favorites
Shopping Cart
Search
Vitanova
Prev
Thu 2025
Next

Chesterton: Tại sao tôi là người Công giáo? (tiếp)

16/09/2025 15:35

10. Con Chim Dậy Sớm của Lịch Sử

Thánh Jeanne d’Arc, một vì sao và một tia sét, kỳ lạ như một khối thiên thạch mà ngay cả độ rắn chắc của nó cũng không thuộc về cõi trần, cũng có thể được ví như một viên kim cương giữa bãi sỏi đá, viên đá trắng duy nhất của lịch sử. Tựa kim cương, bà trong suốt nhưng không đơn giản, theo cái cách mà một số người vẫn quan niệm về sự đơn giản; trái lại, ở bà có muôn vàn giác cạnh và góc độ khác nhau. Trong những cuộc thảo luận về Thánh Joan, có một góc độ mà tôi chưa từng thấy có ai đặc biệt nhắc đến, và nó dường như xứng đáng được thảo chú lại. Góc nhìn ấy liên quan đến lời buộc tội rất đỗi phổ biến và thời thượng nhắm vào Giáo hội Công giáo, rằng Giáo hội, như cách người ta vẫn thường nói, luôn trễ nải so với thời đại.

Vào thời điểm tôi bắt đầu tín đạo Công giáo, tôi đã hoàn toàn sẵn sàng chấp nhận sự thật rằng Giáo hội, trên nhiều phương diện, quả thực có phần lạc hậu so với thời đại. Tôi khá khoan dung với chuyện lạc hậu, đặc biệt là sau khi đã có nhiều cơ hội quan sát tỉ mẩn những kẻ cực kỳ kinh tởm luôn cố bắt kịp thời thế, hay tai hại hơn, những kẻ luôn tự cho mình là đi tắt đón đầu. Tôi đã chuẩn bị tâm lý để thấy một Công giáo có phần thủ cựu, nghĩa là rề rà; và đương nhiên, trên một số phương diện, điều này không có sai. Tôi hiểu rằng việc dấn thân vào các phong trào thường không có nghĩa gì sâu xa hơn là chạy theo mốt. Tôi biết rằng các trào lưu thời thượng luôn có một đặc tính rất kỳ lạ: ban đầu, chúng nhan nhản khắp nơi một cách áp đảo và ngột ngạt, rồi sau đó tự dưng tuyệt không dấu vết và bị lãng quên. Tôi biết rằng sự nổi tiếng thoạt trông thì giống như ánh đèn sâu khấu đầy kiên định, nhưng rồi lại tan biến nhanh tựa hồ một rạch chớp. Tôi đã chứng kiến trí tưởng tượng của công chúng bị chi phối bằng một chuỗi dài các nhân vật như Kruger hay Kaiser, những kẻ sắp sửa bị treo cổ vào tuần tới và trong một tháng nữa sẽ chẳng ai rảnh cổ mà đoái hoài gì tới họ[1]. Tôi đã sống qua những ảo tưởng rợn ngợp rằng cuộc đời này dường như chẳng có ai ngoài những Tuớng Gordon, hay Đại uý Dreyfus, hay chú voi Jumbo ở sở thú[2]. Giả trên đời này có điều gì đó không màng tới sự thay đổi của thế giới, xin thú nhận rằng tôi sẽ tìm thấy một sự an ủi nhất định trong sự ơ hờ của nó. Dám nghĩ rằng, xét từ mọi góc độ, việc các nhà chức sắc Giáo hội trì hoãn phán quyết về thuyết Darwin hay thậm chí về Tiến hoá là hoàn toàn đúng đắn và đã hoàn toàn anh minh trong việc khước từ sự kích động trong cơn kích động hoàn vũ đó. Có nhiều người, ngay cả trong số những người cảm thông, dường như đều nghĩ người Công giáo nên dựng một bàn thờ cho Mắt Xích Còn Thiếu, như người Ngoại giáo đã làm với Vị Thần Vô Danh. Nhưng người Công giáo thích chờ đợi cho tới khi họ biết mình đang làm gì, và muốn tìm hiểu thêm về một thứ gì đó, hơn là chỉ biết đến mỗi sự thật là chẳng ai biết điều gì về nó cả. Và dĩ nhiên, xét theo nhịp độ cuồng nhiệt của những trào lưu dạo gần đây, đúng là trong một số vấn đề, Giáo hội có chậm rãi và kỹ tính thật. Nhưng sự thật còn có một mặt khác, một mặt thường bị bỏ qua hơn. Và tình cờ thay, cả hai mặt này đều có thể được minh hoạ một cách rất nổi bật và rõ ràng thông qua câu chuyện về thân thế của Thánh Jeanne d’Arc.

Nếu chúng ta quay lại tận khởi đầu của một câu chuyện, ta thường bắt gặp sự thật rằng Giáo hội thực sự đã có cho mình những động thái theo một cách nào đó, thế nhưng những kẻ thù của nó đều phớt lờ điều ấy, ngay cả bằng hữu của nó cũng lãng quên mất. Rồi các xu hướng xã hội khác nổi lên, những vấn đề khác chiếm giữ thế giới, ngọn triều của thời gian và đổi thay cuốn trôi toàn bộ sự việc; và khi vấn đề đó lại nổi lên bề mặt, thế giới có ấn tượng rằng Giáo hội mới xử lý nó sau một sự trì hoãn rất lâu. Nhưng bản thân thế giới chưa bao giờ xử lý vấn đề đó cả. Thực ra, thế giới chưa bao giờ tỉnh ngộ về sự việc này, cho đến khi giật mình thức giấc và bắt đầu chỉ trích Giáo hội vì đã không thức tỉnh sớm hơn. Trong suốt những thời đại dài xen kẽ đó, thế giới thực sự đã ngủ say hơn Giáo hội nhiều. Giáo hội, từ rất lâu rồi, đã làm một điều gì đó; còn thế giới thì chẳng làm gì cả. Trường hợp của Thánh Jeanne d’Arc là một ví dụ hết sức kỳ lạ.

