favorites
Shopping Cart
Search
Vitanova
Prev
Thu 2025
Next

Tommaso Landolfi: Đối về các hệ thống lớn

09/09/2025 20:56

Landolfi sớm bộc lộ một mối quan tâm ám ảnh đến cấu trúc và hệ thống của ngôn ngữ. Không dừng lại ở vai trò một dịch giả đa ngữ, ông còn sáng tạo một ngôn ngữ riêng – tiếng Landolfiano – một công trình tạo tác ngôn ngữ "phì đại và tràn ngập" (chữ của chính ông) với một hệ thống quy ước dày đặc, được gia công tỉ mỉ đến mức cực đoan (và theo lời thú nhận của ông, vẫn còn dang dở và mong đợi hậu sinh tiếp tục phát triển).

Tạm gác những chuyên luận, truyện ngắn “Đối thoại về các hệ thống lớn” (Dialogo dei massimi sistemi) là minh chứng rõ rệt nhất cho nỗi ám ảnh với ngôn ngữ và những chuyển động của nó trong Landolfi. Tựa đề tác phẩm lập tức khiến ta liên tưởng đến “Đối thoại về hai hệ thống chính yếu” (Dialogo sopra i due massimi sistemi del mondo) của Galileo Galilei: nếu Galileo mổ xẻ cuộc đối đầu giữa hai hệ vũ trụ (địa tâm Ptolemy và nhật tâm Copernicus), thì Landolfi kiến tạo một cuộc đối thoại về hệ thống ngôn ngữ, hệ thống giao tiếp và hệ thống ý nghĩa trong nghệ thuật. Đúng như Italo Calvino nói, đối với một người vốn dĩ không quan tâm (đúng hơn là vì cả thời đại của ông chưa quan tâm) đến ngôn ngữ học với những Saussure, Humboldt và đi trước rất lâu liên minh OpLePo, điều này quả thực đáng kinh ngạc. Với cách đặt vấn đề ấy, cốt truyện ấy, ta bắt gặp một Landolfi trong những kiến tạo tiểu thuyết thuộc hàng thượng thặng của Borges.

 

Vào buổi sáng, chúng tôi tỉnh dậy trên giường, thấy ngạc nhiên vì mình còn sống và mọi thứ vẫn y nguyên như đêm hôm trước. Thế nên tôi cứ ngớ người nhìn đăm đăm qua tấm mành treo cửa sổ, còn bạn tôi, Y., bố cáo sự hiện diện của mình bằng một tràng gõ vội vàng lên cửa phòng.

Tôi biết anh ta là một kẻ nhút nhát, hở chút là tự ái và suốt ngày vùi đầu vào những nghiên cứu kỳ quặc trong cô tịch và bí ẩn, hệt như những nghi thức. Bởi thế, tôi không khỏi sửng sốt khi thấy hôm ấy anh kích động dữ dội. Trong lúc tôi thay lại đồ thường và nói những chuyện đẩu đâu, anh ta đường đột chuyển từ thái độ u sầu tột độ sang vui tươi có phần giả tạo. Không cần nghĩ nhiều tôi cũng biết hẳn anh đã gặp chuyện gì đó bất thường hoặc khủng khiếp lắm. Khi cuối cùng tôi cũng xong xuôi để nghe cho đường hoàng, anh đã kể lại một câu chuyện rất lạ lùng, mà để cho đơn giản, tôi xin phép thuật lại theo ngôi thứ nhất. Anh dặn trước là dù những điều sắp nói tới đây tôi có thấy quái đản và phù phiếm chừng nào cũng chớ ngắt lời – anh sẽ cố nói càng ngắn gọn càng tốt. Vừa bất ngờ vừa tò mò, tôi đồng ý.

“Thú thật với chú,” Y. nói, “nhiều năm trước tôi đã dành thời gian để chắt chiu một cách kiên nhẫn và tỉ mỉ những yếu tố cấu thành một tác phẩm nghệ thuật. Bằng phương pháp ấy, tôi đã đi đến một kết luận chính xác và không thể chối cãi: đối với một nghệ sỹ, việc nắm trong tay những phương tiện biểu đạt quá phong phú và đa dạng hoàn toàn không phải là một điều kiện thuận lợi. Chẳng hạn, theo tôi, sáng tác bằng một ngôn ngữ mình không am tường tốt hơn nhiều so với viết bằng một thứ tiếng mình đã quá đỗi thông thạo. Dù tôi không muốn lần lại con đường nghiên cứu thật là quanh co và khúc khuỷu để đi tới một khám phá thật là đơn giản ấy, kết luận ấy đến tận ngày nay tôi vẫn thấy đúng vì những lập luận hiển nhiên. Cứ hình dung như thế này, khi anh không biết chính xác cái từ dùng để chỉ đồ vật hoặc cảm xúc anh muốn nói tới, anh buộc phải dùng cách đi vòng, tức dùng hình ảnh – điều này trong nghệ thuật có ý nghĩa to lớn thế nào, tôi nhường chú tưởng tượng. Vậy, khi tránh được những thuật ngữ cứng nhắc và sáo mòn, thứ gì có thể cản trở sự ra đời của một tác phẩm nghệ thuật chính cống nữa?”

Đến đây, có lẽ đã hài lòng với lập luận của mình, Y. dừng lại một chút để nhìn tôi qua đôi mắt nheo nheo, quên bẵng sự phiền muộn lúc đầu. Nhưng thấy vẻ mặt nửa ngây nửa dại đầy thắc mắc của tôi, anh thở dài và tiếp tục.

