể xem đó là một bản sao hoàn hảo của thiên tài đồng hương của anh ta ngày nay. Một người đàn ông giáo điều sắc lẹm có một khối lớn kiến thức, một giá trị lớn, và một sự kiêu ngạo lớn, với một sự khinh miệt sâu sắc dành cho tất cả những gì ông không hiểu, một bậc thầy của mọi học vấn tao nhã và có khả năng thể hiện tình cảm tinh tế nhất, tuy vậy lại có xu hướng nuông chiều một kiểu phô trương hình ảnh và ngôn ngữ thô thiển. Những điều ưa chuộng và ghét bỏ của ông chẳng thể nào đo đếm được, nhưng thường kỳ quặc và vui nhộn; nhưng chúng hoàn toàn chân thành, và, giống như Johnson và Coleridge, dễ dàng tách rời khỏi con người. Những gì ông nói về Wordsworth, cũng đúng với bản thân ông, rằng ông ấy thích thú quẳng một cục đất lên bàn, rồi kêu lên, “Thưa các ngài, đây là một người tốt hơn bất kỳ ai trong các ngài.” Bolivar, Mina, và General Jackson sẽ không bao giờ là những chiến binh vĩ đại hơn Napoleon và Alexander, mặc Mr. Landor có nghĩ thế nào đi nữa; và ông cũng không thuyết phục được chúng ta đem thiêu Plato và Xenophon, chỉ vì lòng ngưỡng mộ chúng ta dành cho Giám mục Patrick, hay “Lucas bàn về hạnh phúc,” hay “Lucas bàn về sự thánh thiện,” hay thậm chí các bài giảng của Barrow. Tuy vậy một người vẫn có thể yêu một nghịch lý, mà không đánh mất cả trí tuệ cũng như sự trung thực của mình. Một điều lập dị khó tha thứ hơn là sự phô trương lạnh lùng và vô cớ những hình ảnh phóng túng, nhưng không gợi lên nhiều niềm vui bằng nỗi cay đắng. Montaigne viện lý do cho lối nói năng tự do của mình, đó là ông đã chán ngấy phải nhìn thấy các Tiểu luận của ông trên bàn làm việc các quý bà, và ông quyết tâm trong tương lai sẽ gạt bỏ chúng khỏi tầm mắt. Trong sự sơ sài của Mr. Landor có một chút gì đó thách thức; và các từ thô dường đôi khi phát xuất từ một nỗi ghê tởm đối với sự tử tế và vẻ cầu kỳ quá mức. Trước một nhóm người ăn mặc sang trọng ông nhúng ngón tay vào thùng nước bẩn, như thể cố tình để lộ ra sắc trắng đôi bàn tay và mặt ngọc trên nhẫn. Sau đó, ông rửa chúng bằng nước, ông rửa chúng bằng rượu; nhưng bạn không bao giờ an toàn trước những trò quái đản của ông. Giống như một kiểu Bá tước Peterborough trong văn chương, sự lập dị của ông quá rõ ràng đến nỗi chẳng làm giảm đi sự vĩ đại của ông. Ông có đủ vốn để cấp cho bộ não năm mươi tác giả nổi tiếng, nhưng lại chẳng viết được một quyển sách nào hay.
Nhưng chúng ta đã kể ra hết mọi sự bất bình. Có lẽ tác phẩm của ông đang chào đón những chỉ trích còn gay gắt hơn; nhưng chúng ta yêu người này bởi sự đồng cảm, cũng như bởi những lý do đã nêu; và chúng ta chẳng hề muốn, nếu như có thể, đặt một lập luận nào vào miệng những người chỉ trích ông. Suốt hai mươi năm qua chúng ta vẫn tìm thấy ở “Những trò chuyện tưởng tượng” một nguồn chắc chắn trong nỗi cô độc, và dường đối với chúng ta nó độc đáo cả về hình thức lẫn nội dung. Hơn nữa, khi chúng ta nhớ lại những trang viết dồi dào và đồ sộ của ông, nơi chúng ta luôn tìm thấy suy nghĩ tự do và liên tục, một sự hiểu sắc sảo và chính sắc, một trí nhớ thật nhạy và phong phú dường quen thuộc với tất tật những sách tuyển chọn, một sự quan sát tỉ mẩn trong mọi phần của cuộc sống, một trải nghiệm mà chẳng gì đã xảy ra lại vô ích, danh dự cho mọi tình cảm chính đáng và hào phóng, và một tai họa giống như Furies phải chịu trước mọi kẻ áp bức, dù công khai hay riêng tư, chúng ta cảm thấy sự trang nghiêm quá đỗi của vị kiểm duyệt viên ngồi trên ghế xét xử, và chúng ta muốn cảm ơn một vị ân nhân của thế đới đọc.