Việc Phong thánh cho Jeanne d’Arc đến rất chậm và rất muộn. Nhưng việc Phục danh cho bà lại được thực hiện rất nhanh và từ rất sớm. Đây là trường hợp hết sức đặc biệt về sự sửa sai rất chóng đối với một tội ác tư pháp hay một án oan. Trong lịch sử, đã có vô số những tội ác tư pháp như thế. Đã có vô số anh hùng và tử đạo được lịch sử ghi nhận là đã chịu khổ hình vì các nhân đức của mình. Điều ấy dường như đã đi vào một câu truyền khẩu phổ biến, đặc biệt trong thời hiện đại, như trong câu thơ của một thi sĩ dân gian người Mỹ: “Cái phải mãi mãi trên bãi đoạn đầu, cái trái mãi mãi ngự ngồi ngôi ngai.” Nhưng tôi khó mà nhớ ra được một ví dụ nào khác về việc ngai vàng lại sớm nghiêng mình kính cẩn trước bãi đoạn đầu đến thế. Lời kết tội Thánh Jeanne d’Arc đã bị Đức Giáo hoàng bài hoại ngay khi những người cùng thời với bà vẫn tại thế, theo lời thỉnh cầu của các anh em bà, gần như là sớm nhất có thể đối với việc lật ngược một bản án hệ trọng như thế. Tôi không biết liệu Cộng hoà Athens có làm điều tương tự cho Socrates hay người Florence có làm thế cho Savonarola hay không; nhưng tôi khá chắc chắn rằng không ai có thể bắt người Carthage phải xin lỗi Regulus theo cách ấy, hay buộc nhà Anitochus phải xin lỗi Maccabeaus. Cách duy nhất thực sự công bằng để xem xét chủ đề đang nổi lên về những tội ác thế giới Kitô là đem chúng so sánh với những tội ác của thế giới lạc giáo, lẫn tập quán và thông lệ thế giới Ngoại giáo. Và dẫu cái trò ném đá các nhà tiên tri tới chết rồi xây lăng cho họ có thể được xem như chỗ nhu nhược nơi con người ở bất kỳ thời đại nào và theo tín nguyện nào, nhưng thực sự rất hiếm lăng tẩm nào được xây nhanh như thế. Khi những người xây lăng thực sự là đại diện hoặc những người thừa kế cho lũ người đã ra tay ném đá, thì việc này nhìn chung cũng sẽ tốn cả hàng trăm năm sau mới khởi sự. Truy về những câu chuyện song song diễn ra ở thế giới thế tục thời Trung Cổ, chúng ta ai nấy hẳn sẽ vô cùng ngạc nhiên khi biết rằng sau khi đầu William Wallace bị Edward Đệ Nhất bêu lên cọc, phần thi hài bị tùng xẻo dã man của ông đã được vua Edward Đệ Tam chôn cất rất trọng thể và phục hồi danh tiếng. Chúng ta sẽ vô cùng ngạc nhiên nếu triều đình Nữ hoàng Elizabeth cố gắng bài huỷ và bác bỏ vụ án chống lại Thomas More. Thường thì phải rất lâu sau đó, khi những nỗi sân si và kình địch đã tắt ngấm, khi những mối thù và lợi ích gia tộc đã bị thời gian vùi xoá, thì một sự dịu dàng uỷ mị nhưng chân thành mới được truy tặng cho đối thủ giờ đã nằm vĩnh viễn bên kia thế giới. Vào thế kỷ XIX, dân Anh quả thực đã lãng mạn hoá Wallace và dựng tượng Washington. Giữa XIX sang đến tận XX, người Anh quả thực đã bộc lộ niềm yêu thương tuyệt vời và xuất bản nhiều cuốn sách lỗi lạc về Thánh Jeanne d’Arc. Và riêng tôi, tôi hy vọng sẽ thấy ngày mà tấm lòng độ lượng ấy tìm được tới nơi vắng thiếu nó nhất mà đắp vào, và một sự đền đáp nào đó sẽ được thực hiện cho món nợ sâu nặng nhất. Tôi mong sẽ thấy ngày dân Anh dựng một bức tượng Emmett bên cạnh tượng Washington, và tôi ước rằng trong Lễ kỷ niệm Trăm năm Giải phóng Công giáo, khắp London người ta sẽ dành sự xôn xao cho Daniel O’Connell tiên sinh nhiều như đã từng dành cho Abraham Lincoln tiên sinh.