“Sau khi đi đến kết luận trên, tôi vấp phải một con quái vật – ngoài từ này thì không biết diễn tả sao nữa – một tay thuyền trưởng người Anh quái đản. Tí nữa chú sẽ biết tại sao tôi gọi gã là quái vật. Ôi Chúa ơi, sao Ngài không tha cho tôi cái lời nguyền ấy? Bởi giờ đây tôi đã vĩnh viễn đánh mất sự an ổn của mình! Thân hình gã bủng beo. Gã là khách quen trattoria của tôi, hễ tới ăn là huênh hoang kể về vô số cuộc phiêu lưu của mình với một lũ bợm nhậu lúc nào cũng vây quanh gã. Gã đã sống ở phương Đông nhiều năm và biết lắm ngôn ngữ ở xứ đó – ít nhất là theo lời gã kháo. Nhưng gã đặc biệt khoe khoang về khả năng sử dụng tiếng Ba Tư của mình và thường lẩm bẩm ba bốn âm thanh kỳ lạ trước mặt người bồi bàn, khiến anh ta cứ ngớ người ra mà hấp háy mắt. Té ra, gã muốn gọi một ly rượu hay một miếng thịt nướng. Chú biết đấy, tôi ghét cay ghét đắng gã này, thế mà gã cứ tiếp cận, bắt chuyện với tôi. Rồi chuyện gì tới cũng tới, một ngày tồi tệ nọ, gã đề nghị dạy tôi tiếng Ba Tư. Nóng lòng muốn tự mình kiểm chứng lý thuyết vừa khám phá, tôi nhận lời. Như chú biết đấy, kế hoạch sẽ là chỉ học thứ ngôn ngữ ấy một cách cà tàng thôi: đủ để diễn đạt, nhưng không đủ để luôn chỉ đích xác tên các sự vật. Những bài học của chúng tôi diễn ra thuận lợi đấy… nhưng sao tôi cứ sốt sắng kể cho chú nghe tất cả những điều thật kinh tởm của việc ấy?... và tôi tiến bộ rất nhanh. Theo gã thuyền trưởng, học tiếng quan trọng nhất là phải thực hành: thế nên, tôi chưa bao giờ được nhìn thấy một văn bản tiếng Ba Tư nào, vả, cũng khó mà kiếm được. Để bù lại, trong những lần đi dạo với cùng thầy, chúng tôi ra luật chỉ được sử dụng ngôn ngữ ấy, và bất kể khi nào ngồi nghỉ mệt ở một tiệm cà phê nào đó, những tờ giấy trước mặt sẽ lập tức phủ đầy những ký tự lạ lùng, lí nhí. Tôi đã học cả năm trời theo cách đó; bỗng, những ngày cuối cùng, gã thuyền trưởng khen tôi không hết lời vì đã tiếp thu bài giảng rất chóng. Một ngày nọ, gã bảo mình sắp đi xa, tôi nghĩ là về lại Scotland, xuất xứ của gã và là nơi tôi mong gã sẽ gặp được quả báo tương xứng với những hành động sai trái của mình. Rồi từ dạo ấy, tôi không hề thấy gã nữa.”

Bạn tôi, Y., lại im lặng, như thể đang cố nén cảm xúc: ký ức đau đớn đông lại trên khuôn mặt anh thành một nếp nhăn khắc khổ. Cuối cùng, anh gắng sức, nói tiếp:

“Nhưng lúc ấy, tôi đã có đủ vốn kiến thức để bắt đầu thí nghiệm với một tâm thế cực kỳ hăm hở. Tôi đặt ra nguyên tắc chỉ được viết bằng tiếng Ba Tư, và chỉ giới hạn dùng ngôn ngữ này để viết ra những bộc phát sâu kín của tâm hồn trong các bài thơ của mình! Kể từ thời điểm đó cho tới một tháng trước, bài thơ nào tôi cũng viết bằng tiếng Ba Tư. Cũng may, tôi không phải là một nhà thơ năng suất cho lắm và toàn bộ sáng tác trong giai đoạn này chỉ vỏn vẹn ba bài ngắn, tí nữa tôi cho chú xem sau. Dĩ nhiên là bằng tiếng Ba Tư.”

Tôi cảm giác ý nghĩ mình làm thơ bằng tiếng Ba Tư đã khiến Y. chịu không thấu, dù lúc ấy tôi chưa biết tại sao lại thế.

“Bằng tiếng Ba Tư,” Y. nhắc lại. “Nhưng giờ tôi sẽ kể cho chú nghe, người bạn tội nghiệp của tôi, cái ngôn ngữ mà tên thuyền trưởng đáng nguyền rủa ấy gọi là tiếng Ba Tư thực chất là gì. Một tháng trước, tự dưng tôi nảy ra một ý muốn đọc thử tác phẩm của một nhà thơ Ba Tư nọ – chú chắc không biết người này – bởi đọc thơ có thể tránh được việc phải học một ngôn ngữ quá kỹ. Tôi chuẩn bị cho nhiệm vụ này bằng cách chăm chú những ghi chép cũ trong các bài học với tay thuyền trưởng, và tôi chắc chắn mình sẽ làm được. Sau bao nhiêu là khó khăn, cuối cùng tôi cũng tìm được bài thơ mình muốn. Tôi nhớ nó được gửi tới tôi trong một gói giấy bóng rất cẩn thận. Hồi hộp với cuộc gặp mặt đầu tiên này, tôi kíp về nhà, đốt lò sưởi nhỏ và một điếu thuốc, chỉnh ngọn đèn cho ánh sáng soi tỏ cuốn sách quý giá, ngồi vào ghế bành rồi mở gói.