Mr. Landor là một trong những người tiên phong của tầng lớp nhỏ đã thực hiện được vào thế kỷ mười chín những đòi hỏi của văn chương thuần túy. Trong thời đại bận rộn của dã tâm và tham vọng, khi người ta hầu không có khuynh hướng suy nghĩ sâu sắc, hoặc chẳng có bất kỳ thú vui trí tuệ nào ngoài những thú tiêu khiển hời hợt nhất, một học giả trung thành đã tiếp nhận từ những thời đại đã qua kho tàng của trí tuệ, và mở rộng thêm bởi tình yêu của riêng mình, chính là một người bạn và người an ủi nhân loại. Khi chúng ta nhắc đến tên của Homer và Aeschylus, – Horace, Ovid, và Plutarch, – Erasmus, Scaliger, và Montaigne, – Ben Jonson và Isaak Walton, – Dryden và Pope, – chúng ta ngay lập tức thoát khỏi những liên tưởng tầm thường, và bước vào một vùng đất của niềm vui thuần khiết nhất khả dĩ tiếp cận với bản tính con người. Chúng ta đã rời bỏ tất tật dưới ánh trăng, bước vào quả cầu pha lê nơi mọi thứ của thế giới vật chất tái hiện, nhưng được biến đổi và bất tử. Văn chương là nỗ lực của con người để tự đền bù cho những sai lầm trong tình trạng của mình. Sự tồn tại của kịch tác gia nghèo nhất và người chép văn khiêm tốn nhất là một điềm lành. Một sự quyến rũ gắn liền với những cái tên thấp kém nhất, bằng cách nào đó đã được ghi danh vào quyển sổ của Nhà Danh vọng, ngay cả với tư cách người khuân vác và giữ ngựa trong cung điện, cho đến Creech và Fenton, Theobald và Dennis, Aubrey và Spence. Từ khoảnh khắc bước vào thư viện và mở ra một cuốn sách mong muốn, chúng ta không còn là công dân, chủ nợ, con nợ, quản gia, hay những kẻ thường xuyên lo âu và khiếp sợ. Thật đúng là nhàn rỗi vô tận! thật đúng là quyền hạn nguyên thủy! những chòm tinh tú cũ đã lặn, những chòm mới và sáng hơn mọc lên; một ánh sáng thiên đường nhốm màu vạn vật.
“Vào buổi chiều chúng tôi đến một vùng đất dường lúc nào cũng là buổi chiều.”