Song le, ý của tôi muốn nói ở đây còn mang một tầm nghĩa rộng hơn, và trong cái nghĩa rộng ấy, luận điểm này lại càng thêm vững chắc. Tôi muốn nói rằng, nếu lấy câu chuyện về Thánh Jeanne d’Arc làm chuẩn mực để coi xét, thì điều đáng chú ý thực sự không phải là sự chậm trễ của Giáo hội trong việc nhìn nhận bà, mà chính là sự chậm trễ của hết thảy kẻ khác. Thế giới, đặc biệt là cái thế giới của những trí thức uyên áo thượng thặng, đã nhận thức về sự hiện hữu của một điều phi thường trong muộn mằn tuyệt đích, muộn mằn hơn quá nhiều ngay cả khi đem so với những giáo quan có phần cứng nhắc của thế kỷ XV. Lớp băng cứng nhắc của tôn giáo thế kỷ XV đã sớm bị phá rã, nhờ vào cả hai xung lực tốt và xấu đồng thời. Chỉ một thời gian tương đối ngắn ngủi sau khi tro cốt của Thánh Jeanne d’Arc bị ném xuống sông Seine, và không lâu sau sự kiện Phục danh, thời kỳ Phục Hưng đã thực sự bắt đầu. Liền sau đó, Cải cách Tôn giáo cũng khởi phát. Phong trào Phục Hưng đã sản sinh ra vô số những quan điểm khai phóng và tự do về đủ chuyện trên đời. Còn cuộc Cải cách thì lại sản sinh ra vô số quan điểm hẹp hòi, chia rẽ đủ các giáo phái. Nhưng ít nhất thì cũng đã có thật nhiều dị biệt và thật nhiều góc nhìn đa chiều đa dạng, đa phần giờ đây đã thoát ly hoàn toàn khỏi bất kỳ kiểu ràng buộc của kỷ luật thời Trung Cổ nào. Lý trí và óc tưởng tượng của người đời, khi đã được tự do, đáng lẽ ra chí ít cũng phải tôn vinh Jeanne d’Arc như John Huss. Ấy thế mà, trên thực tế, lý trí và óc tưởng tượng của người đời khi đã được tự do lại ghi nhận bà một cách vô cùng bủn xỉn. Phải đến tận năm trăm năm sau khi Giáo hội phục hồi danh dự cho Jeanne d’Arc, thì thế giới với tất cả cái chủ nghĩa nhân văn, nhân đạo, hay nói rộng ra là nhân tính, của nó mới lóc cóc theo gót.

Lần giở lại những lời vàng ngọc mà các vĩ nhân dành cho vị nữ thánh vĩ đại này mới thấy ảm đạm vô vàn. Đầu hàng của những vĩ nhân hàng đầu là Shakespeare, người đã chễm chệ một vị trí ưu tú rất đáng tiếc với những lời lẽ xúc phạm đầy thành kiến trong vở Henry Đệ Lục. Nhưng chuyện này sau Shakespeare còn dây ra một vệt rất dài nữa, và thậm chí còn tệ hơn ở những kẻ có ít lý do tự bào chữa hơn ông kịch gia kia nhiều. Voltaire là một người Pháp, một vĩ nhân người Pháp, ông ta từng bày tỏ sự ngưỡng mộ với nhiều anh hùng nước Pháp; và hẳn nhiên, ông tự xưng là một nhà cải cách và một người bạn của tự do, nghĩa là, không thể nào khác đi được, ông đã có thể chộp lấy bất cứ điều sai quấy nào trong thứ gọi là công lý Trung Cổ để mài mũi dùi chĩa vào vào Giáo hội. Voltaire đã viết gì về Thánh Jeanne d’Arc, tốt nhất im lặng cho qua. Nhưng tình trạng này không phải là cá biệt; nó tiếp diễn suốt về sau trong lịch sử duy lý, lâu sau thời Voltaire. Byron, dù có đủ mọi khiếm khuyết, vẫn có một sự nhạy bén nhất định trước cái tráng lệ và điều anh hùng, đặc biệt trong vấn đề đấu tranh giành tự do của các dân tộc. So với các thi sĩ Anh khác, ông ít thành kiến hơn hẳn; ông thấu hiểu nước Pháp và Lục địa sâu rộng hơn nhiều, và đến hiện giờ ông vẫn được dân chúng ở đó thấu hiểu và ngưỡng mộ. Thế mà ông gọi Thánh Jeanne d’Arc là ả điếm cuồng tín. Đó chính là giọng điệu chung của nền văn hoá nhân loại, của lịch sử được rao giảng và được sử dụng để bàn bạc trong cái gọi là thời đại lý tính. Ông Belloc có nhận xét rằng, áp lực xã hội thế tục này mạnh mẽ đến mức ngay cả một tín hữu Công giáo, khi muốn tỏ ra ôn hoà kiểu như Lingard đã làm, cũng phải dặn lòng tỏ ra hoài nghi ít nhiều, không phải về đạo đức, mà về sứ mệnh diệu kỳ của Thánh Jeanne d’Arc. Đúng là Schiller có thiện cảm, nhưng ông có hơi uỷ mị, vì thế mà mất phần chân phương. Mãi cho đến gần cuối thế kỷ XIX, thậm chí đầu XX, quần chúng tri thức mới thức tỉnh để nhận ra một trong những nữ nhân kỳ diệu nhất trong lịch sử nhân loại. Một trong những nỗ lực chung đầu tiên hòng phục hồi danh dự cho bà theo lối duy lý giữa bao người lại rơi trúng ngay Mark Twain. Quan niệm của ông về thời Trung Cổ cũng thiển cận y hệt nhân vật Người Yankee ở triều đình Vua Arthur của ông; nhưng cũng phải ghi nhận cho thiên tài có phần thô mộc này, đến từ một nền văn hoá còn bi bô, ấy vậy mà ông đã thực sự gầy được ngọn lửa từ giàn hoả thiêu ở Rouen, thứ bao kẻ hoài nghi lỗi lạc chỉ thấy toàn là tro lạnh. Rồi tới một tập pamfơlê đầy điệu bộ kẻ cả của Anatole France, thứ cá nhân tôi thấy còn xúc phạm hơn cả những vần thơ tục tĩu của Voltaire. Rồi đến nỗ lực vĩ đại cuối cùng, sai lầm nhiều mặt trong cách lập luận, nhưng rất mực sinh động và chân thành – vở Thánh Joan của Bernard Shaw. Nhìn chung, không thể nói rằng những người theo chủ nghĩa nhân văn và duy lý đã có mặt trên mặt trận này từ sớm. Nữ anh hùng bạc mệnh đã phải chờ đợi gần năm thế kỷ để được Bernard Shaw tìm thấy.