Ban đầu, tôi cứ nghĩ người ta gửi nhầm sách: những ký tự phô bày trước mắt tôi chẳng có chút liên hệ gì với những thứ tôi đã được học từ tên thuyền trưởng và đã thuộc nằm lòng! Nhưng rốt cục lại, chẳng nhầm lẫn gì sất. Cuốn sách ấy thực sự được viết bằng tiếng Ba Tư. Khi ấy, tôi đã hy vọng rằng tên thuyền trưởng kia, dù đã quên mất mặt chữ, chí ít cũng dạy tôi ngôn ngữ chứ, hoặc kém lắm nữa thì cũng bịa ra một phép chính tả nào đó chứ. Nhưng hy vọng ấy cũng tiêu tan. Tôi lật tung thế giới, lần giở nào sách ngữ pháp, nào sách hợp tuyển bằng tiếng Ba Tư, và rốt cục, rốt cục…” Đến đây, một tiếng nấc nghẹn ngào cắt ngang lời kể của anh Y. tội nghiệp. “Rốt cục, thực tại kinh hoàng với tất cả sự khủng khiếp của nó bày trước mắt tôi: tên thuyền trưởng đã không hề dạy tôi tiếng Ba Tư! Khỏi phải nói chú cũng biết tôi đã quắn lên tới mức nào khi cố tìm hiểu xem liệu thứ ngôn ngữ gã dạy có thực hay không – tiếng Jakuto, Hải Nam hay tiếng Hottentot. Tôi liên lạc với những nhà ngôn ngữ học nổi tiếng nhất châu Âu. Không, không: ngôn ngữ đó không hề tồn tại và chưa bao giờ tồn tại! Trong tuyệt vọng, tôi thậm chí còn biên thư cho tên thuyền trưởng đáng nguyền rủa – địa chỉ gã đã đưa cho tôi cùng lời hứa sẽ giúp đỡ tiếp trong khả năng – và đây là hồi âm tôi mới nhận được tối qua.” Y. cúi đầu khổ sở và chìa cho tôi một tờ giấy cũ nát, tôi đọc:

“Kính gửi Ngài: Tôi đã nhận được thư của Ngài đề ngày v.v.. Một ngôn ngữ như Ngài đề cập, tôi chưa hề nghe qua, dù kiến thức của tôi cũng không phải quá hẹn hẹp.” (Vô sỉ đến thế là cùng! Y. bình luận) “Những câu văn Ngài trích dẫn hoàn toàn xa lạ với tôi và có vẻ, xin hãy tin tôi, là một sản phẩm sinh ra từ trí tưởng tượng quá đỗi sinh động của Ngài. Còn về những ký hiệu kỳ lạ Ngài ghi chép lại, một mặt chúng giống chữ Aram, một mặt lại giống chữ Tây Tạng, dù tôi cam đoan rằng nó không phải cái nào trong cả hai. Về mối quan hệ thú vị của hai chúng ta trong quá khứ mà Ngài đề cập, tôi phải trả lời Ngài một cách chân thành như sau: có thể khi dạy Ngài tiếng Ba Tư sau một quãng quá lâu rồi, tôi đã không còn nhớ rõ một số quy tắc hoặc một số từ vựng, nhưng tôi không thấy trong đó có bất kỳ điều gì đáng ngại và chắc chắn Ngài sẽ không gặp khó khăn gì trong việc sửa chữa lại bất kỳ kiến thức sai lầm nào mà tôi có thể đã truyền đạt. Tôi mong chờ nghe tin tốt từ phía Ngài v.v..”

“Giờ thì rõ như ban ngày,” Y. nói, đã lấy lại bình tĩnh. “Tôi không tin gã khốn nạn kia chỉ muốn chơi khăm tôi. Tôi thực sự tin rằng những gì gã dạy tôi, chính gã cũng nghĩ là tiếng Ba Tư thật. Có thể nói, đó là thứ tiếng Ba Tư của riêng mình gã – một thứ ngôn ngữ bị biến dạng và bóp méo đến mức chẳng còn điểm chung nào với ngôn ngữ mẹ đã khai sinh ra nó. Tôi suy luận rằng, trong đầu óc nhấp nhánh của con người đáng thương ấy, khiến thức méo mó của gã không đại diện cho một chuỗi trị ổn định, mà nằm trong những dao động liên hồi của các khái niệm thoáng qua và có lẽ, trong ảo tưởng đã chắp nối được những gì gã biết, đầu óc của gã khốn nạn ấy dần dà hình thành một ngôn ngữ kinh hoàng gã đem đi dạy cho tôi. Và, hệt cái thói của loại người chỉ giỏi tuỳ cơ ứng biến này, sau đó gã hoàn toàn quên béng phát minh của mình và thực lòng kinh ngạc khi thấy nó.”

Lời chẩn đoán trên được thốt ra với sự khách quan tuyệt đối. Nhưng ngay sau đó, Y. kêu lên: “Gã đã hoàn toàn quên nó – hãy nhớ cho kỹ đấy! Chú muốn biết sự thật chứ gì, đúng thế, sự thật là như thế đấy!” Y. ré lên như hạ màn, trong chốc lát đè đầu tôi ra mà trút nỗi bực dọc. “Bi kịch nhất là,” anh nói trong tiếng rên rỉ, “là thứ ngôn ngữ chết tiệt này, thứ tôi không thể tìm được cho nó một cái tên, lại quá sức đẹp đẽ… và tôi yêu nó vô bờ.”

Chỉ khi thấy anh đã bình tâm hơn, tôi mới cảm thấy đến lúc mình lên tiếng.

“Giờ hãy suy nghĩ lại chuyện này cho kỹ, Y. ạ,” tôi mở lời. “Chắc chắn chuyện xảy ra với anh thật khó lòng chịu nổi. Nhưng rốt cuộc, ngoài sức lực anh đã dốc vào nó, nó có thực sự nghiêm trọng đến thế không?”

“Đấy là chú nghĩ như thế,” Y. cay đắng đáp. “Nhưng chú không hiểu sự nghiêm trọng và khủng khiếp trong chuyện này ư? Anh không hiểu vấn đề ở đây là gì sao? Thế còn ba bài thơ tôi viết thì sao? Ba bài thơ,” anh nói thêm, xúc động dạt dào, “ba bài thơ tôi đã dốc hết những điều tinh tuý nhất trong tôi! Ba bài thơ của tôi – rốt cuộc chúng là thứ thơ ca gì? Viết bằng ngôn ngữ không tồn tại thì khác gì chưa từng được viết ra bằng bất kỳ ngôn ngữ tồn tại nào chứ! Thế nào, nói đi chứ, ba bài thơ của tôi giờ tính sao?”