Và nơi trú ẩn ngọt ngào của đời sống trí thức này hẳn phải được thiên nhiên chấp thuận, chừng nào còn có rất nhiều người được sinh ra với một năng lực đọc và viết quá rõ rệt như vậy. Chúng ta hãy biết ơn khi cho phép mọi năng khiếu và nghệ thuật mở ra những chân trời mới cho một cuộc sống chật hẹp như cuộc đời chúng ta. Có những khoảng không gian rộng lớn trong một suy nghĩ; một kẻ nô lệ, được khải mở tình cảm tôn giáo, có một sự tự do khiến tự do của ông chủ hắn trở thành nô lệ. Hãy đừng quá hẹp hòi với những kế hoạch đổi mới xã hội và tự nhiên, đến mức coi thường hay phủ nhận tinh thần văn chương. Chắc chắn có những đỉnh cao trong tự nhiên đòi hỏi điều này; lại còn rất nhiều đỉnh cao khác nữa và điều này đòi hỏi. Thật vô ích khi gọi đó là sự xa xỉ, cũng như các vị thánh và các nhà cải cách thường làm, tức lên án nó như một dạng mơ mẩn giữa ban ngày. Vậy những sự thánh thiện, và những cải cách, và tất tật những thứ khác nữa thì sao? Bất cứ điều gì có thể trở thành một yếu tố, phương tiện, cơ quan, người hầu, và sự hiện hữu sâu sắc và lâu dài nhất trong tim và đầu của hàng triệu người, đều phải có lý do cho sự tồn tại của nó. Sự xuất sắc của nó đã đủ là lý do và đủ để biện hộ. Nếu nhịp làm chúng ta vui sướng, thì phải có nhịp, cũng giống như nếu lửa khiến chúng ta phấn khích, chúng ta phải kiếm lửa và than. Mỗi loại xuất sắc đều xuất hiện đúng lúc của nó, và trục xuất mọi thứ khác. Đừng khoác lác về các hành động của bạn, như thể chúng tuyệt hơn thơ của Homer và tranh của Raphael. Raphael và Homer cảm thấy hành động thật đáng thương hại khi đặt bên cạnh những bùa mê của họ. Họ cũng có thể hành động, nếu đáng để làm thế; nhưng giờ thì tất tật những gì tốt đẹp trong vũ trụ đều thúc họ làm nhiệm vụ của mình. Bất cứ ai viết vì tình yêu sự thật và cái đẹp, và không phải vì các mục đích thầm kín, đều thuộc về tầng thiêng liêng này, và trong số đó, ít người của thời này lại có thể được coi trọng hơn Mr. Landor. Ở bất cứ đâu thiên tài hay gu tồn tại, ở bất cứ đâu tự do và công lý bị đe dọa, những thứ ông vốn coi trọng như yếu tố mà thiên tài có thể phát huy, chắc chắn sự quan tâm của ông sẽ được triệu đến. Tình yêu cái đẹp của ông nhiệt thành, tự phát lộ qua mọi biểu hiện hờn dỗi và kinh miệt.
Nhưng ngoài niềm say mê thiên tài, và tình yêu ông dành cho tự do cá nhân hay tập thể, Mr. Landor còn có một nhận thức hiếm hơn nhiều, sự hiểu đúng về tính cách. Điều này càng đáng chú ý hơn khi xét đến tính dân tộc mãnh liệt của ông, mà chúng ta đã đề cập đến. Ông phủ kín vải Anh đến tận cằm. Ông ghét người Áo, người Ý, người Pháp, người Scotland, và người Ireland. Ông có những định kiến thông thường của địa chủ Anh; coi trọng phả hệ, các mẫu đất, và từng âm tiết của tên mình; yêu tất tật lợi thế của mình, không vô cảm trước vẻ đẹp của con dấu đồng hồ, hay hình đầu người Thổ trên cán dù; tuy nhiên, cùng với tất tật những niềm kiêu hãnh hỗn tạp này, bên trong ông có một bản tính cao quý, bảo ông rằng ông quá giàu thành thử có thể bỏ qua mọi hào nhoáng bề ngoài, và, mặc cho kẻ khác tô vẽ hoàn cảnh, khao khát được khắc họa tính cách. Ông tự vẽ chân dung mình trong trang phục một thầy giáo làng, và một thủy thủ, và bình thản tận hưởng chiến thắng của tự nhiên trước số phận. Không chỉ là câu chuyện tỉ mỉ về Normanby, mà cả cách lựa chọn kỳ dị những cái đầu của ông cũng minh chứng cho gu thẩm mỹ này. Ông vẽ với niềm vui rõ rệt chân dung