Giờ đây, trong phép so sánh ấy, không ai có thể nói Giáo hội đã tỏ ra quá tệ so với thế gian. Sự thật là lời xin lỗi của giáo quyền dành cho vị tử đạo đã đến quá sớm, đến mức mọi người đã quên bẵng nó từ lâu, rất lâu trước khi phần còn lại của thế giới bắt đầu đong đếm vấn đề. Và dù tôi chỉ thí dụ ở đây bằng mỗi trường hợp cụ thể của Thánh Jeanne d’Arc, tôi tin những điều tương tự cũng có thể được truy ra qua việc lần giở lại bao nhiêu sự việc đã diễn ra trong lịch sử nhân loại.

Điều này cũng đúng với những kẻ đã gán cho Dòng Tên một danh tiếng xấu và treo cổ họ; treo cổ ở đây không phải lúc nào cũng chỉ là ẩn dụ. Có thể tóm tắt đơn giản rằng các tu sĩ Dòng Tên, đặc biệt trong vai trò là những nhà Quyết nghị, gần như hoàn toàn chịu khổ vì đã đi trước thời đại mình tới tận hai trăm năm. Họ đã cố gắng khởi xướng thật thận trọng những điều giờ đang cuộn trào thật hỗn loạn tứ bề quanh chúng ta, tất cả những gì được ngụ ý đằng sau những thiên tiểu thuyết luận đề và kịch luận đề thời hiện đại. Nói cách khác, họ đã thừa nhận rằng trong lương tri con người quả thật có những nan đề, không phải về việc liệu luật luân lý có nên được tuân giữ, mà là cách áp dụng nó sao cho tương ứng với từng trường hợp cụ thể. Thế nhưng, người đời đâu có nhớ đến họ như những người tiên phong đặt ra những câu hỏi mà sau này, Ibsen, Thomas Hardy và Bernard Shaw cũng đã lần lượt đặt theo. Trái lại, họ chỉ được nhớ tới như như những kẻ bày mưu xấu ác, những kẻ không phải lúc nào cũng chịu nghe tin thuyết Quyền Thánh của Vua. Họ đã tiên phong đủ sớm để bị cả một thế hệ trước nguyền rủa, nhưng lại quá sớm để được thế hệ sau cảm ơn. Những người Kháng Cách đã nhiệt thành ủng hộ Pascal để chống lại chính họ, mà không chịu để tâm khám phá ra rằng có hằng hà sa số những điều Pascal lên án lại chính là những điều mà bất kỳ người hiện đại nào cũng sẽ bênh vực. Chẳng hạn, Pascal đã đổ lỗi lên đầu các tu sĩ Dòng Tên đáng khinh vì dám cho rằng một cô gái, dưới một số điều kiện nhất định, có thể kết hôn trái ý cha mẹ. Những tín hữu Dòng Tên ấy lẽ ra đã có được sự ủng hộ từ tất cả những thiên tiểu thuyết hiện đại, chứ đừng nói tới tiểu thuyết luận đề. Nhưng họ đã xông vào chiến trận quá sớm để có bất kỳ một đồng minh nào đứng về phía họ. Hơn nữa, trong khi các đạo hữu Dòng Tên tìm cách đặt các ngoại lệ ấy vào trong một khuôn khổ đạo đức có sẵn và vững bền, tụi hiện đại, khi làm điều tương tự hai thế kỷ sau, chẳng đưa ra được một chuẩn mực chung nào, đã tạo ra một mớ hỗn độn chỉ toàn hàng ngoại lệ.  

Tự nhiên tôi chợt nghĩa ra một minh chứng nữa. Nhiều học giả đã biên soạn những thiên khảo luận dài dòng chứng minh rằng cái ý tưởng công bằng cho các các thổ dân, người da đỏ và cộng đồng bản địa đã tiến triển rất khó khăn và chậm chạp, nó nhích từng bước một, song hành với sự phát triển của tư tưởng nhân đạo trong thời hiện đại. Trong một lịch sử như thế, Penn, một tín đồ Quaker vĩ đại đã hiện lên như vị tổ sư khai quốc của nền cộng hoà, mà đúng là ông đã có mặt rất sớm trên chiến trường – chiến trường của dân Thanh giáo[3]. Thế nhưng, Las Casas tiên sinh, vị Tông đồ của Người Da Đỏ, đã thực sự đi cùng một tàu với Christopher Columbus. Khó có ai từng đặt chân đến đất Mỹ sớm hơn như thế nữa. Ông đã dành cả đời mình để lên tiếng cho quyền của các bộ tộc man di, nhưng ông đã làm điều đó vào thời điểm chẳng ai ở phương Bắc chịu lắng nghe một câu chuyện như thế về một vị thánh Y Pha Nho[4]. Trong tỉ dụ này và vô vàn những tỉ dụ khác, tôi tin rằng lịch sử thực sự của những người Công giáo mở đường đều hưởng chung một mệnh: tiên thủ, hậu tuyệt.