Tôi lập tức hiểu ra vấn đề then chốt và nhận ra mức độ nghiêm trọng của tình thế anh bạn tôi đang vướng phải. Lắc đầu, tôi thừa nhận: “Một vấn đề thẩm mỹ độc đáo đến hãi hùng.” 

“Vấn đề thẩm mỹ sao? Vấn đề thẩm mỹ… à, ừ thì…”

Đó là những ngày xưa tươi đẹp. Chúng tôi hay tụ tập vào ban đêm để đọc các nhà thờ lớn và một bài thơ với chúng tôi còn quan trọng hơn nhiều so với hoá đơn ở trattoria, thứ ngày cứ dày lên và chưa bao giờ được thanh toán cho bằng hết.

Hôm sau, Y. và tôi đến gõ cửa một nhà xuất bản ở địa phương và được gặp một nhà phê bình lỗi lạc – người đã khai phá hết sự bí ẩn của thẩm mỹ và gánh trên vai mình luôn đời sống tinh thần của cả một dân tộc, bởi không ai thấu hiểu các nguyên lý cơ bản và các vấn đề hơn họ. Lo liệu được một cuộc hẹn như thế chớ có dễ dàng gì, nhưng Y. đặt trọn niềm tin sau chuyến này tâm hồn mình sẽ thôi dợn sóng.

Vị phê bình đại tài đứng dậy chào chúng tôi với nụ cười bặt thiệp. Ông trông vẫn còn xuân, đôi mắt tinh anh có đường chân chim mỉa mai ăn sâu. Suốt buổi chuyện trò, ông ta khi thì nghịch cái dao rọc giấy bằng thép, lúc thì xoay xoay cuốn sách bìa da trên bàn. Ông thường xuyên đưa lọ hồ dán đã ngả màu lên ngửi ngửi mùi hạnh nhân đắng, và còn thường xuyên hơn, vung những nhát kéo tỉa loang loáng lên không trung hoặc lấy nó vuốt ve bộ ria của mình. Ông ta cười mím, như thể cười mình, nhất là khi cảm nhận người đối diện chợt nhận ra lời lẽ mình đang gây bối rối. Nhưng khi đối diện với ai, nụ cười ấy đều trở nên gần gụi và trong chuyện gì ông cũng lịch sự quá đáng. Ông nói rất nhẹ nhàng, dùng cử chỉ chừng mực và ngôn từ tỉa tót, lâu lâu lại thả vào những lối diễn đạt ngoại lai.

Sau khi đã nắm được vấn đề, ông thoáng chút bối rối, rồi mỉm cười một mình và đãng trí nhìn vào một điểm nào đó trên đầu chúng tôi, bảo:

“Nhưng thưa ông, việc viết bằng ngôn ngữ này hay ngôn ngữ khác thực ra không mấy quan trọng.” (Khi phát âm chữ trọng, ông di mắt xuống và nở một nụ cười gần gụi). “Một ngôn ngữ không cần phải quá phổ biến thì người ta mới có thể sáng tác ra tuyệt phẩm từ nó. Ngôn ngữ của ông, Signor Y., là thứ ngôn ngữ chỉ có hai người nói: thế thôi. N’empêche, những bài thơ của ông vẫn có thể, e hèm, đứng hàng tuyệt tác.”

“Xin gượm đã,” Y. bảo. “Chẳng phải tôi đã nói với ngài rằng tên thuyền trưởng người Anh đó đã hoàn toàn quên hết những sáng tạo gã nhất thời bột phát hai năm trước rồi hay sao? Hơn nữa, tôi phải thú thật với ngài, hồi bữa tôi thấy sự tình thành ra thế này đã bực bội mà tự tay đem đốt bằng hết các ghi chép cũ vốn có thể sử dụng để tạo lập ngữ pháp hay bộ quy tắc của ngôn ngữ ấy. Vậy nên, giờ nó phải được xem là không tồn tại, ngay cả đối với hai người duy nhất đã sử dụng nó suốt vài tháng trời.”

“Tôi hy vọng ông không đem lòng tin rằng,” nhà phê bình vĩ đại đáp, “các thuộc tính hiện thực của bất kỳ ngôn ngữ nào không thể được xác định bên ngoài ngữ pháp, cú pháp và, thậm chí tôi dám nói, từ vựng. Ông chỉ cần xem ngôn ngữ của mình như một ngôn ngữ chết và có thể được khôi phục chỉ dựa trên một số ít tài liệu còn sót lại – trường hợp này là ba bài thơ của ông – thế là vấn đề được giải quyết rồi. Như ông biết đấy,” ông ta thêm bằng giọng hoà giải, “có những ngôn ngữ chúng ta chỉ biết đến qua vài dòng khắc, nghĩa là một số lượng chứ cái rất hãn hữu, thế mà ngôn ngữ ấy vẫn giàu tính hiện thực. Tôi sẽ nói thêm: ngay cả những ngôn ngữ chỉ được xác chứng bằng qua sự tồn tại của những dòng chữ khó giải mã, tôi nhắc lại, khó-giải-mã, ngay cả những ngôn ngữ ấy cũng có quyền được ta tôn trọng về mặt thẩm mỹ.” Và đã hài lòng với câu trả lời của mình, ông im lặng.