của một người, kẻ không bao giờ nói điều gì đúng, và không bao giờ làm điều gì sai. Nhưng trong tính cách của Pericles, ông đã khai thác triệt để vẻ đẹp và sự vĩ đại của hành vi, khi hoàn cảnh hòa hợp với con người ấy. Những chân dung này, dù chỉ là phác họa, phải được coi là những nỗ lực thuộc loại cao nhất của tự sự, vốn đã chẳng có mấy các ví dụ thành công, lại còn rất ít đối thủ cạnh tranh. Từ Tính cách hiện hữu trong mọi lời nói; đó là một lực mà chúng ta đều cảm thấy; nhưng ai đã phân tích nó? Đâu là bản chất của nguyên tắc tinh tế và uy quyền vốn gắn chặt chúng ta vào một vài người, bởi những mối liên hệ chẳng phải cá nhân mà là tinh thần ở mức cao nhất? Đâu là phẩm chất của những người mà, dù không phải là người của công chúng, không phải các văn nhân, người giàu, người sôi nổi hoạt động, hay (theo nghĩa thông thường) người sùng tín, lại có một sự hiện diện hữu ích nhất định bất biến trong suốt lịch sử cuộc sống của chúng ta, hầu trao phẩm chất riêng của họ cho bầu không khí và cảnh quan? Một sức mạnh luân lý, tuy vậy hoàn toàn chẳng bận tâm đến tín điều và giáo lý, đầy trí tuệ, nhưng khinh miệt sách vở, tác động trực tiếp và không cần phương tiện, và dẫu nó có thể bị kháng cự bất cứ lúc nào, chống lại nó chính là tự sát. Bởi con người đứng trong mối quan hệ cao quý này với đồng loại của anh ta luôn luôn là sự thể hiện họ qua lương tâm của họ. Đó là bằng chứng đủ để cho thấy sự tinh tế tột cùng của yếu tố này, vốn biến mất trước bất kỳ ai ngoại trừ cái nhìn đồng cảm cao nhất, đến mức hiếm khi được sử dụng trong kịch hay trong tiểu thuyết. Mr. Landor, hầu như là người duy nhất trong số các nhà văn Anh còn sống, đã bày tỏ nhận thức của ông về nó.
Những công trạng này khiến vị trí của Mr. Landor trong nền cộng hòa của chữ trở nên vô cùng quan trọng và đầy phẩm cách. Ông thực hiện với một tinh thần cao quý chức vụ của nhà văn, và gánh vác nó với một phong thái quý tộc cổ xưa và không thể chất vấn. Chúng ta chưa từng thấy một ví dụ nào về sự độc lập hoàn toàn hơn như thế trong lịch sử văn chương. Ông chẳng bị gia tộc hay tình bạn nào ràng buộc. Ông là một trong những người đầu tiên tuyên bố Wordsworth là nhà thơ lớn của thời đại, nhưng ông lại cũng chỉ ra những khuyết điểm của Wordsworth với sự tự do còn lớn hơn. Ông yêu mến Pindar, Aeschylus, Euripides, Aristophanes, Demosthenes, Virgil, nhưng với con mắt sáng suốt. Vị trí của ông chẳng phải ở chỗ cao nhất trong văn chương; ông không phải một thi sĩ hay một triết gia. Ông là một người đầy ắp suy tư, không phải, giống như Coleridge, người của các ý tưởng. Chỉ những đầu óc am hiểu Triết học sơ khai mới có thể đưa ra các định nghĩa. Coleridge đã đóng góp nhiều định nghĩa có giá trị cho văn chương hiện đại. Các định nghĩa của Mr. Landor chỉ thuần liệt kê các chi tiết; quy luật chung không được nắm bắt. Nhưng bởi chúng không rút ra từ những ngọn cao nhất của dãy Alps hay Andes, mà từ những đỉnh thấp hơn, nhờ vậy cảnh quan hấp dẫn nhất được chiêm ngưỡng, thế nên Mr. Landor là nhà phê bình hữu ích và dễ chịu nhất. Ông đã bình luận về rất nhiều tác giả, với một sự gần gũi và cái nhìn bao quát, điều này nâng cao giá trị của họ trong mắt độc giả. Cuộc đối thoại về triết học Epicurus của ông là một lý thuyết về thiên tài của Epicurus. Cuộc đối thoại giữa Barrow và Newton là bài phê bình hay nhất trong tất tật mọi phê bình về các tiểu luận của Bacon. Hình ảnh của Demosthenes