11. Kháng Cách: Một Tiểu Thuyết Luận Đề

Tôi vừa đọc xong cuốn sách mỏng viết về Kháng Cách mà Trưởng viện Inge đã viết cho bộ sách sáu xu của ngài Ernest Benn, và dù cho rằng nó hẳn đã được chỉ trích đâu ra đấy rồi, tôi xin mạn phép góp ra dăm ba lời cảm nhận trước khi nó bị nhấn chìm hẳn vào quên lãng. Cuốn sách mang tên Kháng Cách, rõ ràng đáng lẽ phải được gọi là Công giáo. Bởi cách Trưởng viện bình về những điều thuộc Kháng Cách thì vá víu, mâu thuẫn và chẳng đến đâu, nhưng ngược lại, những gì ông viết để chống lại Công giáo thì thật rõ ràng, nhất quán và đi thẳng vào trọng tâm. Phần sau, được hun đúc bởi động cơ đầy phẫn nộ nhưng chân thành của lòng căm ghét, khiến toàn bộ phần khác của cuốn sách trông ra nhút nhát và quanh co hẳn đi. Tôi sẽ không bình luận chi tiết tác phẩm dưới bình diện lịch sử. Ở đó có những xuyên tạc kỳ lạ, nếu không muốn nói là cố ý, đặc biệt bằng cách lược bỏ sự kiện gây bất lợi cho lập luận của mình. Ông phi lộ bằng cách diễn giải rằng Kháng Cách chỉ đơn thuần là cách tiếp cận “hướng về nội tâm và đầy thành tâm” trong tôn giáo – một định nghĩa mà không nhà cải cách Kháng Cách chịu nhận là của đạo mình và vô số nhà cải cách Công giáo đã từ lâu sử dụng nó như trái tim và linh hồn của các cải cách trong lòng Công giáo. Không ngoa khi nói, ngày nay, việc tự nhìn nhận mình được giới Công giáo động viên và thực hành còn rốt ráo hơn bên Kháng Cách nữa. Dẫu vậy, nếu những nhà thành tâm siêu hạng ấy thật sự đề cao việc tự nhìn nhận mình, thì họ cũng nên xem xét lại lời lẽ mình. Và ở cuốn sách này có không ít các phát biểu nên được suy nghĩ lại. Đó là một sự che giấu và thù tạc cực kỳ ngông cuồng khi nói rằng Vua Henry Đệ Bát chỉ có vài đội cận vệ hoàng gia, nên nếu dân chúng không ủng hộ chính sách của triều đình, ắt họ đã nổi dậy chống lại. Câu trả lời đã quá rõ ràng, họ thực sự đã nổi dậy chống đối đấy thôi. Và chính bởi Henry chỉ có vài quân túc vệ, ông đã phải đưa về từng toán lính đánh thuê hung hăng từ nước ngoài để dập tắt cuộc khởi nghĩa tôn giáo do chính dân mình nung nấu. Ai coi người kể câu chuyện kia là ngay thật thì chắc phải cố hết sức bình sinh mà rộng lượng, kẻ dám dùng lập luận như vậy rồi lại im thin thít về hệ quả tiếp theo. Hay, một lần nữa, thật là gây hiểu lầm trắng trợn khi ám chỉ những nạn nhân Công Giáo dưới thời bạo chúa Tudor và các triều đại khác bị xử tử là đáng bởi họ đã phạm phải tội phản quốc chứ không phải họ tử vì đạo. Những kẻ khát máu khi ra tay thực hiện cuộc bách hại đều viện dẫn nào là lý do xã hội, thế tục: Caiaphas và Annas đã làm thế, Nero và Diocletian cũng thế; ngay từ đầu, các hữu đạo Cơ Đốc đã bị đàn áp như những kẻ thù của Đế chế, để đến cuối cùng, những kẻ dị giáo được trao cho cánh tay thế tục và những lý lẽ biện minh thế tục. Nhưng khi, xét trong thực tế đơn thuần thôi, một người có thể bị treo cổ, mổ bụng, phanh xác làm tư chỉ vì dám cử hành Thánh lễ, thậm chí chính họ chưa làm mà chỉ giúp người khác làm, thì việc kết luận rằng tôn giáo không bị bách hại quả thật là điên rồ. Chỉ xin nêu thêm một trong số vô số sự xuyên tạc lắt nhắt kiểu thế. Việc cho rằng Milton trên nhiều phương diện ngả về chủ nghĩa nhân văn hơn là Thanh giáo là không sai, nhưng hơn cả sai khi ám chỉ dòng họ Milton là một dòng Thanh giáo điển hình trong các thị hiếu âm nhạc và văn chương của họ. Lời giải thích cực kì giản dị: dòng họ Milton trên đại thể là Công Giáo, chỉ riêng John Milton mới ý thức đoạn tuyệt với niềm tin đó, nhưng vẫn giữ lại cung cách văn hoá của tín đạo ấy. Bao nhiêu chi tiết sai sự thật khác có thể kể ra, nhưng điều tôi quan tâm hơn cả là bức tranh toàn diện mà tác phẩm này phác ra – cuốn sách bàn về Kháng Cách nhưng hoàn toàn không có lời lẽ nào có giá trị khi bàn về Kháng Cách này đã làm nổi bật lên một luận điểm chống Công giáo.