“Nhưng thưa ngài,” lúc này tôi chen vào, “bỏ qua những ngôn ngữ ngài vừa đề cập – những thứ tôi nghĩ mình chưa thực sự nắm bắt được ý tưởng của ngài – và chỉ bàn đến những ngôn ngữ trước đó… những ngôn ngữ ấy, tôi dám nói, là có thực bởi sự tồn tại của chúng được giả định dựa trên các cổ văn, dù ít ỏi – chỗ này xin ngài lưu ý! – được giả định trọn vẹn về mặt từ vựng, ngữ pháp và cú pháp. Những dòng chữ khắc ấy lưu lại dấu vết của một cấu trúc, một sự mạch lạc định vị chúng vào hệ trục thời-không, không có điều đó thì không thể nào phân biệt chúng với bất kỳ ký hiệu ngẫu nhiên nào được chạm trên một tảng đá bất kỳ nào với ngoại diện đâu có khác gì những ngôn ngữ khó giải mã. Những dòng chữ khắc ấy, tôi dám nói, soi rọi một quá khứ vô danh, nhưng cũng chính từ quá khứ đó mà chúng thu nhận ý nghĩa. Quá khứ ấy không gì khác ngoài một hệ thống các chuẩn mực và quy ước gán nghĩa cụ thể cho một biểu đạt cụ thể. Thế nhưng, trong trường hợp của chúng tôi, ngài đâu thể gán quá khứ nào cho ba bài thơ của bạn tôi, và một điều nữa, chúng lấy ý nghĩa từ đâu? Đằng sau chúng không phải là một hệ thống chuẩn mực và quy ước, mà chỉ đơn giản là một ý thích nhất thời, một ý thích chưa từng được mã hoá bằng bất cứ hình thức và đã biến mất bất khả vãn hồi, hệt như cách trước kia nó đã được tác tạo vậy.”

Nhà phê bình đại tài nhìn tôi, mày chau, vẫn chấn động vì câu “chỗ này xin ngài lưu ý” mà tôi vừa dùng. Chẳng chút nao núng, tôi tiếp:

“Một ngôn ngữ được tái dựng dựa trên những dòng chữ khắc ít ỏi sẽ không có căn cứ vững chắc cho đến khi người ta chứng minh được rằng, dựa trên những dòng chữ khắc đó, chỉ có ngôn ngữ ấy và duy nhất ngôn ngữ ấy mới có thể được khôi phục. Thế nhưng, trong trường hợp của chúng tôi, dựa trên văn bản nguồn mỏng manh như thế, người ta có thể xây dựng hoặc khôi phục không chỉ một mà hàng trăm ngôn ngữ. Như vậy, chúng ta bị đặt vào một tình thế thú vị: một thi phẩm có thể được viết bằng bất kỳ ngôn ngữ nào trong số hàng trăm ngôn ngữ ấy, các ngôn ngữ đều khác nhau và khác ngôn ngữ nguồn…”

Tôi dừng lại tại đó, khá hài lòng với lập luận nguỵ biện của mình.

“Lập luận trên,” ông ta nói, “với tôi dường như chỉ là nguỵ biện. Thứ nhất, trong những trường hợp như vậy, nhà ngữ văn học tiến hành nghiên cứu chính xác bằng các giả định. Những giả định, thật thế, mang đầy đủ đặc tính của những xác tín tương đối, nhưng dù sao cũng vẫn chỉ là những giả định; và về mặt lý thuyết, không chỉ có một ngôn ngữ được khôi phục dựa trên một văn tự nguồn nhất định. Thứ hai, khả năng một bài thơ có thể được viết bằng nhiều ngôn ngữ cùng lúc thì có gì hệ trọng với ông? Điều cốt yếu là nó được viết bằng một ngôn ngữ nào đó, và việc ngôn ngữ này có điểm chung với ngôn ngữ khác, hoặc như ông nói, với hàng trăm ngôn ngữ khác, đến mức cho phép thuyên chuyển giữa nhau như ông tưởng nghĩ, là không quan trọng. Cuối cùng, tôi muốn lưu ý ông, thưa ông, từ một góc nhìn cao hơn, à hèm, một tác phẩm nghệ thuật có thể tự cho không chỉ khỏi các quy ước ngôn ngữ mà còn khỏi mọi quy ước khác và tự tạo quy tắc riêng cho chính nó.”

“Chắc chắn không phải như vậy,” tôi kêu lên, thấy phần hay nhất trong lập luận của mình đã bị lảng tránh. “Ngài không thể dễ dàng thoát khỏi nó như thế. Giờ thì chính ngài cũng đang có nguy cơ dựa dẫm vào nguỵ biện. Ngài tham chiếu vấn đề dưới vai trò một tác phẩm nghệ thuật. Nhưng chính xác mà nói, điều cần xem xét ở đây là: các tiêu chí ngài dùng để đánh giá là gì và dựa vào đâu? Xin tóm tắt lại lập luận trước đây của mình. Khi tôi nói rằng một dòng chữ khắc ngụ hàm đằng sau nó một hệ thống các chuẩn mực, tôi cũng có ý nói rằng một số dữ liệu thuần ngôn ngữ của nó được củng cố và phù trợ bởi kiến thức không chỉ thuần tuý ngôn ngữ: tôi muốn nói đến kiến thức dân tộc học. Dựa trên những gì chúng ta biết về một dân tộc nhất định, chúng ta thậm chí có thể cho rằng một biểu đạt nào đó không chỉ hợp lệ ở một không gian nhất định, mà còn ở các không gian tương tự khác. Giả dụ, chỉ cần biết một dân tộc đã sử dụng ngôn ngữ thống nhất cụ thể nào cho mối quan hệ nội bộ và bang giao, ta đã đủ bằng chứng để phát biểu về giá trị không đổi của một từ. Thưa ngài, đằng sau một dòng cổ tự còn có cả một dân tộc! Nhưng đằng sau bất kỳ bài thơ này trong số này lại chẳng có gì ngoài một ý thích đường đột. Vậy thì, ai sẽ dám chắc với ta rằng cũng cùng một cách biểu đạt đó, ý nghĩa sẽ không thay đổi quá nhiều giữa các khả thể diễn giải? Xét bài ba thơ trên như các riêng biệt, hoặc chỉ xét riêng rẽ một tác phẩm, thưa ngài, xin hãy lưu ý, không có một từ nào được lặp lại hai lần trong cả ba. Về mặt lý thuyết, thưa ngài, người ta có thể giả định rằng mỗi bài trong bộ tam ấy khai triển một hình ảnh – hoặc khái niệm, nếu ngài thích – cụ thể và, cùng lúc đó, vì không có từ nào xác định về nghĩa, thì một trăm, một nghìn, một triệu hình ảnh hoặc khái niệm khác cũng có thể được triển khai nữa là.”