của ông trong ba cuộc đối thoại thì mới mẻ và thỏa đáng. Ông đã minh họa thiên tài của Homer, Aeschylus, Pindar, Euripides, Thucydides. Thế rồi ông xem xét trước khi diễn giải, và sự tỉ mỉ trong phê bình bằng lời ấy gây tin tưởng vào sự thành thực của ông, khi ông nói bằng ngôn ngữ của suy ngẫm hoặc của dục vọng. Sự am hiểu tiếng Anh của ông là vô song. Ông “ghét những từ giả dối, và tìm kiếm cách cẩn thận, khó nhọc, và buồn tẻ, những từ phù hợp với sự việc.” Ông hiểu rõ giá trị các từ của mình. “Chúng không được viết trên đá,” ông nói. Ông không bao giờ hạ mình xuống giải thích, cũng không dùng đến bảy từ khi nào chỉ cần một. Ông là bậc thầy của cô đọng và nén, và làm thế theo cách chẳng hề thô tục. Ông biết rõ khác biệt lớn giữa lối viết cô đọng và lối cắt xén gây mơ hồ. Người viết theo lối nén chặt vẫn có chỗ thoáng và có thể chọn từ, thậm chí thỉnh thoảng đem lại một tâm trạng vui tươi ở giữa các từ chính xác. Không có thiếu sót hay sự co rút đến khó chịu trong câu của ông, cũng giống như trên mặt một người, ở đó chỉ trong một khoảng vài phân vuông cũng đủ chỗ cho đủ mọi biến thể khác nhau biểu hiện.
Tuy nhiên Mr. Landor chẳng tự nhận mình là một nghệ sĩ. Ông không có tính kịch hay sử thi, ông không có phương pháp cao siêu, áp đảo, mà một bậc thầy vốn sử dụng để tạo nên sự thống nhất và toàn vẹn cho một tác phẩm có nhiều phần. Ông quá ương ngạnh, và không bao giờ buông thả bản thân cho thiên tài của mình. Những quyển sách của ông là sự trộn lẫn của chính trị, từ nguyên học, ẩn dụ, tình cảm, và lịch sử cá nhân, và kỹ năng chuyển đổi mà có lẽ ông sở hữu chỉ thuộc bề ngoài, không phải tinh thần. Rốt cuộc công lao của ông phải được đặt, không phải ở chỗ tinh thần của đối thoại, hay sự cân xứng của bất kỳ chân dung lịch sử nào, mà ở giá trị của các câu. Rất nhiều tác phẩm của ông sẽ tự mình khẳng định sự bất tử của chúng trong văn chương Anh; và như vậy, xét cho đúng, chẳng phải một công lao tầm thường. Chúng không phải thực vật hay động vật, mà là các nguyên tử di truyền, bởi đó mà cả hai thứ kia được cấu thành. Tất tật những món nợ lớn của chúng ta đối với thế giới phương đông đều thuộc loại này, không phải các dụng cụ hay tượng làm bằng kim loại quý, mà là vàng sợi và bụi vàng. Trong rất nhiều câu của Mr. Landor chúng ta thường nhớ lại điều đã nói về những câu của Socrates, rằng chúng là những khối lập phương, vốn luôn đứng vững, dù đặt chúng ở đâu và như thế nào.
Chúng tôi sẽ làm phong phú thêm bài viết của mình bằng một vài đoạn, được vội vàng chọn ra từ các quyển sách của Mr. Landor đang nằm trên bàn.
“Người vĩ đại là người chẳng có gì để e sợ cũng chẳng có gì để hy vọng nơi người khác. Chính là anh ta, kẻ trong khi vạch trần sự bất công của luật, và có khả năng sửa lại chúng, lại tuân thủ chúng cách ôn hòa. Chính là anh ta kẻ nhìn thấy ở tham vọng, cả sự yếu đuối lẫn gian dối. Chính là anh ta kẻ chẳng có nguyên cớ hay dịp nào để nói dối, không có lý do nào để sống hay tỏ ra khác biệt với cái anh ta vốn là. Chính là anh ta kẻ có thể tập hợp lại những bạn đồng hành tinh nhuệ khi nào anh ta muốn. … Tôi sẽ gọi anh ta là con người quyền lực kiểm soát được những giông bão của tâm trí mình, và biến những tai nạn tệ hại nhất trở thành vận may. Con người vĩ đại ấy, tôi sắp cho bạn thấy, còn hơn thế nữa. Anh ta phải có khả năng làm được việc ấy, và anh ta phải có trí tuệ có thể khơi dậy trí tuệ của người khác.”