Trưởng viện đã cố gắng đưa ra một định nghĩa: “Chức năng chính yếu của Kháng Cách là gì? Nó về cơ bản là một nỗ lực nhằm kiềm chế xu hướng suy thoái và băng hoại vốn tấn công mọi tôn giáo có tổ chức.” Tới đây thì vẫn ổn. Nếu như thế, St. Charles Borromeo rõ ràng là một nhà Kháng Cách tiên phong. St. Dominic và St. Francis – những người thanh tẩy chủ nghĩa giáo điều ì trệ của phần lớn chế độ tu viện đương thời – hiển nhiên là những nhà Kháng Cách hàng đầu. Những tu sĩ Dòng Tên theo trường phái Bolland để gạn đục khơi trong những truyền thuyết cũng hiển nhiên là những nhà Kháng Cách tiên phong[5]. Thế nhưng, ngược ngạo một chỗ, đa số các lãnh đạo Kháng Cách đương thời lại không phải là những nhà Kháng Cách hàng đầu. Nếu mọi tôn giáo có tổ chức đều bị sự băng hoại kéo đổ, thì hẳn nó cũng đã kéo đổ tôn giáo có tổ chức tên là Kháng Cách. Những người Kháng Cách có thể xuất hiện chỉ để thanh tẩy Kháng Cách và những người Công giáo cũng xuất hiện chỉ để thanh tẩy Công giáo. Rõ ràng, định nghĩa này không có ích trong việc phân biệt giữa Kháng Cách và Công giáo. Bởi nó không mô tả bất kỳ tín điều, hệ thống hay thể chế tư tưởng tách bạch nào giữa hai tín đạo, mà đơn thuần chỉ là một ý hướng tốt, thứ mà mọi tín hữu của Giáo hội đều tuyên xưng những chỉ một số ít người trong vài Giáo hội thực hành, đặc biệt trong Giáo hội của chúng ta. Thế nhưng, Trưởng viện đâu chỉ chứng minh rằng các định chế Kháng Cách hiện đại đã theo tất yếu mà ruỗng mục; ông còn quả quyết rằng ngay cả những người khai sáng nguyên thủy của Kháng Cách cũng phải bị gạt bỏ. Ông quả quyết rằng nhất định chúng ta không thể theo Luther hay Calvin nữa.

Được rồi… chúng ta hãy tiếp tục phân tích xem phải về phe ai. Tôi sẽ trích một đoạn tiêu biểu nằm ở gần cuối sách. Đầu tiên, Trưởng viện đưa ra nhận xét: “Giáo hội Rô-ma đã tuyên bố không thể có sự hoà giải giữa Rô-ma với Chủ nghĩa tự do hay Tiến bộ hiện đại.” Chắc bạn đọc sẽ muốn được biết thông điệp hay sắc lệnh nào đã dẫn đến lời tuyên bố này. Chủ nghĩa tự do là cái áo quá rộng, nó bao chứa khái niệm đặc thù mà Newman đã lên án và định nghĩa cho đến ý định bỏ phiếu trong một cuộc bầu cử bổ nhiệm ngài John Simon. Còn Tiến bộ thường ám chỉ điều gì đó mà Đức Giáo hoàng, trong tầm hiểu biết của tôi, chưa bao giờ thấy cần phải phủ nhận, nhưng là thứ mà vị Trưởng viện kia hết lần này tới lần khác phủ nhận rất ác liệt. Sau đó, ông ta tiếp: “Kháng Cách hoàn toàn tách khỏi sự ưa chuộng cứng nhắc của Thời Tăm Tối.” Thời Tăm Tối, dĩ nhiên, chỉ là một khẩu ngữ rỗng tuếch, ta không cần bận tâm đến nó. Nhưng ta có thể ghi nhận trong cơn buồn cười và khoan khoái rằng chỉ hai mươi lăm ngược về trước đó, chính Trưởng viện đã miêu tả đạo Kháng Cách đại đồng ở Mỹ là một thứ man rợ và mông muội một cách cổ hủ. Từ đó suy ra rằng Thời Tăm Tối vẫn đang tiếp diễn, mà lại tiếp diễn chính ở nơi nào có đạo Kháng Cách dung dưỡng. Và xét thấy, ông ta ít nhất năm lần nói rằng việc người Kháng Cách viện dẫn đến từng câu chữ trong Kinh Thánh là thiển cận và mê tín, thật khó mà không kinh ngạc khi thấy ngay phần kết ông ta lại tuyên bố rằng bản thân đạo Kháng Cách đã “hoàn toàn thoát khỏi” thứ bóng tối mịt mùng kiểu đó. Rồi, trên đỉnh điểm của đống hỗn độn những câu từ vả nhau chan chát, chúng ta đi đến một kết luận thật kỳ diệu và bí ẩn này: “Chính trong hướng đi này mà những tín hữu Kháng Cách có thể tìm thấy khởi đầu cho một cuộc Cải cách thực sự, một sự nối tiếp sự nghiệp còn dang dở của ngài Thomas More, Giordano Bruno và Erasmus.”