“Xin lỗi chứ, xin lỗi chứ” nhà phê bình vĩ đại hét lên, điên cả tiết, “chẳng phải vì thế mà vấn đề được tháo gỡ rất nhanh chóng đấy hay sao? Những dòng chữ khắc, hay các bài thơ của anh, có thể được xem là mang tính song ngữ. Signor Y. luôn có thể nói với chúng ta ý đinh của anh ấy khi viết bài thơ rồi dịch ra cho ta nghe. Như ông thấy đấy, những phản biện của ông không vững vàng.” Và ông ta nhìn tôi đầy vẻ đắc chí. Nhưng tôi không lùi bước:

“Ngài đã quên sao, thưa ngài, rằng một bài thơ không chỉ là một hình ảnh hoặc một khái niệm, mà được cấu thành từ một hình ảnh hoặc một khái niệm cộng với thứ gì đó khác. Nếu đánh giá những bài thơ của bạn tôi thông qua bản dịch mà anh ấy thực hiện thì khác gì đánh giá một nhà thơ ngoại quốc thông qua bản dịch? Ngài phải thừa nhận điều này thiếu trung thực và không đáng quý. Hơn nữa, chính bạn tôi, chính xác mà nói, cũng không ở trong tư thế biết anh ấy muốn nói gì,” tại đây, Y. ném cho tôi một ánh mắt khó chịu, “vì anh ấy đã làm công việc sáng tác với ngôn ngữ này. Theo đó, bản dịch của anh ấy chỉ là một phiên bản cũng giống như phiên bản mà ngài hay tôi đều có thể thực hiện nếu cần, và do đó, không trọn vẹn và nhiều thiếu sót là điều đoan chắc. Phiên bản ấy thậm chí còn có thể tuỳ tiện, chẳng liên quan gì tới văn bản nguồn, thậm chí là một diễn giải sai. Cuối cùng, tôi nghĩ không cần phải nhắc ngài, thưa ngài, rằng một tác phẩm nghệ thuật nhất thiết phải là một sự hiện thực hoá gắn liền với những quy ước nhất định và có thể được đánh giá bằng các phương tiện sử dụng. Ngoại trừ Chúa, không tồn tại kết quả tuyệt đối, và chính khái niệm kết quả cũng chỉ là một khái niệm tương đối. Các kết quả rải dọc theo một thang đo lý tưởng vô hạn, dù đặt nó trong giới hạn của một giá trị đạo đức duy nhất. Nhưng ta đừng lan man nữa, hãy tập trung: ngài vin vào tiêu chí nào để đánh giá mới được?”

Một sự im lặng như nghĩa địa bao trùm thư phòng của nhà phê bình vĩ đại. Mắt ông vọng vào khoảng không, giả vờ không nghe câu hỏi của tôi. Ông ta làm bộ đang suy tư sâu sắc thì bừng tỉnh và, để tranh thủ thời gian, nói với Y. cùng nụ cười thật đẹp đẽ của mình:

“Nhưng tại sao, thưa ông, ông không cho chúng tôi xem nghe bài thơ nổi tiếng của ông, thứ đã gây ra cuộc tranh luận trí tuệ đầy duyên dáng nãy giờ?”

“Tôi chỉ mang theo một bài,” Y. lúng búng. Sau động thái khích lệ từ phía nhà phê bình vĩ đại, anh rút từ trong túi ra vài tờ giấy chi chít những ký tự kỳ lạ li ti, toàn những nét vạch và dấu phẩy, và run run đọc:

Aga magéra difura natun gua mesciún

Sánit guggérnis soe-wáli trussán garigúr

Gúnga bandúra kuttavol jerís-ni gillára.

Lávi girréscen suttérer lunabinitúr

Guesc ittanóben katír ma ernáuba gadún

Vára jesckílla sittáranar gund misagúr,

Táher chibíll garanóbeven líxta mahára

Gaj musasciár guen divrés kôes jenabinitúr

Sòe guadrapútmijen lòeb sierrakár masasciúsc

Sámm-jab dovár-jab miguélcia gassúta mihúsc

Sciú munu lússut junáscru garulka varúsc.[1]

Trong im lặng như hố thẳm, nhà phê bình vĩ đại vuốt ve bộ ria bằng đầu kéo, chờ đợi, trong khi Y. khom người về phía trước và chăm chú nhìn ông ta. Cuối cùng, Y. thốt lên:

“Ngài có nghe thấy những âm ‘u’ ở những dòng cuối không, ngài có nghe thấy vần ‘usc’ được hiệp không? Này, ngài nghĩ gì về chúng?” Kẻ khốn khổ đã quên mất rằng mình nợ chúng tôi một lời giải thích.

“Thật vậy, thật vậy, pas mal, thực sự pas mal,” nhà phê bình vĩ đại nói. “Giờ ông vui lòng dịch giùm nhé?”

Rồi Y. ứng khẩu dựa trên văn bản, thành bản dịch như sau:

“Gương mặt mệt mỏi nàng khóc với niềm hạnh phúc

người phụ nữ ấy kể tôi nghe về cuộc đời nàng

và trấn an tôi bằng tình cảm anh em của nàng.

Nào thông, nào thông rụng lá trên đại lộ thánh thoát uốn thành vòm

trên nền hoàng hôn hồng ấm áp

và một biệt thự nhỏ treo quốc kỳ,

tựa gương mặt nhăn nheo của người đàn bà không quen biết

mũi mình lấp lánh. Và lấp lánh ấy loé lên

với tôi rất lâu, đầy mỉa mai và chua chát,

tôi cảm thấy nó nhảy múa và xoắn xuýt như một con cá nhỏ làm trò

trong cõi sâu thẳm u tối của hồn tôi.