“Tất tật mọi danh nghĩa khác đều phải được tạo ra bởi người khác; một hiệp sĩ bởi một hiệp sĩ khác, một quý tộc bởi một vị vua, trong khi đó một gentleman thì tự tồn tại.”
“Các nhà phê bình nói rất nhiều về cái hữu hình của cái cao cả… sao Mộc, sao Hải vương. Tầm vóc lớn và sức mạnh thì tuyệt diệu, nhưng ở mức thứ yếu, dù thế nào đi nữa. Ở đâu trái tim không rung động, các vị thần nổi sấm và tiến lên trong vô vọng. Cái siêu việt đích thực là sự hoàn hảo của bi thương, vốn có nguồn gốc khác với lòng thương hại; sự hào phóng, chẳng hạn, và lòng tận tụy. Khi người hào phóng và tận tụy chịu đau khổ, Thương hại sẽ xuất hiện; cơ sở của cái siêu việt khi ấy đặt trên nước, và nhà thơ, dù có hay không có các vị thần, có thể nâng nó lên cao hơn cả bầu trời. Nỗi kinh hoàng chẳng là gì ngoài tàn dư của một cảm xúc trẻ con; lòng thương hại không dành cho trẻ con. Ông ta nói như thế; tôi chẳng biết có đúng hay không, bởi những người thông thái nhất có quan điểm khác nhau về thi ca, kiến thức về nó, giống như những chân lý quan trọng khác, dường dành riêng cho một trạng thái cảm xúc và tồn tại thuần khiết hơn.”
“Ôi Cyrus, ta đã nhận thấy rằng các giả của điều thiện khiến con người trở nên thật tệ mỗi khi nào họ nói quá nhiều về chúng.”
“Thói diễn thuyết dông dài tự nó thật độc hại; tôi biết ngay cả những người thiện tâm và sùng đạo, những người tự do và nhân đạo cũng bởi thói ấy mà trở nên ích kỷ và phù phiếm, và tôi đã chứng kiến tâm trí trở nên đen kịt và thối rữa trong làn khói của nó.”
Vinh quang
“Vinh quang là ánh sáng tỏa ra từ chúng ta lên người khác, không phải từ người khác lên chúng ta.”
“Nếu ngươi yêu Vinh quang, người phải tin vào chân lý của nó. Nó sẽ theo đuổi kẻ nào không ngoái lại nhìn nó.”
Richard I
“Giờ hãy để ta kể chuyện của ta… để việc xưng tội vào một dịp khác. Ta đã dong thuyền dọc theo lãnh thổ gia tộc mình; bên phải là nước Anh, bên trái là nước Pháp; ta chẳng khám phá được gì ngoài những ngọn đồi cằn cỗi và những bãi cạn mênh mông. Chúng chạy trốn sau lưng ta; các thế hệ này qua đi; thế nên tình cảm cũng thay đổi, và chìm xuống, và chết đi. Giữa đại dương rộng lớn ta lại là một ông vua bé nhỏ; những người già hướng dẫn ta, các cậu bé chỉ bảo ta; những người này chỉ ta biết tên các thị trấn và bến cảng, những kẻ khác cho thấy phạm vi lãnh thổ của mình; một đám mây, vốn tan biết chỉ sau một giờ, đã che phủ một nửa toàn bộ.