Đại khái, người Kháng Cách đang hướng tới một cuộc Cải cách mới, được xây dựng bằng việc mô phỏng công trình của hai người Công giáo và một nhà huyền học mơ hồ, vốn chẳng phải là Kháng Cách, thân thế hay niềm tin của ông ta cũng chẳng ai rõ là gì. Thật khó biết nên bắt đầu từ đâu để phê bình cái cuộc Cải cách quá mới này, trong khi hai phần ba trụ cột của nó dường như được đắp bồi bởi những người thuộc Cựu giáo. Ta có thể khiêm tốn mà khe khẽ giải vây: nếu thật sự đáng tiếc cho sự nghiệp Thomas More bị dang dở, thì có lẽ một phần trách nhiệm tiếp nối nằm ở những người đã cầm đầu cái phong trào chặt đầu ngài ấy. Tôi tự hỏi, liệu có thể nào điều mà Trưởng viện thực sự muốn nói là chúng ta cần một cuộc Cải cách mới để hàn gắn mọi tổn hại mà cuộc Cải cách cũ đã gây ra? Về điểm này, chúng ta chắc chắn không có lý do gì để bất đồng nữa hết. Chúng ta cũng sẽ vui mừng nếu thực sự có một cuộc Cải cách mới, cho chính chúng ta cũng như những người Kháng Cách và những người khác; mặc dù cũng phải nói công bằng rằng những người Công giáo, trong một khoảng thời gian ngắn đến khó tin, thành công trong việc tạo ra một thứ rất giống như một cuộc Cải cách mới, thứ thường được gọi là Phản Cải cách. Cái tư cách nhận mình là người kế thừa sự lịch thiệp và lòng bác ái của More, St. Vincent de Paul và St. Francis de Sales ít gì cũng phải ngang Vị Trưởng viện đương nhiệm của Nhà thờ Thánh Paul. Nhưng nếu tạm gác cuộc cải cách ở thế kỷ XVII ấy sang một bên, ắt hẳn phải có điều gì đó thật sự kỳ vĩ trong đề xuất cải cách của Vị Trưởng viện dành cho thế kỷ XX này, cùng những vị thánh bảo trợ mà ông đã lặn lội truy ngược về thế kỷ XVI để lựa chọn cho nó.

Vậy đó, xem ra tình thế của chúng ta là thế này. Chúng ta không được theo Luther và Calvin. Nhưng ta phải theo More và Erasmus. Đấy, thưa quý vị, đó mới gọi là Kháng Cách chân chính và lời hứa hẹn một cuộc Cải cách lần hai. Nghĩa là ta sẽ bắt chước quan điểm và đức hạnh của những người đã nhận thấy mình có thể ở lại dưới quyền Đức Giáo hoàng, và đặc biệt là của một người đã thực sự hy sinh vì quyền tối thượng của Đức Giáo hoàng. Chúng ta phải vứt bỏ hầu như từng mảnh tư tưởng hay lý thuyết vụn vặt từng được những kẻ không chịu ở lại dưới quyền tối thượng của Đức Giáo hoàng từng ấp ủ. Và rồi chúng ta phải gói ghém tất cả những quan điểm ấy vào một cuốn sách nhỏ bìa màu cam và đặt cho nó cái tên Kháng Cách. Sự thật là Viện trưởng Inge đã nhận một danh hiệu bất khả thi cho một nhiệm vụ bất khả thi. Ông ta phải làm sao cho Kháng Cách trông giống như là Tiến bộ; trong khi bản thân ông là một người quá sắc sảo và có học thức để không nhận ra rằng nó thực ra là (đúng như nó vốn là) một sự suy thoái xuống trạng thái man rợ và một sự đứt gãy với tất cả những điều gì là cốt lõi của nền văn minh. Ngay cả khi xét theo hệ quy chiếu của chủ nghĩa nhân văn, nó đã khiến tôn giáo trở nên phi nhân. Ngay cả xét theo hệ quy chiếu của chủ nghĩa tự do, nó đã thay thế chủ nghĩa tự do bằng thái độ tự gò[6]. Ngay cả khi mục tiêu đơn thuần chỉ là tiến đến chủ nghĩa hiện đại, nó đã dẫn dắt các tín đồ của mình tới đó bằng một tuyến đường vòng dằng dặc, tẻ nhạt và vô định hướng – một cuộc lang thang trong hoang mạc, hiện đại chủ nghĩa thì kiếm chưa ra, những thứ như Mặc Môn thì đã khai sinh trước rồi. Ngay cả khi mục tiêu là chủ nghĩa hoài nghi lô-gích, Voltaire từ phía Dòng Tên có thể đạt đến nó còn nhanh hơn so với một gã nhà quê Kháng Cách nghèo nàn được nuôi dạy giữa bọn Jezreel[7]. Mọi quá trình tư duy, ngay cả đó là một quá trình lầm lạc, đều diễn ra rõ ràng hơn trong bầu không khí Công giáo. Kháng Cách đã chẳng giúp gì được cho Viện trưởng Inge, ngoại trừ việc cho ông cái chức Viện trưởng, thứ đã khiến hoạt động trí tuệ ông ta tổn hại không ít. Nó đã chẳng giúp gì được cho tài năng thực thụ, sự uyên áo và năng lực tư tưởng của ông. Trong lịch sử, nó đã không bảo vệ được bất kỳ ý tưởng nào mà ông ta đang muốn bảo vệ, hay nâng đỡ cho bất kỳ quyền tự do nào mà ông ta kỳ vọng. Nó chỉ có thể gây ra một số tổn hại nhất thời hoặc bề mặt cho di sản của St. Peter. Nó chỉ có thể tạo thứ trông như là những vết nứt mảnh trên bức tường thành Rô-ma. Và vì điều đó, vị Viện trưởng kia có thể tha thứ hết thảy người Kháng Cách, thậm chí nguyên cả đạo Kháng Cách.