“Tốt, thực sự tốt,” Nhà phê bình vĩ đại dành những lời khen ngợi nồng nàn. “Giờ thì tôi hiểu lý do của những âm ‘u’ ở các dòng cuối rồi! Tuyệt lắm, tuyệt lắm. Nó phù hợp với chủ đề một cách hoàn hảo và rất may là không hề gượng gạo.”

Đã xong những nghi thức xã giao đó, ông ta quay sang nói với tôi:

“Như ông thấy đấy, những nghi ngờ của ông là vô căn và” (ông ta mỉm cười) “thật vội vã. Chẳng phải bản dịch thật thánh thoát hay sao?”

“Không hề,” Y. phàn nàn. “Một bản dịch tự do như thế không cho ta một khái niệm dẫu là mơ hồ nhất về nguyên tác. Qua sự dịch, bài thơ đã biến tướng đến không thể nhận ra và đánh mất mọi thứ. Nó đã bị tước đoạt ý nghĩa.”

“Ngài thấy chưa,” tôi lên tiếng, “chuyện này đã đặt ta đối diện với vấn đề của ta, một vấn đề nãy giờ ta bàn luận và chưa tìm được thống nhất. Lúc nãy, thưa ngài, tôi đã mạn phép hỏi ngài đã sử dụng tiêu chí nào để đánh giá. Xin giờ ngài trả lời cho.”

Không còn có thể đánh bài chuồn nữa, nhà phê bình vĩ đại đành mở lại thảo luận. Ông ta trông thật chật vật và đầy lảng tránh.

“Thực ra,” ông ta bắt đầu, “tôi, như ông đã chỉ ra thực đúng, không có thẩm quyền để đánh giá những bài thơ này, thế nên tôi cũng không cố gắng xác định tiêu chí nào nên được áp dụng. Người duy nhất có thẩm quyền đánh giá chúng là chính tác giả, cũng chính là người duy nhất biết ít nhiều về ngôn ngữ đó.”

“Nếu tôi không nhầm,” tôi ngắt lời, “tôi đã biết trước kết luận này rồi. Nhưng ngay cả tác giả cũng không thể, bởi vì, như đã nói…”

Nhưng Y., người vẫn im lặng (dù tôi có cảm giác anh ấy đang chuẩn bị nói điều gì đó), quyết nhìn vấn đề từ góc độ khác:

“Ý ngài nói là một bài thơ có thể là một tác phẩm nghệ thuật ngay chỉ có một người duy nhất hiểu, cũng chính là tác giả cuả nó, có thẩm quyền đánh giá?”

“Chính xác.”

“Điều này có nghĩa là từ giờ trở đi, khi viết thơ, người ta có thể bắt đầu tư âm thanh thay vì ý nghĩa?” Đó là những lời của của Y., và nó khiến người ta không khỏi thương hại. “Xếp những từ đẹp đẽ và du dương, hoặc gợi cảm và huyền bí lại với nhau, rồi gán ghép cho chúng một ý nghĩa hoặc chỉ đơn giản là xem thứ tác tạo kia là gì?”

“Xin lỗi, tôi không hoàn toàn hiểu sự liên quan…”

“Nhưng có sự liên quan. Không ai có thể ngăn nhà thơ sắp xếp những âm thanh đầu tiên loé lên ở tia mình theo một nhịp điệu cụ thể, rồi gán cho chúng một ý nghĩa đẹp đẽ. Bằng cách này, anh ta sẽ tạo ra một ngôn ngữ mới. Và chẳng quan trọng ngôn ngữ ấy có bị xắt xén và giới hạn chỉ trong một vài câu – những câu trong tác phẩm đó – hay không, bởi sẽ luôn có ai đó biết tới nó – người sáng tạo ra nó – và sẽ luôn có ai đó có đủ thẩm quyền để đánh giá nó – chính tác giả của nó?”

“Khoan, đừng cực đoan. Mặc dù, xin thứ lỗi, nó có vẻ không mấy liên quan tới tôi, tôi đồng ý hoàn toàn với ít nhất phần đầu lập luận của anh. Nhưng phần thứ hai này, làm ơn, đừng thả mình theo một thế giới quan nguy hiểm, đừng nêu ra những chủ đề mạo hiểm như thế. Cá nhân tôi, tôi thích những điều tầm thường hơn.” Nhà phê bình vĩ đại như vượt quá giới hạn của mình.

Nhưng Y. đáp lại:

“Tôi không quan tâm, xin ngài thứ lỗi, rằng lập luận của tôi lạc đề hay sao. Giờ tôi đang bận tâm đến việc xác định một điều khác. Nhưng ngài nói rằng ngài đồng ý với phần đầu sao?”

“Tất nhiên,” nhà phê bình vĩ đại tuyên bố, “về những gì diễn ra trong chốn thâm sâu kín đáo nhất tâm hồn người nghệ sỹ, đôi mắt phàm tục của chúng ta không được xâm phạm. Tuy nhiên, một nghệ sỹ hoàn toàn được tự do sắp xếp các từ ngữ của mình trước cả khi gán nghĩa cho chúng, thậm chí được tự do mong đợi những từ ngữ đó, hoặc từ một từ ngữ duy nhất đó, tạo nên tầm vóc và toàn bộ ý nghĩa của tác phẩm mình. Miễn tác phẩm đó là… nghệ thuật. Đó mới là điều quan trọng. Mặt khác, tôi không muốn anh quên rằng ý nghĩa và tầm vóc hoàn toàn không phải là thứ nhất nhất phải có mới được. Một bài thơ, thưa các quý ông, cũng có thể không có ý nghĩa gì. Nó chỉ phải, xin nhấn mạnh lại, là một tác phẩm nghệ thuật mà thôi.”