“Ta cập bến Sicily. Ta để tay lên ngai vàng của Tancred, và đặt mình vào đó. Ta lại dong thuyền, và trong một hoặc hai ngày ta đã nhìn thấy, khi mặt trời đang lặn, vẻ uy nghi cô độc của Crete, đất mẹ của một tôn giáo, người ta nói, đã tồn tại hai nghìn năm. Tiến lên, và vô số đốm sáng nổi lên dọc theo Aegean xanh thẳm; các hòn đảo kia, mỗi đảo trong số chúng, mà nếu các bài hát và chuyện kể của đám hoa tiêu đúng, là tượng đài của một người vĩ đại hơn ta. Ta rời xa chúng… và vì ai? Ôi, thưa cha, để nhập vào cùng những sinh vật còn kém quan trọng hơn lũ cá đuối neo trên vách đá; những kẻ cầu xin được lắng nghe, và sợ được hiểu, ham muốn quyền lực của kẻ khác giữa lúc ăn năn, thèm khát của cải của kẻ khác sau lời thề sống nghèo khó, và ghen tỵ với vinh quang của kẻ khác khi đang phụng sự Chúa. Đây là đạo Cơ Đốc sao? Và Saladin đáng bị nguyền rủa nếu hắn khinh bỉ nó sao?”
Demosthenes
“Khi ta nhớ ra mình là ai, ta không thể nào kém cỏi hơn. Sức mạnh bên ngoài chỉ có thể tác động lên những ai không có bản chất tự nhiên. Eubulides, ta đã chứng kiến cái ngày mà thành phố uy nghiêm nhất chỉ còn một tiếng nói bên trong tường thành; và khi kẻ lạ, trên đường tiến vào, dừng lại trước sự im lặng ở ngưỡng cửa, và bảo, ‘Demosthenes đang nói giữa đám đông.’”
“Ít có ai hình thành quan niệm về sự vĩ đại từ cá nhân. Ovid nói, ‘thiếu nữ là phần nhỏ nhất của chính mình.’ Về phần ông ấy, chắc chắn, con người cũng vậy.”
“Không người nào lại bông đùa như những kẻ có đầu óc phần nào lệch lạc. Sự thật tận hưởng không khí lành và ánh tráng trong, nhưng không có sân chơi.”
“Ta nhận ra rằng phương tiện chính (để thỏa mãn khát vọng phổ quát về hạnh phúc) nằm ở việc tránh xa chính những thứ mà từ trước đến nay vẫn được xem là công cụ để hưởng thụ và thỏa mãn; chẳng hạn như mệnh lệnh quân sự, địa vị trong chính phủ, khách hàng, các cuộc phiêu lưu trong thương mại, và quyền sở hữu bạt ngàn đất đai.”
“Kiêng những thú vui thấp kém là cách duy nhất để được xứng đáng hoặc đạt được những thú vui cao hơn.”
“Lời khen ngợi giữ cho người tốt luôn tốt.”
“Cái giá cao nhất mà chúng ta có thể trả cho một điều gì đó là cầu xin nó.”
“Có một sự u ám trong tình yêu sâu thẳm như dưới đáy nước sâu; có một sự im lặng khiến chân dừng; và tay khoanh, và cái đầu ủ rũ là những hình ảnh nó phản chiếu. Không giọng nói nào lay chuyện được bề mặt của nó; bản thân các Nàng thơ cũng lại gần nó với bước chân chậm chạp và rụt rè, với một giọng hát trầm, run và u sầu.”
“Anaxagoras là người bạn đích thực, kiên định và chung thủy của Pericles; ngọn đèn vàng luôn soi sáng hình ảnh mà ta ngưỡng mộ.” [Thư Pericles gửi Aspasia đáp lại lời thỉnh cầu của nàng để được phép đến thăm Xeniades.]
“Hãy làm điều trái tim nàng mách bảo; đúng thế, Aspasia, hãy làm tất cả những gì nó bảo nàng. Hãy nhớ rằng nó uy nghiêm đến nhường nào. Nó chứa bên trong ngôi đền, không chỉ của Tình yêu, mà còn của Lương tâm; và một tiếng thì thầm được nghe thấy từ cùng tận của cái này đến cùng tận cái kia. “Hãy cúi mình trong trầm tư, ngay cả trong nỗi buồn, xuống bờ hoa của tuổi trẻ, nơi bên dưới chảy qua dòng suối không bao giờ ngừng! Hãy để vòng hoa rơi xuống nó, để cho bàn tay tươi mát nhờ nó – nhưng – nguyện cho đôi chân xin đẹp của Aspasia được vững vàng.”
Công Hiện dịch