Bởi đó chính là dục vọng kỳ quặc bám theo ông suốt đời: vắt sức lần mò qua bao trang viết đầy những hồ nghi và không giống ai chỉ để chờ cái phút được giải thoát tâm hồn bằng tiếng gào hoang dại của sự phi lý cuồng tín: “Hãy để Dreyfus vô tội rục xương trong ngục, hãy bảo gã Ái Nhĩ Lan phạm tội ám hại gạt bỏ chính trị ra khỏi lời xưng tội của hắn, hãy để trò bịp bợm béo bở của ở Lộ Đức tiếp diễn…[8]” Lẽ ra ông phải nói như thế mới phải! Thật là mệt mỏi biết bao khi phải giả vờ nói chuyện đạo lý.

Bùi Gia Bin dịch

[1] (ND) Tức Tổng thống Nam Phi Paul Kruger (1825–1904), biểu tượng của cuộc Chiến tranh Boer chống lại Đế quốc Anh và Hoàng đế Wilhelm Đệ Nhị (1859–1941), người được coi là kẻ thù chính của Anh trong Đệ nhất Thế chiến. Không, họ không “bị treo cổ vào tuần tới” như Chesterton nói, ta nên hiểu câu này theo nghĩa cường điệu.

[2] Một viên sĩ quan gắn liền với vụ bê bối quân đội kéo dài hơn mười năm ở nước Pháp, một vị anh hùng dân tộc của nước Anh vì những chiến công tại Trung Hoa, một chú voi bị ngược đãi dưới ngành công nghiệp xiếc thú rồi chết thảm – tất cả đều là các nhân vật thu hút nhiều sự quan tâm từ đông đảo quần chúng.

[3] (ND) William Penn (1644–1718) là một nhà lãnh đạo thuộc giáo phái Quaker (một nhánh Kháng Cách), người lập ra thuộc địa Pennsylvania. Ôn gnoori tiếng với những hiệp ước mua bán đất đai công bằng với người bản địa Lenape, dựa trên nguyên tắc hoà bình và tôn trọng, trái ngược với sự cướp bóc và thảm sát ở nhiều thuộc địa khác. Thời điểm Penn thành lập Pennsylvania năm 1681, các thuộc địa Anh ở Bắc Mỹ (như Massachusetts của người Thanh giáo) đã được thành lập từ lâu. Tuy nhiên, trong bối cảnh lịch sử Hoa Kỳ được viết bởi người Anh Kháng Cách, Penn được tôn vinh như một trong những người đầu tiên có tư tưởng nhân đạo và công bằng với người bản địa trong khu vực Bắc Mỹ thuộc Anh.

[4] (ND) Bartolomé de las Casas (1484–1566) là một linh mục dòng Đa Minh người Y Pha Nho. Không, ông không đi chung chuyến tàu năm 1492 với Columbus nhưng đã đến châu Mỹ từ rất sớm. Khi chứng kiến tận mặt sự tàn bạo của những kẻ chinh phạt người Y Pha Nho đối với dân bản địa, Las Casas hoán cải và đã dành trọn đời mình đấu tranh vì hoà bình cho họ. 

[5] (ND) St. Charles Borromeo, St. Dominic, St. Francis và các nhà Bollandist đều là những nhân vật then chốt trong công cuộc cải cách nội bộ Công giáo. Ta nên hiểu mấy câu này như một bước lập luận phản chứng.

[6] (ND) Ở câu gốc, “Even by the test of the liberal, it substituted literalism for liberalism.”, Chesterton đã có một phép chơi chữ bất khả dịch. Liberalism (Chủ nghĩa tự do) thì ta đã biết, còn literalism gốc là chỉ sự trực giải từng từ theo nghĩa cơ bản của nó, nhưng ở đây, tác giả ý muốn nói tới thói diễn giải Kinh Thánh một cách cứng nhắc, bám riết tới từng câu từng chữ theo nghĩa đen mà thiếu óc phân tích về ngữ cảnh, văn hoá, v.v. đã được ứng dụng như nguyên lý nền tảng của hầu hết các nhánh Kháng Cách. Bản dịch chỉ tái hiện được một phần phép chơi chữ thiên tài này.

[7] (ND) Voltaire được đào tạo tại Collège Louis-le-Grand, một trường danh giá của Dòng Tên. Chính nền tảng giáo dục luân lý và biện chứng bài bản của đạo này đã trang bị cho Voltaire những công cụ trí tuệ sắc bén để ông quay lại chỉ trích Giáo hội và đi vào con đường hoài nghi chủ nghĩa. Nói cách khác, sự hoài nghi lý trí và bài bản của Voltaire khác hẳn những tín đồ Kháng Cách bình thường, sống ở vùng quê, có học vấn và tầm nhìn hạn chế. “Bọn Jezreel” (Jezreelites) ở đây chỉ một giáo phái ly khai nhỏ, lập dị ở Anh thế kỷ XIX; Chesterton dùng nó để ví dụ cho những giáo phái kỳ quặc đã nảy sinh từ làn sóng tự do diễn giải Kinh Thánh của Kháng Cách.

[8] (ND) Ý nói hãy cứ để những oan khiên và trò mua thần bán thánh tiếp diễn, miễn là chúng còn có thể được lợi dụng chúng để chống lại Công Giáo.

favorites
Thêm vào giỏ hàng thành công