“Vì vậy,” Y. nháo nhác, “một tác phẩm nghệ thuật cũng có thể không có một ý nghĩa phổ quát, nó có thể được tạo nên chỉ từ những ấn tượng âm nhạc và gợi lên một trăm triệu điều khác nhau cho một trăm triệu người tiếp nhận. Nó có thể hoàn toàn không có ý nghĩa gì?”

“Đúng vậy, rất đúng, thưa ông.”

“Vậy thì tại sao ngài lại từ chối thừa nhận ngay cả khi những âm thanh đó đến từ một ngôn ngữ không tồn tại thì kết quả từ nó vẫn đủ quyền được tự xưng là một tác phẩm nghệ thuật?”

Nhà phê bình liếc trộm đồng hồ và, có lẽ nghĩ cuộc trò chuyện này đã đủ dài, tuyên bố:

“Được thôi, nếu ông thực sự thấy niềm tin mình nơi đó là quá mạnh mẽ, tôi thừa nhận vậy.”

“Lạy Chúa, giờ thì ngài mới nói!” Y nói, mỉm cười. Nhưng dường nụ cười của anh đem theo một sắc thái quỷ quyệt. Rồi anh ta thêm vào, đi kèm hiệu ứng kịch tích bất ngờ.

“Rất tốt, tôi từ bỏ ý nghĩa của những bài thơ này và tôi sẽ mang tất cả chúng đến cho ngài để nhờ ngài chép lại cẩn thận với phần chuyển tự đối chiếu để ngài có thể đánh giá mà không cần tính đến ý nghĩa của chúng.”

“Tất nhiên, tất nhiên,” nhà phê bình vĩ đại ấp úng, bất ngờ, “chắc chắn rồi, nhưng… rốt cục, tại sao ông lại muốn từ bỏ ý nghĩa của chúng? Tại sao, hãy nghĩ xem, nếu ông không làm thế, con đường đến danh vọng sẽ dễ dàng hơn nhiều, vì ông chỉ phải tính đến một người có khả năng đánh giá ông, trân trọng và khen ngợi ông – đó là chính ông. Tin tôi đi, đối phó với một người luôn dễ hơn với quá nhiều người. Tin tôi đi… đừng sợ những thứ có thể ập tới nếu anh xem mình, tôi hy vọng thế, là một nhà thơ vĩ đại, bởi danh tiếng của ông sẽ vừa đầy vừa trọn, thậm chí không hề thua kém Shakespeare. Ông sẽ nổi tiếng với tất cả những ai hiểu ngôn ngữ thơ ông, số đó, tình cờ thay, chỉ có một. Nhưng điều đó sá gì chứ: danh tiếng không phải vấn đề số lượng mà là chất lượng…”

Nhà phê bình vĩ đại pha trò tinh tế nhưng tôi có thể cảm nhận ông ta đang vã cả mồ hôi lạnh.

“Vậy tôi đầu hàng trước lập luận của ngài,” Y. nói sau cùng, và một lần nữa tôi lại thấy anh ta nhếch mép cười. “Nhưng ngài phải đảm bảo với tôi rằng điểm đầu tiên tôi nói, ngài hoàn toàn đồng ý với tôi. Được chứ?”

“Tất nhiên, tất nhiên. Lạy Chúa, đồng ý hoàn toàn!” Nhà phê bình vĩ đại nhìn đồng hồ, lần này chẳng thèm lén lút, đứng dậy và nói:

“Thật không may, tôi lại có công việc ở nơi khác buộc phải đi ngay bây giờ cho kịp. Để kết luận lại vấn đề đã đưa lối các ông đến tìm tôi, tôi sẽ nói rằng, trong cuộc trò chuyện, chúng ta đã xác định rằng, đối với ba bài thơ hữu quan, người duy nhất có thẩm quyền phán xét là chính tác giả của chúng, Signor Y., và tôi cũng hết lòng chúc ông sẽ tận hưởng thật điềm nhiên danh tiếng không thể tranh cãi của mình, thứ không thể vị vấy bẩn bởi hiềm tị hay ác ý.”

Nguy hiểm đã qua, ông ta lấy lại sự tự tin của mình. Tiễn chúng tôi ra cửa, ông thân mật vỗ vai chúng tôi.

“Nhưng ngài không phiền nếu thi thoảng chúng tôi lại ghé chứ?” Y. hỏi ông ta.

“Dĩ nhiên, bất cứ lúc nào ông muốn.”

Tôi hoàn toàn không cam lòng rời đi, còn ngoái lại mà dặm thêm:

“Nhưng nghệ thuật…”

“Nghệ thuật,” nhà phê bình vĩ đại chặn đứng, lộ rõ vẻ xã giao thực thiếu kiên nhẫn, “nghệ thuật là gì thì ai cũng biết.”

Câu chuyện tiếp diễn ra sao quá buồn để tôi kể lại cho chi tiết. Đối với độc giả, chỉ cần biết rằng, sau chuyến thăm ấy, đầu óc của anh bạn tôi đã trở nên hơi chập mạch. Đã bao lâu rồi mà anh ta vẫn khăng khăng mang theo những bài thơ kỳ lạ không đầu không đuôi tới hết nhà xuất bản này đến nhà xuất bản khác, đòi được in và đòi được trả thù lao. Giờ thì ai ai cũng biết mặt anh ta và họ cứ thế mà đuổi thẳng anh khỏi cửa, không chút nể nang.

Anh cũng không đến thăm nhà phê bình vĩ đại nữa, kể từ cái ngày nhân vật đó, để khỏi bị quấy rầy, đã ném anh xuống cầu thang. Hoặc đại loại thế.

(1937)
 

Bùi Gia Bin dịch

 


[1] Chép lại từ bản gốc mà tôi đã mượn từ Y. ngay sau đó.

favorites
Thêm vào giỏ hàng thành công